Trò chơi vương quyền 4A – Tiệc quạ đen

Trò chơi vương quyền 4A – Tiệc quạ đen

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Những con rồng,” Mollander nói rồi chộp lấy một quả táo héo lăn lóc trên mặt đất và tung nó từ tay này sang tay kia.

“Ném đi,” Alleras Nhân Sư thúc giục. Cậu ta rút một mũi tên ra khỏi bao rồi đặt lên dây cung.

“Ước gì mình được nhìn thấy một con rồng nhỉ.” Roone lùn mập mạp là người trẻ nhất trong bọn, còn hai năm nữa cậu ta mới đến tuổi trưởng thành. “Mình muốn được nhìn thấy rồng quá đi mất.”

Còn mình chỉ ước được ngủ trong vòng tay của Rosey, Pate thầm nghĩ. Cậu chuyển mình liên tục trên ghế. Đến ngày mai thôi, cô gái sẽ thuộc về cậu. Mình sẽ đem nàng rời Oldtown, băng qua biển

hẹp tới một Thành Phố Tự Trị. Ở đó chẳng có vị học sĩ nào, và sẽ chẳng còn ai kết tội cậu nữa.

Tại nơi đang đứng, cậu có thể nghe thấy tiếng cười của Emma vọng ra qua cửa sổ chớp trên lầu, hòa lẫn với giọng nam trầm của vị khách mà bà đang phục vụ. Bà ta là người lớn tuổi nhất trong đám hầu gái ở quán rượu Quill và Tankard này. Emma phải ít nhất 40 tuổi, nhưng trông bà vẫn đẫy đà và xinh đẹp. Rosey là con gái của bà, 15 tuổi và vừa mới dậy thì. Emma đã tuyên bố rằng trinh tiết của

Rosey phải đáng giá một đồng rồng vàng. Pate đã để dành được chín đồng hươu bạc, một bình đầy những đồng tám xu và một đống xu lẻ, đó là tất cả những gì Pate có. Thà cậu ấp nở ra một con rồng còn khả thi hơn việc dành dụm đủ một đồng vàng.

“Nếu thế thì cậu sinh quá muộn rồi đấy, cậu bé ạ.” Armen Thầy Dòng đáp lời Roone. Anh ta đeo một sợi dây da quanh cổ, trên đó xâu một loạt các mắt xích bằng thiếc, chì và đồng. Cũng như mọi thầy

dòng khác, có vẻ như Armen cho rằng các giáo sinh chỉ có củ cải mọc trên cổ chứ không phải đầu. “Con rồng cuối cùng đã chết dưới triều vua Aegon đệ Tam rồi.”

“Đó là con rồng cuối cùng ở Westeros,” Mollander nhấn mạnh.

“Ném đi,” Alleras lại thúc giục lần nữa. Đó là chàng trai duyên dáng mà họ vẫn gọi là Nhân Sư. Tất cả các cô hầu gái đều để mắt đến cậu ta. Ngay cả Rosey cũng thỉnh thoảng chạm vào tay cậu ta khi

mang rượu vang đến, Pate đành phải nghiến chặt răng và giả vờ không nhìn thấy gì hết.

“Con rồng cuối cùng của Westeros thì cũng là con rồng cuối cùng.” Armen kiên trì phản bác. “Mọi người đều biết rõ điều đó.”

“Ném quả táo đi,” Alleras giục giã. “Hay cậu định ăn nó.”

“Đây.” Kéo lê bên chân bị khoèo, Mollander nhảy lò cò một bước ngắn, xoay người và quăng mạnh quả táo vào màn sương mù dày đặc trên dòng Honeywine. Nếu không vì cái chân như thế, có lẽ cậu ta đã trở thành một hiệp sĩ giống cha mình. Sức mạnh của cậu ta nằm ở đôi tay to khỏe và bờ vai

lực lưỡng. Nhanh như cắt, quả táo bay vụt đi…

…nhưng vẫn không nhanh bằng mũi tên xé gió lao theo, mũi tên dài một mét bằng gỗ vàng, đuôi gắn lông vũ đỏ thắm. Pate không nhìn thấy nhưng nghe được khoảnh khắc mũi tên xuyên qua quả táo. Một

tiếng phập khẽ vọng lại từ phía dòng sông, theo sau là một tiếng tõm.

Mollander huýt sáo. “Xuyên tâm rồi. Tuyệt quá.”

Chẳng tuyệt bằng một nửa Rosey. Pate yêu đôi mắt màu nâu lục nhạt và khuôn ngực nở nang của cô bé, cả cái cách cô bé cười mỗi lần thấy cậu cùng đôi lúm đồng tiền trên má. Đôi khi cô đi chân trần trong lúc đem rượu ra để cảm nhận cỏ mềm lướt qua bàn chân. Cậu yêu cả điều đó nữa. Cậu yêu mùi

thơm tươi mới và sạch sẽ tỏa ra từ cơ thể cô, những lọn tóc xoăn sau tai cô. Cậu thậm chí yêu cả những ngón chân cô. Có một đêm cô đã cho phép cậu xoa chân cho mình, đùa nghịch với chúng, và Pate đã nghĩ ra một câu chuyện vui về từng ngón chân để làm cô gái cười.

Có lẽ không nên vượt biển thì tốt hơn. Cậu có thể mua một con lừa bằng tiền tiết kiệm, rồi cậu và Rosey sẽ thay nhau cưỡi nó đến Westeros. Thầy Ebrose có thể cho rằng cậu chẳng được tích sự gì,

nhưng Pate biết cách bó xương và cho đỉa chích máu người bị sốt. Đám dân đen sẽ rất biết ơn khi cậu giúp họ. Và nếu có thể học cách cắt tóc cạo râu thì cậu còn có thể trở thành thợ cạo nữa. Thế là đủ, Pate tự nhủ, miễn là mình có được Rosey. Cô là tất cả những gì cậu muốn trên đời này.

Nhưng không phải lúc nào cũng thế. Đã có lần cậu mơ được trở thành học sĩ trong một tòa lâu đài, phụng sự cho một lãnh chúa hào phóng nào đó, người sẽ kính trọng sự thông thái của cậu và ban tặng cậu một con bạch mã thật đẹp để cảm ơn. Cậu sẽ cưỡi trên lưng con tuấn mã, cao ngạo và quý phái

mỉm cười với đám dân đen khi lướt qua họ.

Một đêm, trong sảnh chung của quán Quill và Tankard, sau khi nốc hết hai cốc rượu táo nặng khủng khiếp, Pate đã khoác lác rằng cậu sẽ không chấp nhận làm một giáo sinh mãi mãi. “Quá đúng,” Leo

Lười lớn tiếng. “Mày sẽ trở thành cựu giáo sinh và đi chăn lợn.”

Pate uống cạn cốc rượu. Sáng nay, dãy nhà Quill và Tankard lập lòe ánh đuốc trông hệt như một hòn đảo ánh sáng giữa biển sương mù dày đặc. Xuôi về phía hạ lưu, ngọn đèn hiệu xa xa của Tháp

Hightower bềnh bồng trong màn đêm ẩm ướt như một mặt trăng màu cam mờ ảo, nhưng ánh sáng không đủ để nâng đỡ tinh thần Pate.

Đáng lẽ giờ này nhà giả kim đó phải đến rồi chứ. Hay đó chỉ là lời nói đùa độc ác, hay có gì không hay đã xảy ra với ông ta? Đây không phải là lần đầu tiên cơ may của Pate biến thành vận rủi.

Cậu đã từng tưởng mình may mắn khi được chọn để trợ giúp cho Archmaester Walgrave già nua với lũ quạ, nằm mơ cậu cũng không thể ngờ rằng công việc của cậu chỉ là mang thức ăn đến cho ông, quét dọn phòng và mặc quần áo cho ông mỗi sáng. Mọi người nói rằng Archmaester Walgrave chẳng còn nhớ gì về lũ quạ, vì thế Pate chỉ hy vọng nhận được một mắt xích bằng sắt đen, nhưng rốt cuộc ngay cả đến thứ đó Walgrave cũng không thể cho cậu. Vì lịch sự mà người ta vẫn để ông già đó giữ chức vụ archmaester. Ông từng là một học sĩ tài giỏi, nhưng giờ đây áo choàng của ông chỉ để che đi bộ đồ lót bẩn thỉu, và thậm chí cách đây nửa năm, vài vị thầy dòng còn thấy ông ngồi khóc trong thư viện vì không tìm được đường về phòng riêng. Maester Gormon đã thế chỗ Walgrave dưới chiếc mặt nạ sắt, chính ông ta cũng là người kết tội Pate ăn trộm.

Một chú chim sơn ca cất tiếng hót trong tán cây táo cạnh bờ sông. Tiếng hót ngọt ngào giúp cậu thư thái sau một ngày dài phải nghe tiếng kêu chói tai và bất tận của lũ quạ mà cậu phải chăm sóc. Những con quạ trắng biết tên cậu, chúng thường thì thầm với nhau “Pate, Pate, Pate” mỗi khi thoáng thấy bóng

cậu, đến mức cậu muốn gào lên. Những con chim trắng lớn này là niềm tự hào của Archmaester Walgrave. Ông muốn đem thân xác của mình cho chúng ăn khi qua đời, nhưng Pate không biết chúng có cùng nguyện vọng đó hay không.

Pate đến đây không phải để uống, nhưng Alleras đã mua rượu để mừng cậu ta nhận được một mắt xích đồng, và mặc cảm tội lỗi làm Pate thấy mình khát nước. Có lẽ vì rượu táo quá nặng mà cậu thấy tiếng chim sơn ca như đang rung lên điệp khúc “vàng đổi sắt, vàng đổi sắt, vàng đổi sắt”. Thật lạ lùng

vì người lạ hôm trước cũng nói như thế vào cái đêm Rosey sắp xếp cho họ gặp nhau. “Ông là ai?” Pate đã gặng hỏi ông ta và người đàn ông trả lời. “Là một nhà giả kim. Ta có thể biến sắt thành vàng.” Thế rồi đồng xu nằm trong tay ông ta, nhảy nhót qua các kẽ tay và ánh lên màu vàng dìu dịu dưới ánh nến. Một mặt đồng xu đúc hình một con rồng ba đầu, mặt kia là hình một vị vua đã chết nào đó. Vàng đổi sắt, Pate nhớ lại, không còn gì tốt hơn thế. Mày có muốn cô ấy không? Mày có yêu cô ấy không? “Nhưng tôi không phải kẻ trộm,” cậu nói với người đàn ông tự xưng là nhà giả kim, “tôi là một giáo sinh của Citadel.” Nhà giả kim gật đầu rồi nói. “Nếu cậu cần cân nhắc thêm, ta sẽ quay lại đây sau ba ngày cùng với đồng vàng.”

Ba ngày trôi qua. Pate quay lại Quill và Tankard mà vẫn chưa rõ mình muốn gì. Nhưng nhà giả kim không ở đó, chỉ có Mollander, Armen và Alleras Nhân Sư với Roone đi theo. Nếu cậu không nhập

bọn với họ, chắc chắn họ sẽ nghi ngờ.

Quán rượu Quill và Tankard không bao giờ đóng cửa. Đã sáu trăm năm nay, nó vẫn đứng đó trên cù lao giữa dòng Honeywine và chưa bao giờ đóng cửa lấy một lần. Mặc dù tòa nhà gỗ cao này

nghiêng về phía nam hệt như điệu bộ nghiêng ngả của đám giáo sinh say rượu, nhưng Pate nghĩ nó sẽ

còn đứng vững sáu trăm năm nữa để bán rượu bia và thứ rượu táo nặng khủng khiếp cho các thủy thủ

và dân chài, thợ rèn và ca sĩ, thầy tu và hoàng thân quốc thích, các giáo sinh và thầy dòng của Citadel.

“Oldtown không phải là cả thế giới,” Mollander nói to. Cậu ta là con trai một hiệp sĩ và suốt ngày say bí tỉ. Từ khi người ta báo tin cha cậu đã chết trong trận Xoáy Nước Đen, gần như đêm nào cậu ta cũng say xỉn. Ngay cả ở Oldtown, cách xa nơi chiến trận và an toàn sau lớp tường thành, Cuộc chiến Ngũ Vương vẫn tác động đến tất cả bọn họ… mặc dù Archmaester Benedict quả quyết rằng chẳng có cuộc chiến nào hết giữa năm vị vua, vì Renly Baratheon đã bị giết chết trước khi Balon Greyjoy tự

đội mũ miện lên đầu.

“Cha tôi luôn nói rằng thế giới lớn hơn tòa lâu đài của bất kỳ lãnh chúa nào,” Mollander tiếp tục nói. “Chắc chắn những con rồng là thứ khó tìm thấy nhất ở Qarth, Asshai và Yi Ti. Những câu chuyện

của thủy thủ…”

“…là những câu chuyện được các thủy thủ kể lại,” Armen ngắt lời. “Thủy thủ, Mollander yêu quý

ạ. Quay lại bến tàu mà xem, tôi dám cá các thủy thủ sẽ kể cho cậu nghe về những nàng tiên cá đã ngủ với họ, hay về chuyện họ đã sống trong bụng một con cá cả năm trời.”

