Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng

Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Cẩm Chi

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

 

“Cứ để chúng chết,” hoàng hậu Selyse nói.

Jon Snow đã lường trước câu trả lời đó. Bà hoàng hậu này chưa bao giờ ngừng làm người ta thất vọng, Nhưng chẳng hiểu sao anh vẫn thấy choáng váng. “Thưa hoàng hậu,” anh ngoan cố, “hàng nghìn người bọn họ đang chết đói ở Hardhome. Rất nhiều trong số đó là phụ nữ…”

“… và trẻ em nữa. Buồn thật!” Hoàng hậu kéo con gái lại gần và hôn lên má cô bé. Bên má chưa bị bệnh vẩy xám tấn công, Jon vẫn kịp để ý. “Tất nhiên chúng ta lấy làm tiếc cho bọn trẻ, nhưng phải biết nhận định một chút. Chúng ta không có thức ăn cho họ, và họ còn quá trẻ nên không thể chiến đấu cho chồng ta. Tốt nhất hãy để họ tái sinh vào ánh sáng.”

Đó chỉ là cách nói nhẹ nhàng hơn của câu cứ để chúng chết.

Căn phòng đông đúc. Công chúa Shireen đứng cạnh ghế của mẹ, Mặt Sẹo ngồi xếp bằng tròn dưới chân cô. Phía sau hoàng hậu là Ser Axell Florent đứng lù lù. Melisandre vùng Asshai đứng gần ngọn lửa hơn, viên ruby trên cổ cô ta đập theo mỗi nhịp cô ta thở. Nữ tu đỏ cũng có các tùy tùng riêng – cận vệ Devan Seaworth và hai trong số các lính gác nhà vua để lại cho cô.

Đội quân bảo vệ hoàng hậu Selyse đứng dọc theo tường, một hàng các hiệp sĩ sáng chói: Ser Malegorn, Ser Benethon, Ser Narbert, Ser Patrek, Ser Dorden, Ser Brus. Trước tình cảnh dân du mục khát máu tràn vào quấy phá Hắc Thành, Selyse luôn giữ các lính canh bên mình cả ngày lẫn đêm. Tormund Giantsbane đã cười ầm lên khi nghe thấy thế. “Bà ta sợ bị bắt đi à? Ta hy vọng ngươi không tuyên truyền về của quý vĩ đại của ta đấy chứ, Jon Snow? Bất cứ người phụ nữ nào nghe thấy thế cũng sẽ phải hoảng sợ. Vừa hay ta luôn muốn một phụ nữ có ria.” Sau đó hắn cười như nắc nẻ.

Nhưng giờ hắn sẽ không thể cười được nữa.

Jon đã phung phí quá nhiều thời gian ở đây. “Thần xin lỗi vì đã làm phiền người. Đội Tuần Đêm sẽ lo liệu việc này.”

 

Lỗ mũi hoàng hậu phồng lên. “Ngươi vẫn muốn tới Hardhome. Tất cả hiện rõ trên mặt ngươi. Ta đã bảo cứ để cho chúng chết, nhưng ngươi vẫn cố tình thực hiện kế hoạch điên rồ đó. Đừng có chối!”

“Thần phải làm những gì thần cho là tốt nhất. Và thưa hoàng hậu, Tường Thành là của thần, quyền quyết định cũng vậy.”

“Đúng thế,” Selyse đồng tình, “và ngươi sẽ phải trả lời cho chuyện đó khi nhà vua trở về. Ta e rằng với cả những quyết định khác nữa. Nhưng ta thấy ngươi quá cứng đầu và ngu ngốc. Cứ việc làm những gì ngươi phải làm.”

Ser Malegorn lên tiếng. “Lãnh chúa Snow, ai sẽ dẫn đầu cuộc xuất kích này?” “Ngài muốn nhận nhiệm vụ đó à, ser?”

“Trông tôi có ngu không?”

