Trò chơi vương quyền 4A – Tiệc quạ đen

Trò chơi vương quyền 4A – Tiệc quạ đen

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Biển khiến mặt mày Samwell Tarly xanh lét.

Không hẳn vì cậu sợ chết đuối, dù chắc chắn đó cũng là một trong số các lý do. Chuyển động của con thuyền và boong thuyền tròng trành dưới chân khiến cậu thấy khó chịu. “Bụng tôi cồn cào quá,” cậu thú nhận với Dareon ngay khi họ ra khơi từ Trạm Đông. Chàng ca sĩ vỗ lưng cậu và nói. “Với cái

bụng bự như của cậu thì cồn cào là đúng thôi, Sát Nhân ạ.”

Sam cố gắng giữ vẻ mặt can đảm, ít nhất là vì Gilly. Trong đời, cô ấy chưa bao giờ nhìn thấy biển. Lúc họ vật lộn đi trong tuyết sau khi chạy thoát khỏi pháo đài của Craster, họ băng qua vài cái hồ, và đối với cô ấy chúng đã là những kỳ quan. Con thuyền Chim Két mới rời khỏi bờ, cô gái đã sợ hãi run rẩy, những giọt nước mắt mặn chát lăn xuống hai gò má. “Cầu xin các vị thần,” Sam nghe thấy cô gái lẩm bẩm. Trạm Đông khuất dạng đầu tiên, sau đó bức Tường Thành nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi biến mất hẳn. Lúc này gió đã nổi lên. Các cánh buồm có màu xám chẳng khác gì màu chiếc áo choàng đen

bạc phếch do giặt quá nhiều lần, còn mặt Gilly thì trắng bệch vì sợ hãi. “Con thuyền này rất chắc chắn,” Sam cố thuyết phục cô gái. “Cô không cần phải sợ.” Nhưng cô gái chỉ nhìn cậu, rồi ôm đứa bé chặt hơn và lẩn xuống khoang dưới.

Một lúc sau, Sam bám chặt lấy mép thuyền và quan sát những mái chèo lướt đi. Cử động đồng loạt đều tăm tắp của chúng có vẻ gì đó rất đẹp mắt, và dễ chịu hơn khi nhìn xuống nước. Nhìn xuống mặt

nước chỉ khiến cậu nghĩ đến việc bị chết đuối. Khi Tarly còn nhỏ, cha cậu đã cố gắng dạy cậu bơi bằng cách ném cậu vào hồ nước bên dưới Horn Hill. Nước tràn vào mũi, vào miệng, vào phổi cậu, khiến cậu ho sặc sụa và thở khò khè suốt hàng tiếng đồng hồ sau khi Ser Hyle kéo cậu lên. Sau lần đó, cậu không bao giờ dám để nước ngập trên thắt lưng.

Vịnh Hải Cẩu sâu hơn so với thắt lưng của cậu nhiều và không hiền hòa như cái hồ cá nhỏ bên dưới lâu đài của cha cậu. Nước biển ở đây có màu xám xanh, sóng vỗ bập bềnh, và bờ biển cây cối um tùm mà họ bám theo là những rặng đá nhe nanh và những xoáy nước. Thậm chí nếu cậu có bằng

cách nào đó bơi được xa như vậy thì những con sóng cũng sẽ đánh cậu dạt vào đá, và đầu cậu sẽ vỡ ra thành từng mảnh.

“Đang tìm các nàng tiên cá đấy à, Sát Nhân?” Dareon hỏi khi thấy Sam đang nhìn trân trân ra ngoài vịnh. Với mái tóc vàng óng ả và đôi mắt màu hạt dẻ, chàng ca sĩ trẻ của Trạm Đông trông giống hoàng

tử bóng tối hơn là một anh em trong hội áo đen.

“Không.” Sam không biết mình đang tìm kiếm thứ gì, hay cậu đang làm gì trên con thuyền này. Tới

Citadel để rèn một chuỗi xích và trở thành học sĩ, để phục vụ tốt hơn cho Đội Tuần Đêm, cậu tự nhủ như vậy, nhưng ý nghĩ đó chỉ làm cậu thêm lo lắng. Cậu không muốn trở thành một học sĩ với sợi dây xích nặng trĩu quấn quanh cổ và những mắt xích cọ vào da lạnh lẽo. Cậu không muốn rời xa các anh em của mình, những người bạn duy nhất mà cậu từng có. Và tất nhiên, cậu không muốn gặp người cha đã đẩy cậu đến Tường Thành để chờ chết.

Với những người khác thì không giống thế. Với họ, chuyến hải trình sẽ có một kết thúc tốt đẹp. Gilly sẽ được an toàn ở Horn Hill, cách xa những kinh hoàng của cô ở khu rừng ma bằng chiều rộng của cả Westeros. Với tư cách là một người hầu phục vụ cho lâu đài của cha cậu, cô gái sẽ đủ ăn đủ

mặc, dù đó chỉ là một phần nhỏ trong cái thế giới vĩ đại mà cô không bao giờ mơ tới khi còn là vợ của Craster. Cô ấy sẽ chứng kiến con trai trưởng thành, mạnh mẽ hơn, và trở thành một thợ săn hoặc thợ rèn giỏi. Nếu thằng bé có năng khiếu, rất có thể một hiệp sĩ nào đó sẽ nhận cậu ta làm cận vệ.

