Trò chơi vương quyền 4A – Tiệc quạ đen

Trò chơi vương quyền 4A – Tiệc quạ đen

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Cổng thành Duskendale vẫn còn cửa đóng then cài. Những bức tường thành ánh lên lờ mờ nhợt nhạt trong bóng đêm trước lúc rạng đông. Trên các thành lũy, từng làn sương sớm lượn lờ như những gã lính canh ma quái. Khoảng một tá xe ngựa hai bánh và xe bò xếp thành dãy dài ngoài cổng thành, đang đợi mặt trời lên. Brienne chiếm lấy một chỗ đằng sau mấy chiếc xe chở củ cải. Bắp chân cô đau nhức, thật thoải mái khi được xuống ngựa và duỗi chân một chút. Đúng lúc đó, một chiếc xe ngựa khác

lọc cọc từ trong rừng chạy ra. Vào lúc trời hửng sáng, đoàn xe đã dài tới một phần tư dặm.

Những người nông dân tò mò liếc nhìn cô, nhưng không ai bắt chuyện. Chính mình phải nói chuyện với họ trước, cô nhủ thầm. Nhưng cô luôn cảm thấy khó nói chuyện với người lạ. Từ khi là một đứa trẻ cô đã luôn nhút nhát. Nhiều năm dài bị khinh miệt chỉ làm cô càng thêm nhút nhát hơn. Mình phải hỏi

tin tức về Sansa. Nếu không, làm sao tìm thấy cô ấy? Cô hắng giọng. “Bà chủ,” cô nói với người phụ nữ ngồi trên xe chở củ cải, “có thể bà nhìn thấy em cháu trên đường chăng? Đó là một cô gái trẻ 13 tuổi, khuôn mặt xinh đẹp, mắt xanh lơ và tóc màu mật ong. Có lẽ nó cưỡi ngựa cùng với một hiệp sĩ say xỉn.”

Người đàn bà lắc đầu, nhưng chồng bà ta nói. “Thế thì cô bé không còn là con gái nữa đâu, ta đánh cuộc đấy. Cô bé tội nghiệp đó có tên chứ?”

Đầu Brienne trống rỗng. Mình phải nghĩ ra một cái tên cho cô bé. Bất kỳ cái tên nào, nhưng không một cái tên nào xuất hiện trong đầu cô.

“Không có tên à? Chà, ngoài đường bây giờ đầy những cô gái không tên.”

“Ngoài nghĩa địa còn nhiều hơn,” bà vợ đáp.

Bình minh tới, lính gác bắt đầu xuất hiện trên dãy lan can dọc tường thành. Những người nông dân trèo lên xe và giật dây cương. Brienne cũng trèo lên ngựa và liếc về phía sau. Hầu như cả hàng xe đang đợi để vào thành đều là xe của nông dân, chất đầy rau quả để bán. Cách chỗ cô đứng hơn chục người là hai thị dân giàu có đang cưỡi những con ngựa nhỏ béo mượt, xa hơn nữa, cô thấy một thằng bé gầy giơ xương cưỡi một con ngựa đốm. Không có dấu hiệu nào của hai hiệp sĩ hôm trước, cũng

chẳng thấy Ser Shadrich Chuột Điên đâu cả.

Lính canh đang vẫy tay ra hiệu cho đoàn xe đi qua mà không nhìn, nhưng khi Brienne đi đến cổng, cô đã làm gián đoạn dòng người xe ấy. “Dừng lại!” Viên đội trưởng kêu to. Hai người lính mặc giáp xích dài lập tức gác chéo hai cây giáo của họ để ngăn cô tiến lên. “Cô đến đây nhằm mục đích gì?”

“Tôi tìm Lãnh chúa Duskendale hoặc học sĩ của ông ấy.”

Ánh mắt viên đội trưởng neo lại ở tấm khiên Brienne mang. “Con dơi đen của Nhà Lothston. Đây là những thứ vũ khí tai tiếng.”

“Chúng không phải của tôi. Tôi sẽ cho vẽ lại tấm khiên này.”

“Hả?” Viên chỉ huy xoa cái cằm lởm chởm râu. “Tình cờ chị tôi đang làm công việc đó. Cô có thể tìm thấy bà ấy ở cái nhà có cửa sơn, đối diện quán trọ Bảy Thanh Kiếm.” Anh ta ra hiệu cho lính gác.

“Để cho cô ta đi qua, các cậu. Chỉ là một ả nông dân thôi.”

Cổng thành mở thẳng vào một khu chợ. Tại đây, những người vào thành trước cô đang dỡ xuống nào củ cải, nào hành vàng và hàng bao tải lúa mạch để bán. Những người khác bán vũ khí và áo giáp, xét theo giá họ rao khi cô đi qua thì có vẻ rất rẻ. Bọn cướp thường đến cùng với lũ quạ ăn xác chết sau

mỗi trận đánh để nhặt nhạnh khiên giáp. Brienne dắt ngựa đi qua những chiếc áo giáp ngắn còn đọng

vết máu khô, những chiếc mũ sắt còn vết bẹp, những thanh trường kiếm sứt mẻ. Ở đó cũng có các loại

quần áo đã qua sử dụng: ủng da, áo choàng lông, những chiếc áo khoác ố màu với những vết rách đáng

ngờ. Brienne biết nhiều loại gia huy. Nắm tay bọc thép, nai sừng tấm, mặt trời trắng, rìu đôi, tất cả đều

là biểu tượng của phương bắc. Bỏ mạng tại đây còn có cả người Nhà Tarly, và nhiều người của vùng

Stormland nữa. Cô nhìn thấy những quả táo đỏ và xanh, một tấm khiên có hình ba tia sét của Nhà

Leygood, những tấm phủ lưng ngựa trang trí hình con kiến của gia tộc Ambrose. Hình ảnh những người thợ săn đang sải bước của Lãnh chúa Tarly xuất hiện trên nhiều huy hiệu, ghim cài áo và áo chẽn. Dù là bạn hay thù, những con quạ cũng chén tuốt.

Người ta cũng bày bán những tấm khiên bằng gỗ thông hay gỗ đoạn, nhưng Brienne không dừng lại.

Cô định tiếp tục sử dụng tấm khiên nặng nề bằng gỗ sồi mà Jaime đã trao cho cô, tấm khiên mà chính

Jaime đã dùng trên con đường đi từ Harrenhal đến Vương Đô. Khiên bằng gỗ thông có ưu điểm là nhẹ

hơn, do đó dễ cầm hơn, hơn nữa, chất gỗ mềm dẻo sẽ dễ giữ chặt lưỡi rìu hoặc gươm của kẻ thù.

Nhưng gỗ sồi bảo vệ tốt hơn, nếu bạn có đủ sức khỏe để chịu được sức nặng của nó.

Duskendale được xây dựng quanh một cảng biển. Phía bắc thành phố là những vách đá trắng như phấn dựng đứng; phía nam là một mũi đá nhô ra biển, che chắn cho những con tàu thả neo tránh bão từ biển hẹp đổ tới. Lâu đài của lãnh chúa nhìn xuống cảng, những pháo đài vuông và những ngọn tháp lớn hình tang trống của nó có thể nhìn thấy từ mọi nơi trong thành phố. Trên đường phố rải sỏi đông đúc, đi bộ dễ hơn cưỡi ngựa nên Brienne gửi con ngựa cái vào chuồng và tiếp tục đi bộ, lưng đeo khiên, túi

ngủ cuộn lại cắp dưới nách.