Mặt Sẹo nhảy ra. “Tôi sẽ dẫn đầu!” Những chiếc chuông rung lên vui vẻ. “Chúng ta sẽ hành quân ra biển một lần nữa. Dưới những con sóng, chúng ta sẽ cưỡi cá ngựa, các tiên cá sẽ thổi vỏ sò thông báo khi chúng ta tới, ồ ố ô.”

Tất cả bọn họ đều phá lên cười. Ngay cả hoàng hậu Selyse cũng nhếch môi. Nhưng Jon không thấy hài hước gì cả. “Tôi sẽ không bắt người của mình phải làm những việc mà tôi không dám đích thân làm. Tôi sẽ chỉ huy cuộc xuất kích.”

“Dũng cảm quá nhỉ,” hoàng hậu nói. “Chúng ta đồng ý. Chắc hẳn sau này một thi sĩ nào đó sẽ viết một bài hát cảm động về ngươi, và chúng ta sẽ có một tướng chỉ huy khôn ngoan hơn.” Bà ta nhấp một ngụm rượu. “Chúng ta hãy nói về những vấn đề khác đi. Axell, dẫn vua du mục lại đây nào.”

“Có ngay đây, thưa hoàng hậu.” Ser Axell đi qua một cánh cửa và một lát sau quay trở lại với Gerrick Hoàng Tộc. “Gerrick Nhà Râu Đỏ,” ông ta thông báo, “Vua Du Mục.”

Gerrick Hoàng Tộc là một người đàn ông cao lớn, chân dài, vai rộng. Có vẻ

 

hoàng hậu cho hắn mặc bộ đồ cũ nào đó của nhà vua. Sau khi được tắm rửa và chải chuốt, mặc đồ nhung xanh và áo choàng nửa thân bằng lông chồn ec- min, với mái tóc đỏ dài mới gội và bộ râu đỏ rực tỉa tót gọn gàng, gã du mục trông giống một lãnh chúa phương nam đến từng xăng ti mét. Hắn có thể đường hoàng bước vào sảnh thiết triều ở Vương Đô mà không ai mảy may nghi ngờ gì, Jon nghĩ.

“Gerrick là vị vua đích thực và chính đáng của dân du mục,” hoàng hậu nói, “con cháu chính tông của vua Raymun Râu Đỏ vĩ đại, trong khi kẻ tiếm quyền Mance Rayder chỉ là con của một phụ nữ tầm thường và một trong các anh em áo đen của các ngươi.”

Không đúng, Jon định nói như vậy, Gerrick là con cháu của em trai Raymun Râu Đỏ. Đối với cư dân tự do, điều đó cũng giống như việc có tổ tiên là con ngựa của Raymun Râu Đỏ. Họ chẳng biết gì, Ygritre ạ. Và tệ hơn là họ còn không chịu học.

“Gerrick đã vui vẻ chấp thuận gả con gái lớn của ông ta cho Axell đáng yêu đây, để họ được Thần Ánh Sáng tác thành hôn thú thiêng liêng,” hoàng hậu Selyse nói. “Các cô con gái nhỏ hơn cũng sẽ thành thân cùng ngày – con gái thứ hai lấy Ser Brus Buckler và cô con gái út lấy Ser Malegorn vùng Redpool.”

“Các hiệp sĩ.” Jon cúi đầu trước các hiệp sĩ vừa được nhắc đến. “Chúc các vị hạnh phúc.”

“Dưới biển, người kết hôn với cá.” Mặt Sẹo nhảy vài bước nhỏ và rung chuông. “Họ cưới nhau, cưới nhau, cưới nhau.”

Hoàng hậu Selyse khịt mũi một lần nữa. “Ba hay bốn đám cưới một ngày cũng không có gì khác nhau. Đã đến lúc Val cần phải ổn định cuộc sống rồi, Lãnh chúa Snow. Ta quyết định sẽ cho cô ta kết hôn vị hiệp sĩ tài hoa và trung thành của ta, Ser Patrek vùng Núi Vương.”