“Làm sao cậu biết họ không trải qua những chuyện đó?” Mollander lúi húi tìm thêm táo dưới bãi cỏ. “Cậu đâu có tự mình trải nghiệm mà dám khẳng định như vậy? Một thủy thủ với một câu chuyện, ừ,

người ta có thể cười nhạo chuyện đó, nhưng khi tất cả các tay chèo trên bốn con thuyền khác nhau kể cùng một câu chuyện bằng bốn ngôn ngữ khác nhau thì…”

“Câu chuyện sẽ không còn giống nhau nữa,” Armen khẳng định. “Những con rồng ở Asshai, rồng ở Qarth, rồng ở Meereen, rồng của người Dothraki, rồng giải phóng nô lệ… người này sẽ kể khác người

kia.”

“Chỉ khác chi tiết thôi.” Rượu vào khiến Mollander trở nên ương ngạnh hơn, nhưng ngay cả khi tỉnh táo cậu ta cũng vẫn là một kẻ bướng bỉnh. “Mọi người đều nói về những con rồng, và một nữ

hoàng trẻ xinh đẹp.”

Con rồng duy nhất Pate quan tâm là rồng vàng. Cậu tự hỏi không biết điều gì đã xảy ra với nhà giả kim đó. Đã là ngày thứ ba rồi và ông ta hứa sẽ tới đây.

“Có một quả táo nữa gần chân cậu đấy,” Alleras gọi Mollander, “và tôi vẫn còn hai mũi tên trong bao.”

“Quỷ tha ma bắt cái bao của cậu.” Mollander nhặt quả táo rụng lên. “Quả này sâu rồi,” cậu ta phàn nàn nhưng vẫn ném quả táo đi. Mũi tên đuổi kịp quả táo khi nó bắt đầu rơi xuống và cắt ngọt nó làm đôi. Một nửa quả rơi xuống mái một tòa tháp, lăn xuống cái mái thấp hơn, nảy lên rồi rơi xuống đất

cách Armen chỉ ba mươi phân.

“Nếu cậu cắt đôi con sâu, cậu sẽ được hai con.” Thầy dòng nói với bọn họ.

“Giá mà táo cũng nhân đôi như thế thì chẳng ai còn đói nữa.” Alleras Nhân Sư mỉm cười. Cậu ta luôn mỉm cười, như thể biết rõ một trò đùa bí mật nào đó. Nó đem lại cho cậu ta một vẻ ngoài tinh quái, rất phù hợp với chiếc cằm nhọn, đường viền chân tóc nhọn ngay giữa trán và mái tóc quăn đen

nhánh rậm rạp cắt sát da đầu.

Alleras rồi sẽ trở thành một học sĩ. Cậu ta mới chỉ ở Citadel một năm mà đã rèn được ba mắt xích trong chuỗi xích của học sĩ. Armen rèn được nhiều hơn, nhưng mỗi mắt xích cậu ta phải mất cả năm mới giành được. Nhưng cậu ấy rồi cũng sẽ trở thành một học sĩ thôi. Roone và Mollander vẫn còn là những giáo sinh cổ hồng, nhưng Roone còn rất trẻ, trong khi Mollander thích uống rượu hơn là đọc

sách.

Còn Pate…

Pate đã ở Citadel năm năm, cậu đến đây từ khi mới 13 nhưng đến giờ vẫn chỉ là một giáo sinh cổ hồng như cái ngày đầu tiên mới tới từ vùng đất phía Tây. Đã hai lần cậu tưởng mình đã sẵn sàng. Lần đầu cậu tới trước Archmaester Vaellyn để chứng tỏ kiến thức về các vị thần của mình. Nhưng thay vào đó, cậu hiểu được vì sao thầy Vaellyn Dấm Chua lại có biệt hiệu này. Phải mất hai năm sau Pate mới

đủ can đảm để thử lại lần nữa. Lần này, cậu chọn Archmaester Ebrose già phúc hậu, nổi tiếng vì có giọng nói êm dịu và đôi tay nhẹ nhàng, nhưng những tiếng thở dài của thầy Ebrose cũng khiến cậu đau khổ chẳng kém gì những lời chỉ trích sâu cay của thầy Vaellyn.

“Một quả nữa thôi,” Alleras hứa hẹn, “rồi tôi sẽ nói cho cậu biết tôi nghi ngờ điều gì về những con rồng.”

“Có gì cậu biết mà tôi không biết nhỉ?” Mollander lầm bầm. Cậu ta nhìn thấy một quả táo trên cành, nhảy lên hái nó xuống và ném đi. Alleras kéo căng dây cung đến mang tai, duyên dáng xoay lại

để dõi theo mục tiêu di động. Cậu ta buông cung ngay lúc quả táo bắt đầu rơi.

“Cậu luôn bắn trượt phát cuối cùng,” Roone nhận xét.

Quả táo không bị bắn trúng rơi tõm xuống sông làm nước bắn lên tung tóe.

“Đấy,” Roone nói.

“Cái ngày cậu làm được tất cả là ngày cậu ngừng tiến bộ.” Alleras buông chùng dây cung và cất nó vào bao da. Cánh cung được tạc từ gỗ vàng vô cùng quý hiếm ở Quần đảo Summer. Pate đã thử uốn cong nó mà không được. Chàng Nhân Sư trông mảnh khảnh nhưng sức mạnh lại ẩn chứa trong đôi tay

gầy guộc ấy, Pate ngẫm nghĩ trong khi Alleras bước một chân qua chiếc ghế dài và với lấy ly rượu vang. “Con rồng có ba đầu,” cậu ta lè nhè tuyên bố bằng chất giọng xứ Dorne mềm mại.

“Đây là một câu đố phải không?” Roone hỏi. “Trong truyền thuyết, nhân sư luôn thích đố mẹo.”

“Không phải câu đố.” Alleras nhấp một ngụm rượu vang. Những người còn lại đều đang nốc từng vại rượu táo nặng nổi danh của Quill và Tankard nhưng Alleras thích loại rượu vang có vị lạ ngọt

ngào của quê mẹ hơn. Ngay cả ở Oldtown, giá của nó cũng không hề rẻ.

Chính Leo Lười đã gán cho cậu ta biệt danh “Nhân Sư”. Nhân sư là một con vật tổng hợp: khuôn mặt người, thân hình sư tử và đôi cánh chim ưng. Alleras cũng vậy: cha cậu ta là người Dorne, mẹ cậu ta là một cư dân da đen của Quần đảo Summer, vì vậy, nước da của cậu sẫm xịt như màu gỗ tếch. Và giống như những con nhân sư bằng cẩm thạch xanh nằm hai bên cổng chính của Citadel, cậu ta có đôi

mắt màu mã não đen.

“Không con rồng nào ba đầu cả, trừ trên khiên và trên cờ hiệu,” Armen phản bác một cách kiên quyết. “Đó là một vật có tính biểu tượng, vậy thôi. Hơn nữa, người Nhà Targaryens đã chết cả rồi.”

“Không phải tất cả,” Alleras trả lời. “Vua Ăn Mày còn một cô em gái.”

“Tôi tưởng cô ta bị đập đầu vào tường chết rồi.” Roone tham gia.

“Không,” Alleras nói. “Đó là Aegon, con trai hoàng tử Rhaegar; những binh lính gan dạ của Sư Tử Nhà Lannister đã đập đầu ông ta vào tường. Chúng ta đang nói về em gái Rhaegar cơ, cô ta sinh ra ở

Dragonstone trước khi nó thất thủ và được gọi là Daenerys ấy.”

“Bão Tố, tôi đã nhớ ra cô ta rồi.” Mollander nâng cao chiếc cốc và lắc óc ách chỗ rượu táo còn lại. “Chúc mừng cô nàng!” Nói rồi cậu ta nốc cạn chỗ rượu, đặt mạnh cái cốc rỗng xuống bàn, ợ to và dùng mu bàn tay chùi miệng. “Rosey đâu rồi? Nữ hoàng hợp pháp của chúng ta đáng được chúc mừng

bằng một chầu rượu nữa, phải không nào?”

Armen Thầy Dòng trông có vẻ hoảng hốt. “Hạ giọng xuống, đồ ngốc. Đừng đùa những điều như thế. Cậu không bao giờ biết được ai sẽ nghe thấy đâu. Nhện có tai mắt ở khắp mọi nơi đấy.”

“Armen, đừng có sợ vãi tè thế. Tôi đề nghị nâng cốc chúc mừng chứ đâu phải nổi loạn.”

Pate nghe thấy một tiếng cười khẽ. Một giọng nói dịu dàng tinh quái vang lên sau lưng cậu. “Tao luôn biết mày là một thằng phản bội mà, Hopfrog.” Leo Lười đang lừ đừ đi vào từ dưới chân cây cầu lát ván cũ, trên người mặc bộ đồ sa tanh sọc vàng và xanh lục, chiếc áo choàng nửa người được đính vào vai bằng một bông hồng ngọc bích. Căn cứ vào màu sắc thì thứ rượu hắn đánh đổ lên vạt áo trước

là rượu vang đỏ. Một món tóc màu vàng tro xõa xuống một bên mắt.

Mollander nổi giận trước bộ dạng của hắn. “Chó chết. Cút đi. Mày không được chào đón ở đây.”

Alleras đặt tay lên cánh tay Mollander để giúp cậu ta bình tĩnh lại, còn Armen cau mày. “Thưa ngài Leo, theo những gì tôi biết thì cậu vẫn đang bị cấm túc ở Citadel trong vòng…”

“…ba ngày nữa.” Leo nhún vai. “Perestan nói rằng thế giới này đã 40 ngàn năm tuổi, Mollos thì nói 500 ngàn năm. Tao hỏi mày ba ngày đã là cái gì?” Mặc dù còn cả tá bàn để trống nhưng Leo vẫn ngồi vào bàn của họ. “Hopfrog, mua cho tao một ly Arbor vàng đi nào, và có thể tao sẽ không báo cho cha tao biết hành động nâng cốc chúc mừng của mày. Ở Checkered Hazard mấy quân bài đều quay ra

chống đối, và tao đã tiêu hết tiền ăn tối vào đó rồi. Lợn sữa với nước sốt mận nhồi hạt dẻ và nấm truýp trắng. Một người đàn ông cần phải ăn chứ. Chúng mày vừa ăn món gì thế?”

“Thịt cừu,” Mollander lẩm bẩm, giọng cậu ta không biểu lộ chút hào hứng nào. “Bọn tao chia nhau một cái đùi cừu luộc.”

“No nê lắm nhỉ.” Leo quay sang nhìn Alleras. “Nhân Sư này, con trai một lãnh chúa hẳn phải là người hào phóng. Tao biết mày vừa giành được một mắt xích đồng. Tao sẽ uống mừng cho điều đó.”

Alleras cười lại với hắn. “Tao chỉ mời rượu bạn bè thôi. Và tao đã nói rồi, tao không phải con trai lãnh chúa, mẹ tao là thương nhân.”

Đôi mắt nâu của Leo sáng lên vì rượu và sự hiểm độc. “Mẹ mày là một con khỉ ở Summer. Bọn người Dorne sẵn sàng làm tình với bất cứ cái gì có lỗ giữa hai chân. Tao không có ý xúc phạm đâu

nhé. Mày đen như than nhưng ít nhất mày còn tắm, không như thằng chăn lợn bẩn thỉu kia.” Hắn vẫy tay chỉ về phía Pate.

Nếu mình ném cái cốc này vào mồm nó, mình có thể làm nó gẫy một nửa hàm răng, Pate nghĩ thầm. Chàng chăn lợn Pate Bẩn Thỉu là nhân vật chính của hàng ngàn câu chuyện tiếu lâm: một thằng bé tốt bụng, vụng về và ngốc nghếch nhưng lúc nào cũng đánh bại đám tiểu quý tộc phì nộn, những gã hiệp sĩ ngạo mạn và những tên tu sĩ khoa trương ngáng đường mình. Bằng cách này hay cách khác, sự đần độn của chàng hóa ra lại là sự ranh mãnh chưa từng thấy; các câu chuyện luôn kết thúc bằng việc Pate Bẩn

Thỉu ngồi ở địa vị lãnh chúa hoặc lên giường với con gái một hiệp sĩ nào đó. Nhưng đó chỉ là những câu chuyện mà thôi. Trong thế giới thực này, những chàng chăn lợn chẳng bao giờ được may mắn như vậy. Đôi khi, Pate nghĩ mẹ cậu chắc hẳn ghét cậu lắm nên mới đặt cho cậu cái tên đó.

Alleras không còn cười nữa. “Mày phải xin lỗi.”

