Trò chơi vương quyền 3C – Tử hôn

Trò chơi vương quyền 3C – Tử hôn

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 26

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Chỉ là một lâu đài trống rỗng khác mà thôi,” Meera Reed vừa nói vừa nhìn chăm chăm vào đống gạch vụn tan hoang, đổ nát và đám cỏ dại.

Không, Bran nghĩ, đó là Tháp Nightfort, và đây là nơi tận cùng thế giới. Khi đứng trên những ngọn núi, cậu chỉ có thể nghĩ tới việc đến được Tường Thành và tìm thấy con quạ ba mắt, nhưng bây giờ, khi đến đây rồi, lòng cậu đầy nỗi sợ hãi. Giấc mơ của cậu… giấc mơ của Mùa Hè… Không, mình không được nghĩ đến giấc mơ ấy. Thậm chí cậu còn chưa kể về giấc mơ với chị em Nhà Reed, nhưng hình như Meera đã cảm nhận được có gì đó không ổn. Nếu cậu không bao giờ kể về giấc mơ ấy, biết đâu cậu sẽ quên được nó, và chuyện đó sẽ không xảy ra, anh Robb và Gió Xám có lẽ vẫn…

“Hodor.” Hodor cựa mình vì sức nặng của Bran trên lưng. Anh ta mệt rồi. Họ đã đi hàng giờ. Ít nhất anh ta cũng không sợ hãi. Bran rất sợ nơi này, và cậu cũng sợ phải thú nhận điều đó với chị em Nhà Reed. Mình là hoàng tử của phương bắc, mình là người Nhà Stark thành Winterfell, mình sắp trưởng thành, mình phải dũng cảm như anh Robb.

Jojen nhìn cậu chằm chằm bằng đôi mắt xanh đen. “Thưa hoàng tử, ở đây không có gì làm hại chúng ta cả.”

Bran không chắc chắn như vậy. Tháp Nightfort được mô tả trong những câu chuyện rùng rợn nhất của Già Nan. Đây là nơi Vua Bóng Đêm thống trị, trước khi tên của ông ấy bị xóa nhòa trong ký ức của con người. Đây cũng chính là nơi Đầu Bếp Chuột dâng lên vua Andal món-bánh-nhân-thịt-hoàng-tử, nơi có bảy mươi chín lính canh đứng gác, nơi Danny Flint trẻ tuổi dũng cảm bị hãm hiếp và sát hại. Đây cũng chính là lâu đài mà vua Sherrit đã đưa ra lời nguyền đối với vương triều Andal cổ xưa, nơi những cậu bé học việc phải đối mặt với một thứ luôn đến vào ban đêm, nơi Symeon Mắt-Sao mù đã nhìn thấy những cuộc đánh chém đẫm máu. Rìu Điên từng đi trên những khoảng sân này và trèo lên những lâu đài này để tàn sát các anh em của hắn trong bóng đêm.

Những chuyện đó chắc chắn đã xảy ra cách đây hàng trăm, hàng ngàn năm, và một số chuyện có lẽ cũng chưa bao giờ xảy ra. Maester Luwin luôn bảo cậu đừng tin hết tất cả những câu chuyện của Già Nan. Nhưng có lần, khi chú của cậu đến thăm cha cậu, Bran có hỏi chú về Tháp Nightfort. Chú Benjen Stark không phủ nhận những câu chuyện, nhưng cũng không nói rằng chúng có thật; chú chỉ nhún vai đáp, “Chúng ta đã rời bỏ Tháp Nightfort cách đây hai trăm năm rồi,” như thể đó là một câu trả lời.

Bran buộc mình phải nhìn ngó xung quanh. Thời tiết buổi sáng lạnh lẽo, nhưng trời sáng sủa, mặt trời chiếu xuống từ bầu trời xanh đậm, và cậu không thích âm thanh ồn ào ở đây. Gió gây ra tiếng rít bất an khi nó thổi qua những lâu đài đổ nát, những tháp canh rên rỉ rồi lại im bặt, và cậu nghe thấy tiếng chuột cào bới dưới nền nhà của đại sảnh. Con cái của Đầu Bếp Chuột đang chạy xa khỏi cha của chúng. Các khoảng sân là những khu rừng nhỏ với những thân cây khẳng khiu chụm cành trơ trụi vào nhau, những chiếc lá rụng bay vụt qua như những con cá đang hối hả bơi trong lớp tuyết cũ. Cây cối cũng mọc xâm lấn ở nơi từng là chuồng ngựa, và một cây đước mục thò ra khỏi khe hở trên nóc bếp hình mái vòm. Ngay cả Mùa Hè cũng không thoải mái khi ở đây. Bran luồn tay vào bên trong bộ lông của nó, chỉ một giây thôi, để ngửi mùi của nơi đây. Cậu bé cũng không thích cái mùi đó.

Và không có đường để đi qua lâu đài.

Bran đã nói với họ rằng sẽ không có lối qua đâu. Cậu đã nói đi nói lại như vậy, nhưng Jojen Reed vẫn nằng nặc đòi tự đi tìm. Cậu ta nói cậu ta có một giấc mơ xanh, và những giấc mơ xanh đó của cậu không bao giờ nói dối. Họ cũng chưa mở được cánh cổng nào, Bran nghĩ bụng.

Cánh cổng mà Tháp Nightfort canh giữ đã bị bít lại từ ngày các anh em mặc áo đen khăn gói cùng với la và ngựa lên đường đến Hồ Sâu; tấm lưới sắt được hạ xuống, những sợi xích nâng tấm lưới lên đã bị chặt đi, đường hầm chất đầy đá và gạch vụn đóng băng, cho đến khi không có lối xuyên qua y như Tường Thành.

“Lẽ ra chúng ta nên đuổi theo anh Jon,” Bran nói khi nhìn thấy cổng. Từ lúc Mùa Hè nhìn thấy anh phi ngựa chạy trốn trong buổi đêm giông bão đó, cậu thường nghĩ về người anh cùng cha khác mẹ. “Lẽ ra chúng ta nên tìm lối ra vương lộ và tới Hắc Thành.”

“Thưa hoàng tử, chúng ta không nên,” Jojen đáp, “Tôi đã nói với ngài nguyên nhân rồi.”

“Nhưng ở đó có đám dân du mục. Chúng đã giết một người và chúng muốn giết cả anh Jon nữa. Jojen à, chúng có cả trăm tên.”

“Ta biết,” Bran đau khổ nói. Con sói tuyết đã giết ba người, có thể nhiều hơn, nhưng chúng quá đông. Khi chúng tạo thành một vòng tròn vây quanh người đàn ông cao lớn không có tai, nó đã cố chạy thoát trong mưa, nhưng một mũi tên lao nhanh về phía nó và cơn đau đột ngột đã hất tung Bran ra khỏi hình hài của nó, và Bran trở lại là chính mình. Cuối cùng, sau khi bão tan, họ túm tụm vào với nhau trong bóng tối, không có lửa, khi nào thực sự cần mới thì thào với nhau vài lời, lắng nghe hơi thở nặng nề của Hodor và lo lắng không biết sớm mai đám người du mục có tìm cách băng qua hồ hay không. Đã mấy lần Bran tìm kiếm Mùa Hè, nhưng cơn đau xô cậu trở lại với chính mình, y như ấm nước sôi sùng sục khiến người ta phải rụt tay lại ngay cả khi người ta cố nắm lấy ấm. Đêm đó, chỉ có Hodor ngủ được, miệng anh ta lẩm bẩm “Hodor, Hodor” mỗi khi trở mình. Bran lo Mùa Hè sẽ chết trong bóng đêm. Con cầu xin các cựu thần, cậu cầu nguyện, các thần đã cướp đi Winterfell, đã lấy mạng sống của cha con, đã lấy đôi chân của con, nhưng xin đừng cướp Mùa Hè đi. Và xin các thần hãy che chở cho anh Jon Snow, hãy xua đuổi đám dân du mục đi khỏi đây.