Maester Aemon cũng đang tới một nơi tốt đẹp hơn. Thật dễ chịu khi nghĩ đến việc ông được dành quãng thời gian cuối đời tắm trong không khí ấm áp của Oldtown, nói chuyện với các học sĩ khác và

chia sẻ sự thông thái của mình với các thầy dòng và giáo sinh cấp dưới. Với những đóng góp của mình, ông xứng đáng được hưởng những điều tốt đẹp gấp trăm lần như thế.

Ngay cả Dareon cũng sẽ hạnh phúc hơn. Cậu ta luôn khẳng định mình vô tội trong vụ cưỡng bức khiến cậu bị đưa đến Tường Thành. Cậu ta cho rằng mình phải phục vụ dưới trướng một lãnh chúa nào

đó và hằng ngày hát cho ông ta nghe trong bữa ăn. Giờ thì cơ hội đã đến với cậu ta. Jon phân cậu ta làm người tuyển binh cho Tường Thành thay thế Yoren, tuyển trạch viên cũ mất tích và được coi là đã chết. Nhiệm vụ của cậu ta là tới Bảy Phụ Quốc, ca ngợi lòng dũng cảm của Đội Tuần Đêm, và thỉnh thoảng sẽ trở về với những người lính mới.

Chuyến đi sẽ dài và gian khổ, không ai có thể phủ nhận điều đó, nhưng với những người khác, ít ra họ đều đạt được một kết thúc có hậu. Đó là niềm an ủi cho Sam. Mình ra đi vì họ, vì Đội Tuần Đêm, và vì những cái kết tốt đẹp. Tuy nhiên, cậu càng nhìn lâu ra biển, nó càng có vẻ lạnh lẽo và sâu thẳm

hơn.

Nhưng nếu không nhìn xuống nước, mọi thứ sẽ còn tệ hơn thế. Sam xuống khoang dưới đuôi thuyền, nơi các hành khách đang đứng. Cậu cố gắng không nghĩ đến cái dạ dày đang sôi lên bằng cách nói

chuyện với Gilly khi cô gái đang cho con bú. “Con thuyền này sẽ đưa chúng ta tới tận Braavos,” cậu nói. “Và chúng ta sẽ tìm một con thuyền khác để đến Oldtown. Tôi đã đọc một cuốn sách về Braavos khi còn nhỏ. Cả thành phố được xây dựng trên một phá nước gồm hàng trăm hòn đảo nhỏ, và ở đó có tượng thần Titan bằng đá cao đến hàng trăm mét. Họ đi thuyền thay vì cưỡi ngựa, các diễn viên kịch câm diễn lại những câu chuyện trong sử sách, chứ không chỉ diễn những vở hài kịch ngớ ngẩn. Ở đó,

thức ăn cũng rất ngon, đặc biệt là cá. Họ có mọi loại trai, sò, lươn, hàu tươi đánh bắt được từ phá nước. Sẽ mất vài ngày để đợi con thuyền tiếp theo, nên trong thời gian đó chúng ta có thể đi xem một buổi diễn kịch và đi ăn hàu biển.”

Cậu tưởng những điều đó có thể làm cho cô vui vẻ. Nhưng cậu đã nhầm to. Gilly quay sang nhìn cậu qua những sợi tóc bẩn thỉu với đôi mắt u buồn ảm đạm. “Nếu ngài muốn vậy, thưa lãnh chúa.”

“Còn cô muốn gì?” Sam hỏi.

“Chẳng muốn gì.” Cô quay người đi và chuyển đứa trẻ sang bú ngực bên kia.

Chuyển động của con thuyền khiến cho món trứng, thịt muối và bánh mỳ nướng mà Sam ăn trước khi con thuyền ra khơi chỉ chực trào ngược lên. Lúc này cậu không thể ở trong khoang thuyền thêm một giây nào nữa. Cậu loạng choạng đứng dậy và trèo lên thang, nôn hết chỗ thức ăn ban sáng xuống biển.

Cảm giác khó chịu ập đến quá mau khiến Sam không kịp suy nghĩ xem đâu là hướng gió, thế nên cậu chọn sai vị trí để nôn và kết cục là tự nôn đầy lên người mình. Tuy nhiên, cậu vẫn cảm thấy dễ chịu hơn nhiều… dù chỉ trong chốc lát.

Con thuyền mang tên Chim Két, là chiếc thuyền ga-lê lớn nhất của Đội Tuần Đêm. Quạ Bão và Móng Vuốt chạy nhanh hơn, Cotter Pyke đã nói với Maester Aemon như vậy khi ở Trạm Đông Bên Bờ

Biển. Nhưng chúng là thuyền chiến, là những con chim ăn thịt mảnh dẻ và nhanh nhẹn, các tay chèo được bố trí ngồi ngay trên boong. Chim Két phù hợp hơn để đương đầu với cái dữ dội của biển hẹp bên kia Skagos. “Vùng biển này từng có rất nhiều bão,” Pyke cảnh báo. “Bão mùa đông là kinh khủng nhất, nhưng bão mùa thu đến thường xuyên hơn.”