Tìm nhà chị gái viên đội trưởng không khó. Bảy Thanh Kiếm là quán trọ lớn nhất trong thành, cấu

trúc bốn tầng lầu này cao ngất ngưởng so với những ngôi nhà xung quanh, những cánh cửa đôi của căn nhà đối diện được sơn vẽ hết sức tráng lệ. Chúng thể hiện cảnh một tòa lâu đài tọa lạc trong một cánh rừng mùa thu với các cây lớn màu vàng và nâu đỏ. Dây thường xuân quấn quít quanh những cây sồi cổ thụ, thậm chí nhưng quả đấu cũng được vẽ rất tỉ mỉ. Khi Brienne ngắm gần hơn, cô nhìn thấy nhiều động vật được vẽ trong tán lá: một con cáo đỏ ranh mãnh, hai con chim sẻ đậu trên một cành cây, và đằng sau đám lá cây thấp thoáng bóng một con lợn rừng.

“Cửa nhà bà đẹp quá,” cô nói với người phụ nữ tóc sẫm màu ra trả lời khi cô gõ cửa. “Bức vẽ thể hiện lâu đài nào vậy?”

“Mọi lâu đài,” chị viên đội trưởng trả lời. “Lâu đài duy nhất mà tôi biết là Dun Fort ở bến cảng. Những chi tiết khác tôi tự nghĩ ra, sao cho trông giống một lâu đài. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một con rồng, nhân sư hay kỳ lân cả.” Bà ta khá vui vẻ, nhưng khi Brienne chìa cho bà ta xem cái khiên, khuôn

mặt bà ta tối sầm lại. “Mẹ tôi từng kể rằng những con dơi khổng lồ từ Harrenhal thường bay đến vào những đêm không trăng, chúng bắt những đứa trẻ hư để Danelle Điên cho vào nồi nấu. Thỉnh thoảng tôi cũng nghe thấy chúng cào vào cánh cửa đấy.” Bà ta suy nghĩ một lát rồi chép miệng. “Vẽ gì thay vào đó đây?”

Chiếc khiên của gia tộc Tarth được chia làm bốn phần màu xanh lơ và hồng, trên mỗi phần vẽ một mặt trời màu vàng hoặc một mặt trăng lưỡi liềm. Nhưng vì có quá nhiều người tin rằng Brienne đã giết

người nên cô không dám mang nó. “Cánh cửa nhà bà làm tôi nhớ đến một cái khiên cũ tôi từng nhìn thấy trong kho vũ khí của cha tôi.” Brienne mô tả chiếc khiên theo tất cả những gì cô có thể nhớ được.

Người phụ nữ gật đầu. “Tôi có thể vẽ ngay, nhưng cần phải chờ sơn khô. Vì vậy, xin mời thuê một phòng ở quán trọ Bảy Thanh Kiếm. Sáng mai tôi sẽ mang khiên đến cho cô.”

Brienne không định ở lại qua đêm ở Duskendale, nhưng có lẽ đây là phương án tốt nhất. Cô không biết liệu lãnh chúa có đang ở tại lâu đài và ông có chấp thuận cho cô tiếp kiến hay không. Vì vậy,

Brienne cảm ơn người thợ sơn và băng qua con đường rải sỏi sang quán trọ. Ở đấy, ngay trên cửa, bảy thanh kiếm bằng gỗ đang đung đưa dưới một que sắt nhỏ. Lớp sơn trắng trên bảy thanh kiếm đã bong tróc và nứt vỡ, nhưng cô biết ý nghĩa của chúng. Bảy thanh kiếm tượng trưng cho bảy người con trai của gia tộc Darklyn, tất cả họ đều gia nhập đội quân áo trắng – Ngự Lâm Quân. Không một gia tộc nào trong toàn bộ vương quốc có nhiều người trong ngự lâm quân như vậy. Họ đã từng là niềm vinh dự của gia tộc. Còn bây giờ, họ chỉ còn là một biển hiệu trên cửa một quán trọ. Brienne đẩy cửa bước vào gian phòng chung và yêu cầu thuê một phòng có bồn tắm.

Chủ quán sắp xếp cho cô ở tầng hai. Một phụ nữ có vết chàm nâu trên mặt bê lên cho cô một bồn tắm bằng gỗ, rồi xách nước lên, từng thùng một. “Còn người nào họ Darklyn ở Duskendale nữa

không?” Brienne hỏi khi cô bước vào bồn tắm.

“Hừm, chỉ còn họ Darke thôi, như tôi đây này. Chồng tôi bảo rằng trước khi cưới tôi mang họ Darke, nhưng sau khi cưới thì là Darker.” Cô ta cười phá lên. “Ở Duskendale này, không thể ném một hòn đá mà không trúng một người Nhà Darke, Darkwood hay Dargood, nhưng dòng dõi Darklyn cao

quý thì đã chết cả rồi. Lãnh chúa Denys là người cuối cùng còn sót lại, một chàng ngốc trẻ tuổi dễ thương. Cô có biết Nhà Darklyn từng là vua ở Duskendale trước khi người Andal tới không? Nhìn tôi cô không biết được đâu, nhưng tôi mang dòng máu hoàng gia đấy. Cô có thấy không? ‘Nữ hoàng, đem một cốc bia nữa ra đây,’ tôi phải bắt họ nói thế mới được. ‘Nữ hoàng, đổ bô nước tiểu trong phòng đi và mang thêm ít củi nữa lại đây, nữ hoàng chết tiệt, lửa tắt rồi.’” Cô ta lại cười và lắc cái thùng cho những giọt nước cuối cùng rơi xuống. “Rồi, nước của cô đây. Nước thế này đã đủ ấm chưa?”

“Được rồi đấy.” Nước trong bồn vừa tan giá.

“Lẽ ra tôi mang thêm lên, nhưng như thế nước sẽ tràn ra mất. Một cô gái cao to như cô cũng đã đủ chật bồn tắm rồi.”

Chỉ chật đối với cái bồn tắm nhỏ xíu chật hẹp như cái này thôi. Ở Harrenhal, bồn tắm thật khổng lồ và được làm bằng đá. Nhà tắm mù mịt hơi nước nóng, và Jaime bước ra từ đám hơi nước dày đặc,

trần như nhộng, trông vừa giống xác chết, vừa giống một vị thần. Anh ta trèo vào bồn tắm với mình, cô đỏ mặt khi hồi tưởng. Cô chộp lấy mẩu xà phòng cứng và vừa xoa vào dưới cánh tay, vừa cố gắng mường tượng lại khuôn mặt của Renly.

Khi nước lạnh hẳn cũng là lúc Brienne đã sạch sẽ như ý. Cô mặc lại số quần áo vừa cởi ra rồi thắt chặt đai gươm quanh hông, nhưng cô không mặc áo giáp và đội mũ sắt nữa, để trông không có vẻ hăm dọa khi đến Dun Fort. Thật thoải mái khi lại được duỗi chân. Những người lính gác cổng lâu đài mặc áo giáp bằng da gắn huy hiệu hình hai chiếc rìu chiến bắt chéo nhau trên một chữ X trắng. “Tôi muốn gặp lãnh chúa,” Brienne nói với họ.

Một tên phá lên cười. “Tốt nhất là cô la thật to lên.”

“Lãnh chúa Rykker đi đến Maidenpool cùng với Randyll Tarly rồi,” một người khác nói. “Ông ấy để Ser Rufus Leek ở lại cai quản, để trông nom phu nhân Rykker và bọn trẻ.”