Không cây đước nào mọc trên hòn đảo đá giữa hồ, nhưng dường như các cựu thần đã nghe thấu lời cầu nguyện của cậu. Sáng hôm sau, đám người du mục ra đi từ sớm, chúng lột trần những cái xác vốn là người của chúng và cả ông già mà chúng giết, thậm chí chúng còn câu được một ít cá trong hồ, và có một khoảnh khắc đáng sợ khi ba tên du mục tìm thấy bờ đê và định bước qua… nhưng bờ đê lệch hướng nên chúng dừng lại, và hai tên suýt chết đuối trước khi mấy tên khác kéo chúng lên. Tên đầu trọc cao lớn quát thét bọn chúng, lời nói của hắn vang vọng qua dòng nước bằng thứ ngôn ngữ xa lạ mà ngay cả Jojen cũng không hiểu. Một lát sau, chúng thu dọn khiên giáo rồi hành quân từ phía đông về phía bắc, đúng con đường anh Jon đã đi. Bran cũng muốn đi, để tìm Mùa Hè, nhưng chị em Nhà Reed không đồng ý.

“Chúng ta sẽ ở lại đây một đêm nữa,” Jojen nói, “nên cách đám dân du mục kia vài dặm. Ngài không muốn giáp mặt chúng lần nữa, phải không?”

Chiều muộn hôm đó, Mùa Hè trở về từ nơi ẩn nấp, kéo lê chân sau. Nó ăn ít thịt từ những cái xác trong quán trọ, xua lũ quạ đi và bơi ra đảo. Meera rút mũi tên gẫy ra khỏi chân nó và đắp vết thương bằng thứ nước cây chị tìm được dưới chân lâu đài. Con sói tuyết vẫn còn đi khập khiễng, nhưng mỗi ngày nó lại bình phục thêm một chút, Bran cảm thấy như vậy. Các vị thần đã nghe thấu lời cầu xin của cậu.

“Có lẽ chúng ta nên thử tìm lâu đài khác xem sao,” Meera nói với em trai. “Biết đâu chúng ta sẽ tìm được cánh cổng khác. Tôi có thể đi thăm dò nếu cậu muốn, tôi tự làm sẽ tốt hơn.”

Bran lắc đầu. “Nếu chị đi về hướng đông, chị sẽ tới Hồ Sâu, rồi tới Cổng Nữ Hoàng. Hướng tây là Icemark. Các lâu đài đó đều giống lâu đài này, chỉ có điều nhỏ hơn. Tất cả các cánh cổng đều đã bị bít lại, trừ cổng Hắc Thành, Trạm Đông và Tháp Đêm.”

Hodor nói, “Hodor” để đáp lại ý kiến đó và chị em Nhà Reed nhìn nhau. “Ít nhất tôi cũng nên trèo lên đỉnh Tường Thành,” Meera quyết định. “Biết đâu trên đó tôi sẽ nhìn thấy cái gì đó.”

“Chị hy vọng sẽ nhìn thấy cái gì vậy?” Jojen hỏi.

“Thứ gì đó,” Meera đáp và lúc đó chị tỏ ra rất cứng rắn.

Phải là mình mới đúng. Bran nghển cổ lên nhìn Tường Thành, và tưởng tượng chính cậu đang leo lên đó từng centimet một, dò dẫm ngón tay trên những khe nứt của tảng băng và bấu chặt đầu ngón chân vào các chỗ để chân. Ý nghĩ đó khiến cậu mỉm cười, bất chấp mọi thứ, bất chấp những giấc mơ, đám dân du mục, anh Jon và tất cả mọi chuyện. Hồi còn nhỏ hơn, cậu đã trèo lên tất cả các bức tường của thành Winterfell, và cả những lâu đài nữa, nhưng không có chỗ nào cao như Tường Thành, hơn nữa, các bức tường và lâu đài đó chỉ được làm bằng đá. Thoáng nhìn, có vẻ như Tường Thành được xây bằng đá, với màu xám xịt và lỗ chỗ, nhưng khi mây tan, mặt trời sẽ khoác lên Tường Thành diện mạo hoàn toàn khác, nó sẽ thay đổi ngay tức khắc, với màu trắng và xanh lóng lánh. Đó là nơi tận cùng của thế gian, Già Nan vẫn luôn nói vậy. Phía bên kia Tường Thành đầy rẫy quái vật, người khổng lồ và ma cà rồng, nhưng lũ quái thú ấy sẽ không thể vượt thành, chừng nào Tường Thành còn vững chắc. Mình cũng muốn đứng trên đỉnh Tường Thành với chị Meera, Bran nghĩ bụng. Mình muốn đứng trên đỉnh thành và nhìn xuống.

Nhưng cậu chỉ là một thằng nhóc tàn phế với đôi chân vô dụng, nên cậu chỉ có thể đứng dưới ngó nhìn Meera thay cậu trèo lên trên.

Chị ấy không thực sự trèo, nếu như so với cách cậu từng trèo. Chị ấy chỉ đang bước lên các nấc thang mà Đội Tuần Đêm đã đẽo hàng trăm, hàng ngàn năm trước. Cậu nhớ Maester Luwin từng nói Tháp Nightfort là lâu đài duy nhất có những bậc thang được đục ra từ chính lớp băng đá trên Tường Thành. Hoặc có thể chú Benjen đã nói vậy. Các lâu đài mới hơn có bậc thang bằng gỗ hoặc bằng đá, hoặc những bờ dốc bằng đất và sỏi cát. Băng đá thì quá nguy hiểm. Chính chú cậu đã nói vậy. Chú còn nói rằng bề mặt bên ngoài của Tường Thành thỉnh thoảng còn tan chảy mặc dù lõi bên trong tường vẫn đóng băng cứng như đá. Chắc hẳn các bậc thang cũng tan chảy và kết băng lại đến ngàn lần kể từ khi các anh em áo đen rời bỏ lâu đài, và sau mỗi lần tan rồi kết, chúng lại co lại một chút, nhẵn hơn, tròn hơn, và nguy hiểm hơn.

Và nhỏ hơn nữa. Dường như Tường Thành nuốt gọn các bậc thang đó vào bên trong. Meera Reed rất vững chân, nhưng chị ấy bước chậm quá, chầm chậm di chuyển từ nấc này sang nấc khác. Bran vừa quan sát vừa nghĩ, lát nữa trèo xuống còn khó hơn. Dù vậy, cậu ước gì mình được ở trên đó. Khi chị trèo lên đến đỉnh và bò lên những cục băng còn sót lại từ những bậc cao nhất, Meera biến mất khỏi tầm nhìn của cậu.

“Khi nào chị ấy mới trèo xuống?” Bran hỏi Jojen.

“Khi chị ấy sẵn sàng. Chị ấy muốn có một tầm nhìn tốt… nhìn Tường Thành và những thứ tít đằng xa kia. Dưới này chúng ta cũng nên làm như vậy.”

“Hodor?” Hodor ngờ vực nói.

“Có thể chúng ta sẽ tìm được cái gì đó,” Jojen quả quyết.