Mười ngày đầu tiên biển khá lặng, Chim Két bò chậm chạp dọc vịnh Hải Cẩu và chưa bao giờ đi quá xa bờ. Không khí khá lạnh lẽo mỗi khi gió lên, mùi muối biển nặng và nồng trong không khí. Sam hầu như không ăn được. Mỗi khi cố nuốt cái gì đó, thức ăn không bao giờ ở trong bụng cậu được lâu. Nhưng ngoài chuyện đó ra thì mọi việc khác Sam làm khá tốt. Cậu cố gắng khuyến khích Gilly dũng cảm hơn và làm mọi cách cho cô gái vui, nhưng điều đó có vẻ khó khăn. Cô gái không chịu lên boong,

dù cậu có nói thế nào, và dường như cô ta chỉ thích cùng với cậu con trai núp mình trong bóng tối. Đứa trẻ có lẽ cũng chẳng ưa con thuyền hơn mẹ mình là bao. Nếu không khóc lóc gào thét thì nó lại đòi sữa mẹ. Thằng nhóc đi ngoài liên tục khiến tấm lông thú Gilly quấn cho nó để giữ ấm bẩn nhớp nháp và không gian ngập mùi hôi thối. Dù Sam đốt bao nhiêu cây nến mỡ, mùi phân vẫn không thuyên giảm.

Không khí ở bên ngoài dễ chịu hơn, đặc biệt là khi Dareon cất tiếng hát. Các tay chèo của thuyền Chim Két đều biết đến chàng ca sĩ, và cậu ta thường đàn hát khi mọi người chèo thuyền. Cậu ta biết mọi bài hát mà họ ưa thích, những bài buồn như Ngày họ treo cổ Robin Đen, Tiếng khóc của nàng tiên cá, hay Mùa thu của ta, những bài hát phấn chấn như Giáo sắt, và Bảy thanh kiếm cho bảy người con

trai, những bài tục tĩu như Bữa tối của tiểu thư, Bông hoa nhỏ của cô gái, và Meggett là thiếu nữ vui vẻ, thiếu nữ vui vẻ là cô ta. Khi cậu ta hát bài Con gấu và cô gái đẹp, tất cả các tay chèo đều hòa giọng hát chung. Chim Két băng băng trên mặt nước. Dareon không thực sự là một kiếm sĩ, Sam biết điều đó ngay từ những ngày họ luyện tập dưới sự chỉ huy của Alliser Thorne, nhưng cậu ta có một

giọng hát tuyệt vời. “Giọng hát ngọt như mật ong,” Maester Aemon đã từng nói như vậy. Cậu ta biết chơi đàn hạc bằng gỗ, đàn vi-ô-lông, và còn có thể tự sáng tác nữa… dù Sam nghĩ chúng không được xuất sắc cho lắm. Tuy nhiên, ngồi nghe cậu ta hát vẫn vô cùng thú vị. Chỉ có điều chiếc rương quá cứng và nhiều khe hở, nên cậu thầm cảm ơn cặp mông nhiều thịt của mình. Những người béo lúc nào cũng đem một chiếc thảm bên mình, cậu nghĩ.

Maester Aemon cũng muốn dành cả ngày trên boong thuyền; ông cuộn mình bên dưới một đống lông thú và mắt đăm đăm nhìn ra biển. “Ông ấy đang nhìn gì thế?” Cho đến một ngày Dareon hỏi. “Đối

với ông ấy thì ở trên này hay dưới khoang thuyền cũng tối như nhau mà.”

Ông già nghe thấy những gì cậu ta nói. Dù mắt Aemon đã mờ và gần như mù hẳn, nhưng tai ông vẫn còn rất thính. “Ta không bị mù bẩm sinh,” ông nhắc họ. “Lần trước cũng trên hải trình này, ta nhìn thấy từng vách đá, từng thân cây, từng con sóng bạc đầu, và ngắm những con mòng biển xám bay theo những

lằn tàu. Khi đó ta 35 tuổi, và đã là một học sĩ được mười sáu năm. Egg muốn ta giúp ông ta cai trị, nhưng ta biết chỗ của ta là ở đây. Ông ta đưa ta lên phía bắc trên tàu Rồng Vàng, và nhắc đi nhắc lại rằng Ser Duncan, bạn ông ta, sẽ đưa ta an toàn tới Trạm Đông. Chưa bao giờ con thuyền tuyển quân lại trở về Tường Thành một cách rực rỡ như vậy, kể từ khi Nymeria chở sáu vị vua trong những bộ xiềng xích bằng vàng tới cho Đội Tuần Đêm. Egg đưa tất cả tù binh trong ngục tối tới Tường Thành, để ta không phải đọc lời tuyên thệ một mình. Ông ấy gọi họ là những vệ sĩ danh dự của ta. Có một người cũng dũng cảm không kém gì Brynden Rivers. Chính anh ta sau đó được chọn làm tướng chỉ huy.”

“Bloodraven ư?” Dareon nói. “Tôi biết một bài hát về ông ta. Tên bài hát là Một nghìn lẻ một con mắt, nhưng tôi tưởng ông ta sống cách đây một trăm năm rồi chứ?”