“Tao á?” Leo trả lời. “Làm sao tao xin lỗi được, cổ họng tao khô lắm…”

“Mày làm ô danh dòng họ của mày bằng những lời mày nói,” Alleras nói với hắn. “Mày làm ô danh cả Citadel vì là một trong số chúng tao.”

“Tao biết. Vậy hãy mua rượu vang cho tao đi, để tao dìm chết nỗi hổ thẹn này.”

“Tao rút lưỡi mày bây giờ.” Mollander nạt.

“Thật sao? Thế thì làm sao tao kể cho mày nghe về những con rồng được?” Leo nhún vai lần nữa. “Con lai cũng có quyền chứ. Con gái Vua Điên còn sống đấy, cô ta ấp nở được ba con rồng.”

“Ba cơ à?” Roone ngạc nhiên.

Leo vỗ nhẹ lên tay Roone. “Nhiều hơn hai và ít hơn bốn. Nếu tao là mày, tao sẽ không cố gắng giành mắt xích vàng lúc này.”

“Để cho nó yên.” Mollander cảnh cáo.

“Nghĩa hiệp quá nhỉ. Được thôi. Mọi người trên mọi con thuyền trong vòng 300 dặm quanh Qarth đều nói về những con rồng đó. Vài người thậm chí còn nói rằng đã nhìn thấy chúng. Marwyn Phù Thủy

có vẻ tin họ.”

Armen bĩu môi phản đối. “Ông ta không đáng tin. Archmaester Perestan sẽ là người đầu tiên nói với mày điều đó.”

“Archmaester Ryam cũng nói như thế.” Roone chêm vào.

Leo ngáp dài. “Biển thì ẩm ướt, mặt trời ấm áp, còn bầy thú thì ghét chó săn.”

Hắn đặt biệt hiệu để nhạo báng không trừ một ai, Pate nghĩ, nhưng quả thật Archmaester Marwyn trông giống một con chó mastiff hơn là một học sĩ. Lúc nào trông ông ta cũng như thể muốn cắn người

vậy. Phù Thủy không giống như các học sĩ khác.

Người ta nói rằng ông ấy quan hệ với gái điếm và bọn phù thủy lang thang, nói chuyện với bọn người Ibben rậm lông và người Quần đảo Summer đen như hắc ín bằng ngôn ngữ của họ, thờ phụng những vị thần đáng ngờ trong cái am nhỏ của thủy thủ gần cầu tàu. Nhiều người còn nói rằng họ nhìn thấy ông ở những khu vực cặn bã trong thành phố, trong những khu ổ chuột và nhà thổ nhớp nhúa, kết giao cả với kịch sĩ, ca sĩ, lính đánh thuê và thậm chí cả với ăn mày. Thậm chí, người ta còn truyền tai nhau rằng ông từng giết người bằng nắm đấm của mình.

Khi Marwyn quay lại Oldtown sau tám năm lang bạt ở phương đông để khám phá những vùng đất xa xôi, tìm kiếm những quyển sách bị thất lạc, theo học các thầy phù thủy và các pháp sư, thầy Vaellyn

Dấm Chua đặt biệt hiệu cho ông ta là “Marwyn Phù Thủy.” Cái tên này nhanh chóng lan truyền khắp Oldtown, tới mức gây cho thầy Vaellyn không ít phiền toái. “Hãy để những câu thần chú, những lời cầu nguyện cho các thầy tu và các sơ, tập trung trí óc cậu vào việc học những sự thật mà con người có thể tin được đi.” Archmaester Ryam đã từng có lần khuyên Pate như vậy, nhưng nhẫn, quyền trượng và mặt nạ của ông làm bằng vàng, chuỗi xích học sĩ của ông không có mắt xích nào làm bằng thép Valyria cả.

Armen nhìn Leo, hừ mũi khinh thường. Cậu ta có cái mũi rất thích hợp để làm việc ấy, nó dài, mảnh khảnh và nhọn. “Archmaester Marwyn tin vào nhiều điều kỳ dị nhưng những bằng chứng về rồng

của ông ấy không hơn gì Mollander, chỉ là những câu chuyện của thủy thủ thôi.”

“Mày sai rồi.” Leo đáp. “Có một cái nến thủy tinh trong phòng ông ấy.”

Cả dãy nhà ngập tràn ánh đuốc rơi vào im lặng. Armen thở dài và lắc đầu. Mollander bắt đầu cười. Nhân Sư chăm chú nghiên cứu Leo bằng đôi mắt đen mở to. Còn Roone trông ngơ ngác.

Pate biết những cây nến thủy tinh này, mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy một cây nào sáng. Đó là bí mật được giữ gìn kém nhất Citadel. Người ta nói rằng, chúng được đưa từ Valyria về Oldtown trước Ngày Tàn một ngàn năm, nghe nói có bốn chiếc: một chiếc màu xanh lục, ba chiếc còn lại màu đen, tất

cả đều cao và xoắn.

“Nến thủy tinh là cái gì?” Roone hỏi.

Armen Thầy Dòng hắng giọng. “Đêm trước khi một thầy dòng tuyên thệ, anh ta phải thức một đêm trong hầm mộ, không được mang đèn đuốc hay nến gì cả mà chỉ được phát một cây nến làm bằng đá vỏ

chai. Suốt đêm hôm đó, anh ta phải sống trong bóng tối trừ khi thắp sáng được cây nến đó. Một số

người cũng đã thử – những kẻ ngu xuẩn và ương bướng, chuyên nghiên cứu những điều thần bí cao siêu. Họ thường bị đứt tay vì người ta nói rằng chóp cây nến sắc như dao cạo. Và rồi họ vẫn phải thức cả đêm trong bóng tối, với cái tay chảy máu và ủ ê suy nghĩ về thất bại của mình. Người thông minh hơn thì đi ngủ hoặc cầu nguyện, nhưng năm nào cũng có vài người muốn thử.

“Đúng đấy,” Pate đã nghe câu chuyện này rồi. “Nhưng một cây nến không phát sáng được thì dùng làm gì?”

“Đó là một bài học,” Armen trả lời, “bài cuối cùng phải học trước khi nhận được chuỗi xích của học sĩ. Cây nến thủy tinh đại diện cho chân lý, kiến thức, những gì hiếm có, đẹp đẽ và mong manh. Nó được làm thành hình cây nến để nhắc nhở chúng ta rằng một học sĩ phải thắp lên ánh sáng ở bất cứ nơi nào mình phụng sự, nó sắc để nhắc chúng ta nhớ kiến thức cũng có thể trở nên nguy hiểm. Một người thông thái sẽ dần dần trở nên ngạo mạn vì sự thông thái của mình, nhưng một học sĩ luôn phải khiêm nhường. Cây nến thủy tinh nhắc chúng ta điều đó. Kể cả khi đã tuyên thệ, nhận được chuỗi xích và bắt đầu phục vụ, một học sĩ sẽ luôn nhớ lại cái đêm thức trong bóng tối và không thể làm gì để thắp sáng

cây nến. Vì ngay cả khi có kiến thức uyên bác cũng có những điều bất khả thi.”

Leo Lười phá lên cười. “Bất khả thi đối với mày thôi. Chính mắt tao đã nhìn thấy cây nến đó cháy.”

“Mày nhìn thấy một cây nến cháy, tao không nghi ngờ gì hết,” Armen trả lời. “Một cây nến bằng sáp đen, có lẽ vậy.”

“Tao biết tao nhìn thấy cái gì chứ. Ánh sáng của nó rất kỳ quái, sáng chói, sáng hơn nến sáp ong và nến mỡ rất nhiều. Bóng của nó rất lạ, ngọn lửa không rung rinh kể cả khi có luồng gió tạt qua cánh cửa

mở sau lưng tao.”

Armen khoanh tay lại. “Đá vỏ chai không cháy được.”

“Đá rồng,” Pate tham gia. “Dân chúng gọi đó là đá rồng.” Không hiểu sao điều đó có vẻ quan trọng.

“Họ gọi thế,” Alleras Nhân Sư trầm ngâm. “Và nếu lại có rồng trên đời này thì…”

“Rồng và những điều đen tối hơn,” Leo cắt ngang. “Những con cừu ngu ngốc nhắm nghiền mắt lại, chỉ có con chó mastiff là nhìn thấy sự thật. Những thế lực cổ xưa trỗi dậy rồi. Bóng tối đã bị khuấy động. Một thời đại kỳ diệu và khủng khiếp sắp đến, thời đại của thần thánh và anh hùng.” Leo vươn

vai và mỉm cười lười nhác. “Đáng giá một chầu rượu chứ, phải không?”

“Bọn tao uống đủ rồi.” Armen đáp lời. “Buổi sáng sẽ đến nhanh hơn chúng ta tưởng đấy, sáng mai Archmaester Ebrose có bài giảng về đặc tính của nước tiểu. Ai muốn có một mắt xích bằng bạc thì

không nên bỏ lỡ bài giảng của ông ấy.”

“Tao không ngăn mày nếm nước tiểu đâu,” Leo châm chọc. “Còn tao, tao thích vị rượu Arbor hơn.”

“Nếu phải lựa chọn giữa nước tiểu và mày, tao thà uống nước tiểu còn hơn.” Nói rồi Mollander rời khỏi bàn. “Đi nào, Roone.”

Nhân Sư với lấy túi đựng cung. “Tao về ngủ đây. Hy vọng sẽ mơ thấy rồng và nến thủy tinh.”

“Chúng mày đi hết à?” Leo nhún vai. “Không sao, vẫn còn Rosey. Chắc tao sẽ đánh thức viên kẹo ngọt ngào này dậy và làm cho cô nàng trở thành đàn bà.”

Alleras liếc nhìn biểu hiện trên mặt Pate. “Nếu nó không có tiền để mua một ly rượu vang thì nó cũng chẳng có nổi một đồng vàng cho cô nàng đâu.”

“Đúng,” Mollander nói thêm. “Thêm nữa, cậu cần phải là đàn ông đã trước khi làm ai đó trở thành đàn bà. Đi với bọn tôi nào, Pate. Thầy Walgrave già sẽ thức dậy khi mặt trời mọc. Ông ấy sẽ cần cậu

giúp việc vệ sinh cá nhân đấy.”

Nếu ông ấy nhớ được hôm nay mình là ai. Archmaester Walgrave không gặp khó khăn nào khi phân biệt con quạ này với con quạ khác, nhưng đối với người thì không được như thế. Đôi khi, dường như ông nhầm Pate với một người nào đó tên là Cressen. “Chưa phải bây giờ, tôi định ngồi đây thêm một lúc nữa.” Pate nói với các bạn mình. Bình minh vẫn còn chưa hé rạng. Nhà giả kim đó vẫn có thể đến,

và nếu vậy Pate phải ở đây.

“Tùy cậu thôi,” Armen trả lời. Alleras chần chừ nhìn Pate một thoáng rồi đeo cung lên một bên vai mảnh dẻ và theo các bạn rời khỏi quán, đi về phía cây cầu. Mollander đã quá chén nên phải vịn một tay vào vai Roone để khỏi ngã. Citadel cách đó không xa nếu tính theo đường chim bay. Nhưng họ không phải là chim, trong khi Oldtown lại là một mê cung thực sự với những con đường nhỏ, ngõ hẻm đan nhau chằng chịt và những phố nhỏ ngoắt nghéo. “Cẩn thận nhé,” Pate nghe thấy Armen nói vọng lại

khi cả bốn chìm vào màn sương mù dày đặc trên sông, “đêm nay ẩm ướt nên đường trơn lắm đấy.”

Khi tất cả đã đi, Leo Lười nhìn Pate chăm chăm qua cái bàn với vẻ cáu kỉnh. “Chán quá. Thằng

Nhân Sư đem tất cả bạc chuồn đi rồi, bỏ ta lại với thằng chăn lợn Pate Bẩn Thỉu này.” Hắn vươn vai, ngáp dài. “Rosey nhỏ bé ngọt ngào của chúng ta thế nào rồi, đang cầu nguyện à?”

“Ngủ,” Pate đáp cộc lốc.

“Trần truồng, chắc chắn rồi.” Leo cười nhăn nhở. “Mày có nghĩ cô nàng thực sự đáng giá một đồng vàng không? Một ngày nào đó, tao nghĩ tao phải tìm ra câu trả lời.”

Pate biết tốt nhất là nên im lặng.

Leo cũng không cần câu trả lời của cậu. “Tao hy vọng một khi tao khám phá cô nàng xong, giá của cô ta sẽ giảm xuống đến mức những thằng chăn lợn cũng có thể chịu được. Lúc đó mày sẽ phải cảm ơn

tao.”