Hoặc thứ gì đó sẽ tìm thấy chúng ta. Nhưng Bran không thể nói điều đó ra; cậu không muốn Jojen nghĩ cậu là kẻ hèn nhát.

Thế rồi họ tìm kiếm, Jojen Reed dẫn đầu, Bran ngồi trong chiếc giỏ trên lưng Hodor, Mùa Hè khẽ bước bên họ. Có lần con sói tuyết lao vào một cánh cửa tối om và trở ra với một con chuột xám giữa hai hàm răng. Đầu Bếp Chuột, Bran nghĩ bụng, nhưng không phải màu đó, và chỉ to bằng con mèo thôi. Đầu Bếp Chuột màu trắng và to gần bằng một con lợn nái…

Ở Nightfort có rất nhiều những cánh cửa tối om, và chuột. Bran nghe thấy tiếng chúng đang chạy loạn lên dưới hầm chứa và hầm rượu, hay trong những đường hầm mê cung tối đen như mực nối thông với nhau. Jojen muốn xuống đó ngó quanh nhưng Hodor nói “Hodor” còn Bran nói “Không.” Trong bóng tối của Nightfort, có những thứ còn tồi tệ hơn là chuột.

“Dường như tòa tháp này cũ quá rồi,” Jojen nói khi họ bước xuống một ban công, nơi ánh mặt trời chiếu những dải ánh sáng qua khung cửa sổ trống rỗng.

“Phải cũ gấp hai lần Hắc Thành ấy,” Bran vừa hồi tưởng vừa nói. “Đây là lâu đài đầu tiên của Tường Thành, và là lâu đài lớn nhất.” Nhưng nó cũng là lâu đài đầu tiên bị bỏ hoang, từ thời Vua Già. Thậm chí sau đó đến ba phần tư lâu đài bị bỏ trống và quá tốn kém để tu tạo. Hoàng hậu Alysanne tốt bụng đã gợi ý rằng Đội Tuần Đêm nên thay thế lâu đài này bằng một lâu đài nhỏ hơn, mới hơn cách 7 dặm về phía đông, nơi Tường Thành cuốn dọc theo bờ hồ trong xanh đẹp đẽ. Lâu đài Hồ Sâu đã được trả bằng trang sức của hoàng hậu và được xây dựng bởi những người mà Vua Già cử xuống phương bắc, còn các anh em áo đen đã rời bỏ Nightfort cho lũ chuột.

Nhưng đã hai thế kỷ trôi qua. Bây giờ Hồ Sâu cũng trống rỗng như lâu đài mà nó thay thế, và Tháp Nightfort…

“Ở đây có ma,” Bran nói. Trước đây Hodor đã nghe tất cả những câu chuyện ma, nhưng có lẽ Jojen thì chưa. “Những bóng ma cổ xưa, từ trước thời của Vua Già, thậm chí trước cả thời Aegon Vua Rồng nữa, bảy mươi chín kẻ đào ngũ đi về phương nam trở thành những kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Một trong số đó là con trai út của Lãnh chúa Ryswell, vậy nên khi tới những vùng đất gò đồi, họ xin ông ấy cho họ nơi trú ngụ, nhưng Lãnh chúa Ryswell bắt giữ và trả họ về Tháp Nightfort. Tướng chỉ huy ra lệnh đào những cái hố trên đỉnh Tường Thành và nhốt những người đào ngũ trong đó rồi bít kín lại, chôn sống họ trong băng tuyết. Họ có giáo mác, tù và, và tất cả bọn họ đều quay mặt về phương bắc. Người ta gọi họ là bảy mươi chín lính canh. Khi còn sống họ đã rời bỏ vị trí của mình, thì khi chết họ phải tiếp tục nhiệm vụ canh gác mãi mãi. Nhiều năm sau, khi Lãnh chúa Ryswell già và hấp hối, ông cho người đưa mình đến Nightfort để được khoác lên người bộ quần áo màu đen và đứng bên cạnh con trai mình. Ông ta được đưa về Tường Thành vì danh dự, nhưng vì vẫn yêu thương con trai, vậy nên ông ta đến đó canh gác cùng.”

Họ mất nửa ngày để mò mẫm khắp lâu đài. Một vài tòa tháp đã sụp đổ và một số khác trông không còn an toàn, nhưng họ vẫn trèo lên tháp chuông (những quả chuông đã mất) và tổ quạ (quạ đã bay đi hết). Dưới hầm rượu, họ tìm thấy một hầm lớn đầy những chiếc thùng bằng gỗ sồi, có điều khi Hodor gõ gõ vào thì chúng kêu o o rỗng tuếch. Họ tìm thấy một thư viện (giá và kệ đã sập, sách thì không còn và chuột ở khắp mọi nơi.)

Họ còn thấy một hầm ngục ẩm thấp lờ mờ sáng với những xà lim đủ cho năm trăm tù nhân, nhưng khi Bran nắm vào các thanh sắt han gỉ thì chúng vỡ vụn trong tay cậu. Đại sảnh chỉ còn lại một bức tường đổ nát, một nhà tắm dường như đã chìm hẳn xuống đất, và một bụi gai khổng lồ chiếm gọn phần sân phía ngoài xưởng vũ khí, nơi các anh em áo đen từng rèn giáo mác, khiên và kiếm. Xưởng đúc và lò rèn vẫn còn đó, mặc dù mạng nhện, chuột và bụi đã chiếm hết chỗ của lưỡi kiếm, lò bễ và đe. Thi thoảng Mùa Hè nghe thấy những âm thanh mà Bran dường như không nghe thấy, con sói tuyết nhe răng ra, lông phía trên cổ dựng ngược lên… nhưng Đầu Bếp Chuột không xuất hiện, cả bảy mươi chín lính canh và Rìu Điên cũng vậy. Bran thấy nhẹ nhõm đi nhiều. Có lẽ đây chỉ là một lâu đài hoang tàn đổ nát mà thôi.

Khi Meera quay trở lại, mặt trời phía trên những ngọn đồi phía tây chỉ còn lại một mảnh như thanh kiếm. “Chị nhìn thấy gì không?” Cậu em Jojen hỏi chị.

“Chị nhìn thấy rừng ma,” chị nói giọng đăm chiêu. “Những ngọn đồi hoang trải dài hết tầm mắt và bao phủ bởi rừng cây hoàn toàn nguyên sơ. Chị nhìn thấy ánh mặt trời long lanh trên mặt hồ, và những đám mây lờ lững trôi về phía tây. Thấy những lớp tuyết lâu đời với những trụ băng cao như cây lao. Chị còn nhìn thấy một con chim đại bàng đang chao liệng. Chị nghĩ nó cũng nhìn thấy chị. Chị đã vẫy nó.”

“Chị có nhìn thấy đường xuống không?” Jojen hỏi tiếp.

Chị lắc đầu. “Không, nó dốc đứng và băng trơn lắm. Lẽ ra chị có thể trèo xuống nếu chị có một cuộn dây chắc chắn và một cái rìu chặt đá lấy chỗ bíu tay, nhưng…”

“…nhưng không phải chúng ta,” Jojen nói nốt câu.

“Ừ,” chị cậu tán thành. “Em có chắc đây là nơi đã nhìn thấy trong giấc mơ không? Biết đâu chúng ta đến nhầm lâu đài rồi.”

“Không. Chính là lâu đài đó. Ở đây có một cái cổng.”

Đúng vậy, Bran nghĩ, nhưng nó đã bị bít kín đá và băng.