“Chúng ta cũng vậy. Khi đó ta chỉ bằng tuổi cậu.” Điều đó có vẻ khiến ông buồn. Vị học sĩ húng hắng ho, nhắm mắt lại và chìm vào giấc ngủ, người ông đung đưa trong đống áo choàng lông mỗi khi những đợt sóng lắc con thuyền. Họ căng buồm dưới bầu trời màu xám và đi về phía đông, rồi nam, rồi lại phía đông, trong khi vịnh Hải Cẩu mở rộng dần ra trước mắt. Vị thuyền trưởng có mái tóc hoa râm

và cái bụng bự như một két bia; ông ta mặc trên người bộ đồ đen bạc phếch đến nỗi thủy thủ trên

thuyền gọi ông ta là Ông Già Khố Rách. Ông rất kiệm lời. Thuyền phó làm giúp ông ta những việc đó, chửi thề mỗi khi gió lặng hoặc mỗi lúc các tay chèo có vẻ uể oải lơ là. Họ ăn cháo yến mạch vào buổi sáng, cháo đậu hà lan vào buổi chiều, thịt bò muối, cá thu ướp, thịt cừu muối vào ban đêm, và uống bia kèm với chúng. Dareon ca hát, Sam nôn ọe, Gilly khóc và cho con bú, Maester Aemon ngủ và run rẩy, những cơn gió mỗi ngày một lạnh và dữ dội hơn.

Dù vậy, chuyến đi này vẫn dễ chịu hơn chuyến đi trước đây của Sam. Lúc đó cậu mới lên 10 khi ra khơi trên con thuyền ga-lê của Lãnh chúa Redwyne, mang tên Nữ Hoàng Arbor. Con thuyền tráng lệ nguy nga lớn gấp năm lần Chim Két, với ba cánh buồm lớn màu đỏ tía và hai dãy mái chèo lấp lánh màu vàng và bạc trong ánh nắng. Hình ảnh những mái chèo chồi lên ngụp xuống khi con thuyền rời

Oldtown khiến Sam nín thở… nhưng đó là những ký ức đẹp đẽ cuối cùng của cậu về eo biển Redwyne. Từ trước đến giờ, biển luôn làm cậu nôn nao, và khỏi phải nói cha cậu chán ghét điều đó

đến thế nào.

Rồi khi họ cập cảng Arbor, mọi việc chuyển từ tồi tệ sang kinh khủng. Hai cậu con trai sinh đôi của Lãnh chúa Redwyne đã tỏ thái độ khinh miệt Sam ngay từ cái nhìn đầu tiên. Sáng nào họ cũng nghĩ ra cách mới để sỉ nhục cậu trong sân tập. Vào ngày thứ ba, Horas Redwyne khiến cậu kêu ré lên như lợn dù cậu đã cầu xin. Vào ngày thứ năm, Hobber cho một cô bé đầu bếp mặc bộ giáp của hắn và sai cô ta đánh Sam bằng một thanh kiếm gỗ cho đến khi cậu khóc òa. Khi cô bé bỏ giáp để lộ mặt, tất thảy

các cận vệ, tiểu đồng, lẫn bọn chăn ngựa đều gào rú và phá lên cười.

“Thằng bé chỉ đơn giản là cần thêm một chút gia vị, thế thôi,” cha cậu nói với Lãnh chúa Redwyne đêm hôm đó, nhưng tên hề của Redwyne lúc lắc quả chuông của hắn và trả lời, “Đúng vậy, một nhúm tiêu, vài cây đinh hương và một quả táo trong miệng.” Từ đó trở đi, Lãnh chúa Randyll cấm Sam ăn táo một khi còn ở nhà của Paxter Redwyne. Trong chuyến trở về nhà, cậu cũng bị say sóng, nhưng vì quá hứng khởi nên Sam chẳng ngại cảm giác nôn nao khi thức ăn dâng lên cổ họng. Cho đến khi họ về tới Đồi Horn, mẹ cậu mới tiết lộ rằng cha cậu chưa bao giờ muốn cậu trở về. “Lẽ ra Horas sẽ về nhà

với chúng ta, thay vào vị trí của con, còn con sẽ ở lại Arbor làm tiểu đồng phục vụ cho Lãnh chúa Paxter. Nếu làm ông ấy hài lòng, con sẽ được đính hôn với con gái ông ấy.” Sam vẫn còn nhớ bàn tay mềm mại của mẹ khi bà lau nước mắt trên mặt cậu bằng một mảnh vải ren thấm nước bọt. “Sam tội nghiệp của mẹ,” bà lẩm bẩm. “Sam tội nghiệp, đáng thương của mẹ.”

Thật hạnh phúc vì mình sẽ được gặp lại bà ấy, cậu nghĩ khi bám vào lan can thuyền Chim Két và ngắm nhìn những con sóng xô vào bờ đá. Nếu nhìn thấy mình trong bộ đồ đen, bà hẳn sẽ rất tự hào.

“Mẹ ơi, con đã là một người đàn ông trưởng thành,” mình có thể nói với mẹ như vậy, “một người phục vụ, và là một anh em trong Đội Tuần Đêm. Thỉnh thoảng các anh em gọi con là Sam Sát Nhân.” Cậu cũng sẽ gặp em trai Dickon và các em gái của mình. “Các em thấy không,” mình sẽ nói với bọn chúng, “thấy không, cuối cùng anh cũng được việc đấy chứ.”

Tuy nhiên, nếu cậu tới Đồi Horn, cha cậu có thể sẽ ở đó.

Suy nghĩ ấy khiến bụng Sam lại nặng trịch. Sam cúi gập người trên mép thuyền và nôn, nhưng lần này cậu đã chọn đúng hướng. Cậu đã quen hơn với việc nôn ọe.