“Val đã biết chuyện này chưa, thưa hoàng hậu?” Jon hỏi. “Đối với cư dân tự do, khi một người đàn ông muốn có một người phụ nữ, anh ta sẽ đánh cắp cô

 

ấy về, như vậy để chứng tỏ sức mạnh, tài trí và lòng quả cảm của anh ta. Người cầu hôn có nguy cơ bị đánh cho thừa sống thiếu chết nếu anh ta bị người nhà của cô gái bắt được, và kết cục còn tồi tệ hơn nữa nếu cô gái cảm thấy anh ta không xứng đáng.”

“Một tục lệ dã man,” Axell Florent nói.

Ser Patrek chỉ cười khùng khục. “Không người đàn ông nào dám nghi ngờ lòng quả cảm của ta. Phụ nữ lại càng không.”

Hoàng hậu Selyse mím môi. “Lãnh chúa Snow, nếu tiểu thư Val chưa quen với tục lệ của chúng ta như vậy thì hãy đưa cô ấy đến đây cho ta, để ta dạy cho cô ẩy biết nhiệm vụ của một phu nhân quý tộc đối với lãnh chúa chồng mình là như thế nào.”

Chắc chắn kết quả sẽ tốt đẹp lắm đây. Jon tự hỏi không biết hoàng hậu có còn hào hứng muốn Val lấy một trong các hiệp sĩ của bà ta hay không, nếu bà biết những gì Val nghĩ về công chúa Shireen. “Được thôi,” anh nói, “nhưng nếu thần được nói thẳng….”

“Không, ta không nghĩ vậy. Ngươi đi được rồi.” Jon Snow quỳ gối, cúi đầu và rời đi.

Anh bước hai bậc một lúc, gật đầu chào các lính gác của hoàng hậu khi đi xuống. Hoàng hậu đã cắt cử lính gác ở mọi đầu cầu thang để bảo vệ bà ta khỏi đám dân du mục tàn bạo. Nửa đường xuống, một giọng nói vọng lên trên đầu anh. “Jon Snow.”

Jon quay người. “Quý cô Melisandre.” “Chúng ta phải nói chuyện.”

“Phải sao?” Ta không nghĩ vậy đâu. “Thưa quý cô, tôi còn có nhiệm vụ phải làm.”

 

“Chính là nói về những nhiệm vụ đó đấy.” Cô ta bước xuống, gấu chiếc váy đỏ sột soạt trên những bậc thang. Cô ta giống như đang trôi đi trong không khí. “Con sói của cậu đâu rồi?”

“Đang ngủ trong phòng tôi. Hoàng hậu không cho phép Bóng Ma xuất hiện trước mặt bà. Bà ấy nói nó làm công chúa sợ. Và lại khi ở gần Borroq và con lợn lòi của hắn, tôi không dám thả nó ra.” Gã đội lốt sẽ đi cùng Soren Đập Vỡ Khiên tới Stonedoor một khi đoàn xe chở bộ tộc của Lột Da Hải Cẩu tới Greenguard trở về. Từ giờ đến lúc đó, Borroq được bố trí ở một trong các lăng mộ cổ bên cạnh nghĩa địa của tòa lâu đài. Người chết có vẻ hợp để bầu bạn với hắn hơn là người sống, và con lợn lòi của hắn có vẻ cũng rất sung sướng được ủi đất quanh mấy cái mộ, tránh xa các vật nuôi khác. “Con vật đó to như bò mộng, răng nanh dài như hai thanh kiếm. Nếu được thả ra, Bóng Ma sẽ đuổi theo nó, và sau cuộc chạm trán, một trong hai hoặc cả hai sẽ không sống sót.”

“Borroq là kẻ ít đáng lo nhất đối với cậu. Cuộc xuất quân này…” “Rất có thể một lời của quý cô sẽ lay chuyển được hoàng hậu.”