Khi mặt trời bắt đầu đổ bóng dài trên những tòa tháp, gió thổi mạnh hơn, khiến đám lá khô rụng bay xào xạc khắp sân. Sự u ám bủa vây khiến tâm trí Bran quay về những câu chuyện khác của Già Nan, chuyện về Vua Bóng Đêm. Ông ấy là người thứ mười ba cai quản Đội Tuần Đêm, và là một chiến binh không biết sợ. “Và đó là sai lầm của ông ấy,” bà kể tiếp, “vì con người ai cũng phải biết thế nào là nỗi sợ hãi.” Nguyên nhân khiến ông ấy suy sụp chính là một người phụ nữ; hình bóng cô ta thấp thoáng trên đỉnh Tường Thành, với làn da trắng như mặt trăng và đôi mắt xanh như những vì sao. Vì không biết sợ nên ông ấy đã đuổi theo cô ta, bắt và yêu thương cô ta, mặc dù da thịt cô ta lạnh như băng, và khi ông ta trao hạt giống của mình cho cô ta, ông ta đã trao luôn cả linh hồn mình.

Ông ấy đưa cô ta về Nightfort và tuyên bố cô ta là hoàng hậu, còn ông là vua. Bằng những phép yêu thuật lạ lùng, ông buộc các anh em tuyên thệ phải tuân theo ý muốn của mình. Vua Bóng Đêm và hoàng hậu xác chết cai trị nơi đó suốt mười ba năm ròng, cho đến khi Nhà Stark ở Winterfell và Joramun của người du mục cùng chung sức giải thoát Đội Tuần Đêm khỏi cảnh tù đày. Sau khi ông ta bị lật đổ, người ta phát hiện ra ông ta đã hiến thân cho Ngoại Nhân, và khi đó, mọi thông tin về Vua Bóng Đêm đã bị hủy hoại, tên của ông ta không được phép nhắc đến.

“Có người nói đó là Bolton,” Già Nan kết thúc câu chuyện như vậy. “Người thì nói đó là một Magnar vùng Skagos, người lại cho đó là Umber, Flint hay Norrey. Cũng có người khiến ta nghĩ rằng đó là Nhà Woodfoot, vì họ thống trị Đảo Bear trước khi người Quần Đảo Iron đến. Nhưng không phải là ai trong số bọn họ. Người đó là một người Nhà Stark, là anh em của người đã lật đổ ông ấy.” Sau đó Già Nan thường véo mũi Bran, và cậu không sao quên được hành động đó. “Ông ấy là một người Nhà Stark ở Winterfell, và ai biết được? Có thể ông ấy là Brandon. Có thể ông ấy đã ngủ trên chính chiếc giường này và trong chính căn phòng này.”

Không, Bran thầm nghĩ, nhưng ông ấy đã đi lại trong lâu đài này, và chúng ta sẽ ngủ lại đây đêm nay. Cậu không thích ý nghĩ đó chút nào. Già Nan nói ban ngày, Vua Bóng Đêm chỉ là một người bình thường, nhưng ông ấy cai trị khi đêm về. Và trời thì mỗi lúc một tối hơn.

Chị em Nhà Reed quyết định sẽ ngủ trong bếp – nhà bếp hình bát giác với một mái vòm đã vỡ. Chỗ này có vẻ là nơi trú ngụ tốt hơn hẳn những chỗ khác, mặc dù có một cây đước mọc lên từ nền đá xám đen bên cạnh một cái giếng to lớn giữa phòng; cây đước mọc xiên về hướng lỗ trên mái, những cành cây trắng-như-xương vươn về phía mặt trời. Cây đước này rất lạ, nó mảnh hơn tất cả những cây đước Bran từng thấy, và trên cây cũng không có khuôn mặt nào, nhưng ít nhất, cái cây cũng giúp cậu cảm thấy các vị cựu thần như đang kề bên.

Nhưng đó là điều duy nhất khiến cậu thích ở căn bếp này. Mái bếp gần như còn nguyên vẹn, vậy nên họ sẽ không bị ướt nếu trời mưa, nhưng cậu không nghĩ là họ sẽ được ấm. Cậu cảm thấy cái lạnh đang phả ra từ sàn đá. Bran cũng không thích những hình bóng ở đây, hay mấy lò gạch khổng lồ vây quanh họ như những cái miệng đang há ra, hay những cái xiên thịt han gỉ, những vết bẩn, vết đốm cậu nhìn thấy dọc bức tường. Đó là nơi Đầu Bếp Chuột đã chặt hoàng tử thành từng miếng, cậu biết như vậy, và hắn đã nướng bánh bằng một trong những cái lò này.

Cái giếng là thứ mà cậu ghét nhất. Nó rộng hơn 30 mét, toàn bộ bằng đá, bên trong có xây bậc thang nối tiếp nhau kéo xuống tít bên dưới tối tăm. Thành giếng ẩm ướt và ngập mùi diêm tiêu, nhưng không ai trong số họ nhìn thấy nước ở đáy giếng, ngay cả chị Meera với đôi mắt thợ săn sắc sảo cũng không nhìn thấy.

“Chắc giếng không có đáy,” Bran nói giọng không chắc chắn.

Hodor ló đầu qua thành giếng cao đến gối và nói “HODOR!” Âm thanh vang vọng xuống giếng thành một tràng “Hodorhodorhodorhodor,” nhỏ dần nhỏ dần, “hodorhodorhodorhodor,” cho đến khi nó chỉ còn là một tiếng thì thầm. Hodor giật mình. Rồi anh ta phá lên cười, và quỳ xuống vơ một mảnh đá vụn trên sàn.

“Hodor, đừng!” Bran kêu lên, nhưng quá muộn rồi. Hodor đã ném mảnh đá đó qua thành giếng. “Lẽ ra anh không nên làm thế. Anh không biết dưới đó có gì mà. Biết đâu anh làm cái gì đó bị đau, hoặc… hoặc đánh thức cái gì đó…”

Hodor nhìn cậu với ánh mắt vô tội. “Hodor?”

Tít sâu, sâu lắm bên dưới, họ nghe thấy tiếng viên đá rơi xuống nước. Không phải tiếng nước bắn tung lên. Nó còn hơn cả một cái vực sâu, như thể dưới đó là cái miệng run run lạnh lùng nuốt trôi viên đá của Hodor. Tiếng vọng yếu ớt vang lên miệng giếng, và trong một giây Bran nghĩ mình nghe thấy tiếng gì đó chuyển động, quẫy nước. “Có lẽ chúng ta không nên ở lại đây,” cậu nói giọng bất an.

“Bên cái giếng á?” Meera hỏi. “Hay trong Tháp Nightfort?”

“Phải,” Bran đáp.

Chị cười và bảo Hodor ra ngoài kiếm củi. Mùa Hè cũng đi theo. Trời lúc này cũng đã gần tối và con sói tuyết muốn đi săn.

Hodor quay lại một mình, hai tay bê đầy củi khô và cành cây gãy. Jojen Reed lấy viên đá lửa và dao chuẩn bị đánh lửa, còn Meera lọc xương mớ cá chị bắt được ở dòng suối cuối cùng mà họ băng qua. Bran tự hỏi bao nhiêu năm đã trôi qua kể từ khi bữa tối cuối cùng được nấu nướng trong bếp ăn của Tháp Nightfort. Cậu cũng tự hỏi ai là đầu bếp, mặc dù có lẽ không biết thì tốt hơn.