Hoặc là Sam nghĩ vậy, cho đến khi Chim Két bỏ lại bờ phía sau và hướng thẳng về phía đông, băng qua vịnh đến với bờ biển Skagos.

Hòn đảo nằm ngay ở cửa vịnh Hải Cẩu, đồ sộ với núi non hùng vĩ, một vùng đất nguy hiểm và khắc nghiệt của những kẻ man di. Bọn chúng sống trong hang động, trong những pháo đài đáng sợ trên núi và cưỡi những con kỳ lân lông lá ra trận. Sam thấy trong sách viết như vậy. Skagos nghĩa là “đá” trong ngôn ngữ cổ. Người Skagos tự nhận mình là dòng giống sỏi đá, nhưng những người phương bắc

gọi họ là Skaggs và không mấy yêu quý họ. Chỉ cách đây một trăm năm, ở Skagos nổi lên một cuộc

phiến loạn. Phải mất nhiều năm họ mới dẹp được cuộc nổi loạn đó, và cái giá phải trả là mạng sống của Lãnh chúa Winterfell và hàng trăm tay kiếm. Một số bài hát nói rằng Skaggs là dân ăn thịt người; và có thể các chiến binh của họ ăn tim và gan của những ai chúng giết được. Ngày xưa, những người Skagos đã đi thuyền, đổ bộ lên hòn đảo Skane bên cạnh, bắt phụ nữ, giết đàn ông và ăn họ trên một bờ biển đầy đá sỏi, một bữa tiệc kéo dài suốt nửa tháng trời. Từ đó đến giờ, Skane trở nên trống trải không một bóng người.

Dareon cũng biết những bài hát đó. Khi những đỉnh núi xám ngoét, hoang vu của Skagos nhô lên từ biển, cậu ta ra mũi thuyền Chim Két đứng cùng Sam. “Nếu các vị thần phù hộ, chúng ta có thể nhìn

thấy một con kỳ lân.” Dareon nói.

“Nếu thuyền trưởng đủ giỏi, chúng ta sẽ không vào gần đến vậy. Các dòng hải lưu Skagos rất nguy hiểm, và ở đó những tảng đá có thể đâm vỡ thân thuyền như một quả trứng. Nhưng cậu đừng nói điều

đó với Gilly. Cô ấy đã đủ sợ hãi rồi.”

“Cô ta và đứa con suốt ngày gào khóc của cô ta. Tôi không biết ai trong số họ phiền nhiễu hơn nữa. Thằng nhóc chỉ thôi khóc khi cô ta nhét vú vào miệng nó, rồi lại đến lượt cô ta sụt sịt.”

Sam cũng để ý thấy điều đó. “Có thể đứa bé làm cô ấy đau,” cậu nói nhỏ nhẹ. “Nếu thằng bé đang mọc răng thì…”

Dareon gẩy một ngón tay lên cây đàn luýt, một nốt nhạc vang lên nghe có vẻ chế nhạo. “Người ta nói bọn du mục không yếu đuối như vậy.”

“Cô ấy rất dũng cảm,” Sam khăng khăng, mặc dù cậu cũng phải thừa nhận rằng chưa bao giờ cậu thấy Gilly đau khổ đến thế. Tuy cô thường xuyên giấu mặt và giam mình trong khoang thuyền tối tăm,

nhưng cậu vẫn nhìn thấy đôi mắt lúc nào cũng đỏ, và đôi má luôn đẫm nước mắt của cô. Thế nhưng khi Sam hỏi có chuyện gì, cô gái chỉ lắc đầu, bỏ mặc cậu tự tìm lời giải đáp. “Biển làm cô ấy sợ, thế

thôi,” Sam nói với Dareon. “Trước khi đến Tường Thành, cô ấy chỉ biết mỗi pháo đài của Craster và khu rừng xung quanh. Cô ấy chẳng đi đâu cách nhà quá hai dặm. Cô ấy biết đến sông suối, nhưng một cái hồ thì đến tận khi chúng tôi quay lại Tường Thành cô ấy mới nhìn thấy lần đầu. Còn biển… chắc chắn biển là một thứ rất đáng sợ.”

“Nhưng đất liền chưa bao giờ khuất tầm mắt chúng ta.”

“Sẽ nhanh thôi.” Sam cũng chẳng thích thú gì điều đó.

“Đúng rồi, một chút nước làm sao có thể dọa được Sát Nhân.”

“Tất nhiên,” Sam nói dối, “tôi không sợ. Nhưng Gilly… có thể nếu cậu chơi vài bài hát ru cho họ, đứa bé sẽ ngủ dễ hơn.”

Miệng Dareon méo xệch với vẻ kinh tởm. “Được thôi, nếu cô ta chịu nút đít thằng nhóc lại. Tôi không thể chịu được mùi của nó.”

Ngày tiếp theo trời bắt đầu mưa, và biển động dữ dội hơn. “Chúng ta nên xuống dưới thôi, dưới đó khô ráo hơn,” Sam nói với Aemon, nhưng vị học sĩ già chỉ mỉm cười và nói, “Nước mưa rơi xuống mặt khiến ta thấy rất dễ chịu, Sam ạ. Cảm giác như nước mắt vậy. Cứ để ta ở đây một lúc nữa đi. Đã lâu lắm rồi ta không khóc.”