“Selyse cũng có lý trong chuyện này, Lãnh chúa Snow. Để họ chết đi. Cậu không thể cứu họ được đâu. Thuyền của cậu đã mất cả rồi…”

“Vẫn còn sáu thuyền. Hơn một nửa hạm đội.”

“Thuyền của cậu đã mất. Tất cả. Sẽ không có một người nào quay lại. Ta đã thấy điều đó trong ngọn lửa.”

“Lửa của cô vốn hay nói dối.”

“Ta thừa nhận mình có nhầm lẫn, nhưng…”

“Cô gái màu xám trên con ngựa sắp chết. Những con dao trong bóng tối. Một hoàng tử được hứa hẹn, sinh ra trong khói và muối. Tôi thấy cô chẳng làm được gì ngoài nhầm lẫn, quý cô ạ. Stannis đâu? Giáp Xương và đám nữ chiến binh thế nào rồi? Em gái tôi đâu?”

 

 

“Tất cả những câu hỏi của cậu sẽ được trả lời. Nhìn lên trời đi, Lãnh chúa Snow. Khi cậu có câu trả lời, hãy đem nó đến cho ta. Mùa đông sắp tới rồi. Ta là hy vọng duy nhất của cậu.”

“Hy vọng của một thằng ngốc.” Jon quay người và bỏ đi.

Leathers đang đi vơ vẩn ngoài sân. “Toregg vừa quay về,” anh ta báo cáo khi Jon xuất hiện. “Cha cậu ta đã sắp xếp ổn thỏa cho người của ông ta ở Oakenshield và chiều nay sẽ trở về cùng tám mươi chiến binh. Bà hoàng hậu có râu nói thế nào?”

“Hoàng hậu không giúp được gì cả.”

“Chắc là bận nhổ lông cằm quá đúng không?” Leathers nhổ bọt. “Chả sao cả. Người của Tormund cộng với của chúng ta là đủ rồi.”

Chắc sẽ đủ để đến đó. Nhưng đoạn đưòng về mới là thứ khiến Jon Snow lo lắng. Cuộc trở về sẽ vô cùng chậm chạp bởi hàng ngàn cư dân tự do, nhiều người trong số đó ốm đau và đói khát. Dòng người di chuyển chậm hơn cả dòng sông băng. Và như vậy họ sẽ rất dễ bị tấn công. Xác sống ở trong rừng. Xác sống dưới mặt nước. “Bao nhiêu người là đủ?” anh hỏi Leathers. “Một trăm? Hai trăm? Năm trăm? Hay một nghìn?” Ta nên đem theo nhiều người hơn hay ít người hơn? Đoàn người nhỏ sẽ tới Hardhome sớm hơn… nhưng đem theo tay kiếm để làm gì nếu không có thức ăn? Mẹ Chuột Chũi và người của bà ta đã đói đến mức sắp ăn cả người chết. Để nuôi họ, anh sẽ phải đem theo các xe kéo, xe ngựa, và động vật kéo xe – ngựa, bò, chó. Thay vì bay qua rừng, họ sẽ buộc phải bò. “Vẫn còn rất nhiều thứ phải quyết định. Truyền tin đi. Trước tiên thông báo cho tất cả các chỉ huy ở Sảnh Khiên vào đầu phiên gác tối nay. Chắc hẳn lúc đó Tormund đã về rồi. Ta sẽ tìm Toregg ở đâu nhỉ?”

“Chắc đang ở với quái vật con. Nghe nói cậu ta có cảm tình với một trong các vú nuôi của thằng nhóc.”

Cậu ta có cảm tình với Val. Chị cô ấy từng là hoàng hậu, tại sao cô ấy lại

 

không? Tormund từng nghĩ đến việc tự nhận là Vua-Phía-Bên-Kia-Tường- Thành, trước khi bị Mance đánh bại. Toregg Cao rất có thể cũng đang mơ giấc mơ đó. Thà là cậu ta còn hơn Gerrick Hoàng Tộc. “Cứ mặc họ,” Jon nói. “Ta sẽ nói chuyện với Toregg sau.” Anh ngước nhìn lên phía sau Tháp Vương. Bức Tường Thành trắng đục một màu, bàu trời phía trên còn trắng hơn. Bầu trời phủ tuyết. “Hy vọng sẽ không có thêm một trận bão nào nữa.”

