Trò chơi vương quyền 4A – Tiệc quạ đen
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 23
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Tôi tìm một thiếu nữ 13 tuổi,” Brienne nói với bà già tóc bạc bên cạnh giếng làng. “Một tiểu thư quyền quý rất xinh đẹp, mắt xanh, tóc màu mật ong. Cô ấy có thể đi cùng một hiệp sĩ béo khoảng 40 tuổi, hoặc một gã hề. Bà có nhìn thấy cô ấy không?”
“Theo tôi nhớ thì không, thưa ngài,” bà già vừa nói vừa gõ gõ vào trán. “Nhưng tôi sẽ để ý.”
Người thợ rèn cũng không thấy cô ấy, cả tu sĩ trong thánh điện của làng, gã chăn lợn, cô gái nhổ hành trong vườn, hay bất kỳ một người dân nào khác mà Trinh Nữ Nhà Tarth tìm thấy trong những căn lều tranh trát đất vùng Rosby này. Nhưng cô vẫn không bỏ cuộc. Đây là con đường ngắn nhất để đến Duskendale, Brienne tự nhủ. Nếu Sansa đi đường này, chắc chắn phải có ai đó nhìn thấy cô ấy. Ở cổng lâu đài, hai gã lính mặc áo lông chồn, đeo huy hiệu ba sọc đỏ – huy hiệu của đội quân Nhà Rosby – đang cầm giáo đứng gác. Brienne hỏi họ. “Những ngày này, nếu cô ta đi trên đường thì sẽ nhanh chóng không còn là trinh nữ nữa đâu,” người lính già trả lời. Gã trẻ hơn lại chỉ muốn biết liệu cô ta có lông màu mật ong ở chỗ giữa hai chân hay không.
Ta sẽ không nhận được sự giúp đỡ ở đây. Khi Brienne lên ngựa, cô thoáng thấy một thằng bé gầy giơ xương đang cưỡi trên lưng một con ngựa đốm ở phía cuối làng. Mình chưa hỏi thằng bé này, cô nghĩ, nhưng thằng nhỏ đã biến mất đằng sau thánh điện trước khi cô kịp tìm ra nó. Nhưng cô không định đuổi theo. Chắc thằng nhóc cũng chẳng biết gì hơn những người khác. Rosby chỉ to như con
đường phình ra một chút, Sansa chẳng có lý do gì để lần lữa ở đây. Quay lại đường cái, Brienne đi về hướng đông bắc, băng qua những vườn táo và những cánh đồng lúa mạch, chẳng bao lâu đã để ngôi làng và lâu đài lại sau lưng. Mình sẽ tìm ra cô ấy ở Duskendale, nếu cô bé đi đường này, Brienne tự nhủ.
“Tôi sẽ tìm ra Sansa và bảo vệ cô ấy an toàn,” cô đã hứa với Ser Jaime như thế ở Vương Đô. “Vì mẹ cô bé, và vì anh nữa.” Những từ ngữ mới đẹp đẽ làm sao. Nhưng nói ra thì dễ, làm được mới khó. Cô đã quanh quẩn quá lâu và thu được quá ít manh mối trong thành phố. Đáng lẽ mình phải khởi hành sớm hơn… nhưng đi đâu? Sansa Stark biến mất đúng vào đêm vua Joffrey chết, và nếu có ai đó nhìn thấy cô ấy, hoặc biết bất cứ dấu vết nào của cô gái, họ cũng sẽ không nói ra. Ít nhất là không nói với mình.
Brienne tin rằng cô bé đã rời thành phố. Nếu cô ấy vẫn còn ở Vương Đô, đội áo choàng vàng sẽ tìm ra ngay. Cô ấy phải đi một nơi nào khác… nhưng cái nơi nào khác đó thật mơ hồ. Nếu mình là một thiếu nữ mới lớn, cô độc và sợ hãi, đang trong tình cảnh cực kỳ nguy hiểm, mình sẽ làm gì? Brienne tự
hỏi. Mình sẽ đi đâu? Đối với cô, câu trả lời đến thật dễ dàng. Cô sẽ quay về Tarth, quay về với cha. Nhưng cha Sansa đã bị chặt đầu ngay trước mắt cô ấy. Mẹ cô cũng đã bị giết ở Song Thành, còn Winterfell, thành lũy đồ sộ của gia tộc Stark đã bị cướp phá và đốt trụi, dân chúng bị tàn sát. Cô ấy không còn nhà để về, không cha mẹ, không anh em. Có lẽ cô ấy đã đến thành phố bên cạnh, hoặc lên tàu đi Asshai, giả thuyết nào cũng có khả năng như nhau.
Thậm chí, nếu Sansa muốn về nhà, cô ấy làm thế nào để về được? Vương lộ không an toàn, đến một đứa trẻ cũng biết điều đó. Bọn người Quần đảo Iron đang chiếm đóng Moat Cailin, chặn ngang Neck, còn tại Song Thành, Nhà Frey đang ngồi chễm chệ, họ chính là kẻ sát hại mẹ và anh trai Sansa. Cô ấy có thể đi bằng đường biển nếu có tiền, nhưng hải cảng của Vương Đô vẫn còn đổ nát, dòng sông đầy những bến tàu hư hỏng và ngổn ngang những con thuyền bị đốt, bị chìm. Brienne đã đi hỏi dọc bến tàu, nhưng chẳng ai nhớ có con tàu nào rời cảng vào đêm vua Joffrey băng hà hay không. Một người đàn ông cho biết, một vài tàu buôn thả neo trong vịnh và chuyển hàng vào bờ bằng thuyền nhỏ, nhưng nhiều tàu khác đi tiếp đến bờ biển Duskendale, bến cảng ở đó đang đông đúc hơn bao giờ hết.
Con ngựa cái Brienne cưỡi trông đáng yêu và di chuyển với nhịp độ khá nhanh. Trên đường có nhiều khách bộ hành hơn cô nghĩ. Hai anh em thằng bé ăn xin đeo bát lủng lẳng trên những cái dây buộc quanh cổ. Một tu sĩ trẻ cưỡi trên con ngựa nhỏ đẹp mã như ngựa của một lãnh chúa phóng vụt qua. Một lát sau, cô gặp một nhóm chị em quản sinh tử, và họ chỉ lắc đầu khi cô hỏi họ. Một đoàn xe bò chất đầy lúa và những bao tải len lọc cọc đi qua một cách nặng nề, rồi đến một gã chăn lợn với đàn lợn của gã, một bà lão ngồi kiệu do ngựa kéo và có đoàn tùy tùng cưỡi ngựa theo sau. Cô đã hỏi tất cả bọn họ xem có ai nhìn thấy một tiểu thư 13 tuổi có đôi mắt xanh và mái tóc nâu vàng hay không. Nhưng không ai thấy. Cô cũng hỏi về con đường trước mặt. “Ở Twixt đây và ở Duskendale vẫn còn an toàn,” một người đàn ông cho cô biết, “nhưng một khi đi qua Duskendale, trong rừng thường có cướp và đám tàn binh.”