Nếu Maester Aemon muốn ở trên boong, trong khi ông già nua và yếu đuối như vậy, thì Sam không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ở trên đó cùng ông. Cậu ở bên ông gần một tiếng đồng hồ, núp mình

bên dưới chiếc áo choàng trong khi cơn mưa rào đều đặn khiến cậu ướt nhẹp từ ngoài vào trong. Aemon dường như chẳng cảm nhận được điều đó. Ông thở dài và nhắm mắt lại. Sam đến gần ông và che cho ông khỏi những cơn gió lạnh. Ông ấy sẽ sớm nhờ mình đỡ xuống khoang thuyền thôi, cậu tự nhủ. Chắc chắn là như vậy. Thế nhưng ông vẫn không nói gì, cho tới khi sấm bắt đầu vang rền ở phía đông. “Chúng ta phải xuống dưới thôi,” Sam run rẩy nói. Maester Aemon không trả lời. Lúc này Sam mới nhận ra ông đã ngủ.

“Maester,” cậu nói và lay vai ông nhè nhẹ. “Maester Aemon, tỉnh dậy đi.”

Đôi mắt mù trắng đục của Aemon mở ra. “Egg đó à?” ông hỏi. Nước mưa chảy ròng ròng xuống trên má ông.

“Egg, ta mơ thấy ta là một ông già.”

Sam không biết phải làm gì. Cậu quỳ xuống, nâng ông già dậy và bế ông lên. Chẳng ai bảo Aemon nặng. Mặc dù nước mưa đã làm ướt sũng bộ trang phục đen của ông và khiến ông nặng gấp đôi, nhưng trọng lượng của ông vẫn không hơn gì một đứa trẻ.

Khi mở cửa buồng bước vào với Aemon trên tay, Sam thấy Gilly đã để tất cả các cây nến tắt ngấm. Đứa bé đang ngủ và cô đang cuộn tròn trong góc, nằm khóc thút thít trong chiếc áo choàng đen to bự mà Sam đưa cho cô. “Giúp tôi với,” cậu nói với vẻ khẩn cấp. “Giúp tôi hong khô và giữ ấm cho ông ấy.”

Cô gái ngay lập tức đứng dậy, họ cùng nhau cởi bộ đồ sũng nước ra khỏi người vị học sĩ già và

đắp lên người ông một đống lông thú. Da ông ẩm ướt và lạnh lẽo khi chạm vào. “Cô chui vào với ông ấy đi.” Sam nói với Gilly. “Ôm ông ấy và sưởi ấm cho ông ấy bằng cơ thể của cô. Chúng ta phải sưởi ấm cho ông ấy.”

Cô làm theo và không nói một lời, tuy nhiên vẫn còn sụt sịt. “Dareon đâu?” Sam hỏi.

“Chúng ta sẽ thấy ấm hơn nếu tất cả tập trung vào một chỗ. Cậu ta cũng phải ở đây chứ.” Cậu quay trở lại phía trên để tìm anh chàng ca sĩ đúng lúc sàn tàu dềnh lên và rớt xuống đột ngột dưới chân cậu. Gilly khóc thét, Sam mất thăng bằng và ngã một cú khá mạnh, đứa bé cũng đã tỉnh giấc và bắt đầu gào lên.

Con tàu lại rung lắc một lần nữa khi Sam đang cố đứng lên. Cú lắc làm Gilly nhào về phía cậu, và cô gái du mục bám vào Sam chặt đến nỗi cậu gần như không thở được. “Đừng sợ,” cậu trấn an cô gái.

“Đây là chẳng may thôi. Một ngày nào đó cô sẽ kể cho con trai cô nghe câu chuyện ngày hôm nay.” Thế nhưng câu nói chỉ khiến những móng tay cô cắm sâu hơn vào cánh tay cậu. Cô ấy đang run rẩy, toàn thân cô rung lên kèm theo những tiếng nức nở. Dù mình nói gì thì tình hình cũng sẽ tệ hơn. Cậu ôm cô gái thật chặt và thấy không thoải mái khi nhận ra ngực cô đang ép chặt vào mình. Tuy hoảng loạn và sợ hãi, nhưng điều đó vẫn đủ làm cậu hưng phấn. Cô ấy sẽ cảm nhận được, Sam xấu hổ nghĩ. Nhưng kể cả có nhận ra thì cô gái cũng chẳng biểu hiện gì, chỉ bấu vào người cậu chặt hơn.

Suốt một thời gian sau đó, ban ngày dường như trốn mất. Họ không bao giờ nhìn thấy mặt trời. Mỗi ngày trôi qua đều xám xịt và màn đêm thì tối đặc, ngoại trừ sét thỉnh thoảng lóe lên trên bầu trời đằng sau những đỉnh núi của Skagos. Tất cả bọn họ đều đói lả, nhưng chẳng ai ăn được gì. Vị thuyền trưởng

mở một thùng rượu to cho bốn mươi tay chèo. Sam thử một cốc và thở dài, trong khi chỗ rượu giống như một con rắn nóng rực trườn xuống cổ và ngực cậu. Dareon cũng rất thích uống rượu, và sau khi uống thường không tỉnh táo.