Khi ngọn lửa cháy đỏ, Meera đặt cá lên bếp. Ít nhất đó không phải món bánh kẹp thịt. Đầu Bếp Chuột đã nấu thịt con trai của vua Andal trong một cái bánh to, cùng với hành, cà rốt, nấm, rất nhiều ớt và muối, thêm một lát thịt muối và rượu màu đỏ đậm xứ Dorne. Sau đó hắn mời nhà vua ăn bánh, và ngài tấm tắc khen bánh ngon, thậm chí còn yêu cầu mang thêm miếng thứ hai. Và rồi các vị thần biến hình gã đầu bếp thành một con chuột trắng quái dị khổng lồ chỉ biết săn chính lũ con nhỏ của mình. Kể từ đó hắn quanh quẩn ở Nightfort, ăn ngấu nghiến lũ con mà vẫn không thấy no nê. “Các vị thần nguyền rủa hắn không phải vì tội giết người,” Già Nan nói, “cũng không phải do đã dâng vua Andal ăn món bánh kẹp thịt thái tử. Con người có quyền trả thù. Nhưng hắn đã giết một vị khách dưới mái nhà của hắn, và đó là điều mà các vị thần không thể dung thứ.”

“Chúng ta nên đi ngủ thôi,” Jojen trịnh trọng nói sau khi họ no bụng. Ngọn lửa tàn dần. Cậu lấy que cời dụi lửa. “Có lẽ tôi sẽ có một giấc mơ xanh khác để chỉ đường cho chúng ta.”

Hodor cuộn tròn lại và ngáy nhè nhẹ. Thi thoảng anh ta lại đạp đạp dưới áo choàng và lẩm nhẩm gì đó nghe giông giống từ “Hodor.” Bran bò gần đống lửa. Hơi ấm mang đến cảm giác êm ả, tiếng lửa tí tách khiến lòng dạ cậu dịu xuống, nhưng giấc ngủ chưa đến. Bên ngoài gió thổi những đám lá bay vèo ngang sân, cào vào những cánh cửa ra vào và cửa sổ. Âm thanh đó khiến cậu nghĩ đến những câu chuyện của Già Nan. Gần như cậu còn nghe thấy tiếng hồn ma đám lính canh đang gọi nhau trên đỉnh Tường Thành và gió đưa tiếng tù và ma quái của họ đi xa. Ánh trăng nhợt nhạt chiếu xiên qua lỗ trên mái, tỏa bóng lên những nhánh cây đước đang vươn lên mái nhà. Có vẻ như cây đước đang cố với lấy mặt trăng và kéo nó xuống dưới giếng. Thưa các cựu thần, Bran cầu nguyện, nếu người nghe thấy con, xin đừng đem giấc mơ đến cho con đêm nay. Hoặc nếu có, xin hãy cho con một giấc mơ đẹp. Nhưng các vị thần không trả lời.

Bran cố ép mình nhắm mắt lại. Có lẽ cậu cũng đã ngủ thiếp đi, hoặc có thể chỉ gà gật, nửa tỉnh nửa mê, cố không nghĩ đến Rìu Điên, Đầu Bếp Chuột hay bất cứ thứ gì xuất hiện khi đêm về.

Và cậu nghe thấy tiếng động.

Choàng mở mắt, cậu nín thở. Tiếng gì vậy? Mình nằm mơ sao? Hay mình lại gặp ác mộng? Cậu không muốn đánh thức Meera và Jojen chỉ vì một giấc mơ tồi tệ, nhưng… có… một tiếng động, xa lắm… Lá cây, là tiếng lá cây cào cào vào bức tường bên ngoài kêu sột soạt… hoặc tiếng gió, có thể là tiếng gió… Nhưng âm thanh đó không xuất phát từ bên ngoài. Bran thấy nổi da gà. Tiếng động là ở trong này, cùng với chúng ta, và càng lúc càng lớn hơn. Bran chống khuỷu tay lên và nghe ngóng. Đúng là có tiếng gió, và tiếng lá cây bay xào xạc, nhưng còn có âm thanh khác nữa. Tiếng bước chân. Ai đó đang đi theo lối này. Thứ gì đó đang đến gần.

Cậu biết đó không phải là lính canh. Họ không bao giờ rời Tường Thành. Nhưng có thể Nightfort còn có những bóng ma khác – những bóng ma khủng khiếp hơn. Cậu nhớ những điều Già Nan nói về Rìu Điên, rằng hắn tháo ủng ra và đi chân không lảng vảng khắp các sảnh của lâu đài trong bóng đêm, không hề gây ra tiếng động nào báo hiệu sự xuất hiện của hắn, trừ những giọt máu nhỏ xuống từ rìu, khuỷu tay và bộ râu đẫm máu của hắn. Hoặc có thể không phải là Rìu Điên, có thể là thứ gì đó xuất hiện vào ban đêm. Già Nan kể những cậu bé học việc đều nhìn thấy nó, nhưng khi chúng nói lại cho tướng chỉ huy thì mỗi đứa mô tả một khác. Và rồi trong một năm, có tới ba cậu bé học việc chết, cậu bé thứ tư hóa điên, và hàng trăm năm sau, khi thứ đó lại đến, người ta thấy những cậu bé học việc đều bị xích và kéo lê đằng sau nó.

Nhưng đó chỉ là một câu chuyện thôi. Cậu chỉ đang khiến chính mình sợ hãi. Chẳng có gì xuất hiện trong đêm cả, Maester Luwin đã nói vậy. Nếu quả thực từng có thứ đó, thì nó cũng đã biến mất khỏi thế gian, giống như những người khổng lồ và lũ rồng. Chẳng có gì đâu, Bran thầm nghĩ bụng.

Nhưng bây giờ tiếng động đó lớn hơn hẳn.

Cậu nhận thấy âm thanh đó phát ra từ dưới giếng. Điều đó khiến cậu càng sợ hơn. Thứ gì đó chui lên từ lòng đất, chui ra từ bóng tối. Hodor đã đánh thức nó. Anh ta đánh thức nó bằng viên đá ngu ngốc kia, và bây giờ nó đang đến. Thật khó nghe rõ qua tiếng ngáy của Hodor và tiếng tim cậu đang đập thình thịch. Đó có phải là tiếng máu nhỏ xuống từ cái rìu hay không? Hay đó là tiếng cào xới của những sợi xích ma quỷ? Bran cố lắng nghe. Tiếng bước chân. Chắc chắn là tiếng bước chân, mỗi lúc một lớn hơn. Nhưng cậu không biết có bao nhiêu bước chân, bởi cái giếng tạo ra tiếng vang vọng. Cậu không nghe thấy tiếng nhỏ giọt, hay tiếng xích lách cách, nhưng có âm thanh khác… tiếng rên rỉ mong manh cao vút, giống như ai đó trong cơn đau đớn với hơi thở bị bóp nghẹt. Nhưng tiếng bước chân là lớn nhất. Những bước chân đang đến gần.

Bran sợ hãi không kêu lên nổi. Ngọn lửa đã lụi thành đám than hồng mờ nhạt và các bạn cậu đều đang ngủ. Cậu gần như tuột khỏi hình hài của mình và đội lốt con sói tuyết, nhưng Mùa Hè có lẽ ở cách xa đây hàng dặm. Cậu không thể để các bạn mình bơ vơ trong bóng tối và đối mặt với thứ bước ra từ cái giếng đó. Mình đã bảo họ đừng đến đây rồi, cậu đau khổ nghĩ. Mình đã bảo là ở đây có ma. Mình đã bảo họ nên đi tới Hắc Thành.