Họ đưa cô đến gặp Leek. Ser Rufus là một ông già lùn xủn, mập mạp và chân trái bị cụt. “Xin cô thứ lỗi, tôi không đứng dậy được,” ông ta nói. Brienne đưa bức thư cho ông ta, nhưng Leek không biết chữ, vì vậy, cô được đưa đến gặp vị học sĩ của lâu đài. Đó là một người đàn ông hói, da đầu đầy vết

tàn nhang và có một hàng ria cứng màu đỏ.

Khi nghe đến tên Hollard, ông ta cau mày bực bội. “Không biết tôi phải ca lại bài này bao nhiêu lần nữa đây?” Khuôn mặt Brienne chắc hẳn đã để lộ cảm xúc nào đó. “Cô nghĩ cô là người đầu tiên

đến đây tìm Dontos ấy hả? Cô là người thứ hai mươi mốt rồi. Đội quân áo vàng đã ở đây vài ngày để tìm cho ra kẻ giết vua, theo trát của ngài Tywin. Còn cô, cô có gì?”

Brienne đưa cho ông ta lá thư có dấu triện và chữ ký non nớt của Tommen. Vị học sĩ hầm hừ, giật dấu niêm phong ra, cuối cùng trả lại bức thư. “Có vẻ hợp lệ đấy.” Ông ta trèo lên một cái ghế đẩu và ra hiệu cho Brienne ngồi lên một cái khác. “Tôi chưa bao giờ biết Ser Dontos. Khi rời Duskendale, ông ta còn là một đứa trẻ. Nhà Hollard đã từng là một gia tộc danh giá ở đây. Cô biết gia huy của họ không? Nó gồm các vạch ngang màu đỏ và hồng, với ba chiếc vương miện màu vàng trên nền xanh lam

ở phần trên. Nhà Darklyn đã từng là những vị tiểu vương trong Kỷ Nguyên Anh Hùng, ba người trong số đó kết hôn với phụ nữ Nhà Hollard. Sau này, vương quốc nhỏ của họ bị những vương quốc lớn hơn thôn tính, nhưng Nhà Darklyn vẫn còn tồn tại, Nhà Hollard vẫn phục vụ họ… chà, ngay cả trong sự kiện Duskendale kháng lệnh nữa. Cô có biết những điều đó không?”

“Chút ít thôi.” Maester của cô từng nói rằng chính sự kiện Duskendale Kháng Chỉ đã làm vua Aerys phát điên.

“Ở Duskendale này, người ta vẫn còn yêu mến Lãnh chúa Denys lắm, bất chấp những đau khổ ông ta mang đến cho họ. Chính phu nhân Serala, người vợ xứ Myr của ông ấy mới là người bị họ lên án.

Họ gọi bà ta là Con Rắn Hoa. Nếu Lãnh chúa Darklyn cưới một người họ Staunton hay họ

Stokeworth… chẹp, cô biết những câu chuyện trong dân gian vẫn tiếp tục như thế nào rồi đấy. Họ nói Rắn Hoa đã rót nọc độc xứ Myr vào tai ông chồng, cho đến khi Lãnh chúa Denys đứng lên chống lại và bắt giữ vua. Trong cuộc bắt giữ này, hiệp sĩ cấp cao của Lãnh chúa Denys là Ser Symon Hollard đã hạ sát Ser Gwayne Gaunt trong đội Ngự Lâm Quân. Suốt nửa năm trời, vua Aerys bị cầm tù giữa chính những bức tường này, trong khi ngài quân sư ở bên ngoài Duskendale với một đội quân hùng mạnh. Lãnh chúa Tywin có đủ sức mạnh để quét sạch bất kỳ thành phố lúc nào ông muốn, nhưng Lãnh chúa Denys nhắn rằng chỉ cần có dấu hiệu đầu tiên của cuộc đột kích là ông ấy sẽ giết vua.”

Brienne còn nhớ điều gì xảy ra sau đó. “Sau đó vua được giải thoát. Barristan Dũng Cảm đã mang ông ta ra.”

“Đúng rồi,” vị học sĩ tiếp lời. “Khi Lãnh chúa Denys mất con tin, ông ta thà mở cổng thành và ngừng kháng cự còn hơn là để Lãnh chúa Tywin chiếm thành. Ông ta đã quỳ gối cầu xin mở lượng khoan hồng, nhưng vua đâu phải là người dễ khoan thứ. Lãnh chúa Denys mất đầu, và tất cả các anh chị em, chú bác, anh em họ, tất cả gia tộc Darklyn cũng thế. Riêng Rắn Hoa bị thiêu sống sau khi lưỡi và các cơ quan phụ nữ của bà ta bị cắt, người đàn bà khốn khổ, người ta cho rằng bà ấy dùng những thứ đó để nô dịch ông chồng. Một nửa Duskendale sẽ nói với cô rằng vua Aerys làm như vậy là vẫn

quá nhân từ với bà ta.”

“Thế còn Nhà Hollard?”

“Bị tịch biên gia sản và bị giết sạch,” vị học sĩ đáp. “Khi việc đó xảy ra, tôi còn đang miệt mài phấn đấu ở Citadel để giành chuỗi xích này, nhưng tôi đã đọc các bản ghi chép về việc xét xử và hình phạt đối với họ. Ser Jon Hollard Quản gia kết hôn với em gái Lãnh chúa Denys đã chết cùng vợ ông ta và đứa con trai nhỏ mang nửa dòng máu Darklyn. Robin Hollard là cận vệ của hiệp sĩ, khi vua bị bắt, ông ta nhảy nhót xung quanh và kéo râu nhà vua. Ông ta chết trong giấc ngủ. Ser Symon Hollard bị Ser Barristan giết trong khi cứu vua. Đất đai Nhà Hollard bị tịch biên, lâu đài bị triệt phá, làng mạc bị đốt

sạch. Cũng như Nhà Darklyn, Nhà Hollard thế là bị xóa sổ.”

“Trừ Dontos.”

“Đúng thế. Dontos hồi đó còn là một đứa trẻ, là con trai của Ser Steffon Hollard – anh em sinh đôi của Ser Symon. Ông này chết vì sốt trước đó vài năm nên không tham gia gì vào sự kiện Duskendale Kháng Chỉ. Tuy thế, Aerys vẫn suýt chặt đầu thằng bé nếu không có Ser Barristan cầu xin tha mạng.

Vua không thể từ chối lời cầu xin của người đã cứu mình nên Dontos mới được đưa đến Vương Đô để đào tạo thành cận vệ hiệp sĩ. Theo như tôi biết thì anh ta không bao giờ quay lại Duskendale. Vì sao à? Vì anh ta không còn đất đai, họ hàng hay lâu đài gì ở đây nữa. Nếu Dontos và cô gái phương bắc đó giúp giết vị vua đáng yêu của chúng ta, theo thiển ý của tôi, họ sẽ muốn chạy càng xa càng tốt. Vì thế, nếu phải tìm, cô hãy tìm họ ở Oldtown, hoặc bên kia biển hẹp. Hãy tìm họ ở Dorne, hay ở Tường Thành. Ở một nơi nào khác.” Ông ta đứng dậy. “Tôi nghe thấy lũ quạ gọi rồi. Xin thứ lỗi nếu tôi tạm biệt cô ở đây. Chúc cô một buổi sáng tốt lành.”