Buồm được căng lên rồi hạ xuống, một trong những cánh buồm rách toạc và bay khỏi cột như một con chim màu xám vĩ đại. Khi Chim Két vòng qua bờ biển phía nam Skagos, họ nhìn thấy xác một con thuyền ga-lê trên đá. Xác một số thủy thủ trên tàu bị đánh dạt lên bờ. Lũ quạ và cua đang tụ tập quanh đó để tỏ lòng kính trọng. “Gần quá,” Ông Già Khố Rách nói khi nhìn thấy cảnh tượng ấy. “Chỉ cần một

cơn gió mạnh, và chúng ta cũng sẽ tan tành như họ.” Dù đã kiệt sức, nhưng các thủy thủ vẫn tiếp tục oằn lưng chèo, và con thuyền chậm chạp bò về phía nam, hướng về biển hẹp, cho đến khi Skagos nhỏ lại thành những bóng đen trên bầu trời trông như những đám mây giông, hoặc giống như chóp của những ngọn núi cao đen kịt, hoặc cả hai. Sau đó, họ có tám ngày bảy đêm di chuyển trong yên bình, êm ả.

Rồi những cơn bão khác lần lượt đến, cơn sau tệ hơn cơn trước.

Thực ra có ba cơn bão, hay chỉ một cơn duy nhất bị tách ra bởi những khoẳng lặng giữa chừng?

Sam không rõ nữa, mặc dù cậu đã cố tìm hiểu. “Việc đó có quan trọng không?” Dareon từng hét lên với cậu, khi tất cả bọn họ đang ẩn nấp trong khoang thuyền. Không quan trọng đâu, Sam rất muốn nói như vậy, nhưng chỉ khi mình nghĩ về nó mà không liên tưởng đến chết đuối, hoặc say sóng, hoặc hình ảnh Maester Aemon run rẩy. “Không,” cậu cố lên giọng, nhưng tiếng sấm đã nhấn chìm tất cả. Boong thuyền chao đảo khiến cậu bổ nhào sang một bên. Gilly đang thút thít. Đứa trẻ đang gào thét. Và phía bên trên, cậu nghe thấy Ông Già Khố Rách đang hò hét với các thủy thủ. Vị thuyền trưởng rách rưới ấy bình thường chẳng bao giờ nói một lời.

Mình ghét biển, Sam nghĩ, mình ghét biển, mình ghét biển, mình ghét biển. Ánh chớp tiếp theo lóe lên, chói lòa đến nỗi nó chiếu qua khe hở của ván thuyền trên đầu, làm sáng bừng cả khoang. Đây là một con thuyền tốt và vững chãi, một con thuyền tốt và vững chãi, một con thuyền tốt và vững chãi,

Sam tự nhủ. Nó không thể chìm được. Ta không nên sợ hãi.

Trong khoảng thời gian tĩnh lặng giữa hai cơn gió, khi Sam sợ sệt bám vào thành tàu để nôn, cậu nghe thấy vài thủy thủ lầm bầm với nhau rằng đây là hậu quả của việc cho một phụ nữ lên tàu, lại còn là dân du mục. “Làm tình với cha ruột của mình,” Sam nghe thấy một người nói khi gió bắt đầu thổi mạnh trở lại. “Còn tệ hơn cả một con điếm nữa. Tệ hơn tất cả mọi thứ trên đời. Chúng ta sẽ chết đuối

hết nếu không trừ khử cô ta, và cả thứ nghiệt chủng kinh tởm của cô ta nữa.”

Sam không dám đối đầu với họ. Họ là những người lớn tuổi hơn, cứng cáp và gân guốc, hai cánh tay và vai họ dày lên sau bao năm gắn với mái chèo. Nhưng cậu cần chắc chắn rằng dao của cậu luôn

sắc, và bất cứ khi nào Gilly rời khoang thuyền để đi tiểu, cậu đều đi cùng.

Ngay cả Dareon cũng chẳng muốn nói gì về cô gái du mục đó. Có lần, vì Sam thúc giục nên chàng ca sĩ đành chơi một bài hát ru cho cậu bé ngủ, nhưng chỉ được một nửa đoạn thứ nhất là Gilly bắt đầu

khóc như mưa. “Chết tiệt,” Dareon nổi quạu, “cô không thôi khóc một lúc để nghe cho hết bài hát được à?”

“Cậu cứ chơi nhạc đi,” Sam nài nỉ, “chỉ cần hát một bài cho cô ấy.”

“Cô ta không cần một bài hát,” Dareon nói. “Thứ cô ta cần bây giờ là vài roi vào mông, hoặc là một trận mây mưa mệt nghỉ.”

“Tránh đường cho tôi đi, Sát Nhân.” Cậu ta đẩy Sam sang bên và ra khỏi căn buồng để đi tìm niềm an ủi bằng một cốc rượu nóng và các anh em trong đội chèo thuyền.

Sam thực sự không nghĩ ra được cách nào. Cậu đã quen với mùi hôi thối, nhưng giữa âm thanh của cơn bão và tiếng khóc sụt sùi của Gilly, đã mấy ngày nay cậu không ngủ được. “Ngài không làm gì

giúp cô ấy được sao?” cậu khẽ hỏi Maester Aemon, khi thấy ông già vẫn còn thức. “Thảo dược hoặc một loại thuốc nào đó, để cô ấy không sợ hãi nữa.”

“Tiếng khóc cậu nghe thấy không phải vì sợ hãi,” ông già nói với cậu. “Đó là tiếng khóc đau buồn, và chẳng có loại thuốc nào chữa được cả. Hãy cứ để cô ta được khóc, Sam ạ. Cậu không thể ngăn được dòng nước đâu.”