Mùa này chỉ có thông lính và các cây cổ thụ là còn giữ được màu xanh; các loại cây lá rộng đã khoác một tấm áo choàng màu vàng và nâu đỏ, một số cây đã rụng hết lá, những cành màu nâu trơ trụi chĩa lên trời. Từng cơn gió mạnh thổi đến làm cuộn lên những đám lá khô trên con đường mòn. Chúng tạo ra âm thanh xào xạc khi bay qua vó con ngựa đỏ to lớn mà Jaime Lannister tặng cô. Một cô gái mất tích ở Westeros dễ dàng như một chiếc lá bay trong gió. Cô tự hỏi có phải Jaime giao việc này cho cô
như một trò đùa tai ác hay không? Có lẽ Sansa Stark đã chết, bị chặt đầu vì tham gia vào vụ đầu độc Joffrey và được chôn trong một nấm mồ vô chủ nào đó. Để che giấu cái chết của Sansa, không gì tốt hơn là cử một cô gái to xác ngốc nghếch từ Tarth đến đi tìm cô ta?
Không, Jaime không làm thế. Anh ta rất chân thành. Anh ta còn trao cho mình một thanh kiếm và gọi đó là Kẻ Giữ Lời Thề. Nhưng dù sao điều đó cũng không quan trọng. Cô đã hứa với phu nhân Catelyn là đem con gái bà trở về, không lời hứa nào thiêng liêng hơn lời hứa với người đã khuất.
Jaime khẳng định con gái nhỏ của bà ấy đã chết từ lâu. Tiểu thư Arya mà Nhà Lannister gửi lên phía bắc để kết hôn với con hoang của Roose Bolton là giả. Chỉ còn lại một mình Sansa. Brienne phải tìm cho ra cô bé.
Đến gần tối thì cô thấy một đống lửa ai đó đốt cạnh một con suối. Hai người đàn ông ngồi bên lửa nướng cá hồi, vũ khí và áo giáp của họ dựng dưới một gốc cây. Một người đã già, người kia ít tuổi hơn một chút nhưng cũng không còn trẻ nữa. Người trẻ hơn đứng dậy để chào đón cô. Bụng anh ta phệ căng ra ở chỗ dây rút chiếc áo da hoẵng lốm đốm. Bộ râu màu vàng sẫm lởm chởm không cạo che phủ má và cằm. “Chúng tôi có đủ cá hồi cho ba người đấy, ser,” anh ta nói to.
Đây không phải là lần đầu tiên Brienne bị nhầm tưởng là đàn ông. Cô kéo chiếc mũ sắt lớn trên đầu xuống để mái tóc vàng xỉn, dài và mỏng buông xuống quanh vai. “Cảm ơn các ngài.”
Vị hiệp sĩ lang thang nheo mắt nhìn cô chăm chú nên cô nhận ra anh ta cận thị. “Một quý cô à? Lại có cả vũ khí và áo giáp nữa? Thánh thần ơi, vóc dáng cô ấy kìa.”
“Tôi cũng tưởng cô ta là một hiệp sĩ,” người già hơn vừa đáp vừa lật con cá hồi.
Nếu là một người đàn ông, cô đã được gọi là cao lớn, nhưng là phụ nữ, vóc dáng của cô phải gọi là khổng lồ. ‘Quái dị’ là từ cô thường nghe người ta nói về mình. Cô có đôi vai rộng, hông còn rộng hơn, đôi chân dài và cánh tay vạm vỡ. Ngực cô nhiều cơ bắp chứ không giống ngực phụ nữ, đôi bàn tay lớn và đôi bàn chân vĩ đại. Không những thế, cô còn xấu xí, khuôn mặt dài như mặt ngựa, lốm đốm tàn nhang và hàm răng dường như quá lớn so với miệng. Cô không cần người ta nhắc cô nhớ về những
điều đó. “Thưa các ngài,” cô hỏi, “các ngài có thấy một cô gái 13 tuổi trên đường này không? Cô ấy có đôi mắt xanh và tóc màu mật ong, có lẽ đi cùng một người đàn ông mặt đỏ bệ vệ khoảng 40 tuổi.”
Hiệp sĩ cận thị gãi đầu. “Hình như tôi không nhìn thấy cô gái nào như vậy. Mà tóc màu mật ong là thế nào?”
“Là có màu nâu vàng,” người già hơn trả lời. “Không, chúng tôi không nhìn thấy cô ấy.”
“Chúng tôi không nhìn thấy cô ấy, quý cô ạ,” người trẻ hơn tiếp lời. “Đến đây nào, xuống ngựa đi, cá gần chín rồi đây. Cô đói không?”
Tất nhiên cô đang đói, nhưng cô còn lo lắng nữa. Hiệp sĩ lang thang thường mang tiếng xấu. Người ta thường nói “hiệp sĩ lang thang và hiệp sĩ cướp đường là hai mặt của một thanh gươm.” Có điều hai
người này trông không quá nguy hiểm. “Tôi có thể biết quý danh của hai ngài không?”
“Tôi vinh hạnh được giới thiệu, tôi là Ser Creighton Longbough, tên tuổi của tôi đã được nhiều ca sĩ ngợi ca,” người bụng bự lên tiếng. “Có lẽ ở Xoáy Nước Đen cô sẽ được nghe kể về những chiến
công của tôi. Đồng hành với tôi là Ser Illifer Nhẵn Túi.”
Nếu có bài hát ca ngợi Creighton Longbough thật thì Brienne chưa từng được nghe. Cái tên của họ
chẳng có ý nghĩa gì đối với cô, và những vũ khí họ mang theo cũng vậy. Cái khiên xanh của Ser
Creighton chỉ có một vạch màu nâu ở phần trên, và có một vết chém sâu có lẽ do rìu chiến gây ra. Còn chiếc khiên của Ser Illifer có màu vàng và màu lông chồn ecmin đối xứng, nhưng nhìn mọi thứ trên người ông ta thì có lẽ vàng và lông chồn là hai màu duy nhất mà ông ta biết. Ông ta chí ít cũng 60 tuổi, khuôn mặt bị bó hẹp dưới mũ trùm của chiếc áo choàng bằng sợi thô vá chằng vá đụp. Ông ta mặc một bộ áo giáp gỉ lốm đốm trông như những vết tàn nhang. Brienne cao hơn cả hai người bọn họ một cái đầu, hơn nữa, ngựa và vũ khí cũng tốt hơn. Nếu ta sợ những người như thế này thì ta đã đổi thanh trường kiếm lấy đôi que đan rồi.
“Cảm ơn,” cô trả lời. “Rất vui được các ngài mời ăn cùng.” Brienne xuống ngựa, tháo yên con ngựa cái, cho nó uống nước trước khi thả nó đi ăn cỏ, rồi xếp vũ khí, khiên và túi hành lý dưới gốc
một cây du. Lúc này, cá hồi đã chín giòn. Ser Creighton mang đến cho cô một con, cô bèn ngồi khoanh chân trên nền đất và đánh chén.