***

Con đường quay về quán trọ dường như dài ra, có lẽ đó chỉ là do tâm trạng của cô mà thôi. Rõ ràng cô sẽ không tìm được Sansa ở Duskendale. Nếu Ser Dontos đưa cô ấy đến Oldtown hoặc vượt

biển, như vị học sĩ nghĩ, sự tìm kiếm của Brienne hóa ra vô vọng. Điều gì sẽ đợi cô ấy ở Oldtown? Cô tự hỏi. Vị học sĩ chẳng biết gì về cô ấy, cũng như chẳng biết gì về Nhà Hollard. Cô ấy sẽ không đến với những người lạ.

Ở Vương Đô, Brienne tìm thấy một trong những cô hầu gái trước kia của Sansa, nay làm công việc giặt giũ trong một nhà chứa. “Trước khi phục vụ tiểu thư Sansa, tôi đã phục vụ Lãnh chúa Renly, và cả hai đều trở thành những kẻ phản bội,” cô hầu Brella phàn nàn cay đắng. “Giờ đây không còn lãnh chúa

nào muốn thuê tôi nữa, thế là tôi phải giặt giũ cho gái điếm.” Nhưng khi Brienne hỏi về Sansa, cô ta nói, “Tôi sẽ nói với cô những gì tôi đã nói với Lãnh chúa Tywin. Cô gái đó luôn cầu nguyện. Cô ấy tới điện thờ và đốt nến đúng như một quý cô, nhưng gần như đêm nào cô ấy cũng lẻn ra rừng thiêng. Cô ấy

đã đi lên phía bắc rồi. Vì các vị thần của cô ấy ở đó.”

Nhưng phương bắc vô cùng rộng lớn, Brienne không hề biết Sansa có thể tin tưởng ai nhất trong số các chư hầu của cha cô ấy. Hay cô ấy đi tìm những người ruột thịt? Mặc dù tất cả anh em của cô ấy đã bị giết, nhưng Brienne biết Sansa vẫn còn một người chú và một người anh cùng cha khác mẹ phục vụ

trong Đội Tuần Đêm ở Tường Thành. Ông cậu Edmure Tully đang bị giam cầm ở Song Thành, nhưng chú của ông ta, Ser Brynden, vẫn còn giữ Riverrun. Và em gái phu nhân Catelyn đang cai trị vùng Thung Lũng. Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Sansa có thể chạy tới một trong số họ lắm chứ. Nhưng là người nào?

Tường Thành chắc quá xa, lại là nơi khắc nghiệt và lạnh lẽo. Còn để đến được Riverrun, cô ấy phải đi qua vùng châu thổ đang bị chiến tranh tàn phá và băng qua vòng vây của Nhà Lannister. Eyrie

dễ dàng hơn, phu nhân Lisa chắc chắn sẽ chào đón con gái của chị mình…

Phía trước, con đường có lối rẽ. Không biết vì sao Brienne rẽ nhầm đường. Cô thấy mình đứng trong một ngõ cụt, trước mảnh sân nhỏ đầy bùn nơi ba con lợn đang nằm quanh một cái giếng thấp xây bằng đá. Nhìn thấy cô, một con kêu ré lên và bà già đang kéo nước ngờ vực nhìn cô từ đầu đến chân.

“Cô muốn gì?”

“Tôi đang tìm đường quay về quán trọ Bảy Thanh Kiếm.”

“Quay lại con đường dẫn cô đến đây, khi đến điện thờ thì rẽ trái.”

“Cảm ơn bà.” Brienne quay đi để trở lại con đường lúc trước, và đâm sầm vào ai đó đang vội vã

ở khúc ngoặt của con đường. Cú va chạm làm người đó ngã bổ chửng, đập mông xuống bùn. “Xin lỗi,” Brienne lắp bắp. Đó chỉ là một thằng bé, một thằng bé gầy giơ xương có mái tóc thẳng, thưa và một cái

sẹo dưới một bên mắt. “Có đau không?” Cô chìa tay ra để giúp thằng bé đứng dậy nhưng cậu ta vặn người trên gót chân và khuỷu tay để tránh cô. Trông thằng bé chỉ khoảng 10 đến 12 tuổi dù cậu ta mặc giáp xích và đeo một thanh trường kiếm trong bao da ở ngang lưng. “Ta có biết cậu không nhỉ?” Brienne hỏi. Khuôn mặt cậu bé có chút gì đó quen quen, nhưng cô không nhớ đã gặp cậu ta ở đâu.

“Không. Cô không. Chưa bao giờ…” Cậu bé lập cập đứng lên. “Th…th…thứ lỗi cho tôi. Thưa quý cô. Tôi đã không nhìn. Ý tôi là, tôi đã nhìn xuống. Lúc đó, tôi đang nhìn xuống chân.” Thằng bé

quay gót và cắm cổ quay lại con đường vừa đến.

Một điều gì đó ở thằng bé làm mối nghi ngờ trong lòng Brienne trỗi dậy, nhưng cô không định đuổi theo cậu ta qua khắp các phố Duskendale. Cô chợt nhận ra sáng nay đã gặp cậu ta cưỡi một con ngựa

đốm trước cổng. Dường như cô còn gặp thằng bé ở đâu đó khác nữa, nhưng là ở đâu?

Khi Brienne tìm lại được Bảy Thanh Kiếm, phòng lớn trong quán trọ chật kín người. Bốn vị nữ tu trong những chiếc áo chùng nhem nhuốc và bám đầy bụi đường đang ngồi sát lò sưởi. Khắp nơi trong phòng, khách địa phương ngồi kín các ghế dài, đang sì sụp ăn bánh mì chấm cua hầm nóng hổi. Mùi thức ăn thơm lừng làm bụng cô sôi óc ách, nhưng không còn chỗ nào trống. Một giọng nói vang lên sau lưng cô, “Mời quý cô ngồi đây, ngồi chỗ tôi đây.” Chỉ đến khi ông ta nhảy xuống khỏi ghế Brienne mới

nhận ra đó là một người lùn. Ông ta cao không quá một mét rưỡi. Mũi ông ta nổi đầy mạch máu và phồng lên như một củ hành, răng đỏ hồng vì nhai lá chua. Ông ta mặc chiếc áo chùng vải thô màu nâu của một thầy dòng, một chiếc búa sắt của Thần Thợ Rèn treo lủng lẳng trên cái cổ mập mạp.

“Ông cứ ngồi đi,” cô trả lời. “Tôi có thể đứng như ông.”

“Đúng thế, nhưng đầu tôi không quá cao tới mức chạm trần nhà.” Lời nói có phần hơi thô nhưng vẫn lịch sự. Brienne thấy đỉnh đầu ông ta được cạo trọc. Nhiều thầy dòng xuống tóc theo kiểu đó. Septa Roelle có lần nói rằng điều đó thể hiện họ không giấu Đức Cha điều gì. “Đức Cha không thể nhìn xuyên qua tóc sao?” Brienne hỏi. Một câu hỏi thật ngu ngốc. Nữ tu Roelle thường nói cô là một đứa trẻ chậm hiểu. Lúc này cô cảm thấy mình ngu ngốc chẳng kém, vì vậy cô ngồi xuống chỗ ông ta

nhường cho ở cuối ghế, ra hiệu lấy một bát cua hầm và quay lại để cảm ơn ông ta. “Ông phụng sự trong một đền thờ ở Duskendale phải không?”