Bên ngoài kho vũ khí, Mully và Bọ Chét run rẩy đứng canh. “Sao hai người không vào trong cho khỏi gió?” Jon hỏi.

“Được thế thì tuyệt quá,” Fulk Bọ Chét nói, “nhưng hôm nay con sói của ngài không muốn có ai ở cạnh.”

Mully đồng ý. “Nó định đớp tôi một miếng đấy.” “Bóng Ma ấy à?” Jon kinh ngạc.

“Đúng thế, trừ khi lãnh chúa có con sói trắng nào khác. Tôi chưa thấy nó như thế bao giờ. Ý tôi là nó rất hoang dã.”

Ông ta nói không sai, Jon cũng tự mình nhận ra điều đó khi bước vào trong. Con sói trắng vĩ đại không chịu nằm yên. Nó chạy quanh phòng từ góc này sang góc khác, qua bễ lò rèn nguội lạnh, rồi quay trở lại. “Yên nào, Bóng Ma,” Jon gọi. “Ngồi xuống, Bóng Ma. Ngồi xuống.” Nhưng khi anh định chạm vào nó, con sói xù lông và nhe răng. Là con lợn lòi chết tiệt. Ngay cả ở trong này, Bóng Ma vẫn ngửi thấy mùi tanh hôi của nó.

Con quạ của Mormont có vẻ cũng bị kích động. “Snow,” con chim luôn mồm kêu. “Snow, snow, snow.” Jon xùy đuổi con vật đi, bảo Sa-tanh nhóm một ngọn lửa, sau đó sai cậu bé triệu tập Bowen Marsh và Othell Yarwyck. “Đem cả một bình rượu nóng đến đây nữa nhé.”

“Với ba chiếc cốc ạ?”

“Sáu. Mully và Bọ Chét có vẻ cũng cần được uống thứ gì đó ấm áp. Cả cậu cũng vậy.”

 

 

Khi Sa-tanh đi rồi, Jon ngồi xuống và nhìn lại bản đồ vùng đất phía bắc Tường Thành một lần nữa. Con đường ngắn nhất tới Hardhome là dọc theo bờ biển… từ Trạm Đông. Khu rừng thưa thớt hơn khi ở gần biển, địa thế phần lớn là bằng phẳng, đồi thoải và đầm muối. Và khi các cơn bão mùa thu gào rú, bờ biển có mưa đá và mưa lạnh chứ ít khi đổ tuyết. Người khổng lồ ở Trạm Đông, và Leathers nói vài người trong số đó có thể giúp được. Từ Hắc Thành đường đi sẽ khó khăn hơn, xuyên qua chính giữa khu rừng ma ám.

Nếu ở Tường Thành tuyết đã rơi dày như thể này, thì ở đó tình hình còn tệ đến mức nào?

Marsh khụt khịt bước vào, cùng với Yarwyck nghiêm nghị. “Một cơn bão nữa,” thợ cả thông báo. “Làm sao chúng tôi có thể làm việc trong thời tiết thế này? Tôi cần thêm thợ xây.”

“Dùng cư dân tự do ấy,” Jon nói.

Yarwyck lắc đầu. “Lũ người đó gây rắc rối là chủ yếu. Lôi thôi, cẩu thả, lười nhác… tôi không phủ nhận thỉnh thoảng có những thợ mộc giỏi, nhưng hầu hết chẳng tên nào biết xây, và thợ rèn thì hoàn toàn không. Có thể lưng chúng khỏe đấy, nhưng chúng không nghe lời ai cả. Và thợ xây chúng tôi phải biến đống tàn tích thành những pháo đài như trước. Không thể hoàn thành được đâu, thưa lãnh chúa. Tôi nói thật với ngài. Không thể xong được.”