Tao phải giết mày thì có, Pate nghĩ, nhưng cậu chưa đủ say để quẳng mạng sống của mình đi. Leo được huấn luyện sử dụng vũ khí thành thạo, và nổi tiếng nguy hiểm chết người với kỹ năng dùng gươm và dao găm của một kẻ đâm thuê chém mướn. Và nếu vì một lý do nào đó Pate giết được hắn đi chăng

nữa, cậu cũng sẽ phải trả giá bằng chính cái đầu của mình. Leo có hai tên trong khi Pate chỉ có một. Tên thứ hai của hắn là Tyrell – Ser Moryn Tyrell, tướng chỉ huy Đội Gác Thành của Oldtown, cha của Leo. Mace Tyrell, Lãnh chúa vùng Highgarden, người bảo hộ phương nam là anh họ hắn. Còn Trưởng Lão của Oldtown – Lãnh chúa Leyton của Hightower, hiện đang là người cai quản Citadel và giữ nhiều tước hiệu khác nữa, cũng là chư hầu của Nhà Tyrell. Bỏ qua đi, Pate tự nhủ. Hắn nói những điều ấy cũng chỉ để làm tổn thương mình.

Sương mù phía đông loãng dần. Pate nhận ra bình minh đang tới. Bình minh tới chứ không phải nhà giả kim. Pate chẳng biết cậu nên cười hay nên khóc. Mình có còn là kẻ trộm không nếu mình trả lại nó và không ai biết? Lại một câu hỏi nữa mà cậu không trả lời được, như những câu mà thầy Ebrose và

thầy Vaellyn đã hỏi.

Khi cậu rời khỏi ghế và đứng lên, rượu nặng bốc lên đầu ngay lập tức, Pate phải chống tay lên bàn để đứng vững. “Hãy để Rosey được yên,” cậu chốt lại trước khi bỏ đi, “để nàng yên, nếu không tao sẽ

giết mày.”

Leo gạt mớ tóc đang xõa xuống mắt. “Tao không đánh nhau tay đôi với bọn chăn lợn. Cút đi.”

Pate quay đi và băng qua dãy nhà, bước chân cậu lộp cộp trên những tấm ván đã mòn vì mưa gió của cây cầu cổ. Đúng lúc cậu sang đến bờ bên kia, bầu trời phía đông đã nhuốm ánh hồng. Thế giới thật rộng lớn, Pate tự nhủ. Nếu mình mua con lừa đó, mình vẫn có thể thả bộ trên những con đường của

Bảy Phụ Quốc, cho đỉa chích máu và bắt chấy cho đám dân đen. Mình có thể làm thủy thủ trên một con thuyền nào đó, chèo thuyền cho họ để đến Qarth qua Cổng Ngọc Bích để được xem tận mắt những con rồng chết tiệt. Mình sẽ không cần phải quay lại với ông già Walgrave và đám quạ nữa.

Thế nhưng chẳng hiểu vì sao, bước chân cậu vẫn quay về Citadel.

Khi tia nắng đầu tiên xé toạc màn mây phía đông cũng là lúc chuông sớm bắt đầu ngân vang, tiếng chuông bay từ điện thờ của Thủy Thủ ra bến tàu. Một lát sau, điện thờ của Lãnh Chúa bắt đầu hòa nhịp, tiếp đó là Thất Điện từ những khu vườn bên kia dòng Honeywine, và cuối cùng là Điện Ngôi Sao, nơi từng là nơi ở của Tu Sĩ Cấp Cao trong một ngàn năm trước khi Aegon chiếm được Vương Đô. Tất cả tạo thành một bản nhạc hùng tráng, nhưng lại chẳng ngọt ngào bằng khúc hát của một con chim sơn ca.

Pate cũng nghe thấy tiếng hát xen lẫn tiếng chuông vang rền. Mỗi sáng, khi tia nắng đầu tiên ló rạng, các tu sĩ áo đỏ lại tập trung bên ngoài ngôi đền nhỏ khiêm nhường cạnh cầu tàu để chào đón mặt trời vì màn đêm tối tăm và đầy rẫy những điều khủng khiếp. Pate đã nghe thấy họ hát những lời ca đó

cả trăm lần, để cầu xin thần R’hllor cứu rỗi họ khỏi những điều đen tối. Đối với Pate chỉ Thất Diện

Thần là đủ, nhưng cậu nghe nói Stannis Baratheon bây giờ cũng tôn sùng những ngọn lửa đêm. Ông ta

thậm chí còn đưa trái tim bốc lửa của thần Rh’llor lên cờ hiệu thay cho con hươu đội mũ miện trước

kia. Pate nghĩ, nếu ông ta giành được Ngai Sắt, không phải tất cả chúng ta đều phải học bài ca ấy hay

sao, nhưng có vẻ điều đó sẽ không thể xảy ra. Tywin Lannister đã đánh bại Stannis và thần R’hllor của

ông ta ở Xoáy Nước Đen, không lâu nữa sẽ kết liễu họ và bêu đầu kẻ tiếm quyền Baratheon trên cổng

thành Vương Đô.

Sương mù ban đêm đã tan hẳn, Oldtown hiện dần ra như bóng ma trong ánh sáng ảm đạm trước lúc rạng đông. Pate chưa bao giờ nhìn thấy Vương Đô, nhưng cậu biết đó là một thành phố của những ngôi

nhà vách phên trát đất, đường phố lầy lội bùn đất, những mái nhà lợp rạ và những túp lều bằng gỗ. Oldtown được xây dựng bằng đá, đường phố rải sỏi tới tận những ngõ hẻm tồi tàn nhất. Chưa lúc nào thành phố đẹp bằng lúc rạng đông. Về phía tây sông Honeywine, tòa trụ sở chính đứng sừng sững trên bờ sông trông như một dãy cung điện.

Phía thượng lưu, các mái vòm và tháp của Citadel nổi bật hai bên bờ sông được nối với nhau bằng những chiếc cầu đá, nhà cửa san sát. Phía hạ lưu, dưới những bức tường cẩm thạch đen và những cửa sổ hình vòm của Điện Ngôi Sao là những ngôi nhà của các mục sư mọc xúm xít như đàn trẻ nhỏ tụ tập

quanh chân mẹ.

Xa xa, nơi sông Honeywine đổ vào vịnh Whispering Sound, tòa tháp Hightower đứng sừng sững, ngọn lửa đèn hiệu trên nóc tháp sáng rực trên nền trời rạng đông. Đứng trên điểm cao nhất của đảo

Battle, bóng tháp cắt qua thành phố như một lưỡi gươm. Những người sinh ra và lớn lên ở Oldtown có thể nhìn bóng tháp mà đoán được thời gian trong ngày. Người ta nói rằng, một người thậm chí có thể nhìn thấy Tường Thành từ trên đỉnh tháp. Có lẽ vì thế mà suốt hơn một thập kỷ nay Lãnh chúa Leyton

không rời khỏi tòa tháp, ông thích cai trị thành phố từ trên mây.

Một chiếc xe của người bán thịt lọc cọc vượt qua Pate trên con đường dọc bờ sông, năm chú lợn con đằng sau xe sợ hãi kêu eng éc. Pate tránh đường cho chiếc xe, và cũng tránh không bị lấm bẩn khi một phụ nữ đổ cả xô phân và nước tiểu xuống từ một cửa sổ trên đầu. Khi trở thành học sĩ và ở trong lâu đài, mình sẽ có ngựa để cưỡi, Pate thầm nghĩ. Bỗng cậu vấp phải một hòn sỏi và tự hỏi mình đang đánh lừa ai thế này. Cậu sẽ không có chuỗi xích nào hết, không được ngồi ở vị trí trang trọng trong lâu đài của lãnh chúa, cũng không được cưỡi con bạch mã nào. Ngày này qua ngày khác cậu sẽ chỉ được

nghe tiếng quạ quang quác ầm ĩ và giặt vết phân bám trên quần lót của Archmaester Walgrave.

Khi cậu đang quỳ một gối, cố gắng lau đi vết bùn trên áo thì một tiếng nói bỗng cất lên, “Chào cậu, Pate.”

Nhà giả kim đang đứng ngay trước mặt cậu.

Pate vội vàng đứng lên. “Ông nói là ông sẽ chờ ở quán Quill và Tankard ngày thứ ba…”

“Cậu ở đó với các bạn cậu và ta không muốn xông bừa vào.” Ông ta mặc một áo choàng lữ hành màu nâu có mũ trùm đầu, trông không có gì đặc biệt. Mặt trời chênh chếch trên mái nhà sau lưng ông

ta, nên cậu không nhìn rõ khuôn mặt của nhà giả kim dưới chiếc mũ trùm.

“Cậu đã quyết định chưa?”

Ông ta bắt mình phải nói ra điều đó hay sao? “Tôi nghĩ tôi là một thằng ăn trộm.”

“Ta cũng nghĩ cậu sẽ làm vậy.”

Việc khó nhất là quỳ xuống lôi cái hộp ra từ dưới giường của Archmaester Walgrave. Mặc dù cái hộp rất chắc chắn và có nẹp sắt bao quanh nhưng ổ khóa của nó đã vỡ. Maester Gormon nghi ngờ

Pate, nhưng thực ra người phá khóa chính là Archmaester Walgrave sau khi ông đánh mất chìa.

Trong hộp, Pate tìm thấy một chiếc túi đựng những đồng hươu bạc, một lọn tóc vàng được buộc bằng ruy-băng, một bức tiểu họa sơn dầu vẽ một phụ nữ rất giống thầy Walgrave (thậm chí cũng có ria

mép), và một chiếc găng tay thép của hiệp sĩ. Chiếc găng này từng thuộc về một hoàng tử, thầy Walgrave từng nói như vậy, mặc dù ông không còn nhớ vị hoàng tử đó là ai. Khi Pate lắc nó, chiếc chìa khóa rơi xuống sàn.

Nếu mình lấy chiếc chìa khóa này, mình sẽ thành kẻ trộm, Pate nhớ lại suy nghĩ của cậu lúc đó. Chiếc chìa khóa cũ, nặng và được làm bằng sắt đen; nghe nói nó có thể mở mọi cánh cửa ở Citadel, và

chỉ các archmaester mới có. Những archmaester khác đều mang chiếc khóa theo người hoặc giấu ở một nơi an toàn nào đó, nhưng nếu thầy Walgrave đem giấu nó thì chắc không ai có thể tìm được. Pate nắm lấy chiếc chìa khóa và đi ra cửa, được nửa đường, cậu quay lại và lấy nốt những đồng bạc. Đã là kẻ trộm thì dù lấy ít hay nhiều cũng vẫn là kẻ trộm. “Pate,” một con quạ trắng gọi với theo cậu, “Pate, Pate, Pate.”

“Ông có mang theo đồng vàng cho tôi không?” Pate hỏi nhà giả kim.

“Nếu cậu có thứ mà ta yêu cầu.”

“Ông đưa nó ra đây, tôi muốn nhìn thấy nó.” Pate không muốn mình bị lừa.

“Chỗ này không thích hợp. Đi theo ta.”

Pate không có thời gian để cân nhắc. Nhà giả kim đã bước đi. Cậu phải theo ông ta, nếu không sẽ mất cả Rosey lẫn đồng vàng mãi mãi. Và thế là cậu đi theo, vừa đi vừa luồn tay vào tay áo, cảm nhận

được chiếc chìa khóa đang ở đó, an toàn trong một chiếc túi bí mật đã được khâu vào tay áo. Áo choàng của các học sĩ đầy những túi, Pate đã biết điều đó từ khi cậu còn là một đứa trẻ.

Pate phải bước vội cho kịp với những bước sải dài của nhà giả kim. Họ đi xuống một con hẻm, vòng qua một góc phố, đi qua Chợ Ăn Cắp cổ kính, dọc theo phố Ragpicker. Cuối cùng, người đàn

ông lạ rẽ vào một ngõ hẻm khác, hẹp hơn cái trước. “Xa thế này được rồi,” Pate nói. “Ở đây không có ai đâu. Chúng ta bắt đầu thôi.”

“Được thôi.”

“Tôi muốn có đồng vàng của tôi.”

“Đương nhiên rồi.” Và đồng vàng xuất hiện. Nó luồn qua các kẽ ngón tay của nhà giả kim giống hệt như đêm hôm Rosey đến với cậu. Trong ánh ban mai, hình con rồng vàng sáng lấp lánh như thể đang cử động và phản chiếu ánh vàng lên ngón tay nhà giả kim. Pate vồ lấy nó. Đồng vàng ấm áp trong lòng bàn tay cậu. Cậu đưa nó vào miệng cắn như cái cách cậu thấy những người khác vẫn làm. Cậu không

biết vàng thật có vị như thế nào, nhưng không muốn để người khác thấy mình ngu ngốc.

“Chìa khóa đâu?” Nhà giả kim lịch thiệp hỏi.

Có một điều gì đó làm Pate lưỡng lự. “Ông muốn lấy mấy quyển sách à?” Nghe nói mấy cuốn sách Valyria cổ viết trên giấy da được khóa kỹ trong hầm là những bản duy nhất còn lại trên thế giới.

“Cái tôi muốn không liên quan gì đến cậu.”