“Tôi ở gần Maidenpool, quý cô à, nhưng lũ sói đã đốt sạch rồi,” ông ta vừa trả lời vừa gặm bánh mì. “Chúng tôi đã dựng lại một đền thờ mới bằng tất cả những gì tốt nhất mà chúng tôi có, nhưng rồi bọn lính đánh thuê lại đến. Không biết chúng là người của ai, nhưng chúng bắt lợn của chúng tôi, giết hại anh em đồng đạo của tôi. Tôi nấp vào một khúc cây rỗng và thoát chết, nhưng những người khác to lớn hơn nên không trốn được. Phải mất rất nhiều thời gian tôi mới chôn xong tất cả bọn họ, nhưng Thần Thợ Rèn đã cho tôi sức mạnh. Khi xong việc, tôi đào lấy mấy đồng bạc mà đạo hữu chôn giấu và lên

đường.”

“Tôi đã gặp vài thầy dòng đi đến Vương Đô.”

“Đúng rồi, có hàng trăm người trên đường. Không chỉ có các thầy dòng thôi đâu. Còn cả các thầy tu và dân chúng nữa. Tất cả đều là chim sẻ. Có lẽ tôi cũng là một con chim sẻ. Thần Thợ Rèn, người đã làm cho tôi đủ nhỏ để là một con chim sẻ.” Ông ta cười khúc khích. “Thế còn câu chuyện buồn của

cô là gì, cô gái?”

“Tôi đang đi tìm em gái. Nó là một tiểu thư mới chỉ 13 tuổi, một trinh nữ xinh xắn với đôi mắt xanh biếc và mái tóc màu mật ong. Biết đâu ông đã nhìn thấy nó đi cùng một người đàn ông. Một hiệp

sĩ, có lẽ là một thằng hề. Tôi sẽ thưởng vàng cho người nào giúp tôi tìm thấy nó.”

“Vàng ấy à?” Ông ta tặng cho cô một nụ cười đỏ choét. “Một bát cua hầm như thế này là phần thưởng đủ cho tôi rồi, nhưng tôi sợ rằng không giúp gì được cho cô. Những thằng hề thì tôi gặp rồi, rất nhiều là khác, nhưng những cô gái xinh đẹp thì không nhiều như thế.” Ông ta nghiêng đầu suy nghĩ một lát. “Có một thằng hề ở Maidenpool, để tôi nghĩ xem nào. Hắn mặc toàn giẻ rách và đồ bẩn thỉu, nhưng

dưới những đồ bẩn thỉu đó là bộ trang phục sặc sỡ của những tên hề.”

Dontos có mặc áo hề không nhỉ? Không ai nói cho Brienne biết là ông ta có mặc hay không. Tuy vậy, vì sao ông ta phải mặc giẻ rách chứ? Có điều không may nào đã xảy ra với ông ta và Sansa sau khi họ trốn khỏi Vương Đô chăng? Có thể lắm, vì đường xá đầy nguy hiểm đấy thôi. Có thể đó hoàn toàn không phải ông ta. “Có phải gã hề đó có một cái mũi đỏ, hằn đầy mạch máu?”

“Tôi không chắc lắm. Phải thú thực là tôi không chú ý đến hắn nhiều lắm. Sau khi chôn cất đồng đạo xong tôi đến Maidenpool vì nghĩ rằng tại đó có thể tìm được tàu đưa tôi đến Vương Đô. Lần đầu tôi nhìn thoáng thấy hắn ở gần vũng đậu tàu. Hắn có vẻ lén lút và cố tránh những người lính của Lãnh chúa Tarly. Sau đó, tôi lại chạm trán hắn lần nữa ở Ngỗng Thối.”

“Ngỗng Thối ấy à?” Cô ngờ vực.

“Một nơi không dễ chịu cho lắm,” người đàn ông lùn thừa nhận. “Người của Lãnh chúa Tarly đi tuần khắp cảng Maidenpool, nhưng Ngỗng Thối luôn đầy các thủy thủ, mà người ta đều biết thủy thủ sẵn sàng cho đi lậu tàu nếu được trả giá hợp lý. Gã hề đó tìm tàu cho ba người vượt biển hẹp. Tôi thường thấy hắn ở đó, nói chuyện với những tay chèo trên mấy chiếc tàu ga-lê. Thỉnh thoảng hắn còn

hát một bài hát vui nữa.”

“Tìm tàu cho ba người à? Sao không phải là hai.”

“Ba, cô gái à. Tôi thề trước Thất Diện Thần đấy.” Ba, cô nghĩ, Sansa, Ser Dontos… nhưng ai là người thứ ba? Quỷ Lùn chăng? “Ông ta tìm thấy tàu chưa?”

“Điều đó thì tôi không rõ,” ông ta trả lời, “nhưng có một đêm bọn lính của Lãnh chúa Tarly lùng sục Ngỗng Thối để tìm hắn, vài ngày sau đó, có người khoe rằng đã lừa tiền của một gã hề và chìa

vàng cho chúng tôi xem. Anh ta uống say khướt, lại còn mua bia cho tất cả mọi người nữa.”

“Lừa một gã hề à,” cô băn khoăn. “Anh ta nói thế là ý gì?”

“Tôi không rõ. Tên hắn ta là Dick Lanh Lợi, tôi chỉ nhớ có vậy.” Ông ta xòe bàn tay ra. “Tôi sợ rằng đó là tất cả những gì tôi có thể cung cấp cho cô ngoài những lời cầu nguyện của một người lùn.”

Giữ lời hứa, Brienne mua cho ông ta một bát cua hầm nóng hổi… mấy ổ bánh mì mới và một ly rượu vang. Và trong khi ông ta đứng ăn bên cạnh, cô nghiền ngẫm về những điều ông ta vừa nói. Có thể

nào Quỷ Lùn đi cùng với họ? Nếu Tyrion Lannister đứng đằng sau vụ biến mất của Sansa, chứ không phải Dontos, điều đó sẽ củng cố thêm lý do họ cần vượt biển hẹp.

Khi người đàn ông nhỏ bé đó ăn xong bát cua hầm, ông ta vét sạch những gì cô bỏ lại. “Cô phải ăn

thêm,” ông ta khuyên. “Một phụ nữ cao lớn như cô cần giữ sức khỏe. Từ đây tới Maidenpool không xa, nhưng những ngày này đường xá nguy hiểm lắm.”

Mình biết chứ. Ser Cleos Frey đã chết trên chính con đường này, còn cô và Jaime bị bọn Dị Nhân Khát Máu bắt giữ. Jaime còn cố giết mình, cô nhớ lại, mặc dù anh ta gầy yếu và cổ tay lại bị xích. Tuy vậy, đó là một cuộc đấu ngang sức ngang tài. Nhưng đó là trước khi Zollo chặt tay Jaime. Zollo, Rorge và Shagwell có lẽ đã cưỡng bức cô hàng trăm lần nếu Jaime không nói với họ rằng trọng lượng của cô được đổi bằng ngọc bích.

“Cô gái này? Trông cô buồn thế. Cô đang lo nghĩ về em gái à?” Người đàn ông lùn vỗ nhẹ vào tay cô. “Bà Già sẽ soi sáng đường cho cô tìm thấy em, đừng sợ. Thần Trinh Nữ sẽ giữ cho cô ấy được an

toàn.”

“Mong sao những điều ông nói đều đúng.”

“Sẽ đúng mà.” Ông ta cúi chào. “Nhưng giờ tôi phải lên đường rồi. Tôi còn cả quãng đường dài phải đi để đến Vương Đô.”

“Ông có ngựa không? Hoặc một con la.”