Bran nghe thấy tiếng chân nặng nề, chậm chạp, lạo xạo, cào xới vào lớp đá. Nó hẳn phải to lắm. Trong câu chuyện của Già Nan, Rìu Điên là một gã to lớn, và thứ đến trong đêm cũng khổng lồ.

Hồi ở Winterfell, chị Sansa nói rằng ác quỷ bóng tối không thể chạm vào cậu nếu cậu trốn ở dưới chăn. Bran gần như đã làm vậy, trước khi cậu nhớ ra rằng mình là một hoàng tử, và sắp trở thành một người đàn ông trưởng thành.

Bran trườn qua sàn nhà, kéo lê cái chân vô dụng đằng sau cho tới khi cậu quờ quạng và chạm vào chân Meera. Chị tỉnh giấc ngay tức khắc. Cậu chưa thấy ai tỉnh giấc hoặc cảnh giác nhanh như Meera Reed. Bran giơ tay lên miệng ra hiệu cho chị không nói gì. Ngay lập tức, Meera cũng nghe thấy âm thanh đó, cậu nhận ra điều đó trên nét mặt của chị; tiếng bước chân vang vọng, rên rỉ yếu ớt, hơi thở nặng nề.

Không nói một lời, Meera nhón chân đứng dậy và nắm lấy vũ khí. Tay phải cầm cây đinh ba và tay trái lủng lẳng tấm lưới, chị rón rén bước chân không về phía giếng. Jojen vẫn đang ngủ, hoàn toàn không hay biết gì, trong khi Hodor lẩm bẩm và giãy giụa trong giấc ngủ đầy bất an. Bran dõi theo Meera đang bước lặng lẽ như một con mèo dưới ánh trăng. Mình không thể để chị ấy chiến đấu một mình, cậu nghĩ bụng. Mùa Hè đang ở xa đây, nhưng…

Cậu thoát khỏi hình hài của mình, và với tay về phía Hodor.

Không giống như chui vào thân thể của Mùa Hè. Việc đó quá dễ dàng, đến mức Bran gần như không hay nghĩ gì đến nó. Nhưng việc này khó hơn, giống như cậu phải cố xỏ chân phải vào chiếc ủng trái. Hoàn toàn không phù hợp, ngay cả chiếc ủng cũng sợ hãi và không biết chuyện gì đang xảy ra, nó đang cố đẩy cái chân ra xa. Cậu ngửi thấy mùi nôn mửa phía trong cổ họng Hodor, và thứ mùi đó khiến cậu suýt bỏ chạy. Thay vì bò và chúi người, cậu ngồi dậy, thu hai chân lại – đôi chân to lớn khỏe mạnh – và đứng lên. Mình đang đứng lên. Cậu bước một bước. Mình đang đi. Đó quả là một cảm giác lạ lùng mà cậu cảm nhận được. Bran thấy mình bước trên sàn đá lạnh lẽo và vỡ vụn, giờ cậu không còn bị què nữa. Cậu nắm lấy thanh kiếm của Hodor. Hơi thở của anh ta ầm ầm như tiếng lò bễ của người thợ rèn.

Dưới giếng vọng lên tiếng khóc, nhát xiên đâm thẳng vào người hắn như mũi dao. Bóng đen to lớn nhô lên khỏi bóng tối rồi lảo đảo ngã về phía ánh trăng. Nỗi sợ hãi trào lên trong Bran quá lớn, trước khi kịp nghĩ đến việc rút thanh kiếm của Hodor ra, cậu đã thấy mình ngồi trở lại sàn bếp cùng với tiếng gào của Hodor “HodorhodorHODOR,” y như lúc anh ta la hét trong tòa tháp bên hồ mỗi khi ánh chớp nhá lên. Nhưng thứ chui ra từ bóng tối cũng đang hét ầm lên và quẫy đạp điên cuồng trong tấm lưới của Meera. Bran nhìn thấy ngọn giáo của chị lao vào trong bóng tối để ngáng đường, khiến nó loạng choạng ngã xuống, vật lộn trong tấm lưới. Tiếng rên khóc vẫn vọng lên từ dưới giếng, thậm chí lúc này còn lớn hơn. Trên nền nhà, cái thứ đen sì đó ngồi phịch xuống, vật lộn và rít lên thất thanh “Không, không, đừng, làm ơn, ĐỪNG…”

Meera đứng trên hắn, ánh trăng phủ lớp sáng bạc trên các mũi xiên đinh ba của chị. “Ngươi là ai?” Chị tra hỏi.

“Tôi là SAM,” gã thút thít. “Sam, Sam, tôi là Sam, hãy thả tôi ra, cô đâm trúng tôi rồi…” Kẻ đó lăn lộn trong khoảng sáng của ánh trăng, vùng vẫy và nghiêng ngả trong đống lưới rối tung của Meera. Hodor vẫn đang kêu “Hodorhodorhodor.”

Jojen đã cho thêm củi vào đống than và thổi thổi đến khi lửa bùng cháy. Khi đã sáng trở lại, Bran nhìn thấy một cô gái với khuôn mặt mỏng manh nhợt nhạt ngồi bên miệng giếng, khắp người quấn chặt những tấm lông và da bên dưới chiếc áo choàng đen thùng thình, cô ta đang dỗ à ơi cho đứa bé trong tay thôi khóc. Gã đàn ông trên nền nhà vẫn đang thò tay qua lưới để với con dao của hắn ta, nhưng những mắt lưới ngăn cản hắn. Hắn không phải quái vật, cũng không phải Rìu Điên đẫm máu; hắn chỉ là một gã to béo trong chiếc áo bông đen, áo lông đen, áo da đen và giáp lưới đen. “Anh ta là một anh em áo đen,” Bran nói. “Meera, anh ta là người của Đội Tuần Đêm.”

“Hodor?” Hodor ngồi chồm hỗm xuống để nhìn người đàn ông trong tấm lưới. “Hodor,” anh ta lại nói, miệng huýt huýt.

“Đúng vậy, Đội Tuần Đêm.” Gã béo ú vẫn đang thở phì phò như bễ rèn. “Tôi là người của Đội Tuần Đêm.” Một mắt lưới dưới cằm nâng đầu anh ta lên, và vài mắt lưới khác dính chặt vào má. “Tôi là quạ người, làm ơn hãy thả tôi ra.”

Bran đột nhiên lưỡng lự. “Anh là quạ ba mắt à?” Anh ta không thể là con quạ ba mắt được.

“Tôi không nghĩ vậy.” Gã béo đảo mắt, nhưng đúng là anh ta chỉ có hai mắt thôi. “Tôi chỉ là Sam. Samwell Tarly. Hãy thả tôi ra, nó làm tôi đau.” Anh ta lại bắt đầu giãy giụa.

Meera quát lên giận dữ. “Đừng có đạp lung tung nữa. Anh mà làm rách lưới, tôi sẽ ném anh xuống giếng đấy. Nằm im và tôi sẽ gỡ anh ra.”

“Cô là ai?” Jojen hỏi cô gái bế đứa bé.

“Gilly,” cô đáp. “Gilly trong từ hoa đinh hương ấy. Anh ấy là Sam, chúng tôi không có ý khiến mọi người sợ đâu.” Cô đu đưa đứa bé và thì thầm à ơi, cuối cùng nó cũng nín khóc.

Meera tháo tấm lưới cho gã béo. Jojen đến bên thành giếng và ngó xuống. “Các người từ đâu đến vậy?”