“Chúng tôi dự định đi Duskendale,” Longbough vừa nói với cô vừa dùng ngón tay xé con cá của anh ta. “Đi cùng chúng tôi cô sẽ an toàn hơn. Đường đi nguy hiểm lắm.”
Brienne có thể kể cho anh ta nghe về những nguy hiểm trên đường đi còn nhiều hơn cả mức anh ta dám nghe.
“Cảm ơn ser, nhưng tôi không cần sự bảo vệ của ngài.”
“Tôi vẫn muốn đề nghị cô đi cùng. Một hiệp sĩ thực thụ phải bảo vệ phái yếu.”
Cô sờ vào chuôi gươm. “Cái này sẽ bảo vệ tôi, thưa ngài.”
“Gươm chỉ phát huy tác dụng trong tay một người đàn ông thôi.”
“Trong tay tôi nó cũng có tác dụng lắm.”
“Tùy cô thôi. Tranh cãi với phụ nữ là không lịch thiệp. Chúng tôi sẽ bảo đảm cho cô an toàn khi đến Duskendale. Ba người sẽ an toàn hơn một.”
Khi rời Riverrun, chúng ta cũng có ba người đấy thôi, nhưng kết cục Jaime mất một bàn tay còn Cleos Frey mất tính mạng của mình, Brienne thầm nghĩ.
“Ngựa của các ngài không theo kịp ngựa tôi đâu.” Con ngựa thiến màu nâu của Ser Creighton đã
già, lưng võng xuống, mắt đầy nhử, còn ngựa của Ser Illifer trông gầy yếu thảm hại như thể sắp chết đói vậy.
“Con chiến mã này đã phục vụ tôi đắc lực trong trận Xoáy Nước Đen đấy.” Ser Creighton khăng khăng. “Vì sao ư, trận đó tôi đã chém giết rất nhiều và nhận được vô số tiền chuộc. Cô có quen Ser Herbert Bolling không? Cô sẽ không bao giờ còn gặp lại hắn nữa đâu. Tôi đã giết hắn ngay tại chỗ. Khi gươm đao lên tiếng, cô sẽ không bao giờ nhìn thấy Ser Creighton Longbough này ở hậu phương
đâu.”
Bạn đồng hành của ông ta cười khùng khục. “Creigh, thôi đi. Hạng người như cô ấy không cần kiểu người như chúng ta đâu.”
“Hạng người như tôi là sao?” Brienne không hiểu ông ta muốn nói gì.
Ser Illifer chỉ một ngón tay xương xẩu vào cái khiên cô đang dùng. Mặc dù nước sơn đã rạn và tróc ra từng mảng nhưng hình vẽ trên khiên vẫn rất rõ ràng: một con dơi đen đang xòe cánh trên nền trắng bạc và vàng. “Cô đang mang khiên của kẻ dối trá, cái khiên mà cô không có quyền mang. Ông nội của ông nội tôi đã giúp tiêu diệt hậu duệ cuối cùng của gia tộc Lothston. Từ đó đến nay, không ai dám dùng biểu tượng con dơi này nữa, nó đen tối chẳng kém gì những việc mà Nhà Lothston đã làm.”
Chiếc khiên này Jaime lấy từ kho vũ khí ở Harrenhal. Brienne tìm thấy nó trong chuồng ngựa, cùng con ngựa của cô và rất nhiều thứ khác nữa; yên cương, áo giáp, mũ sắt có tấm che mặt, mấy túi vàng,
bạc và một miếng giấy da có giá trị hơn bất kỳ cái gì khác. “Tôi làm mất khiên của mình,” cô phân trần.
“Một hiệp sĩ thực thụ là cái khiên duy nhất một cô gái cần,” Ser Creighton quả quyết. Ser Illifer không đếm xỉa đến ông bạn của mình. “Kẻ chân đất sẽ mong có một đôi giày, người nào thấy lạnh sẽ
mong có một chiếc áo khoác, nhưng ai dám khoác chiếc áo choàng ô nhục lên người? Lãnh chúa Lucas Ma Cô mang con dơi này, con trai ông ta Manfryd Mũ Đen cũng dùng nó. Tôi hỏi cô, vì sao cô dùng thứ vũ khí này, nếu không phải tội lỗi của cô thậm chí còn bẩn thỉu hơn… và mới xảy ra gần đây hơn.” Ông ta rút dao găm ra, đó là một mẩu sắt rẻ tiền xấu xí. “Một người đàn bà to lớn khủng khiếp và khỏe mạnh khủng khiếp đang giấu đi bộ mặt thật của mình. Creigh, đây là Trinh Nữ Nhà Tarth, kẻ đã cắt toang họng vua Renly đấy.”
“Nói dối.” Đối với cô, Renly Baratheon còn hơn cả vua. Cô yêu Renly ngay lần đầu tiên ngài đến thăm Tarth trong chuyến tuần du nhàn tản để đánh dấu thời kỳ trưởng thành của ngài. Cha cô đã mở tiệc
chào đón ngài và lệnh cho cô tham dự; nếu không cô đã trốn trong phòng như một con thú bị thương. Khi đó, cô chỉ bằng tuổi Sansa bây giờ, sợ những lời châm chọc còn hơn sợ gươm giáo. Bọn họ sẽ biết về chuyện bông hồng, cô nói với Lãnh chúa Selwyn, và họ sẽ cười con mất. Nhưng cha cô không mủi lòng.
Và Renly Baratheon đối với cô vô cùng lịch thiệp, như thể cô là một thiếu nữ thực sự và xinh đẹp. Ngài thậm chí còn khiêu vũ với cô, trong cánh tay ngài, cô thấy mình thật duyên dáng, chân cô lướt đi như bồng bềnh trên sàn. Nhờ đó, nhiều người khác cũng xin khiêu vũ với cô. Từ ngày đó trở đi, cô chỉ
muốn gần gũi với Renly, phục vụ ngài, bảo vệ ngài. Nhưng cuối cùng cô lại không làm được. Renly chết trong tay ta, nhưng ta không giết ngài ấy, cô nghĩ, những hiệp sĩ lang thang này không bao giờ hiểu được sự thật đó. “Tôi sẵn sàng chết vì vua Renly, và hạnh phúc được làm điều đó,” cô nói. “Tôi không làm hại ngài ấy, tôi thề trước thanh gươm của mình.”
“Chỉ có hiệp sĩ mới thề trước gươm,” Ser Creighton trả lời.
“Hãy thề trước Thất Diện Thần đi,” Ser Illifer Nhẵn Túi thúc giục.
“Vậy thì, tôi sẽ thề trước Thất Diện Thần. Tôi không làm hại vua Renly. Tôi thề trước Đức Mẹ, nếu tôi nói dối tôi sẽ không bao giờ nhận được lòng nhân từ của bà ấy. Tôi thề trước Đức Cha, xin ngài phán xử công bằng cho tôi. Tôi thề trước Trinh Nữ và Bà Già, Thần Thợ Rèn và Thần Chiến
Binh. Tôi cũng thề trước cả Người Lạ Mặt, ông ta sẽ mang tôi đi ngay bây giờ nếu tôi nói dối.”