“Tôi có hai con la.” Ông ta cười. “Đây chúng đây. Chúng nằm dưới chân tôi đây. Chúng sẽ đưa tôi tới nơi nào tôi muốn.” Ông ta lại cúi chào và đi lạch bạch ra cửa, thân hình xiêu vẹo theo từng bước

đi.

Brienne vẫn ngồi lại bàn sau khi ông ta đi khỏi, nấn ná bên một cốc rượu vang pha nước. Cô không hay uống rượu, nhưng đôi khi nó giúp cô yên bụng. Và bây giờ mình muốn đi đâu đây? Cô tự hỏi. Tới

Maidenpool để tìm người đàn ông tên Dick Lanh Lợi ở nơi có tên Ngỗng Thối đó chăng?

Lần cuối cùng cô đến Maidenpool, thành phố đã là một đống hoang tàn, lãnh chúa của vùng giam mình trong lâu đài, dân chúng hoặc đã chết, hoặc bỏ đi, hoặc lẩn trốn. Cô còn nhớ những ngôi nhà cháy dở, những đường phố vắng tanh, những cánh cổng bị phá tan hoang. Những con chó hoang lẩn lút đằng

sau chân ngựa, còn những tử thi trương phềnh như những bông huệ tây nhợt nhạt khổng lồ trên mặt

chính cái ao đã đem lại cái tên cho thị trấn. Jaime đã hát bài Sáu trinh nữ trong một cái ao và cười cợt khi cô đề nghị anh ta yên lặng. Và Randyll Tarly cũng ở tại Maidenpool, thêm một lý do nữa để cô tránh thị trấn này. Có lẽ tốt nhất là lên tàu đến Gulltown hoặc Cảng White. Tuy nhiên, mình có thể làm cả hai việc. Ghé thăm Ngỗng Thối và trò chuyện với Dick Lanh Lợi, rồi tìm một con tàu ở Maidenpool đưa mình lên phương bắc.

Phòng chung của quán trọ đã bắt đầu vắng người. Brienne xé một miếng bánh mì làm đôi, lắng nghe cuộc chuyện trò ở các bàn xung quanh. Hầu hết các câu chuyện đều xoay quanh cái chết của Lãnh chúa Tywin Lannister. “Người ta nói rằng chính con trai đã giết ông ta, cái thằng lùn bé tí xấu xa ấy.”

Một người địa phương nói, xét theo vẻ bề ngoài thì có lẽ ông ấy là thợ sửa giày.

“Còn bây giờ, đức vua chỉ là một thằng bé,” người lớn tuổi nhất trong số các nữ tu góp chuyện. “Ai sẽ cai trị chúng ta cho đến khi vua đủ tuổi?”

“Em trai Lãnh chúa Tywin,” một người lính trả lời. “Hoặc Lãnh chúa Tyrell, có lẽ thế. Hoặc Sát Vương.”

“Không thể là hắn được,” chủ quán trọ tuyên bố. “Không phải cái loại bất tín đó.” Ông ta nhổ nước bọt vào ngọn lửa. Brienne vứt miếng bánh mì xuống bàn và phủi vụn bánh bám trên quần. Nghe vậy đủ

rồi.

***

Đêm hôm đó, cô lại mơ thấy mình trong lều của Renly. Nến đã cháy hết, không khí lạnh lẽo bao quanh cô. Có một cái gì đó đang di chuyển trong bóng tối màu xanh, một cái gì đó hôi thối và khủng

khiếp đang tiến gần đến đức vua. Cô muốn bảo vệ ngài, nhưng tay chân cứng đờ và giá buốt, cô không đủ sức dù chỉ để nâng một cánh tay lên. Khi lưỡi gươm của cái bóng chém ngọt vào phần cổ bằng thép xanh của bộ giáp phục và máu bắt đầu chảy, cô nhìn thấy vị vua đang hấp hối không phải là Renly mà là Jaime Lannister, và cô lại không bảo vệ được anh.

Chị gái viên đội trưởng tìm thấy cô trong phòng chung của quán trọ, đang uống một tách sữa mật ong đánh lẫn với ba quả trứng sống. “Bà vẽ đẹp quá,” cô trầm trồ khi bà ta chìa cho cô xem tấm khiên mới sơn lại. Trông nó giống một bức tranh hơn là hình vẽ thông thường trên một tấm khiên. Nó gợi lại

trong lòng cô hồi ức từ nhiều năm về trước. Cô nhớ kho vũ khí tối tăm và lạnh lẽo của cha, nhớ cái cách mình rà ngón tay trên nước sơn đã nứt nẻ và phai màu, trên những chiếc lá xanh tươi và trên vệt sao băng rơi.

Brienne trả cho bà ta gấp rưỡi số tiền họ đã thỏa thuận, rồi khoác khiên lên vai và rời quán trọ sau khi đã mua một ít bánh mì cứng, phô mai và bột mì của người đầu bếp. Cô rời thành Duskendale bằng cổng phía bắc, ruổi ngựa chầm chậm trên những cánh đồng, những nông trang bị chiến tranh tàn phá tan hoang, khi sói tràn tới Duskendale.

Lãnh chúa Randyll Tarly thống lĩnh quân đội của Joffrey ở vùng này, đội quân gồm những người miền tây, người vùng Stormland và các hiệp sĩ đến từ Reach ở phía nam. Khi chết trận, thi hài của họ sẽ được mang về thành và yên nghỉ trong những nấm mồ dành cho các anh hùng bên dưới các điện thờ

của Duskendale. Còn thi hài của người phương bắc, nhiều hơn rất nhiều, được chôn cất qua loa trong những nấm mộ tập thể bên bờ biển. Để đánh dấu nơi họ yên nghỉ, trên mộ họ, những kẻ chiến thắng cho dựng một tấm biển bằng gỗ được đẽo sơ sài. ĐÂY LÀ NƠI CHÔN NHỮNG CON SÓI. Tấm biển chỉ ghi có vậy. Brienne dừng chân cạnh đó và thầm cầu nguyện cho họ, cho phu nhân Catelyn Stark, Robb – con trai bà và tất cả những người đã chết cùng với họ.

Cô nhớ lại cái đêm phu nhân Catelyn biết tin các con trai bà đã chết, hai đứa nhỏ bà để lại Winterfell để cho chúng được an toàn. Brienne đã biết trước có điều gì đó vô cùng không ổn. Cô đã hỏi xem bà có nhận được tin tức gì của các con trai không. “Ta chẳng còn đứa con trai nào nữa ngoài Robb,” phu nhân Catelyn trả lời. Bà ấy nói như thể đang bị một con dao xoáy sâu vào bụng. Brienne vươn tay qua bàn định an ủi bà, nhưng cô dừng lại ngay trước khi kịp chạm vào tay bà, vì sợ bà rụt lại.

Phu nhân Catelyn xòe hai tay ra cho Brienne thấy những vết sẹo trên lòng bàn tay và ngón tay do dao cứa. Rồi bà bắt đầu nói về các con gái. “Sansa là một quý cô bé nhỏ, luôn luôn lịch thiệp và sẵn sàng làm vui lòng người khác. Nó thích những câu chuyện về lòng can đảm của các hiệp sĩ. Rồi cô xem, nó sẽ lớn lên thành một người phụ nữ xinh đẹp hơn ta rất nhiều. Ta thường tự mình chải tóc cho nó. Tóc nó màu nâu đỏ, dày và mềm mại… màu đỏ trên tóc nó cứ ánh lên như đồng dưới ánh đuốc vậy.”