“Phải xong,” Jon nói, “nếu không bọn họ sẽ phải sống trong đống đổ nát.”

Một lãnh chúa cần những người có thể tin tưởng được ở xung quanh, để họ cho những lời cố vấn chân thành. Marsh và Yarwyck không phải những kẻ ưa xu nịnh, và đó là điểm tốt… nhưng họ cũng hiếm khi giúp được gì. Càng ngày anh càng đoán trước được những gì họ định nói trước cả khi đặt câu hỏi cho họ.

Đặc biệt trong những chuyện liên quan đến cư dân tự do, khi sự phản đối của họ sâu sắc tận xương tủy. Khi Jon giao Stonedoor cho Soren Đập Vỡ Khiên, Yarwyck đã phàn nàn rằng nơi đó quá biệt lập. Làm sao họ biết được Soren định toan tính điều gì khi hắn ở tít khu đồi đó? Khi anh trao Oakenshield cho

 

Tormund Giantsbane và Queensgate cho Morna Mặt Nạ Trắng, Marsh cho rằng giờ Hắc Thành sẽ có kẻ thù từ cả hai phía, và chúng có thể dễ dàng tách ra khỏi toàn bộ những phần còn lại của Tường Thành. Còn về Borroq, Othell Yarwyck cho rằng khu rừng ở phía bắc Stonedoor tràn ngập lợn lòi. Ai dám chắc kẻ đội lốt sẽ không thành lập một đội quân lợn lòi của riêng hắn?

Hoarfrost Hill và Rimegate vẫn thiếu quân đồn trú, vì thế Jon đã hỏi họ xem tộc trưởng và tướng lĩnh du mục nào còn lại phù hợp để trấn thủ hai nơi đó. “Chúng ta có Brogg, Gavin Thương Nhân, Hải Mã Vĩ Đại… Howd Lang Thang luôn đi một mình, theo lời Tormund, nhưng ngoài ra còn có Harle Thợ Săn, Harle Đẹp Trai, Doss Mù Lòa… Ygon Cha Già cũng có một nhóm người ủng hộ, nhưng hầu hết là con và cháu trai của chính hắn. Hắn có mười tám vợ, một nửa trong số họ là do hắn cướp được trong các cuộc đột kích. Ai trong số đó…”

“Chẳng ai cả,” Bowen Marsh nói. “Tôi quá hiểu hành vi của những kẻ đó. Chúng ta phải tròng chúng vào dây treo cổ, chứ không phải cho chúng lâu đài của chúng ta.”

“Đúng vậy,” Othell Yarwyck đồng tình. “Tồi, tồi hơn và tồi nhất, đó là những lựa chọn của ăn mày. Chẳng khác nào Lãnh chúa vừa dẫn đến cho chúng tôi một bầy sói và hỏi chúng tôi thích bị con nào cắn toạc họng trước.”

Với Hardhome cũng vậy. Sa-tanh rót rượu trong khi Jon kể lại cho họ về cuộc viếng thăm của anh tới chỗ hoàng hậu. Marsh chăm chú lắng nghe, không để ý gì đến rượu hâm, trong khi Yarwyck uống hết cốc này đến cốc khác. Nhưng ngay khi Jon nói xong, ngài Tổng Quản đã lên tiếng, “Hoàng hậu rất khôn ngoan. Cứ để chúng chết.”

Jon ngồi lại ghế. “Đó là lời khuyên duy nhất ngài có thể đưa ra sao? Tormund sẽ đem theo tám mươi người. Chúng ta nên đem bao nhiêu? Có nên đem người khổng lồ không? Các nữ chiến binh ở Long Barrow thì sao? Nếu đem phụ nữ theo, có thể sẽ dễ dàng cho Mẹ Chuột Chũi hơn.”