“Đối với một cô gái thì thề như thế là được rồi.” Ser Creighton chấp nhận.
“Hừm,” Ser Illifer Nhẵn Túi nhún vai. “Được rồi, nếu cô ta nói dối, thần thánh sẽ trừng phạt cô ta.” Ông ta đút con dao găm trở lại vỏ. “Cô gác phiên đầu.”
Hai hiệp sĩ lang thang đã ngủ, Brienne nhịp bước không ngừng quanh chiếc lều nhỏ, lắng nghe tiếng củi nổ lách tách. Mình nên đi ngay khi còn có thể. Cô không biết những người này, nhưng cô
không nỡ để mặc họ trong tình cảnh không người bảo vệ. Ngay cả trong đêm đen vẫn có người qua lại trên đường, và những tiếng sột soạt trong rừng có thể là của cú mèo hoặc những con cáo lang thang, nhưng cũng có thể không phải. Vì vậy, Brienne vẫn tiếp tục nhịp bước, lưỡi kiếm cắm hờ trong bao.
Phiên gác của cô trôi qua dễ dàng. Khó khăn chỉ đến sau đó, khi Ser Illifer thức dậy đổi gác cho cô. Brienne trải một tấm chăn xuống đất, cuộn tròn người và nhắm mắt lại. Mình sẽ không ngủ, cô tự nhủ, mặc dù cảm thấy xương cốt rã rời. Không bao giờ cô dễ dàng ngủ được khi có mặt những người đàn ông. Ngay cả trong lều của Renly, nguy cơ bị cưỡng hiếp vẫn luôn tồn tại. Đó là một bài học mà cô học được dưới những bức tường của Highgarden và khi cô cùng Jaime rơi vào tay Hội Chiến Binh
Dũng Cảm.
Hơi đất lạnh thấm qua tấm mền mỏng, xuyên vào tận xương tủy Brienne. Từ lâu, mọi cơ bắp trong người cô, từ hàm tới tận ngón chân, đều đã cứng lại vì lạnh. Cô tự hỏi, không biết Sansa Stark có bị
lạnh như thế này không, giờ đây cô bé đang ở đâu. Phu nhân Catelyn đã từng nói Sansa có một tâm hồn dịu dàng, thích bánh chanh, ưa những chiếc váy dài bằng lụa mềm mại và những bài hát về tinh thần trượng nghĩa, vậy mà cô gái ấy lại phải chứng kiến cảnh cha bị chặt đầu và bị ép kết hôn với một trong những kẻ giết cha mình. Nếu một nửa những giai thoại lưu truyền là đúng, thì gã lùn là kẻ độc ác nhất trong số những người Nhà Lannister. Nếu cô ấy hạ độc Joffrey, chắc hẳn Quỷ Lùn đã buộc cô ấy phải làm thế. Trong triều, cô ấy đơn độc, không bạn bè thân thích. Ở Vương Đô, Brienne đã bắt được một cô Brella nào đó, từng là hầu gái của Sansa, cô ta cho biết Sansa và gã lùn rất ít khi gần gũi. Có lẽ cô bé đã trốn đi vì hắn và cả vì vụ ám sát Joffrey nữa.
Cho dù Brienne mơ thấy gì thì giấc mơ của cô cũng biến mất khi bình minh đến. Cô thức dậy, chân cứng ngắc như gỗ vì cái lạnh của đất, nhưng không ai quấy rầy cô, đồ đạc của cô cũng vẫn còn nguyên. Hai hiệp sĩ lang thang đã dậy và vẫn còn ở đó. Ser Illifer đang xẻ thịt một con sóc làm bữa sáng, còn Ser Creighton đang tiểu tiện ở một gốc cây. Các hiệp sĩ lang thang này, cô thầm nghĩ, già nua, ục ịch,
cận thị và vô dụng, nhưng lại là những người đàn ông đứng đắn nhất. Cô cảm thấy phấn khởi khi biết được vẫn còn đàn ông tử tế trên thế gian này.
Họ ăn sáng bằng thịt sóc nướng, bánh hạt dẻ, rau ngâm dấm trong khi Ser Creighton thết đãi cô bằng câu chuyện về những kỳ công ông ta lập được trong trận Xoáy Nước Đen, rằng ông ta đã hạ thủ
cả tá hiệp sĩ mà cô chưa bao giờ nghe tên. “Chà, thật là một trận chiến hiếm có, tiểu thư ạ,” ông ta huyên thuyên, “một trận chiến đẫm máu và hiếm có.” Ông ta cũng thừa nhận Ser Illifer chiến đấu anh dũng trong trận đó, còn bản thân Ser Illifer nói rất ít.
Giờ lên đường đã đến, hai hiệp sĩ đi hai bên Brienne như thể họ là vệ sĩ bảo vệ một tiểu thư quyền quý nào đó… có điều tiểu thư này cao to hơn và được vũ trang tốt hơn hẳn bọn họ. “Trong phiên gác
của các ông có ai đi qua không?” Cô hỏi họ.
“Một cô gái 13 tuổi, tóc màu mật ong chẳng hạn?” Ser Illifer Nhẵn Túi đùa cợt. “Không, thưa tiểu thư. Không có ai cả.”
“Tôi thì có,” Ser Creighton chêm vào. “Một cậu bé nông dân nào đó cưỡi con ngựa đốm chạy qua, rồi một tiếng sau, có khoảng nửa tá đàn ông cầm gậy và lưỡi hái đi qua. Họ nhìn thấy ánh lửa liền
dừng lại ngắm nghía mấy con ngựa của chúng ta, nhưng tôi cho họ thấy mình có gươm và bảo họ đi đi. Đúng là mấy gã hung tợn, và tuyệt vọng nữa, nếu nhìn vẻ ngoài của họ, nhưng không tuyệt vọng đến mức đùa giỡn với Ser Creighton Longbough này.”
Không, Brienne nghĩ, không tuyệt vọng đến mức đó. Cô quay đi để giấu nụ cười. May thay, Ser Creighton đang mải mê với câu chuyện về cuộc chiến hào hùng giữa ông ta với Hiệp sĩ Gà Đỏ nên không để ý đến sự vui vẻ của cô gái. Có bạn đồng hành thật vui, cho dù đó là hai người như thế này.
Khi Brienne nghe thấy tiếng hát đều đều vọng lại qua những cành cây màu nâu trơ trụi thì đã là
giữa trưa. “Tiếng gì thế nhỉ?” Ser Creighton thắc mắc.
“Tiếng hát, họ đang cầu nguyện.” Brienne biết bài hát này. Họ đang cầu xin Thần Chiến Binh che chở, cầu xin Bà Già soi đường cho họ.
Ser Illifer Nhẵn Túi tuốt lưỡi gươm mòn vẹt ra và ghìm ngựa lại để đợi. “Họ ở gần đây,” ông nói.