“Đúng thật.” Mọi chuyện đã xong, Pate tự nhủ. Về thôi. Quay về Quill và Tankard, đánh thức Rosey dậy bằng một nụ hôn và nói cho nàng biết nàng đã thuộc về mình. Nhưng Pate vẫn chần chừ.

“Cho tôi xem mặt ông.”

“Được thôi.” Nhà giả kim hất chiếc mũ trùm ra.

Đó là một người đàn ông bình thường, với một khuôn mặt không có gì đặc biệt. Gương mặt của một chàng trai trẻ, gò má đầy đặn, râu ngắn, trên má phải có một vết sẹo mờ, mũi khoằm, mớ tóc đen

dày và xoăn phủ qua tai. Không phải là gương mặt mà Pate quen biết. “Tôi không biết ông.”

“Ta cũng không biết cậu.”

“Ông là ai?”

“Là một người lạ. Chẳng là ai cả. Thật đấy.”

“Ồ.” Pate không biết nói gì nữa. Cậu rút chiếc chìa khóa ra và đặt vào tay người lạ, cảm thấy mình thật nông nổi, gần như là dại dột. Rosey, cậu tự nhắc mình. “Chúng ta xong rồi nhé.”

Đi được nửa đường ra khỏi con hẻm nhỏ, Pate bỗng cảm thấy con đường lát đá di chuyển dưới chân mình. Những phiến đá trơn và ướt, cậu nghĩ, nhưng vấn đề không phải ở đấy. Cậu cảm thấy tim mình đang đập thình thịch trong lồng ngực. “Gì thế này?” Cậu hỏi thành tiếng, chân mềm ra như nước.

“Mình không hiểu.”

“Và sẽ không bao giờ hiểu.” Một giọng nói buồn thảm cất lên sau lưng cậu.

Cậu ngã dập mặt xuống con đường lát đá. Pate cố gắng kêu cứu, nhưng giọng cậu cũng thều thào không ra hơi. Ý nghĩ cuối cùng của cậu là về Rosey.

Chương 2: Người truyền giáo

Người truyền giáo đang làm nghi lễ nhấn nước trên đảo Great Wyk khi có người đến báo tin đức vua đã băng hà.

Đó là một buổi sáng lạnh lẽo và ảm đạm, cả mặt biển và bầu trời đều xám như chì. Ba người đầu tiên đã can đảm dâng mình cho Thần Chết Chìm, nhưng người thứ tư thiếu đức tin và bắt đầu vùng vẫy khi phổi của cậu ta thiếu không khí. Đứng dưới nước biển ngập đến tận thắt lưng, Aeron túm chặt hai vai thằng bé trần như nhộng và ấn đầu nó xuống, trong khi nó cố gắng hớp vội một hơi thở. “Can đảm lên nào,” ông ta động viên thằng nhỏ. “Chúng ta đến từ biển, và sẽ phải quay về với biển. Há miệng ra và uống thật nhiều phước lành của Người. Hãy để cho phổi của con đầy nước, con sẽ chết đi và được tái sinh. Không nên chống lại như thế.”

Hoặc thằng bé không nghe thấy ông nói gì vì đầu đang chìm dưới những con sóng, hoặc đức tin đã hoàn toàn rời bỏ nó. Cậu bé bắt đầu đá lung tung và vùng vẫy điên dại đến mức Aeron phải kêu người trợ giúp. Bốn người theo giáo phái chết chìm vội lội ra, túm lấy thằng bé khốn khổ và dìm nó xuống nước. “Thần Chết Chìm của chúng con,” vị thầy tu cầu nguyện bằng giọng trầm trầm như biển cả, “xin

người hãy nhận Emmond làm kẻ tôi tớ của Người, được tái sinh từ biển như Người. Xin hãy ban phước lành cho cậu bé với muối, đá và thép.”

Cuối cùng mọi việc cũng xong. Không còn bọt khí tuôn ra từ miệng thằng bé, chân tay nó cũng không còn quẫy đạp. Emmond nằm úp mặt xuống biển, trôi dập dềnh trong vùng nước nông, trông tái

nhợt, lạnh lẽo và thanh thản.

Lúc này, Damphair mới nhận ra có ba kỵ sĩ đang đứng cùng nhóm người theo giáo phái chết chìm của ông trên bãi biển đầy sỏi đá. Một trong số đó là Sparr, lão già có khuôn mặt lưỡi cày và đôi mắt lúc nào cũng lèm nhèm nhưng tiếng nói run rẩy của ông ta lại là luật lệ đối với cư dân ở khu vực này của đảo Great Wyk. Đi cùng ông là Steffarion con trai ông và một chàng trai nữa mặc áo choàng lót lông thú màu đỏ sẫm, một chiếc ghim cài đẹp lộng lẫy hình tù và đen và vàng – gia huy của Nhà

Goodbrother – gắn trên vai áo. Đây chắc hẳn là một trong ba con trai của Gorold, Aeron đoán sau khi liếc nhìn qua. Sau mười hai con gái, phu nhân Nhà Goodbrother hạ sinh liền ba cậu con trai cao lớn, nghe nói họ giống nhau đến mức không thể phân biệt được người này với người khác. Aeron không quan tâm chuyện ấy. Cho dù là Greydon, Gormond hay Gran, ông cũng không có thời gian dành cho họ.

Ông làu bàu ra lệnh một cách cục cằn, người của ông túm lấy chân tay thằng bé chết đuối và lôi nó lên bờ, nơi thủy triều không dâng tới được. Aeron đi theo sau trong bộ dạng trần truồng, ngoại trừ

mảnh vải bằng da hải cẩu che chỗ kín. Vẫn còn ướt sũng và sởn da gà vì lạnh, ông bì bõm lội lên bờ, băng qua dải cát ướt lạnh và bãi sỏi cuội được sóng biển chà rửa sạch sẽ. Một người của ông tiến lại, đưa cho ông chiếc áo thụng nặng bằng vải thô nhuộm lốm đốm các màu xanh lục, xanh da trời và xám,

màu của biển cả và Thần Chết Chìm. Aeron khoác áo và kéo mớ tóc dài đen sũng nước sau lưng ra ngoài. Mái tóc đen ướt sũng đó chưa bao giờ được cắt kể từ khi Aeron thoát chết trong vụ đắm tàu năm nào. Mớ tóc xõa quanh vai Aeron như một chiếc áo choàng tả tơi và dài tới thắt lưng. Aeron đeo những sợi rong biển dài lẫn trong tóc và trong cả bộ râu rối bù không cạo.

Người của ông đang vây quanh thằng bé chết đuối và cầu nguyện. Norjen xoa bóp tay còn Rus quỳ trên người nó và ấn lồng ngực, nhưng khi Aeron đến nơi, tất cả đều giãn ra. Ông dùng ngón tay tách

đôi môi lạnh ngắt của thằng bé ra và hà hơi thổi ngạt, liên tục cho đến khi nước biển ộc ra. Thằng nhỏ bắt đầu ho và thở phì phì, rồi hấp háy mở mắt, đôi mắt đầy hoảng sợ.

Thế là thêm một người nữa quay lại, dấu hiệu chứng tỏ ân huệ của Thần Chết Chìm. Các thầy tu khác đều để mất người hết lần này đến lần khác, ngay cả Tarle Ba lần chết đuối – người đã từng được coi là thần thánh đến mức được chọn lên đội vương miện cho nhà vua mới. Nhưng Aeron Greyjoy thì chưa. Ông là Damphair, người đã từng nhìn thấy tòa lâu đài nước của Thần Chết Chìm và tái sinh để kể cho mọi người nghe điều đó. “Sống lại rồi,” ông vỗ lên tấm lưng trần của thằng bé, nó vẫn đang ho sù sụ. “Con đã chết đuối và quay trở lại với chúng ta. Những gì đã chết có thể không bao giờ tàn lụi.”

“Mà sẽ trở lại.” Thằng bé ho dữ dội và tiếp tục phun ra thêm nước. “Tái sinh.” Mỗi từ nói ra được đánh đổi bằng sự đau đớn, nhưng đó là con đường phải đi của cả thế giới này: chiến đấu để sinh tồn.

“Tái sinh.” Emmond loạng choạng đứng lên. “Cứng rắn hơn. Và mạnh mẽ hơn.”

“Giờ đây con đã thuộc về Thần Chết Chìm.” Aeron nói với cậu bé. Những người theo giáo phái chết chìm khác vây quanh, vừa đấm vừa hôn để mừng người anh em mới của họ. Một người giúp cậu mặc chiếc áo choàng bằng vải thô lốm đốm xanh lơ, xanh lục và xám. Người khác chìa cho cậu một chiếc dùi cui bằng gỗ dạt. “Giờ đây con đã thuộc về biển, biển sẽ vũ trang cho con,” Aeron tiếp tục. “Chúng ta cầu cho con sử dụng cây gậy này một cách mạnh mẽ, để giúp vị thần của chúng ta chống lại

mọi kẻ thù.”

Đến lúc này, ông mới quay về phía ba kỵ sĩ đang ngồi trên yên ngựa yên lặng quan sát. “Có phải các ngài đến đây để được nhấn chìm vào lòng biển không, thưa các lãnh chúa?”

Lãnh chúa Sparr húng hắng ho. “Tôi đã được nhấn nước từ khi còn là một đứa bé, con trai tôi cũng vậy trong ngày đặt tên của nó.”

Aeron khịt mũi coi thường. Chuyện Steffarion Sparr được trao cho Thần Chết Chìm ngay sau khi sinh ra không có gì đáng nghi ngờ. Ông hiểu quá rõ nghi thức đó, đứa trẻ mới sinh được nhúng vào một

chậu nước biển, nhanh đến nỗi hiếm khi kịp ướt đầu. Do đó, không có gì lạ khi cư dân của Quần đảo Iron – những con người từng thống trị bất cứ nơi nào có tiếng sóng biển – đã bị chinh phục. “Đấy không phải là nhấn nước thực sự,” ông đáp. “Người không thực sự chết không thể hy vọng tái sinh từ cái chết. Các ngài đến đây làm gì nếu không phải để chứng minh đức tin của mình?”

“Con trai Lãnh chúa Gorold đến tìm ông để báo tin.” Ngài Sparr chỉ vào chàng trai mặc áo choàng đỏ.

Trông cậu không quá 16 tuổi. “Chà, cậu là thứ mấy?”

“Tôi là Gormond. Gormond Goodbrother, nếu điều đó làm ông hài lòng.”

“Chúng ta chỉ cần làm hài lòng Thần Chết Chìm. Cậu đã được nhấn nước chưa, cậu Gormond Goodbother?”

“Rồi, vào ngày lễ đặt tên của tôi, Damphair. Cha tôi cử tôi đến tìm ông và đưa ông về gặp ông ấy. Ông ấy cần nói chuyện với ông.”

“Ta không đi đâu cả. Hãy để Lãnh chúa Gorold đến và tự mình gặp ta.” Aeron cầm lấy chiếc túi da vừa được múc đầy nước biển từ tay Rus, rút cái nút bần và uống một ngụm.

“Tôi sẽ đưa ông về pháo đài,” chàng Gormond trẻ tuổi vẫn khăng khăng từ trên lưng ngựa.

Cậu ta không muốn xuống vì sợ làm ướt đôi ủng. “Ta còn nhiều việc phải làm để phụng sự Thần Chết Chìm.” Aeron Greyjoy là người truyền giáo của thần linh. Đời nào ông chịu để những vị lãnh

chúa tầm thường ra lệnh như một kẻ tôi tớ.

“Gorold nhận được tin từ một con quạ,” lãnh chúa Sparr nói.

“Con quạ của một học sĩ đến từ Pyke,” Gormond xác nhận.

Đôi cánh chim đen mang điềm u ám. “Lũ quạ bay qua núi cao biển rộng. Nếu có tin gì liên quan đến ta, xin hãy nói luôn.”

“Tin tức chúng ta mang đến chỉ dành riêng cho ngài, Damphair.” Lãnh chúa Sparr đáp. “Đây không phải vấn đề có thể tùy tiện nói trước những người này.”

“Họ là người của ta, đều là tôi tớ của Thần Chết Chìm, cũng như ta. Ta không có bí mật nào cần giấu họ hay giấu Thần Chết Chìm khi đứng bên biển cả thần thánh.”

Ba vị khách liếc nhìn nhau. “Nói cho ông ta biết đi,” Lãnh chúa Sparr phá vỡ sự im lặng và chàng trai mặc áo choàng đỏ thu hết can đảm. “Đức vua băng hà,” cậu nói sự thật một cách đơn giản. Chỉ có

bốn từ, nhưng dường như biển cả cũng run lên khi những từ đó được thốt ra.