“Thế thì cử phụ nữ đi. Cử người khổng lồ đi. Cử những đứa nhóc đang bú mẹ nữa. Đó có phải những gì ngài muốn nghe không?” Bowen Marsh xoa lên

 

chiếc sẹo ông nhận được trong trận chiến ở Cầu Đầu Lâu. “Cho tất cả bọn chúng đi. Mất càng nhiều người, chúng ta càng phải nuôi ít miệng ăn.”

Yarwyck cũng chẳng có ích hơn chút nào. “Nếu dân du mục ở Hardhome cần được cứu thì hãy để dân du mục ở đây đi cứu chúng. Tormund biết đường đến Hardhome. Chính miệng hắn nói hắn có thề tự cứu tất cả bọn họ bằng của quý vĩ đại của hắn cơ mà.”

Cuộc nói chuyện này sẽ chẳng đi đến đâu hết, Jon nghĩ. Vô nghĩa, vô ích, vô vọng. “Cảm ơn lời tư vấn của các ngài.”

Sa-tanh giúp họ mặc lại áo choàng. Khi họ đi qua kho vũ khí, Bóng Ma ngửi họ, đuôi xù lên và nghển cao. Các anh em của ta. Đội Tuần Đêm cần những thủ lĩnh với trí tuệ của Maester Aemon, khả năng học hỏi của Samwell Tarly, lòng dũng cảm của Qhorin Cụt Tay, sức mạnh ngoan cường của Gấu Già, và lòng trắc ẩn của Donal Noye. Nhưng thay vào đó, chúng ta chỉ có họ.

Bên ngoài tuyết đang rơi dày đặc. “Gió thổi từ hướng nam,” Yarwyck quan sát. “Nó đang thổi tuyết thẳng lên Tường Thành. Thấy không?”

Ông ta nói đúng. Jon thấy chiếc cầu thang quanh co đã bị chôn vùi đến gần chiếu nghỉ đầu tiên, cửa gỗ của các ngục băng và nhà kho cũng biến mất đằng sau một bức tường trắng xóa. “Chúng ta có bao nhiêu người trong các ngục băng ấy nhỉ?” Anh hỏi Bowen Marsh.

“Bốn người sống. Hai người chết.”

Những cái xác. Jon suýt nữa quên mất họ. Anh đã hy vọng có thể học được gì đó từ những cái xác họ đem về từ rừng đước, nhưng người chết cứ cứng đầu chết mãi. “Chúng ta phải đào mấy nhà ngục đó ra.”

“Mười người phục vụ và mười cái thuổng là được,” Marsh nói. “Dùng cả Wun Wun nữa.”

“Xin theo ý ngài.”

 

 

Mười người phục vụ và một người khổng lồ có thể đào lớp tuyết nhanh chóng, nhưng ngay cả khi những cánh cửa lộ ra, Jon vẫn không thấy hài lòng. “Đến sáng mai chúng lại bị chôn vùi trong tuyết thôi. Tốt nhất chúng ta hãy chuyển tù binh đi trước khi họ bị ngạt chết.”

“Cả Karstark nữa à, lãnh chúa?” Fulk Bọ Chét hỏi. “Cứ để hắn run lập cập đến mùa xuân không được sao?”

“Ước gì chúng ta có thể làm vậy.” Cregan Karstark gần đây thường la hét trong đêm và ném những cục phân đóng băng vào bất cứ ai đem đồ ăn tới cho hắn. Vì thế nên hắn chẳng được lính canh nào yêu quý cả. “Đưa hắn đến Tháp Chỉ Huy. Hắn sẽ ở dưới tầng hầm.” Dù một phần đã bị sập, nhưng nơi ở trước đây của Gấu Già sẽ ấm hơn ngục băng. Các tầng hầm hầu như vẫn còn nguyên vẹn.