“Từ nhà của Craster,” cô gái đáp. “Cậu chính là người đó phải không?”

Jojen quay lại nhìn cô gái. “Người đó ư?”

“Ông ta nói Sam không phải người đó,” cô giải thích. “Có một người mà ông ấy được cử đến để tìm kiếm.”

“Ai nói vậy?” Bran hỏi.

“Đôi Tay Lạnh,” Gilly khẽ đáp.

Meera gỡ phần cuối cùng của tấm lưới ra và gã béo gượng ngồi dậy. Bran thấy anh ta vẫn đang run bần bật, vật vã lấy hơi và gắt lên. “Ông ấy bảo sẽ có vài người trong lâu đài. Nhưng tôi đã không ngờ rằng mọi người lại ở ngay phía trên các bậc thang này, rồi quăng lưới và đâm vào bụng tôi.” Anh ta giơ bàn tay đeo găng đen ra sờ vào bụng. “Tôi có bị chảy máu không? Tôi không thể nhìn xuống được.”

“Tôi chỉ chọc nhẹ để anh ngã xuống thôi,” Meera đáp. “Nào, để tôi xem.” Chị quỳ xuống và sờ quanh rốn anh ta. “Anh đang mặc áo giáp sắt mà. Tôi còn chưa chạm đến da anh đâu.”

“Thế mà vẫn thấy đau,” Sam phàn nàn.

“Anh có thực sự là người của Đội Tuần Đêm không?” Bran hỏi.

Chiếc cằm của gã béo ú lúc lắc khi anh ta gật đầu. Da dẻ anh ta xanh xám và lùng bùng. “Tôi chỉ là quản gia, chăm sóc đàn quạ của Lãnh chúa Mormont.” Trong một giây, trông anh ta như sắp khóc. “Nhưng tôi đã lạc mất họ trên đỉnh Nắm Đấm và chính chúng tôi cũng đang lạc đường nữa. Đó là lỗi của tôi. Thậm chí tôi còn không thể tìm thấy Tường Thành, nó dài cả trăm dặm và cao hơn 200 mét, vậy mà tôi vẫn không thể tìm ra nó!”

“À, bây giờ thì anh tìm thấy nó rồi đấy,” Meera nói. “Nhấc cái mông của anh lên, tôi muốn lấy lại tấm lưới.”

“Làm thế nào anh qua được Tường Thành?” Jojen hỏi khi Sam đang lảo đảo đứng dậy. “Cái giếng kia dẫn đến một con sông dưới lòng đất và anh chui lên từ dưới đó phải không? Thậm chí hai người còn không bị ướt nữa…”

“Có một cái cổng,” Sam béo nói. “Bí mật và lâu đời như chính Tường Thành vậy. Cổng Đen, ông ấy gọi nó như thế.”

Chị em Nhà Reed nhìn nhau. “Chúng tôi sẽ tìm thấy cái cổng đó dưới đáy giếng à?” Jojen hỏi.

Sam lắc đầu. “Cậu sẽ không tìm thấy nó đâu. Tôi phải dẫn đường cho mọi người.”

“Tại sao?” Meera hỏi. “Nếu có một cái cổng…”

“Mọi người sẽ không tìm thấy đâu. Nếu có tìm được thì nó cũng không mở ra cho mọi người đâu. Đó là Cổng Đen.” Sam giật giật cánh tay áo bông đen bạc màu của mình. “Ông ấy bảo chỉ người của Đội Tuần Đêm mới có thể mở cửa. Phải là một người anh em đã tuyên thệ.”

“Ông ấy nói,” Jojen cau mày. “Đôi Tay Lạnh… đó sao?”

“Đó không phải tên thật của ông ấy,” Gilly vừa nói vừa rung rung đứa bé. “Chỉ tôi và Sam gọi như vậy thôi. Tay ông ấy lạnh như đá, nhưng ông ấy và đàn quạ của mình đã cứu chúng tôi khỏi những xác chết, rồi đưa chúng tôi tới đây bằng con nai sừng tấm của ông ấy.”

“Nai sừng tấm của ông ấy ư?” Bran kinh ngạc thốt lên.

“Nai sừng tấm của ông ấy ư?” Meera hỏi, hết sức sửng sốt.

“Đàn quạ của ông ấy ư?” Jojen hỏi.

“Hodor?” đến lượt Hodor.

“Ông ấy có màu xanh không?” Bran rất muốn biết. “Có nhánh gạc không?”

Cậu béo bối rối. “Con nai sừng tấm á?”

“Đôi Tay Lạnh ấy,” Bran nói giọng thiếu kiên nhẫn. “Già Nan thường kể, những người xanh cưỡi trên lưng con nai sừng tấm, và có khi họ còn có nhánh gạc nữa.”

“Ông ấy không phải người xanh. Ông ấy mặc đồ màu đen, giống người của Đội Tuần Đêm, nhưng trông nhợt nhạt như một con quái thú, và hai tay lạnh giá đến nỗi lúc đầu tôi rất sợ. Những con quái thú mắt xanh và không có lưỡi, hoặc là chúng đã quên mất cách dùng lưỡi.” Cậu béo quay sang phía Jojen. “Ông ấy đang đợi, chúng ta nên đi thôi. Cậu có đồ gì ấm hơn để mặc không? Cổng Đen lạnh lắm, và phía bên kia Tường Thành còn lạnh hơn nữa. Cậu…”

“Tại sao ông ta không đi cùng anh?” Meera hướng về phía Gilly và đứa bé. “Hai người họ đi cùng anh, sao ông ta lại không? Tại sao anh không đưa ông ta qua Cổng Đen cùng?”

“Ông ấy… ông ấy không thể.”

“Sao không?”

“Vì Tường Thành. Ông ấy bảo Tường Thành không chỉ là băng và đá. Có những lời nguyền đã đeo bám nó… những lời nguyền cổ xưa và mạnh mẽ lắm. Ông ấy không thể vượt qua Tường Thành.”

Căn bếp trở nên cực kỳ yên tĩnh sau đó. Bran nghe thấy tiếng lửa cháy tí tách, tiếng gió xào xạc trong bóng đêm, tiếng cọt kẹt của những nhánh cây đước đang vươn lên với lấy mặt trăng. Bên kia những cánh cổng là ác thú, người khổng lồ và ma cà rồng, cậu nhớ lại lời kể của Già Nan, nhưng chúng không thể vượt qua chừng nào Tường Thành vẫn còn đứng đó. Hãy ngủ đi, Brandon bé nhỏ của ta, con trai bé nhỏ của ta. Con không phải lo sợ. Ở đây không có ác quỷ nào đâu.

“Tôi không phải là người mà anh được sai đến dẫn đường,” Jojen Reed nói với Sam béo trong bộ quần áo đen rộng thùng thình và bẩn thỉu. “Cậu ấy cơ.”

“Ồ.” Sam nhìn xuống cậu đầy vẻ băn khoăn. Có lẽ lúc đó cậu béo mới nhận thấy Bran bị tật nguyền. “Tôi không… Tôi không đủ sức cõng cậu, tôi…”

“Hodor có thể cõng tôi.” Bran chỉ cái giỏ. “Tôi ngồi vào đó, trên lưng của anh ấy.”

Sam nhìn cậu chằm chằm. “Cậu là em trai của Jon Snow. Là cậu bé bị ngã…”

“Không,” Jojen nói. “Cậu bé đó chết rồi.”

“Đừng nói gì,” Bran cảnh báo. “Làm ơn nhé.”