Hiện nay có tới bốn vị vua đang trị vì Westeros, nhưng Aeron không cần hỏi cũng biết họ đang nói đến ai. Còn ai vào đây nữa ngoài anh trai ông, Balon Greyjoy, người trị vì Quần đảo Iron. Đức vua băng hà. Lẽ nào lại thế? Ông vừa mới gặp Balon chưa đầy một tháng trước sau khi cướp bóc dọc bờ biển Stony và trên đường quay về. Ông còn nhớ, khi chia tay, mái tóc hoa râm của anh trai ông đã bạc trắng một nửa, dáng người còng đi khi chiếc thuyền dài nhổ neo. Nhưng nhìn chung không có vẻ gì là

đau ốm.

Cuộc đời Aeron Greyjoy dựa vào hai trụ cột hùng mạnh. Nhưng chỉ cần bốn từ đơn giản đó đã bẻ gẫy một trong hai. Giờ chỉ còn lại Thần Chết Chìm thiêng liêng. Xin Người hãy ban cho con sức mạnh

và sinh lực như biển cả. “Nói ta nghe ông ấy đã chết như thế nào.”

“Nhà vua đang đi qua một cây cầu ở Pyke thì bị ngã và rơi xuống rặng đá bên dưới.”

Thành lũy của Nhà Greyjoy được xây dựng trên một mũi đất nhô ra biển, các pháo đài và tháp canh nằm cheo leo trên những mỏm đá lớn dựng đứng. Các phần của lâu đài được nối với nhau bằng

những cây cầu, những vòm cuốn cong cong đẽo bằng đá tảng, những nhịp cầu bằng chão và gỗ ván đung đưa. “Khi đó có phải đang bão không?” Aeron hỏi.

“Vâng, đúng vậy.” Chàng trai xác nhận.

“Thần Bão Tố đã quật ngã ông ấy,” ông tuyên bố. Hàng triệu năm trước đây, biển cả và bầu trời đã từng xung đột. Những con dân của Quần đảo Iron sinh ra từ biển cả, cá là nguồn sống của họ ngay cả trong mùa đông rét buốt, còn bão tố chỉ đem đến tai ương và khổ đau. “Balon anh trai ta một lần nữa đã khiến chúng ta lớn mạnh hơn, điều đó khuấy động sự tức giận của Thần Bão Tố. Giờ này chắc chắn

nhà vua đang được tiếp đón nồng nhiệt trong lâu đài nước của Thần Chết Chìm, các nàng tiên cá sẽ phục vụ mọi mong muốn của ông ấy. Chỉ còn lại chúng ta nơi khô cằn, buồn thảm này để hoàn thành nốt những việc vĩ đại mà ông ấy đang dang dở.” Ông đóng cái nút bần vào miệng túi. “Ta sẽ phải nói chuyện với cha cậu. Từ đây đến Hammerhorn bao xa?”

“Mười tám dặm. Ngài có thể cưỡi ngựa cùng tôi.”

“Một người cưỡi ngựa sẽ đi nhanh hơn hai người. Cho ta mượn con ngựa nào, Thần Chết Chìm sẽ phù hộ cho cậu.”

“Damphair, ngài lấy ngựa của tôi mà dùng.” Steffarion Sparr đề nghị.

“Không. Ngựa của cậu ta khỏe hơn. Phải là ngựa của cậu cơ, chàng trai.”

Chàng thanh niên ngần ngại trong giây lát nhưng sau đó cũng xuống ngựa và giữ dây cương cho Damphair. Aeron đặt bàn chân trần đen nhẻm vào bàn đạp và đu người lên yên. Ông không thích ngựa

– chúng là tạo vật của đất liền, chúng góp phần khiến con người yếu đuối đi – nhưng hoàn cảnh bắt buộc ông phải cưỡi. Đôi cánh chim đen mang điềm đen tối. Một cơn bão sắp đến, ông nghe thấy âm

thanh của nó trong từng con sóng, bão tố chẳng đem đến điều gì khác ngoài tai ương. “Hãy đến gặp ta

ở Pebbleton, dưới chân tháp của Lãnh chúa Merlyn,” ông dặn dò người của mình trong khi cho ngựa

quay đầu.

Con đường mòn gập ghềnh, lên đèo xuống dốc, xuyên qua những cánh rừng, những hẻm núi, đôi lúc hẹp lại tưởng chừng biến mất dưới vó ngựa. Great Wyk là hòn đảo lớn nhất trong Quần đảo Iron, lớn đến mức đất đai của một số lãnh chúa không tiếp giáp với biển. Gorold Goodbrother là một trong số đó. Lâu đài của ông ta nằm trên đỉnh đồi Hardstone, cách xa lãnh địa của Thần Chết Chìm cũng như nhiều nơi khác trên đảo này. Dân trong vùng lao động cực nhọc trong bóng tối, dưới những hầm mỏ nằm sâu trong lòng đất. Nhiều người cho đến khi chết vẫn chưa một lần được tận mắt nhìn thấy biển.

Do đó, chẳng có gì ngạc nhiên khi tính khí họ khó chịu và cáu bẳn.

Ngồi trên lưng ngựa, suy nghĩ của Aeron lại quay về những người anh em của mình.

Ngài Quellon Greyjoy, lãnh chúa của Quần đảo Iron có cả thảy chín con trai. Harlon, Quenton và Donel là con của người vợ đầu tiên – một phụ nữ thuộc dòng họ Stonetrees. Balon, Euron, Victarion, Urrigon và Aeron là con người vợ thứ hai, vốn là người Nhà Sunderly ở Saltcliffe. Người vợ thứ ba của Quellon – người con gái đến từ đất liền – hạ sinh Robin, một thằng bé ngu ngốc và ốm yếu mà

Aeron nghĩ tốt nhất là nên quên đi. Ông cũng chẳng còn chút ký ức nào về Quenton hay Donel vì họ đã chết khi còn nhỏ. Harlon thì ông chỉ còn nhớ lờ mờ, với khuôn mặt xám ngoét, nằm bất động trong một căn phòng không cửa sổ trong tháp lâu đài, giọng nói mỗi lúc một thều thào hơn khi căn bệnh vảy xám dần biến lưỡi và môi anh ta thành đá. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ lại cùng nhau chè chén trong lâu đài nước của Thần Chết Chìm, cả bốn chúng ta và Urri nữa, Aeron thầm nghĩ.

Lãnh chúa Quellon Greyjoy có chín con trai, nhưng chỉ bốn người sống được đến lúc trưởng thành. Đời là vậy, đàn ông ra khơi đánh cá, đào đất và rồi chết đi, đàn bà hạ sinh những đứa trẻ đoản mệnh

trên những chiếc giường đầy máu me và đau đớn. Aeron là đứa con nhỏ nhất và cũng kém cỏi nhất trong bốn “con thủy quái” còn sống đó. Balon – anh cả và cũng là người dũng mãnh nhất – là một cậu bé can đảm và táo tợn; khôi phục vinh quang cổ xưa của Quần đảo Iron dường như là mục đích sống duy nhất của anh trai ông. Lên 10, cậu trèo lên được tháp canh bị ma ám của Lãnh chúa Mù nằm cheo leo trên Vách Đá Lửa. 13 tuổi, cậu đã điều khiển được mái chèo của chiếc tàu lớn và chơi trò ném rìu

xuất sắc như một người đàn ông trưởng thành. 15 tuổi, cậu đã cùng thuyền trưởng Dagmer Hàm Ếch dong buồm tới tận Stepstones và cướp bóc ở đó suốt một mùa hè. Ở đó, lần đầu tiên cậu giết người, và cũng ở đó, cậu có được hai người vợ đầu tiên. Ở tuổi 17, Balon được chỉ huy con thuyền của chính mình. Anh ấy là hình mẫu hoàn hảo của một người anh cả, mặc dù anh ấy đối với Aeron chỉ có sự khinh miệt. Nhưng ta yếu đuối và đầy tội lỗi, nên khinh miệt là quá xứng đáng. Thà được Balon Dũng Cảm khinh thường còn hơn được Euron Mắt Quạ yêu mến. Tuổi tác và sự phiền muộn quả có làm cho tính khí Balon chua cay hơn, nhưng cũng làm anh ấy quyết đoán hơn bất kỳ người đàn ông nào. Anh ấy sinh ra là con trai một lãnh chúa và qua đời với tư cách là một vị vua, chết do sự đố kỵ của thần linh. Giờ đây, cơn bão ấy đang đến, cơn bão mà quần đảo này chưa bao giờ phải đương đầu.

Khi Aeron nhìn thấy bức tường thành bằng sắt sắc nhọn đầy lỗ châu mai của Hammerhorn nhô lên lởm chởm dưới vầng trăng lưỡi liềm thì đã là đêm muộn. Thành lũy của Gorold trông nặng nề và đồ sộ, được dựng bằng những tảng đá khổng lồ xẻ ra từ vách đá sau lưng. Dưới tường thành, cửa hang và lối vào những hầm mỏ cổ xưa ngoác ra như những cái miệng không răng đen ngòm. Vì đã là đêm nên cổng thành bằng sắt của Hammerhorn đóng chặt. Aeron đập cổng bằng một hòn đá cho đến khi tiếng

kêu vang rền của nó đánh thức một tên lính gác. Chàng trai trẻ đưa ông vào là một bản sao của Gormond, người đã đưa ngựa cho ông. “Cậu là thứ mấy?” Aeron hỏi.

“Tôi là Gran. Cha tôi đang đợi ngài trong kia.”

Sảnh lớn của lâu đài lạnh lẽo, ẩm ướt và tối tăm. Một trong các con gái của Gorold đưa cho vị thầy tu một cốc sừng đựng đầy bia, một người khác đang cời ngọn lửa âm ỉ tỏa nhiều khói hơn là hơi ấm đang leo lét cháy trong lò. Lãnh chúa Gorold Goodbrother đang trò chuyện khe khẽ với một người đàn ông mảnh khảnh mặc áo choàng xám sang trọng. Quanh cổ người đàn ông đó là một chuỗi xích làm

bằng nhiều thứ kim loại khác nhau, cho thấy ông ta là một học sĩ của Citadel.

“Gormond đâu?” Gorold hỏi khi trông thấy Aeron.

“Cậu ấy sẽ đi bộ về. Lãnh chúa hãy cho đám phụ nữ lui ra. Cả vị học sĩ này nữa.” Ông chẳng yêu thích gì các học sĩ. Bầy quạ của họ là sứ giả của Thần Bão Tố, ông không tin tưởng cách chữa bệnh của họ, kể từ cái chết của Urri. Không một người đàn ông chân chính nào chọn cuộc sống của kẻ tôi

đòi với một chuỗi xích biểu hiện sự quy phục đeo quanh cổ.

“Gysella, Gwin, đi ra,” Lãnh chúa Goodbrother nói cộc lốc. “Con cũng thế, Grand Maester Murenmure ở lại.”

“Ông ấy cũng phải ra.” Aeron khăng khăng yêu cầu.

“Đây là nhà tôi, Damphair. Đây không phải nơi cho ông ra lệnh ai đi ai ở. Ngài học sĩ sẽ ở lại.”

Người đàn ông này sống quá xa biển cả, Aeron tự nhủ. “Vậy thì tôi sẽ đi,” ông nói với Lãnh chúa Goodbrother. Cói khô loạt xoạt dưới gót chân trần nứt nẻ của Aeron khi ông quay người và kiêu hãnh

đi ra. Có vẻ ông đi một quãng đường dài tới đây vô ích.

Aeron ra gần đến cửa thì vị học sĩ hắng giọng và nói, “Euron Mắt Quạ định ngồi lên Ngai Đá Biển.”

Damphair quay lại. Cả đại sảnh đột nhiên trở nên lạnh lẽo hơn. Mắt Quạ cách xa cả nửa vòng thế giới cơ mà. Hai năm trước đây, Balon đã đuổi hắn đi và thề rằng nếu hắn quay về, anh ấy sẽ lấy mạng

hắn. “Nói đi,” giọng ông khàn khàn.

“Ông ta đã dong buồm cập bến Lordsport ngay sau hôm đức vua băng hà rồi tuyên bố lâu đài và vương miện phải thuộc về ông ta, vì ông là em trai lớn nhất của đức vua,” Lãnh chúa Gorold

Goodbrother trả lời. “Hiện giờ ông ta cho quạ truyền tin đến các thuyền trưởng và tiểu vương trên mọi hòn đảo, triệu tập họ đến Pyke để quỳ gối thần phục và tôn ông ta làm vua.”

“Không được,” Aeron nói mà không cân nhắc. “Chỉ những người sùng đạo mới có thể ngồi lên Ngai Đá Biển, mà Mắt Quạ chẳng sùng bái cái gì ngoài niềm kiêu hãnh của bản thân.”

“Ngài vừa gặp nhà vua ở Pyke cách đây không lâu,” Lãnh chúa Goodbrother hỏi. “Nhà vua có nói với ngài điều gì về việc chọn người kế vị không?”