Khu rừng chìm ngập trong tiếng thánh ca, âm vang như tiếng sấm rền. Và rồi đột nhiên, họ nhìn thấy nguồn gốc phát ra tiếng hát đó. Một nhóm ăn mày đi trên đường, đi đầu là những người đàn ông
râu ria xồm xoàm, mặc áo vải thô, một số đi dép, còn một số đi chân đất. Đằng sau họ có đến sáu mươi người nữa, gồm cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em, tất cả đều rách rưới, ngoài ra có một con lợn khoang nái và vài con cừu. Vài người trong số họ có rìu, còn nhiều người khác mang những chiếc gậy thô bằng gỗ. Giữa đám người này, một chiếc xe đẩy hai bánh bằng gỗ màu xám vỡ nham nhở đang lăn lọc cọc, trên xe chất đầy sọ người và xương người gãy vỡ. Khi họ nhìn thấy các hiệp sĩ lang thang, đoàn ăn mày dừng lại, tiếng hát cũng tắt ngấm. “Các hiệp sĩ tốt bụng,” một người mở lời, “cầu xin Đức Mẹ phù hộ cho các ngài.”
“Và cho cả anh nữa, người anh em,” Ser Illifer đáp. “Xin hỏi, các anh là ai?”
“Là những người khốn khổ,” một người cao to cầm rìu lên tiếng. Mặc dù tiết trời mùa thu lạnh giá, ông ta không mặc áo, trên khuôn ngực trần xăm hình một ngôi sao bảy cánh. Những chiến binh của người Andal cũng xăm hình này khi họ lần đầu vượt biển, đổ bộ vào vương quốc của Tiền Nhân.
“Chúng tôi đang đi vào thành phố,” một phụ nữ cao ráo đang cầm dây kéo chiếc xe trả lời, “để đem những nắm xương thiêng liêng này đến cho Baelor Thần Thánh và tìm kiếm sự trợ giúp và che
chở của đức vua.”
“Nhập bọn với chúng tôi, những người anh em,” một người nhỏ thó gầy gò mặc chiếc áo choàng thầy tu đã mòn xơ cả chỉ lên tiếng thúc giục. Ông ta quấn một chiếc dây thừng quanh cổ, đầu dây lủng
lẳng một quả cầu pha lê. “Westeros cần mọi tay kiếm.”
“Chúng tôi đang trên đường tới Duskendale,” Ser Creighton tuyên bố, “nhưng chúng tôi có thể bảo vệ cho các bạn an toàn đến Vương Đô.”
“Nếu các bạn có tiền trả công hộ tống cho chúng tôi.” Ser Illifer thêm vào, ông ta không chỉ nhẵn túi mà còn vô cùng thực tế.
“Chim Sẻ thì không cần vàng,” vị tu sĩ đáp lời.
Ser Creighton trầm ngâm. “Chim sẻ à?”
“Chim sẻ là loài hèn mọn nhất và tầm thường nhất trong các loài chim, vì chúng tôi cũng là những người hèn mọn nhất và tầm thường nhất.” Tu sĩ có một khuôn mặt gầy gò nhưng sắc nét, bộ râu ngắn màu xám nâu lấm chấm sợi bạc. Mái tóc lơ thơ của ông được chải về phía sau và rối bù sau đầu, đôi chân trần đen nhẻm, xương xẩu và cứng quèo như những cái rễ cây. “Đây là nắm xương tàn của những người mộ đạo, bị tàn sát vì đức tin của họ. Họ phụng sự Thất Diện Thần cho đến hơi thở cuối cùng. Một số người chết đói, một số người chết vì bị tra tấn. Đền thờ bị cướp phá, đàn bà con gái bị những
tên vô đạo và những tín đồ độc ác cưỡng hiếp. Đến cả các sơ cũng bị trêu ghẹo. Mẹ Bề Trên của
chúng ta đã khóc trong đau khổ. Giờ là lúc mọi hiệp sĩ được xức dầu thánh từ bỏ ông chủ trần tục của mình để bảo vệ Thất Diện Giáo. Hãy đi cùng chúng tôi vào thành, nếu các bạn yêu Thất Diện Thần.”
“Tôi rất yêu quý họ,” Ser Illifer trả lời, “nhưng tôi cũng phải ăn chứ.”
“Mọi đứa con của Đức Mẹ đều phải ăn.”
“Chúng tôi dự định tới Duskendale,” Ser Creighton trả lời dứt khoát.
Một người nhổ nước bọt, một người đàn bà bắt đầu rên rỉ. “Các ngươi là những hiệp sĩ xấu xa,” người đàn ông cao lớn xăm ngôi sao trên ngực kêu to. Vài người khác vung gậy lên.
Vị tu sĩ chân trần làm dịu đám đông chỉ bằng một từ. “Đừng phán xét, phán xét là việc của Đức Cha. Hãy để họ bình yên đi qua. Họ cũng là những người khốn khổ, lầm đường lạc lối trên mặt đất
này.”
Brienne thúc ngựa tiến lên phía trước. “Em gái tôi cũng đang bị lạc. Nó trạc 13 tuổi, tóc màu mật ong, trông rất xinh đẹp.”
“Mọi đứa con của Đức Mẹ trông đều xinh đẹp cả. Cầu mong thần Trinh Nữ phù hộ cho cô bé tội nghiệp đó… và cả cô nữa.” Vị tu sĩ đeo một dây kéo của chiếc xe lên vai và bắt đầu kéo. Đám ăn mày lại cất tiếng hát. Brienne và các hiệp sĩ lang thang ngồi trên ngựa khi đoàn người chầm chậm diễu qua
trên con đường mòn hướng về Rosby. Tiếng hát của họ nhỏ dần rồi tắt hẳn.
Ser Creighton nhấc một bên người lên khỏi yên ngựa và gãi mông. “Không hiểu loại người nào dám giết một thầy tu đáng kính nhỉ?”
Brienne biết những loại người đó. Cô nhớ một lần ở gần Maidenpool, Hội Chiến Binh Dũng Cảm đã treo ngược một tu sĩ lên cành cây và dùng thi thể của ông làm bia tập bắn. Cô băn khoăn tự hỏi
không biết nắm xương tàn của ông ấy có nằm cùng những người khác trong chiếc xe vừa đi qua không.
“Phải là một thằng điên mới đi cưỡng hiếp một người trong Hội Chị Em Quản Sinh Tử,” Ser Creighton nói. “Kể cả đặt tay lên người họ thôi cũng… người ta nói rằng họ là vợ của Người Lạ Mặt,
chỗ kín của họ ướt và lạnh như băng ấy.” Ông ta liếc nhìn Brienne. “Ôi… xin lỗi cô.”
Brienne thúc ngựa đi về hướng Duskendale. Một lát sau, Ser Illifer theo sau, để lại Ser Creighton đi đoạn hậu.
Ba giờ sau, họ lại gặp một nhóm khác đang cố gắng đi về Duskendale, đó là một thương gia và đám người hầu, cùng đi còn có cả một hiệp sĩ lang thang khác. Vị thương nhân cưỡi một con ngựa cái màu xám có đốm, còn những người hầu thay nhau kéo chiếc xe ngựa. Bốn người gò lưng kéo xe trong khi hai người khác đi bộ bên cạnh, nhưng khi nghe thấy tiếng vó ngựa tiến lại gần, họ bèn vây quanh
chiếc xe, gậy dài bằng gỗ tần bì trong tay, sẵn sàng chiến đấu. Vị thương gia giương nỏ, còn hiệp sĩ tuốt trần thanh gươm. “Thứ lỗi cho chúng tôi nếu tôi có nghi ngờ các vị,” thương gia nói to, “nhưng thời buổi rối ren, mà tôi lại chỉ có mỗi Ser Shadrich tốt bụng này bảo vệ. Các vị là ai?”