Trông Sam thoáng bối rối nhưng cuối cùng anh ta nói, “tôi… tôi có thể giữ bí mật. Gilly cũng thế.” Rồi khi anh nhìn sang cô gái, cô ấy gật đầu. “Jon… Jon cũng là anh em của tôi. Cậu ấy là người bạn tốt nhất tôi từng có, nhưng cậu ấy đã đi theo Qhorin Cụt Tay để do thám đỉnh Frostfang và không bao giờ trở về. Chúng tôi đang đợi cậu ấy trên đỉnh Nắm Đấm khi… khi…”

“Anh Jon đang ở đây,” Bran nói. “Mùa Hè đã nhìn thấy anh ấy đi cùng với đám dân du mục. Chúng đã giết một người và anh Jon lấy ngựa của ông ta rồi chạy thoát. Tôi cược rằng anh ấy đến Hắc Thành rồi.”

Sam đưa đôi mắt to nhìn về phía Meera. “Cô có chắc chắn là Jon không? Cô đã nhìn thấy cậu ấy à?”

“Tôi là Meera,” Meera mỉm cười nói. “Mùa Hè là…”

Một cái bóng xuất hiện trên lỗ hổng mái nhà và nó nhảy vọt xuống dưới ánh trăng. Dù một chân bị thương nhưng con sói tuyết vẫn tiếp đất nhẹ nhàng như một bông tuyết rơi. Cô gái Gilly sợ hãi kêu lên và ôm chặt đứa bé vào lòng, khiến nó lại khóc váng lên.

“Nó sẽ không làm hại mọi người đâu,” Bran nói. “Đó là Mùa Hè.”

“Jon nói mỗi anh em nhà cậu đều có một con sói tuyết.” Sam tháo găng tay ra. “Tôi biết Bóng Ma.” Anh vẫy vẫy bàn tay, những ngón tay trắng mềm và mập mạp như những cái xúc xích nhỏ. Mùa Hè tiến lại gần, ngửi ngửi và liếm tay anh ta.

Đó là lúc Bran đưa ra quyết định. “Chúng tôi sẽ đi cùng với anh.”

“Tất cả mọi người sao?” Sam tỏ ra rất ngạc nhiên.

Meera vuốt tóc Bran. “Cậu ấy là hoàng tử của chúng tôi.”

Mùa Hè đánh hơi vòng quanh cái giếng rồi dừng lại ở bậc trên cùng và quay lại nhìn Bran. Nó muốn đi.

“Liệu Gilly có an toàn ở đây cho đến lúc tôi quay lại không?” Sam hỏi họ.

“Chị ấy sẽ được an toàn,” Meera đáp. “Chị ấy được chào đón bên ngọn lửa của chúng tôi.”

Jojen nói, “Lâu đài trống rỗng mà.”

Gilly nhìn quanh quất, “Craster thường kể cho chúng tôi những câu chuyện về lâu đài, nhưng tôi không hề biết chúng lại lớn đến thế này.”

Đây chỉ là bếp thôi. Bran không biết chị ta sẽ nghĩ gì khi nhìn thấy Winterfell, nếu như có ngày chị ta được nhìn thấy nơi ấy.

Họ mất vài phút thu dọn đồ đạc và nhấc Bran vào trong chiếc giỏ đan bằng cây liễu gai trên lưng Hodor. Gilly cho đứa bé bú bên đống lửa, trong khi họ chuẩn bị đi. “Anh sẽ quay lại vì tôi,” cô nói với Sam.

“Tôi sẽ quay lại sớm nhất có thể,” cậu béo hứa, “rồi chúng ta sẽ đến nơi nào đó ấm áp.” Khi nghe thấy điều đó, phần nào trong Bran tự nhủ không biết mình đang làm gì. Liệu mình có còn được đến nơi nào đó ấm áp nữa không?

“Tôi sẽ đi trước, tôi biết đường.” Sam ngập ngừng trên miệng giếng. “Nhiều bậc lắm,” anh ta thở dài trước khi bắt đầu đi xuống. Jojen theo sau, rồi đến Mùa Hè, Hodor với Bran trên lưng. Meera đi sau cùng, đinh ba và lưới trong tay.

Đường xuống thật dài. Miệng giếng ngập trong ánh trăng nhưng cái giếng nhỏ và tối dần mỗi khi họ đi được một vòng. Bước chân của họ vọng vào bờ đá ẩm ướt, tiếng nước phía dưới to dần. “Chúng ta có nên mang theo đuốc không?” Jojen hỏi.

“Mắt cậu sẽ quen thôi,” Sam nói. “Hãy bám một tay vào tường và cậu sẽ không bị ngã.”

Cái giếng trở nên tối và lạnh hơn sau mỗi vòng. Khi Bran ngẩng đầu nhìn lên phía trên, miệng giếng chỉ lớn bằng nửa mặt trăng. “Hodor,” Hodor thì thầm. “Hodorhodorhodorhodorhodorhodor,” cái giếng đáp lại. Tiếng nước nghe rất gần nhưng khi Bran ngó xuống cậu chỉ thấy toàn một màu đen.

Sau một hay hai vòng nữa thì Sam đột nhiên dừng lại. Anh ta đứng ở một phần tư vòng giếng so với Bran và Hodor, cách khoảng gần 2 mét nhưng Bran vẫn nhìn rõ. Cậu cũng nhìn thấy cái cổng. Cổng Đen, Sam gọi như thế, nhưng nó không phải màu đen.

Đó là một cây đước trắng và trên cây có một khuôn mặt.

Một chùm sáng phát ra từ thân cây, giống màu sữa và ánh trăng, mờ nhạt đến nỗi chùm sáng đó hầu như không chạm vào được thứ gì ngoài cánh cổng, thậm chí cả Sam đang đứng ngay trước nó. Khuôn mặt già nua nhợt nhạt, nhăn nheo và teo tóp đầy vẻ chết chóc. Miệng mím chặt và đôi mắt nhắm tịt. Hai má hóp, trán nhăn nhúm, cằm võng xuống. Nếu một người có thể sống ngàn năm không chết mà chỉ già đi, thì khuôn mặt ông ta cũng sẽ giống thế này.

Cánh cửa bỗng mở mắt.

Đôi mắt cũng màu trắng và mù lòa. “Ngươi là ai,” cánh cửa hỏi, và cái giếng thầm thì “ai-ai-ai-ai-ai-ai-ai.”

“Tôi là thanh kiếm trong bóng tối,” Samwell Tarly đáp. “Tôi là người canh giữ trên những bức tường. Tôi là ngọn lửa xua tan giá lạnh, là ánh sáng mang đến bình minh, là tù và đánh thức những người say ngủ. Tôi là tấm khiên bảo vệ vương quốc loài người.”

“Vậy hãy đi qua,” cánh cửa nói. Đôi môi của nó mở ra, rộng và rộng hơn, rộng mãi cho đến khi không còn lại gì ngoài cái miệng ngoác ra hết sức nhăn nhúm. Sam bước sang bên và vẫy Jojen đi trước. Mùa Hè theo sau, vừa đi vừa đánh hơi, rồi đến lượt Bran. Hodor cúi người xuống, nhưng không đủ thấp. Môi trên của cánh cửa khẽ chạm vào đỉnh đầu Bran, và một giọt nước nhỏ xuống rồi chầm chậm chảy xuống mũi cậu. Giọt nước ấy ấm áp lạ thường, và mằn mặn như nước mắt.

About The Author

Ngo David

Power is Power