Đúng. Đúng là họ đã đàm luận điều đó trên Tháp Biển trong khi gió gào thét ngoài cửa sổ và sóng không ngừng ầm ầm đập vào vách đá bên dưới. Anh trai ông lắc đầu tuyệt vọng khi nghe những gì ông nói về đứa con trai duy nhất còn sống của mình. “Lũ sói đó làm nó yếu đuối đi, đúng như những gì ta

lo sợ. Ta đã cầu xin thần linh run rủi cho bọn chúng giết nó đi, để nó không thể ngáng đường Asha.” Anh ấy nhìn thấy hình ảnh của chính mình trong cô con gái hoang dã và bướng bỉnh, và mù quáng tin rằng con bé có thể kế vị mình. Anh ấy sai rồi, Aeron cố gắng nói cho anh trai mình biết điều đó. “Chưa bao giờ phụ nữ trị vì quần đảo này, kể cả người phụ nữ như Asha chăng nữa.” Nhưng Balon trở nên điếc đặc trước những điều ông không muốn nghe.

Trước khi vị thầy tu kịp trả lời Lãnh chúa Goodbrother, ngài học sĩ tiếp tục lên tiếng. “Đúng ra Ngai Đá Biển phải thuộc về hoàng tử Theon, và nếu hoàng tử chết thì thuộc về công chúa Asha. Đó là

luật rồi.”

“Luật của đất liền thôi,” Aeron nói một cách khinh miệt. “Luật của chúng ta là gì? Chúng ta là “người sắt”, là con trai của biển cả, do Thần Chết Chìm lựa chọn. Không một phụ nữ nào cai trị được

chúng ta, kể cả đàn ông vô thần cũng vậy.”

“Thế còn Victorion?” Gorold Goodbrother hỏi. “Ông ấy chỉ huy Hạm đội Sắt. Liệu ông ấy có đòi ngai báu hay không, ngài Damphair?”

“Nhưng Euron lớn hơn…” Vị học sĩ lại bắt đầu.

Nhưng cái liếc nhìn của Aeron khiến ông ta im bặt. Dù ở những làng chài nhỏ hay trong các tòa tháp bằng đá vĩ đại của lâu đài, một cái nhìn như vậy của Damphair có thể làm cho những cô gái trẻ ngất xỉu và lũ trẻ con khóc thét, nó thừa đủ để trấn áp gã nô bộc đeo xích. “Euron lớn hơn,” Aeron

đáp, “nhưng Victorion ngoan đạo hơn.”

“Liệu có xảy ra chiến tranh giữa họ không?” Học sĩ hỏi.

“Người sắt không được làm người sắt đổ máu.”

“Quan điểm đúng đắn đấy ông Damphair,” Lãnh chúa Goodbrother xen vào. “Nhưng anh trai ông không cùng suy nghĩ với ông đâu. Ông ta đã dìm chết Sawane Botley chỉ vì dám nói Ngai Đá Biển

đúng ra phải thuộc về Theon.”

“Nếu ông ta cũng bị dìm chết thì sẽ không có đổ máu.” Aeron trả lời.

Ngài học sĩ và vị lãnh chúa liếc nhìn nhau. “Tôi phải chuyển thông điệp đến Pyke càng sớm càng tốt,” Lãnh chúa Gorold nói. “Damphair, tôi muốn biết ý kiến của ông, ông thần phục hay không thần

phục?”

Aeron vuốt chòm râu và suy ngẫm. Giờ thì ta đã thấy cơn bão rồi, tên nó là Euron Mắt Quạ. “Hiện giờ, chúng ta nên im lặng,” ông nói với vị lãnh chúa. “Tôi phải cầu nguyện về việc này đã.”

“Hãy cứ cầu nguyện tất cả những gì ông muốn,” vị học sĩ phản ứng. “Nhưng nó cũng chẳng thể thay đổi được luật lệ, Theon là người thừa kế hợp pháp, sau đó là Asha.”

“Câm mồm!” Aeron gầm lên. “Người sắt đã phải nghe các học sĩ đeo xích huyên thuyên quá nhiều về đất liền và luật lệ của đất liền rồi. Đã đến lúc phải quay về với biển. Đã đến lúc chúng ta phải lắng nghe lời nói của thần linh.” Giọng ông vang lên sang sảng trong đại sảnh đầy khói, nghe uy lực đến nỗi khiến cả Lãnh chúa Goodbrother và vị học sĩ đều im thin thít. Thần Chết Chìm sẽ phù hộ cho ta, Aeron nghĩ. Người sẽ chỉ cho ta con đường phải đi.

Lãnh chúa Goodbrother có nhã ý mời Aeron nghỉ lại một đêm trong lâu đài tiện nghi nhưng vị thầy tu khước từ. Ông hiếm khi ngủ trong một lâu đài và không bao giờ ngủ xa biển đến vậy. “Ta sẽ hưởng những tiện nghi trong lâu đài nước nằm sâu dưới những con sóng của Thần Chết Chìm. Chúng ta sinh ra là để chịu đựng. Nỗi khổ khiến chúng ta mạnh mẽ hơn. Tất cả những gì ta cần bây giờ là một con

ngựa khỏe để đưa ta trở về Pebbleton.”

Vị lãnh chúa sẵn lòng cấp ngựa ngay. Ông còn cử cậu con trai thứ ba, Greydon, đi theo để chỉ cho tu sĩ con đường ngắn nhất xuyên qua vùng đồi núi gập ghềnh và xuôi về phía biển. Khi họ ra đi vẫn còn khoảng một giờ nữa mới tới bình minh, nhưng ngựa của họ là loại ngựa dày dạn và khỏe mạnh,

nhờ đó chuyến đi trở nên thật dễ dàng dù trời còn tối. Aeron nhắm mắt lại và thầm cầu nguyện, sau đó bắt đầu ngủ lơ mơ trên yên ngựa.

Âm thanh đó xuất hiện rất nhẹ nhàng, đó là tiếng rít của một cái bản lề han gỉ. “Anh Urri,” Aeron lẩm bẩm rồi hốt hoảng choàng tỉnh. Chẳng có bản lề hay cánh cửa nào hết, và cũng chẳng có Urri. Khi

anh ấy mới 14 tuổi, lúc cha và các anh trai xa nhà chinh chiến, trong khi chơi trò ném rìu, chiếc rìu bay đến đã xén ngọt nửa bàn tay của Urri. Phu nhân thứ ba của Lãnh chúa Quellon từng mang họ Piper và đến từ lâu đài Pinkmaiden; một cô gái có bộ ngực lớn mềm mại và đôi mắt nai dịu dàng. Thay vì chữa trị cho Urri theo cách cổ xưa với lửa và nước biển, cô ta lại trao anh ấy cho một học sĩ của đất liền, kẻ thề rằng có thể khâu những ngón tay lại cho Urri. Ông ta đã làm như thế, sau đó sử dụng các loại thuốc nước, thuốc đắp và thảo dược, nhưng bàn tay bị hoại tử và Urri lên cơn sốt. Khi lão học sĩ cưa bỏ tay anh thì tất cả đã quá muộn.

Lãnh chúa Quellon không bao giờ trở về từ chuyến đi đó; Thần Chết Chìm đã ban cho ông cái chết ngoài biển khơi. Chỉ có Lãnh chúa Balon trở về cùng với hai em trai Euron và Victarion. Khi biết

chuyện của Urri, Balon đã cho chặt ba ngón tay của vị học sĩ bằng dao phay nhà bếp và yêu cầu bà mẹ kế của mình khâu chúng lại. Thuốc nước và thuốc đắp cũng có tác dụng với lão học sĩ hệt như với Urri. Ông ta chết trong cơn cuồng dại, và vợ ba của Lãnh chúa Quellon không bao lâu sau cũng đi theo

ông ta trong cơn trở dạ khi bà đỡ lôi trong bụng cô ta ra một bé gái chết non. Aeron cảm thấy vui mừng. Chính lưỡi rìu của ông đã chặt nửa bàn tay Urri khi họ đang chơi trò ném rìu như những người bạn và các anh em vẫn thường chơi.

Cho đến giờ, Aeron vẫn cảm thấy hổ thẹn khi hồi tưởng lại quãng thời gian sau cái chết của Urri.

Ở tuổi 16, ông tự cho mình là một người đàn ông, nhưng thực ra, ông chỉ là một cái túi đựng rượu có chân, không hơn không kém. Ông đã ca hát, nhảy múa (nhưng không bao giờ còn chơi trò ném rìu nữa), cười đùa, tán dóc hoặc chế giễu người khác. Ông thổi sáo, tung hứng, cưỡi ngựa và có thể uống rượu

nhiều hơn toàn bộ Nhà Wynch, Nhà Botley và phân nửa Nhà Harlaw cộng lại. Người đàn ông nào cũng được Thần Chết Chìm ban tặng một món quà, thậm chí cả ông cũng vậy; không ai có thể tiểu tiện lâu hơn và xa hơn Aeron Greyjoy, điều này đã được chứng minh sau mỗi lần chè chén. Một lần, Aeron đã đem chiếc thuyền dài mới toanh của mình ra cược để đổi lấy một đàn dê nếu ông có thể dập tắt ngọn lửa trong lò sưởi chỉ bằng cách tiểu vào đó. Kết quả là Aeron chén thịt dê cả năm và đặt tên cho

con thuyền mới là Cơn Bão Vàng, mặc dù Balon đe dọa sẽ treo ông lên cột buồm khi biết được kiểu mũi nhọn mà ông em trai định trang bị cho mũi thuyền.

Cuối cùng, Cơn Bão Vàng bị chìm ngoài khơi đảo Fair trong cuộc nổi loạn lần thứ nhất của Balon. Nó bị một chiếc tàu chiến khổng lồ mang tên Thịnh Nộ xẻ làm đôi khi Stannis Baratheon giăng bẫy bắt

được Victarion và phá tan tành Hạm đội Sắt. Nhưng thần linh vẫn còn chưa chấp nhận Aeron, ông được ném lên bờ. Những người dân chài đã bắt ông, xích lại và giải đến Lannisport. Ông đã trải qua thời gian còn lại của cuộc chiến trong pháo đài Casterly Rock và chứng minh rằng thủy quái kraken có thể tiểu tiện dài hơn, xa hơn cả sư tử, lợn rừng và cả gà nữa.

Giờ đây, người đàn ông đó đã chết. Aeron đã chết chìm và tái sinh từ biển, trở thành người truyền giáo của thần linh. Không một kẻ tử thù nào có thể làm ông sợ, kể cả bóng tối và ký ức – cốt lõi của linh hồn. Tiếng mở một cánh cửa, tiếng rít của bản lề sắt han gỉ. Euron đã quay về. Không hề gì. Giờ

ông là tu sĩ Damphair, người được thần linh yêu quý.

“Liệu có xảy ra chiến tranh không?” Greydon Goodbrother hỏi khi mặt trời chiếu sáng vùng đồi núi trước mắt. “Một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn ấy?”

“Nếu thần linh muốn vậy. Không một kẻ vô thần nào có thể ngồi lên Ngai Đá Biển.” Hiển nhiên là Mắt Quạ sẽ chống trả. Không một phụ nữ nào có thể đánh bại anh ấy, cho dù đó là Asha chăng nữa; phụ nữ được sinh ra là để chiến đấu trên giường sinh nở. Và Theon, nếu còn sống, cũng chẳng có một tia hy vọng, nó chỉ là một thằng bé hờn dỗi và hay cười. Ở Winterfell, thật tình mà nói, nó đã chứng minh được giá trị của mình, nhưng Mắt Quạ đâu phải là một kẻ què quặt. Boong tàu của hắn được sơn màu đỏ để giấu đi màu máu sũng trên đó. À, còn Victarion. Vua của Quần đảo Iron phải là Victarion,

nếu không cơn bão sẽ giết tất cả chúng ta.

***

Khi mặt trời lên, Graydon tạ từ vị thầy tu, cậu còn phải mang tin đức vua băng hà tới những người anh em ở Downdelving, pháo đài Crow Spike và hồ Corpse. Aeron tiếp tục đi một mình, lên đồi

xuống dốc theo con đường mòn toàn đá đang trở nên rộng dần và nhiều người đi hơn khi ra gần biển. Tới mỗi làng hay mỗi lâu đài của những lãnh chúa nhỏ, Aeron đều dừng lại để thuyết giáo. “Tất cả chúng ta đều sinh ra từ biển, và sẽ lại quay về với biển,” giọng ông trầm trầm như biển và vang to như sóng. “Trong cơn đố kỵ, Thần Bão Tố đã giật đức vua ra khỏi lâu đài và quật ngã ngài, giờ đây ngài đang yến tiệc trong lâu đài nước nằm dưới những con sóng của Thần Chết Chìm.” Ông giơ cao hai tay. “Balon đã chết! Đức vua của chúng ta đã chết! Rồi một đức vua mới sẽ xuất hiện! Vì những gì đã chết có thể không bao giờ tàn lụi, mà sẽ tái sinh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn! Một vị vua mới sẽ xuất hiện!”

Một số người sau khi nghe Aeron nói liền quẳng cày cuốc đi theo ông, vì thế đến khi nghe thấy tiếng sóng biển rì rào thì sau lưng ông đã có khoảng hơn một chục người đi theo đuôi ngựa, được thần

linh cảm hóa và khao khát được nhấn nước.