“Sao cơ?” Ser Creighton lên tiếng, rõ ràng cảm thấy bị sỉ nhục, “tôi là Ser Creighton Longbough danh tiếng, vừa mới từ trận Xoáy Nước Đen trở về, và đây là bạn đồng hành của tôi, Ser Illifer Nhẵn
Túi.”
“Chúng tôi không làm hại các vị đâu,” Brienne trấn an.
Vị thương gia nọ nhìn cô ngờ vực. “Quý cô à, cô nên ở nhà cho an toàn. Sao cô lại ăn mặc khác thường như vậy?”
“Tôi đang đi tìm em gái.” Cô không dám nói ra tên của Sansa, vì cô bé đang bị buộc tội giết vua. “Con bé là một tiểu thư xinh đẹp, mắt xanh da trời và tóc màu mật ong. Các vị có thể thấy nó đi cùng
một hiệp sĩ đẫy đà khoảng 40 tuổi hoặc một gã hề say rượu.”
“Trên đường đầy những gã say rượu ngu đần và những cô gái bị cưỡng đoạt. Còn hiệp sĩ đẫy đà ấy à, khó mà tìm thấy một người trung thực nào giữ được cái bụng bệ vệ trong thời buổi gạo châu củi quế
như thế này… mặc dù có vẻ Ser Creighton của các vị không bị đói, nhỉ.”
“Tôi chỉ to xương thôi,” Ser Creighton khăng khăng. “Chúng ta đi cùng nhau một đoạn chứ? Tôi không nghi ngờ gì sự can trường của Ser Shadrich, dù ông ấy có vẻ nhỏ người, nhưng ba lưỡi gươm sẽ
tốt hơn một.”
Bốn chứ không phải ba, Brienne nghĩ, nhưng cô không nói gì.
Thương gia quay lại phía người tùy tùng. “Hiệp sĩ, ngài thấy thế nào?”
“Ờ, ba người này không có gì đáng sợ.” Ser Shadrich là một người đàn ông dẻo dai, mặt như mặt cáo với chiếc mũi nhọn và mớ tóc bù xù màu vàng cam, cưỡi một con chiến mã khẳng khiu màu hạt dẻ. Mặc dù cao không quá một mét sáu, nhưng ông ta có một phong thái cực kỳ kiêu ngạo. “Một người thì
già, người kia thì béo, người to cao nhất trong đám lại là phụ nữ. Cứ để họ đi cùng.”
“Xin theo ý ngài.” Vị thương gia hạ cây nỏ xuống.
Khi họ bắt đầu tiếp tục cuộc hành trình, hiệp sĩ đánh thuê nọ hạ gươm xuống và nhìn Brienne từ đầu xuống chân rồi lại từ chân lên đầu như thể cô là một miếng thịt lợn muối ngon lành. “Ả gái quê này
to khỏe lực lưỡng gớm nhỉ.”
Những lời nhạo báng của Ser Jaime sâu cay hơn nhiều, lời nói của người đàn ông nhỏ bé này không đủ để làm cô tự ái. “Khổng lồ chứ, nếu so với một số người,” cô đáp trả.
Ông ta cười phá lên. “Tôi cũng to ở nơi cần to đấy, gái quê ạ.”
“Vị thương gia gọi ông là Shadrich.”
“Ser Shadrich vùng Shady Glen. Một số người gọi ta là Chuột Điên.” Ông ta quay chiếc khiên lại để cô thấy biểu tượng trên đó, một con chuột lớn màu trắng, mắt đỏ ngầu hung dữ trên những đường uốn lượn màu nâu và xanh lơ. Màu nâu là biểu tượng của những vùng đất ta đã đi qua, còn màu xanh là
những con sông ta đã vượt. Con chuột chính là ta.”
“Và ông điên thật?”
“Ồ, cũng tương đối. Chuột bình thường chạy trốn máu và chiến trận, còn chuột điên tìm kiếm những thứ đó.”
“Có vẻ ông hiếm khi tìm thấy.”
“Tìm thấy vừa đủ dùng thôi. Ta đâu phải là hiệp sĩ của những cuộc đấu thương ngựa. Sự can trường của ta dành để thể hiện trên chiến trường, mụ già ạ.”
Mụ già nghe vẫn tốt hơn gái quê một chút, cô nghĩ vậy. “Thế thì ông và Ser Creighton tốt bụng có nhiều điểm chung lắm đấy.”
Ông ta cười. “Ồ, điều đó thì ta không biết. Nhưng có lẽ ta và cô có chung một nhiệm vụ đấy. Một cô gái nhỏ mất tích à, phải không? Mắt xanh lơ và tóc màu mật ong?” Ông ta lại phá lên cười. “Cô
không phải là thợ săn duy nhất trong rừng đâu. Ta cũng đang kiếm Sansa Stark đây.”
Brienne giữ nét mặt thản nhiên để che giấu nỗi hốt hoảng. “Sansa Stark là ai, sao ông tìm cô ta?”
“Vì tình yêu, chứ còn vì gì khác nữa.”
Cô nhíu mày. “Tình yêu à?”
“Đúng, tình yêu với vàng. Ta không giống Ser Creighton tốt bụng của cô, ta cũng ở trận Xoáy Nước Đen về, nhưng là ở bên bại trận. Tiền chuộc quá lớn làm ta phá sản. Ta dám chắc cô biết Varys là ai, đúng không? Lão thái giám này treo giải một túi vàng đầy cho ai tìm thấy cô gái mà cô chưa bao giờ nghe tên đó. Nhưng ta không tham đâu. Nếu một ả nhà quê quá khổ giúp ta tìm ra con bé hư hỏng
đó, ta sẽ chia tiền của Nhện cho cô ta.”
“Tôi tưởng ông được vị thương gia kia thuê.”
“Chỉ đến Duskendale thôi. Hibald sợ hãi nhưng cũng keo kiệt chẳng kém. Mà hắn thì đang rất sợ hãi. Cô thấy sao, gái quê?”
“Tôi không biết Sansa Stark,” cô vẫn khăng khăng. “Tôi đang tìm em gái, một tiểu thư…”
“…có đôi mắt xanh lơ và mái tóc màu mật ong, đúng đúng. Thử nói xem, ai là hiệp sĩ đi cùng với em gái cô? Hay cô gọi anh ta là thằng hề? Ser Shadrich không chờ cô trả lời, thật may, vì cô cũng
chẳng có câu trả lời. “Một tên hề nào đó cũng biến mất khỏi Vương Đô trong cái đêm vua Joffrey chết, một gã mập có cái mũi vằn nổi đầy mạch máu, Ser Dontos Đỏ, trước đây từng ở Duskendale. Cầu cho em gái cô và anh hề say xỉn của cô ta không bị nhầm với cô gái Nhà Stark và Ser Dontos. Nếu không thì thật là bất hạnh.” Ông ta thúc gót giày vào con chiến mã và phi lên phía trước.