Bà ấy cũng nói về Arya, cô con gái thứ hai, nhưng giờ Arya đã mất tích, nhiều khả năng đã chết. Dù vậy, vẫn còn Sansa… phu nhân ơi, tôi sẽ tìm cô ấy, Brienne thề với vong linh chưa được yên nghỉ của phu nhân Catelyn. Tôi sẽ không bao giờ ngừng tìm kiếm. Nếu cần, tôi sẽ từ bỏ cả mạng sống, cả danh dự và tất cả những giấc mơ của mình, nhưng tôi sẽ tìm cô ấy.

Xa xa, phía bên kia chiến trường, con đường chạy men theo bờ biển, giữa một bên là biển xanh xám đang gầm gào, một bên là dãy đồi đá vôi thấp. Brienne không phải là lữ khách duy nhất trên

đường. Nhiều làng chài nằm rải rác dọc đường, ngư dân dùng con đường này để đưa cá ra chợ bán. Brienne gặp một bà bán cá và các con gái đang trên đường về nhà với cái giỏ rỗng trên vai. Vì cô mặc áo giáp, họ tưởng nhầm cô là một hiệp sĩ cho đến khi thấy mặt. Các bé gái thì thầm với nhau và liếc nhìn cô. “Mọi người có nhìn thấy một cô gái 13 tuổi trên đường không?” Cô hỏi họ. “Một tiểu thư mắt xanh lơ và tóc màu nâu đỏ ấy?” Ser Shadrich đã làm cho cô thận trọng hơn, nhưng cô vẫn phải tiếp tục tìm kiếm. “Có lẽ cô ấy đi cùng với một gã hề.” Nhưng họ chỉ lắc đầu và che mặt cười khúc khích.

Ở ngôi làng đầu tiên cô tới, một đám các cậu nhóc chân trần chạy theo ngựa của cô. Bực bội vì bị những người phụ nữ bán cá cười nhạo lúc trước, bây giờ cô đội mũ sắt, do đó bọn nhóc tưởng cô là đàn ông. Một đứa mời cô mua những con sò, đứa khác mời mua cua, và một đứa rao bán chị gái của

nó.

Brienne mua ba con cua của thằng bé thứ hai. Khi cô rời làng, trời bắt đầu mưa và gió mạnh dần lên. Bão tới rồi, cô nghĩ và liếc nhìn ra biển. Những giọt mưa rơi lộp độp trên chiếc mũ sắt, tai cô ù đi

khi phi ngựa, nhưng thế này còn tốt hơn là đang ở ngoài khơi.

Sau một giờ phi ngựa về phía bắc, con đường bị chia làm hai ngả bởi một đống đá – dấu tích của một lâu đài nhỏ đổ nát. Ngả bên phải đi dọc theo bờ biển, uốn khúc quanh co hướng về mũi

Crackclaw, một vùng đất buồn tẻ gồm nhiều đầm lầy và những cánh đồng hoang trơ trụi trồng thông; ngả bên trái chạy qua những ngọn đồi, cánh đồng và rừng để đến Maidenpool. Lúc này mưa đã nặng hạt hơn. Brienne xuống ngựa và dắt nó rời khỏi đường cái tìm chỗ nấp giữa đám đổ nát. Trong đám cây mâm xôi, cỏ dại và cây du dại, chân những bức tường thành của lâu đài vẫn còn giữ nguyên đường nét, nhưng những phiến đá xây nên chúng vương vãi khắp đường như đồ chơi của một đứa trẻ. Tuy nhiên, một phần của pháo đài chính vẫn còn đứng vững. Ba ngọn tháp cũng được xây bằng đá granit xám giống những bức tường thành đổ nát, nhưng thành lũy trên đỉnh tháp lại là sa thạch vàng. Ba chiếc vương miện, cô nhận ra khi ngắm nhìn chúng qua màn mưa. Ba chiếc vương miện vàng. Đây là lâu đài của gia tộc Hollard. Rất có thể Ser Dontos được sinh ra ở đây.

Brienne dắt ngựa đi xuyên qua đám gạch đá vỡ tới lối chính đi vào pháo đài. Cánh cửa đã mất, ở cửa chỉ còn lại những chiếc bản lề sắt han rỉ, nhưng mái nhà vẫn còn vững chắc và bên trong khô ráo. Brienne buộc ngựa vào một cái chân đèn gắn vào tường, cởi mũ và xổ mái tóc ra. Cô đang đi tìm một

một vài mảnh gỗ khô ráo để nhóm lửa thì bỗng nghe tiếng một con ngựa khác đang tới gần. Một bản năng nào đó khiến cô lùi lại và ẩn mình trong bóng tối để ngoài đường không thể nhìn thấy. Cô và Ser Jaime từng bị bắt trên chính con đường này, cô không muốn phải chịu đựng như thế một lần nữa.

Kẻ cưỡi ngựa là một người đàn ông thấp nhỏ. Chắc là Chuột Điên, cô nghĩ ngay từ khi nhác thấy anh ta. Vì một lý do nào đó hắn đuổi theo mình. Tay cô lần đến chuôi gươm, lòng tự hỏi không biết Ser

Shadrich có nghĩ rằng cô là một con mồi dễ tóm chỉ vì cô là phụ nữ hay không. Người quản lâu đài của Lãnh chúa Grandison đã từng phạm phải sai lầm đó. Ông ta tên là Humfrey Wagstaff, một ông già 65 tuổi kiêu ngạo với cái mũi như mỏ diều hâu và cái đầu lấm tấm vết đồi mồi. Ngay ngày họ đính hôn, ông ta đã cảnh báo Brienne rằng ông ta trông chờ cô cư xử cho ra dáng một người phụ nữ sau khi kết hôn. “Ta không muốn vợ mình nhảy cẫng lên trong chiếc áo giáp đàn ông, vì thế hãy tuân lệnh ta, để ta khỏi phải trừng phạt cô.”

Lúc đó cô 16 tuổi và đã không xa lạ gì với đao kiếm, nhưng cô vẫn còn rất nhút nhát mặc dù can đảm trong khi luyện tập. Không hiểu cô lấy đâu đủ can đảm để nói với ông ta rằng cô chỉ chấp nhận bị trừng phạt bởi một người đàn ông đủ khả năng đánh bại mình. Lão hiệp sĩ già đỏ mặt tía tai, nhưng vẫn đồng ý mặc áo giáp để dạy cho cô biết vị trí thích hợp của một người phụ nữ. Họ giao chiến trên ngựa

với vũ khí cùn, do đó, cây giáo của Brienne không có đầu nhọn. Cô đã bẻ gẫy xương đòn và hai giẻ xương sườn của ông ta, bẻ gẫy luôn lời hứa hôn giữa họ. Ông ta là người chồng tiềm năng thứ ba và là người cuối cùng. Sau đó, cha cô không còn nài ép một lần nào nữa.

Nếu đúng là Ser Shadrich lần theo dấu chân cô, chắc chắn một trận chiến đấu là khó tránh khỏi. Cô không định hợp tác hay để ông ta theo cô đi tìm Sansa. Ở ông ta toát lên vẻ ngạo mạn của những kẻ thành thạo trong chiến đấu, cô nghĩ, nhưng ông ta nhỏ con. Mình có tầm với dài hơn ông ta, và cũng

khỏe hơn nữa.