Pebbleton là ngôi nhà của vài ngàn ngư dân, những túp lều lụp xụp của họ đứng lộn xộn quanh chân một tòa lâu đài vuông, cao và kiên cố, mỗi góc có một tháp canh nhỏ. Khoảng bốn mươi người đàn ông thuộc giáo phái chết chìm đang đợi Aeron ở đây. Họ dựng lều bằng da hải cẩu hoặc lán bằng gỗ trôi để trú tạm trên bãi biển cát xám. Những bàn tay thô ráp vì nước biển, sứt sẹo vì kéo lưới và chão, chai sần vì mái chèo, cuốc và rìu, nhưng giờ đây những bàn tay ấy cứng như thép ghì chặt những súc gỗ họ vớt được dưới biển, thần linh đã ban chúng cho họ từ kho vũ khí của Người dưới biển khơi.

Họ dựng một cái lán ngay phía trên đường thủy triều cho vị thầy tu. Aeron vui mừng bò vào trong lán sau khi đã nhấn nước những tín đồ mới nhất. Cầu xin Người, ông cầu nguyện, hãy nói chuyện với con bằng tiếng sóng biển, và cho con biết con phải làm gì bây giờ. Các thuyền trưởng và tiểu vương đang chờ đợi lời nói của Người. Ai sẽ thay Balon làm vua? Thông qua tiếng hát của thủy quái, hãy cho con biết tên của người xứng đáng? Hỡi Chúa tể của biển khơi, hãy nói cho con biết ai là người có đủ

sức mạnh để chống lại cơn bão ở Pyke?

Mặc dù chuyến đi đến Hammerhorn làm Aeron mệt lử, ông vẫn không nghỉ ngơi trong căn lều nhỏ làm bằng gỗ trôi, mái lợp rong đen vớt lên từ biển. Mây đen kéo đến che kín trăng sao, mặt biển tối

đen như bóng tối trong tâm hồn ông. Balon sủng ái Asha, đứa con ruột của anh ấy, nhưng phụ nữ không thể trị vì. Phải là Victarion. Trong chín đứa con trai của Quellon Greyjoy, Victarion là người khỏe mạnh nhất. Anh ấy là một con bò đực trong đám đàn ông, một người can đảm và tận tụy. Nhưng ở đây có một nguy cơ. Em trai có nghĩa vụ phục tùng các anh, mà Victarion lại không phải kiểu người đi ngược với truyền thống. Tuy vậy, anh ấy không yêu quý Euron. Đặc biệt kể từ khi người phụ nữ ấy qua đời.

Bên ngoài, ngoài tiếng ngáy của đám tín đồ và tiếng khóc than của gió, ông còn nghe thấy tiếng đập ầm ầm của sóng, đó là tiếng búa của thần linh thúc giục ông vào trận chiến. Aeron bò ra khỏi lán và bước vào đêm đen lạnh giá. Ông đứng đó trần truồng, tái nhợt, cao và gầy hốc hác; rồi cứ thế ông đi xuống biển đêm đen kịt. Nước lạnh buốt như băng, nhưng ông không nao núng trước những cái ôm giá lạnh của thần linh. Một con sóng đập mạnh vào ngực làm ông lảo đảo. Con sóng thứ hai trùm qua đầu.

Ông có thể nếm được vị muối trên môi và cảm thấy Thần Chết Chìm đang ở quanh ông, tai ông âm vang bài hát của Người. Trong chín đứa con của Quellon Greyjoy, ta là đứa kém cỏi nhất, yếu đuối và sợ hãi như đàn bà. Nhưng điều đó không còn đúng nữa. Gã đàn ông đó đã chết, và thần linh đã tiếp thêm cho ta sức mạnh. Nước biển lạnh và mặn bao quanh ông, ôm lấy ông, xuyên qua da thịt yếu đuối và thấu tới tận xương. Đúng rồi, xương, ông nghĩ. Xương của linh hồn. Xương của Balon và của Urri nữa. Chân lý nằm trong xương cốt chúng ta. Da thịt sẽ thối rữa, chỉ có xương là còn lại. Và trên đỉnh đồi Nagga là những dẻ xương làm nên lâu đài của Vua Xám…

Aeron quay vào bờ, gầy gò, tái nhợt và run lẩy bẩy. Khi bước vào lòng biển, người ta sẽ trở nên thông thái hơn. Aeron đã tìm ra câu trả lời từ trong xương tủy chính mình và con đường phía trước bỗng trở nên bằng phẳng. Đêm nay lạnh đến mức thân thể ông dường như tỏa hơi khi ông quay về lán,

nhưng trong tim ông, một ngọn lửa đang cháy. Ông bước vào giấc ngủ một cách dễ dàng, không còn bị ngắt quãng bởi tiếng cót két của chiếc bản lề sắt.

Khi ông tỉnh dậy thì trời đã sáng. Đó là một ngày sáng sủa và đầy gió. Aeron ăn sáng bằng món canh trai nấu với rong biển bằng củi rều. Khi ông vừa xong bữa sáng cũng là lúc Merlyn cùng với sáu

vệ sĩ rời dinh thự của mình xuống tận nơi tìm Aeron. “Đức vua đã băng hà,” Aeron nói với ông ta.

“Ừ, tôi đã nhận được tin báo từ một con quạ, hôm nay lại thêm một con nữa.” Merlyn là một gã hói béo tốt. Ông ta ăn mặc đúng theo kiểu một “lãnh chúa” của đất liền với toàn lông và nhung. “Một con quạ triệu tập tôi đến Pyke, con kia đòi đến lâu đài Mười Ngọn Tháp. Những con thủy quái của các

ông có quá nhiều tua, các ông định bắt tôi phân thân chắc. Ông nói đi, thầy tu. Tôi phải đưa đoàn thuyền của mình đến đâu đây?”

Aeron quắc mắt. “Ông nói Mười Ngọn Tháp à? Con thủy quái nào gọi ông đến đấy?” Mười Ngọn Tháp là lãnh địa của Nhà Harlaw.

“Công chúa Asha. Cô ấy tập hợp thuyền để trở về nhà. Mọt Sách đã gửi quạ đi để triệu tập tất cả bằng hữu của công chúa tới Harlaw. Ông ấy nói Balon muốn Asha kế thừa Ngai Đá Biển.”

“Thần Chết Chìm sẽ quyết định ai là người có được Ngai Đá Biển,” vị thầy tu trả lời. “Hãy quỳ xuống, ta sẽ ban phước cho ông.” Lãnh chúa Merlyn quỳ gối xuống, và Aeron mở nút chiếc bầu da, rót một dòng nước biển xuống cái đầu nhẵn bóng của ông ta. “Thần linh thiêng liêng, Người đã nhấn nước

chúng con, xin Người hãy để Meldred, kẻ tôi tớ của Người, được tái sinh từ biển. Xin hãy ban cho ông ấy nhiều muối, đá và thép.” Nước chảy dọc theo hai má ngấn mỡ của Merlyn, thấm đẫm bộ râu và chiếc áo khoác bằng lông cáo của ông ta. “Những gì đã chết không bao giờ lụi tàn,” Aeron kết thúc lời cầu nguyện, “mà sẽ tái sinh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn.” Nhưng khi Merlyn đứng lên, Aeron nói với ông ta, “Hãy ở lại và nghe cho kỹ này, có lẽ ông phải truyền lời của thần linh.”

Sóng vỗ quanh một tảng đá hoa cương tròn cách mép nước vài bước chân. Đó là nơi Aeron đang đứng, để người của ông có thể nhìn thấy ông, nghe được những lời ông phải nói.

“Chúng ta sinh ra từ biển, và rồi sẽ lại quay về với biển,” ông bắt đầu như hàng trăm lần trước đây. “Trong cơn đố kỵ, Thần Bão Tố đã giật đức vua ra khỏi lâu đài và quật ngã Người, giờ đây Người đang yến tiệc dưới những con sóng.” Ông giơ cao hai tay. “Vua Sắt đã chết! Rồi một đức vua mới sẽ xuất hiện! Vì những gì đã chết có thể không bao giờ tàn lụi, mà sẽ tái sinh, cứng rắn và mạnh

mẽ hơn!”

“Một đức vua mới sẽ xuất hiện!” Các thầy tu dòng chết chìm hô to.

“Sẽ có một đức vua mới. Phải có một đức vua mới. Nhưng đó là ai?” Damphair lắng nghe trong chốc lát, nhưng chỉ có sóng biển trả lời. “Ai sẽ là đức vua của chúng ta?”

Đám thầy tu bắt đầu đập các khúc gỗ dạt vào nhau. “Damphair!” họ hô to. “Vua Damphair! Vua Aeron! Để Damphair làm vua!”

Aeron lắc đầu. “Nếu một người cha có hai con trai, ông cho một người cái rìu còn người kia cái lưới thì ông ấy định chọn ai làm chiến binh?”

“Người có rìu,” Rus la lên trả lời, “cái lưới là dành cho người đánh cá.”

“Đó,” Aeron cất lời. “Thần linh đã dìm ta dưới những con sóng và nhấn chìm tất cả những gì vô giá trị trong con người của ta. Khi Người ném trả ta lên bờ, Người đã cho ta đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, và giọng nói để truyền lời của Người, vì thế, ta là người truyền giáo của Người, rao giảng chân lý của Người cho những ai lãng quên nó. Ta không phải được sinh ra để lên ngai báu… ta cũng chẳng hơn gì Euron Mắt Quạ. Vì ta nghe được lời của thần linh, không kẻ vô thần nào có thể ngồi lên

Ngai Đá Biển của ta!”

Merlyn khoanh tay trước ngực. “Thế thì đó là Asha? Hay Victarion? Ngài hãy nói cho chúng tôi biết đi!”

“Thần Chết Chìm sẽ cho mọi người biết, nhưng không phải bây giờ”. Aeron chỉ vào khuôn mặt béo trắng của Merlyn. “Đừng trông chờ vào ta, hay vào luật của con người, mà hãy trông chờ ở biển cả.

Hãy căng buồm lên, hạ mái chèo xuống và dong thuyền đến Old Wyk. Ngài và tất cả các thuyền trưởng cũng như các tiểu vương. Đừng đến Pyke để quỳ gối trước kẻ vô thần, cũng đừng đến Harlaw để kết giao với con bé lắm mưu mô ấy. Hãy để mũi thuyền trực chỉ Old Wyk, nơi có cung điện của Vua Xám. Nhân danh Thần Chết Chìm, ta triệu tập các người. Ta triệu tập tất cả các người! Hãy rời đại sảnh hay lều trại, rời lâu đài hay vọng lâu của mình và quay về đồi Nagga để tổ chức Lễ bầu vua!”

Merlyn há hốc miệng nhìn Aeron. “Lễ bầu vua à? Lễ bầu vua thực sự đã không diễn ra từ…”

“Từ quá lâu rồi!” Aeron đau khổ kêu lên. “Từ buổi bình minh của lịch sử, người sắt đã lựa chọn vua bằng cách chọn ra người xuất sắc nhất trong số họ. Giờ là lúc chúng ta quay lại với Phong Tục Cũ,

vì đó là cách duy nhất để chúng ta lại trở nên vĩ đại. Chính Lễ bầu vua đã chọn Urras Chân Sắt làm Vua và đặt chiếc mũ miện bằng gỗ dạt lên đầu ông ta. Sylas Flatnose, Harrag Hoare, Thủy quái già, đều do Lễ bầu vua chọn ra cả. Lễ bầu vua sẽ chọn được một người để kết thúc công việc mà Vua Balon đã bắt đầu và giành lại tự do cho chúng ta. Ta nhắc lại, đừng đến Pyke, cũng đừng đến Mười Ngọn Tháp của Nhà Harlaw, mà hãy đến Old Wyk. Hãy tìm đồi Nagga và lâu đài xương của Vua Xám, vì tại nơi thiêng liêng đó, nơi mặt trăng mọc và lặn, chúng ta sẽ tìm được một vị vua ngoan đạo và

đáng kính.” Ông giơ đôi tay xương xẩu lên lần nữa. “Nghe đi! Xin hãy lắng nghe tiếng sóng! Lắng nghe thần linh mách bảo! Người đang nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ không có một vị vua nào khác ngoài vị vua được bầu chọn!”

Sau đó đám đông rộ lên như sấm động, các thầy tu lại đập những khúc gỗ vào nhau. “Lễ bầu vua!” Họ la hét. “Lễ bầu vua, lễ bầu vua. Không có vị vua nào khác ngoài vị vua được bầu chọn!” Tiếng hét của họ vang to đến nỗi chắc chắn Mắt Quạ ở Pyke và Thần Bão Tố đê tiện trong lâu đài mây của hắn

cũng nghe được. Aeron biết mình đã làm rất tốt.

About The Author

Ngo David

Power is Power