Ngay cả Jaime Lannister cũng hiếm khi làm Brienne cảm thấy mình ngớ ngẩn như thế này. Mình
không phải là người duy nhất săn tìm trong rừng. Cái cô Brella đó đã kể cho cô nghe việc Joffrey tước danh hiệu hiệp sĩ của Ser Dontos như thế nào và Sansa cầu xin hắn tha chết cho ông ấy ra sao. Sau khi nghe xong câu chuyện, Brienne hiểu rằng ông ta chính là người giúp cô bé chạy trốn. Tìm được Ser Dontos, mình sẽ tìm được Sansa. Đáng lẽ cô phải biết có những người khác cũng tìm Sansa, những kẻ còn đáng khinh hơn Ser Shadrich này. Cô chỉ có thể hy vọng Ser Dontos sẽ giấu Sansa thật kín. Nhưng nếu thế thì làm sao mình tìm ra cô bé đây?
Nghĩ đến đấy, cô cau mày ủ rũ thúc ngựa đi tiếp.
Đoàn của họ đến được quán trọ vừa kịp lúc đêm xuống. Đây là một ngôi nhà cao bằng gỗ đứng bên một ngã ba sông có cây cầu cổ bằng đá vắt ngang qua. Ser Creighton cho họ biết đó cũng là tên quán trọ, quán Cầu Đá Cổ. Chủ quán trọ này là bạn ông ta. “Ở đây nấu ăn không tồi, phòng trọ cũng không có nhiều bọ chét như những quán trọ khác đâu,” ông ta quả quyết. “Ai muốn một chiếc giường ấm áp
tối nay nào?”
“Không phải chúng ta, trừ khi bạn anh cho chúng ta ngủ nhờ,” Ser Illifer Nhẵn Túi trả lời. “Chúng ta không có tiền thuê phòng.”
“Tôi có thể trả tiền cho cả ba chúng ta.” Tiền thì Brienne không thiếu; Jaime đã chăm lo đến việc đó. Trong chiếc túi ở yên ngựa cô có một hầu bao đầy ắp tiền bạc và tiền đồng, một túi khác nhỏ hơn lèn đầy những đồng vàng và một cuộn giấy da lệnh cho mọi thần dân trung thành của đức vua phải giúp
đỡ người mang nó – Brienne Nhà Tarth, người đang phụng mệnh đức vua thực thi công vụ. Bức thư được ký bằng bàn tay non nớt của Tommen Đệ Nhất, vua của người Andal, Rhoynar và Tiền Nhân, vua của Bảy Phụ Quốc.
Hibald cũng muốn dừng chân, ông ta lệnh cho đám tùy tùng để chiếc xe kéo gần chuồng ngựa. Ánh sáng vàng ấm áp xuyên qua ô kính cửa sổ hình thoi, Brienne nghe thấy một con ngựa đực rống lên khi
ngửi thấy mùi con ngựa cái của cô. Cô đang lúi húi tháo túi yên thì một thằng bé bước ra từ cửa chuồng ngựa, và bảo cô, “Cứ để đó cho tôi, ser.”
“Ta không phải là ser,” cô nói, “nhưng cậu có thể dắt ngựa đi. Chú ý cho nó ăn, chải lông và tắm cho nó.”
Cậu bé đỏ mặt. “Xin lỗi tiểu thư, tôi tưởng…”
“À, nhầm lẫn bình thường ấy mà.” Brienne đưa dây cương cho thằng bé và theo những người khác bước vào trong quán, chiếc túi yên vắt ngang vai, túi ngủ cuộn tròn cắp nách.
Trong căn phòng chung, mùn cưa trải đầy sàn nhà lát ván, không khí thoảng mùi hoa bia, khói và thịt. Một tảng thịt quay cắm vào xiên đang nổ lách tách trên lửa, bị bỏ quên trong chốc lát. Sáu người địa phương ngồi quanh bàn và đang nói chuyện, nhưng họ dừng lại ngay khi đám người lạ bước vào. Brienne có thể cảm thấy ánh mắt của họ dõi theo mình. Mặc dù mang áo giáp, áo choàng và áo chẽn bằng da, cô vẫn cảm thấy mình như bị lột trần ra trước mắt họ. Khi một người nói “Nhìn kìa,” cô biết hắn ta không nói về Ser Shadrich.
Chủ quán xuất hiện, mỗi tay cầm ba cốc bia, bia sóng sánh ra ngoài sau mỗi bước đi.
“Ông chủ, có phòng không?” Thương gia hỏi.
“Có,” chủ quán trả lời, “nếu các ông có tiền.”
Ser Creighton Longbough trông có vẻ bực bội. “Này, đây là cái cách ông chào đón bạn cũ đấy à? Tôi đây, Longbough đây.”
“Đúng là ông rồi. Ông còn nợ tôi bảy đồng bạc. Đưa tiền cho tôi, tôi sẽ cho ông một cái giường.” Lão chủ quán đặt bia xuống bàn từng cốc một, làm sánh thêm bia ra bàn.
“Tôi sẽ trả tiền một phòng cho tôi và một cho hai người bạn đồng hành của tôi.” Brienne vừa nói vừa chỉ vào Ser Creighton và Ser Illifer.
“Tôi cũng lấy một phòng,” thương gia lên tiếng, “cho tôi và Ser Shadrich đáng kính. Đám người hầu của tôi sẽ ngủ trong chuồng ngựa, nếu ông vui lòng.”
Lão chủ quán nhìn lướt qua họ. “Tôi không vui lòng, nhưng có lẽ tôi sẽ cho phép. Các ông có muốn ăn tối không? Có thịt dê ngon đang quay trên xiên đấy.”
“Tôi sẽ tự mình thưởng thức hương vị của nó,” Hibald tuyên bố. “Còn người của tôi chỉ cần bánh mì chấm mỡ của nó là được rồi.”
Và họ ăn tối. Brienne cũng thưởng thức thịt dê, sau khi dúi vào tay chủ quán một ít tiền và theo ông ta lên gác, cất đồ đạc vào căn phòng thứ hai ông ta chỉ cho cô. Cô cũng gọi thịt dê cho Ser Creighton và Ser Illifer vì họ đã từng chia sẻ cá hồi của họ với cô. Các hiệp sĩ lang thang và thầy tu dùng rượu để nuốt trôi thức ăn, còn Brienne uống một cốc sữa dê. Cô lắng nghe tiếng nói chuyện dưới nhà, hy
vọng hão huyền rằng có thể nghe được chút manh mối nào giúp cô tìm được Sansa.
“Ông từ Vương Đô đến đây,” một người địa phương hỏi Hibald. “Vậy có đúng là Sát Vương bị què hay không?”
“Đúng đấy,” thương gia trả lời. “Ông ta bị mất bàn tay cầm kiếm.”