Cô khỏe như hầu hết các hiệp sĩ, và vị hiệp sĩ cấp cao già nua của cha cô thường nói rằng cô nhanh nhẹn hơn bất kỳ người phụ nữ nào cùng tầm vóc. Thần linh cũng cho cô thể lực dẻo dai, Ser Goodwin cho đó là một món quà cao quý. Chiến đấu với gươm và khiên là một công việc mệt nhọc, chiến thắng thường đến với người nào bền bỉ nhất. Ser Goodwin đã dạy cô chiến đấu một cách khôn

ngoan, sao cho bảo tồn được sức mạnh của mình, đồng thời ép kẻ địch phải sử dụng hết sức lực của họ trong những cuộc tấn công quyết liệt. “Đàn ông sẽ luôn đánh giá thấp con,” ông nói, “và sự kiêu căng của họ làm họ muốn đánh bại con thật nhanh, để khỏi mang tiếng bị một người phụ nữ làm khó.” Cô đã học được chân lý đó ngay khi bước chân vào đời. Thậm chí Jaime Lannister cũng đối xử với cô theo cách đó, trong cánh rừng gần Maidenpool. Nếu các vị thần tốt bụng, Chuột Điên cũng sẽ mắc lỗi này. Có lẽ ông ta là một hiệp sĩ dạn dày kinh nghiệm, cô nghĩ, nhưng ông ta đâu phải Jaime Lannister. Cô

liền rút kiếm ra khỏi bao.

Nhưng ló ra ở chỗ rẽ không phải con chiến mã màu hạt dẻ của Ser Shadrich mà là một con ngựa đốm tầm thường ốm yếu già nua với một thằng bé gầy giơ xương trên lưng. Khi nhìn thấy con ngựa, Brienne cảm thấy có phần bối rối. Chỉ là một thằng bé, cô nghĩ, cho đến khi thoáng thấy khuôn mặt dưới chiếc mũ trùm. Thằng bé ở Duskendale, thằng bé đã đâm sầm vào ta. Chính là cậu nhóc đó.

Thằng bé không hề liếc lâu đài đổ nát lấy một cái, cậu ta nhìn xuôi xuống con đường, hết ngả này đến ngả kia. Sau một giây lưỡng lự, cậu quay ngựa về phía những quả đồi và nặng nề lê bước đi tiếp. Brienne nhìn theo bóng dáng cậu ta biến mất trong màn mưa, và đột nhiên nhớ ra đã nhìn thấy chính thằng bé này ở Rosby. Cô hiểu, cậu ta lén đi theo mình. Nhưng trò này hai người có thể cùng chơi đấy.

Brienne tháo dây buộc con ngựa, trèo lên yên và đi theo cậu nhóc.

Thằng nhỏ nhìn chằm chằm xuống đất để tìm kiếm dấu vết trên con đường ngập nước. Tiếng mưa, và chiếc mũ trùm đầu khiến cậu không nghe thấy Brienne đang tới gần. Cậu cũng không hề ngoảnh lại

cho đến khi Brienne đuổi kịp và dùng bản kiếm đập thật mạnh vào mông con ngựa.

Con ngựa lồng lên, hất thằng bé văng xuống bùn, chiếc áo choàng của nó bay phần phật như một đôi cánh. Nó ngồi dậy với bùn đất, cỏ khô đầy miệng và thấy Brienne đang đứng nhìn. Không còn nghi

ngờ gì nữa, chính là thằng bé đó. Cô nhận ra cái lẹo trên mắt cậu ta. “Ngươi là ai?” Cô hỏi.

Miệng thằng nhóc mấp máy nhưng không thốt ra tiếng nào. Đôi mắt cậu mở lớn như hai quả trứng. “Po,” đó là tất cả những gì thằng bé có thể thốt ra. “Po….” Chiếc áo giáp xích cậu ta mặc kêu lạch

cạch mỗi khi cậu run rẩy. “Po…po….”

“Nào?” Cô nói. “Ngươi có nói không?” Cô đặt mũi kiếm lên yết hầu cậu nhóc. “Hãy nói cho ta biết ngươi là ai, tại sao ngươi lại đi theo ta?”

“Đừng, xi…xi…xin đừng.” Thằng nhóc thọc tay vào miệng, móc ra một cục bùn rồi nhổ phì phì. “Po…po…Pod. Tên tôi. Po…po…Podrick. P…Payne.”

Brienne hạ kiếm xuống. Trong cô dâng lên niềm cảm thông thực sự với thằng bé. Cô nhớ một hôm

ở Evenhall, một chàng hiệp sĩ trẻ tới với bông hồng trên tay. Chàng mang hoa đến tặng cho ta. Hoặc septa của cô đã nói thế. Tất cả những gì cô phải làm là chào mừng chàng trai đến với lâu đài của cha cô. Khi đó chàng 18 tuổi, với mái tóc đỏ dài xõa tung trên vai, còn cô mới 12, bị bó chặt trong chiếc váy dài mới cứng đơ, thân trên lấp lánh ngọc hồng lựu. Hai người bọn họ có chiều cao ngang nhau,

nhưng cô không thể nhìn vào mắt chàng, cũng không nói được những lời đơn giản mà nữ tu đã dạy. Ser Ronnet. Chào mừng ngài tới thăm lâu đài của cha tôi. Thật tuyệt khi cuối cùng cũng được gặp ngài.

“Vì sao ngươi đi theo ta?” Cô hỏi. “Ngươi được sai theo dõi ta phải không? Ngươi là người của Varys hay của thái hậu?”

“Không. Không phải họ. Không ai cả.”

Brienne đoán cậu nhóc khoảng 10 tuổi, nhưng cô đoán tuổi trẻ con dở tệ. Cô luôn đoán chúng ít tuổi hơn thực tế, có lẽ vì lúc nào cô cũng cao lớn hơn tuổi. Cao to một cách khác thường và giống đàn ông, Septa Roelle thường nói vậy. “Con đường này rất nguy hiểm đối với một đứa trẻ đi một mình.”

“Không nguy hiểm đối với một cận vệ. Tôi là cận vệ của ông ấy. Cận vệ của quân sư.”

“Lãnh chúa Tywin à?” Cô tra gươm vào vỏ.

“Không. Không phải ông ấy. Quân sư trước nữa. Con trai ông ấy. Tôi đã chiến đấu cùng ông ấy ở chiến trường. Tôi la to cổ vũ ‘Người lùn! Người lùn!’”

Đây là cận vệ của Quỷ Lùn. Brienne thậm chí còn không biết hắn có cận vệ. Bản thân Tyrion Lannister không phải là hiệp sĩ. Vì thế, có lẽ người ta sẽ nghĩ hắn có một hoặc hai thằng nhỏ phục vụ, một hầu cận và một thằng nhỏ sai vặt, ai đó giúp hắn mặc quần áo chẳng hạn. Nhưng còn cận vệ ư? “Vì

sao cậu đi theo ta?” Cô hỏi. “Cậu muốn gì?”

“Tìm cô ấy.” Thằng bé đứng lên. “Vợ ông ấy. Brella nói với tôi cô đang tìm cô ta. Cô ta là vợ ông ấy. Không phải Brella đâu, là tiểu thư Sansa kia. Vì vậy tôi nghĩ, nếu cô tìm thấy cô ấy…” Khuôn mặt

cậu bé méo xệch vì đau khổ. “Tôi là cận vệ của ông ấy,” thằng nhóc nhắc lại trong khi mưa không ngừng tuôn xối xả trên mặt, “vậy mà ông ấy lại bỏ rơi tôi.”

About The Author

Ngo David

Power is Power