Sam không hiểu. “Cô ấy đang đi đến một nơi an toàn. Một nơi ấm áp. Tại sao cô ấy lại đau buồn?”

“Sam,” ông già thì thầm, “cậu có đôi mắt tinh thường, vậy mà cậu không nhìn thấy sao. Cô ta là một người mẹ đang khóc thương cho con mình.”

“Thằng bé bị say sóng thôi. Chúng ta đều say sóng. Một khi cập cảng ở Braavos…”

“…Thì khi đó đứa trẻ vẫn là con trai của Dalla, chứ không phải con cô ta.”

Phải mất một lúc Sam mới hiểu được những gì Aemon đang gợi ý. “Không thể nào… cô ấy không…

tất nhiên đó là con cô ấy rồi. Gilly sẽ không bao giờ rời Tường Thành mà không có con trai bên cạnh.

Cô ấy rất yêu quý nó.”

“Cô ta nuôi cả hai, và yêu quý cả hai,” Aemon nói, “nhưng tình yêu đó không giống nhau. Chẳng có bà mẹ nào yêu tất cả các con mình như nhau, ngay cả Đức Mẹ Bề Trên. Gilly không hề muốn bỏ con

ở lại, ta chắc chắn điều đó. Những lời đe dọa, những hứa hẹn của tướng chỉ huy, ta chỉ có thể suy đoán mà thôi… nhưng chắc chắn là có đe dọa và hứa hẹn.”

“Không, không. Không đúng. Jon không bao giờ…”

“Jon không bao giờ làm vậy. Nhưng Lãnh chúa Snow thì khác. Đôi khi ta không thể chọn được hạnh phúc, chỉ là lựa chọn nào ít đau khổ hơn thôi.”

Không thể chọn được hạnh phúc. Sam nghĩ đến tất cả những thử thách mà cậu và Gilly đã phải trải qua, tại pháo đài của Craster và cái chết của Gấu Già, tuyết, băng giá và những cơn gió lạnh, những khi đi bộ hết ngày này qua ngày khác, xác sống ở làng Cây Trắng, Tay Lạnh, tổ quạ, Tường Thành, Tường Thành, Tường Thành, Cổng Đen dưới lòng đất. Tất cả những điều đó là vì cái gì chứ? Không có những lựa chọn hạnh phúc và kết thúc có hậu.

Sam muốn hét lên. Cậu muốn gào khóc, thút thít, run rẩy, cuộn tròn như một quả bóng và rên rỉ. Cậu ta đã tráo đổi hai đứa bé, Sam tự nói với mình. Cậu ta tráo đổi hai đứa bé để bảo vệ hoàng tử nhỏ khỏi ngọn lửa của Quý cô Melisandre, khỏi vị thần đỏ của cô ta. Cô ta thiêu con trai của Gilly thì có sao, ai thèm quan tâm chứ? Chẳng ai cả, ngoài Gilly. Đứa trẻ chỉ là hậu duệ của Craster, kết quả của trò loạn luân ghê tởm, chứ không phải con của Vị vua bên ngoài Tường Thành. Đứa bé không phải là một con tin giá trị, cũng chẳng đáng để hiến tế, chẳng có tác dụng gì cả, thậm chí nó còn không có một cái tên.

Không nói được lời nào, Sam loạng choạng bước lên boong để nôn, nhưng trong bụng cậu chẳng có gì để nôn ra cả. Màn đêm đã bao phủ lấy họ, một đêm yên tĩnh đến lạ lùng mà dường như nhiều ngày nay họ chưa bao giờ thấy. Mặt biển đen như một tấm kính. Các tay chèo đều đã nghỉ. Một hai người đang ngủ ngay chỗ họ ngồi. Gió thổi căng những cánh buồm, và ở hướng bắc, Sam thậm chí có thể nhìn thấy những ngôi sao và kẻ lang thang màu đỏ, mà cư dân ở các thành phố tự do gọi là Kẻ Cắp. Đó chắc chắn là ngôi sao của mình, Sam đau khổ nghĩ. Mình giúp Jon trở thành tướng chỉ huy, và mình còn đem về cho cậu ta Gilly và đứa bé. Chẳng có một kết cục nào tốt đẹp.

“Sát Nhân,” Dareon xuất hiện bên cạnh cậu, chẳng biết gì về nỗi đau khổ của Sam. “Một đêm ngọt ngào, chỉ một lần duy nhất. Nhìn kìa, những ngôi sao đang xuất hiện. Có thể chúng ta sẽ thấy trăng nữa

đấy. Có lẽ điều tồi tệ nhất đã qua rồi.”

“Không,” Sam chùi mũi và chỉ về hướng nam bằng ngón tay mũm mĩm, nơi bóng tối tràn ngập.

“Ở đó,” cậu nói. Sam vừa nói thì chớp lóe lên, đột ngột, lặng lẽ và sáng lòa. Những đám mây từ xa sáng bừng trong giây lát, những ngọn núi trùng điệp, tía, đỏ, vàng, và cao vút đến tận trời xanh. “Điều tồi tệ nhất chưa qua đâu. Nó mới chỉ bắt đầu thôi, và có lẽ sẽ không có kết thúc nào tốt đẹp.”

“Các vị thần sẽ phù hộ thôi,” Dareon nói và cười lớn. “Sát Nhân, cậu đúng là đồ hèn nhát.”

About The Author

Ngo David

Power is Power