“Ài,” Ser Creighton góp chuyện, “bị một con sói nhai mất, tôi nghe nói thế, một trong số những con quái vật từ miền bắc xuống. Không có gì từ miền bắc xuống mà lại tốt cả. Kể cả những vị thần họ
thờ cũng thật quái gở.”
“Không phải do sói,” Brienne thốt lên. “Ser Jaime mất tay vì một gã lính đánh thuê người Qohor.”
“Chiến đấu bằng một tay thật không dễ dàng gì,” Chuột Điên nhận xét.
“Xì,” Ser Creighton trả lời. “Thực ra, tôi có thể chiến đấu bằng tay nào cũng được.”
“Ồ, tôi không nghi ngờ gì điều đó.” Ser Shadrich nâng cốc lên chào mừng.
Briennne nhớ lại lần cô chiến đấu với Jaime Lannister trong rừng. Tất cả những gì cô có thể làm là giữ cho lưỡi kiếm của anh ta không tiến đến quá gần. Lần đó anh ta còn yếu vì mới ra tù và bị xích ở cổ tay. Khắp Bảy Phụ Quốc, không hiệp sĩ nào có thể chống lại Jaime khi anh ta phục hồi đầy đủ sức mạnh và không bị xích sắt cản trở. Jaime đã làm nhiều việc xấu xa, nhưng anh ta quả thực biết chiến đấu! Thương tật của anh ta từng vô cùng khủng khiếp. Giết con sư tử là một chuyện. Nhưng chặt móng
vuốt của nó, để nó sống trong tuyệt vọng và hoang mang lại là chuyện khác.
Đột nhiên, tiếng nói chuyện dưới nhà trở nên quá lớn đến nỗi cô không thể chịu thêm một chút nào nữa. Brienne thì thầm tự chúc mình ngủ ngon và trèo lên giường. Trần nhà trong phòng cô quá thấp,
bước vào phòng với một cây nến dây trong tay, cô phải cúi xuống để tránh bươu đầu. Đồ đạc duy nhất trong phòng là một chiếc giường lớn đến nỗi đủ cho sáu người và một mẩu nến mỡ cắm trên ngưỡng cửa sổ. Cô thắp sáng nó bằng cây nến dây trong tay, cài then và treo đai kiếm lên cột giường. Bao gươm của cô rất đơn giản, chỉ là một bao gỗ bọc da rạn màu nâu, bản thân thanh kiếm còn đơn giản hơn. Cô đã mua nó ở Vương Đô để thay thế thanh kiếm đã bị Chiến Binh Dũng Cảm lấy trộm. Thanh kiếm của Renly. Đến giờ, cô vẫn còn cảm thấy đau đớn vì đã để mất nó.
Nhưng cô còn một thanh trường kiếm giấu trong túi ngủ. Cô ngồi lên giường và lấy nó ra. Vàng khảm trên bao kiếm ánh lên lấp lánh dưới ánh nến, những viên hồng ngọc đỏ như những viên than đang âm ỉ cháy. Khi tuốt Kẻ Giữ Lời Thề ra khỏi bao kiếm trang trí cầu kỳ, Brienne cảm thấy hơi thở nghẹn lại trong cổ họng. Trên lưỡi kiếm bằng thép, những vân thép màu đen và đỏ gợn lăn tăn sâu trong nước thép quý hiếm. Đây là thép Valyria, được tôi dưới sức mạnh của bùa chú. Thanh kiếm này xứng đáng
với một anh hùng. Khi Brienne còn nhỏ, vú nuôi của cô đã nhồi đầy đầu cô những câu chuyện về lòng can đảm, làm cô thích thú với những chiến công lẫy lừng của Ser Galladon xứ Morne, Florian Ngốc Nghếch, hoàng tử Aemon Hiệp Sĩ Rồng và nhiều anh hùng khác nữa. Mỗi người như thế đều có một thanh kiếm lừng danh, và chắc hẳn Kẻ Giữ Lời Thề thuộc loại đó, ngay cả khi cô chẳng có tiếng tăm gì. “Cô sẽ bảo vệ cho con gái Ned Stark bằng chính thanh kiếm của Ned Stark,” Jaime hứa hẹn.
Quỳ xuống giữa chiếc giường và bức tường, Brienne cầm lưỡi kiếm trong tay và thầm cầu nguyện Bà Già, người có chiếc đèn vàng dẫn đường chỉ lối cho con người trong suốt cuộc đời họ. Xin người hãy dẫn dắt con, cô cầu nguyện, soi đường chỉ lối cho con, chỉ cho con thấy con đường đưa con đến với Sansa. Con đã phụ Renly, phụ phu nhân Catelyn, con không thể phụ lòng Jaime nữa. Jaime đã giao
phó cho con thanh kiếm của anh ta, tin tưởng con với tất cả danh dự của anh ta.
Sau đó, cô nằm duỗi dài trên giường một cách khoan khoái. Cái giường rất rộng nhưng lại không đủ dài, vì thế Brienne nằm ngang giường. Cô có thể nghe thấy tiếng cốc chén lanh canh dưới nhà, tiếng nói di chuyển dần về phía cầu thang. Những con bọ chét mà hiệp sĩ Longbough nhắc đến bắt đầu chứng
tỏ sự hiện diện của chúng. Sự ngứa ngáy chúng gây ra khiến cô không thể ngủ được.
Cô nghe thấy thương gia Hibald trèo lên gác, một lát sau, hiệp sĩ của ông ta cũng lên theo. “…Tôi không bao giờ biết được tên ông ấy,” Ser Creighton đang nói khi đi ngang qua phòng cô, “nhưng trên khiên của ông ta có hình một con gà đỏ như máu, và máu đang nhỏ giọt trên lưỡi kiếm của ông ta…” Giọng Ser Creighton nhỏ dần, và ở đâu đó phía trên, có tiếng cửa mở ra rồi đóng lại.
Ngọn nến của cô cháy hết, bóng tối ngự trị quán trọ Cầu Đá Cổ, cả quán trọ chìm vào yên lặng đến mức cô có thể nghe thấy tiếng rì rầm của dòng sông. Lúc đó, Brienne mới ngồi dậy để thu dọn hành lý.
Cô chầm chậm mở cửa, lắng nghe, và đi chân trần xuống cầu thang. Ra đến bên ngoài, cô mới mang giày và vội vàng đi ra chuồng ngựa để thắng yên cho con ngựa cái đỏ, thầm xin lỗi Ser Creighton và Ser Illifer khi trèo lên ngựa. Một người hầu của thương gia Hibald thức dậy khi cô đi ngang qua anh ta, nhưng không có một cử chỉ nào ngăn cản cô. Vó ngựa của cô vang lên trên chiếc cầu đá cổ. Rồi cây cối vây quanh cô, đêm đen như mực, đầy những bóng ma và hồi ức. Tôi đang đến với cô đây, tiểu thư Sansa, cô nghĩ thầm khi lao đi trong đêm đen. Đừng sợ. Tôi sẽ không nghỉ ngơi chừng nào còn chưa tìm thấy cô.