Cregan đá lính gác khi họ đi qua cửa, quằn quại và xô đẩy khi họ xốc hắn lên, thậm chí còn định cắn họ. Nhưng cái lạnh đã làm hắn yếu đi, và người của Jon lại to cao hơn, trẻ hơn và khỏe mạnh hơn. Hắn vẫn oằn người chống trả khi họ lôi hắn ra và kéo hắn qua lớp tuyết cao đến tận đùi để đến ngôi nhà mới.

“Tướng chỉ huy muốn chúng tôi làm gì với mấy cái xác đây?” Marsh hỏi khi người sống đã được mang ra ngoài.

“Mặc kệ đi.” Nếu cơn bão chôn vùi chúng thì càng tốt. Đằng nào anh cũng phải chôn chúng, nhưng hiện tại chúng đang bị cùm trong xích sắt trong nhà ngục. Hơn nữa họ đều đã chết nên lại càng vô hại.

Tormund Giantsbane ước lượng thời gian xuất hiện một cách hoàn hảo. Hắn huỳnh huỵch đi tới cùng các chiến binh đúng lúc việc đào đất xong xuôi. Có vẻ quân số chỉ là năm mươi người, thay vì tám mươi như Toregg hứa hẹn với Leathers, nhưng không phải tự nhiên mà Tormund có biệt danh là Đại Ngôn. Tên du mục đỏ mặt tía tai xuất hiện, kêu mang bia và đồ ăn nóng tới. Băng đóng trên râu và ria hắn.

 

Ai đó đã nói với Nắm Đấm Sấm Sét về Gerrick Hoàng Tộc và tước vị mới của hẳn. “Vua của dân du mục ấy à?” Tormund gầm lên. “Ha! Vua của cái đít ta thì có.”

“Trông hắn cũng khá giống vua,” Jon nói.

“Hắn có thằng nhỏ bé xíu đỏ hỏn, đồng bộ với mái tóc đỏ, chấm hết. Raymund Râu Đỏ và các con trai đều chết ở Hồ Dài cả rồi, nhờ lũ người Nhà Stark chết tiệt của ngươi và Người Khổng Lồ Say Rượu. Nhưng cậu em trai thì không chết. Ngươi có tự hỏi tại sao mọi người gọi hắn là Quạ Đỏ không?” Tormund nhe hàm răng cái còn cái mất ra cười. “Hắn là người đầu tiên bỏ chạy khỏi chiến trường. Sau này còn có một bài hát về việc đó đấy. Các ca sĩ phải tìm từ vần với gan thỏ, cho nên…” Hắn lau mũi. “Nếu các hiệp sĩ của hoàng hậu muốn có mấy đứa con gái đó thì bảo chúng tự đến mà cướp về.”

“Gái,” con quạ của Mormont kêu quác quác. “Gái, gái.”

Con quạ làm Tormund cười lăn lộn. “Đấy, con chim khôn đấy chứ. Ngươi muốn ta trả bao nhiêu cho nó hả, Snow? Ta đã cho ngươi một thằng con trai, ít nhất ngươi cũng phải cho ta một con quạ chết tiệt chứ.”

“Ta sẵn sàng thôi,” Jon nói, “nhưng nhiều khả năng ngươi sẽ ăn thịt nó mất.”

Tormund cũng cười ầm lên khi nghe thấy thế. “Ăn,” con quạ buồn rầu nói và đập cánh. “Ngô? Ngô? Ngô?”

“Chúng ta cần bàn về cuộc xuất kích,” Jon nói. “Ta muốn chúng ta phải nhất trí với nhau khi tới Sảnh Khiên, chúng ta phải…” Anh ngừng lại khi Mully thò mũi vào cửa, nghiêm nghị thông báo rằng Clydas đem một lá thư tới.

“Bảo ông ấy để lá thư chỗ ông. Tôi sẽ đọc sau.”

“Vâng, xin theo ý ngài, chỉ là… Clydas trông không được bình thường… mặt ông ta không hồng hào mà trắng bệch, ngài hiểu ý tôi chứ… và ông ta đang run rẩy nữa.”

 

“Đôi cánh đen đem theo những tin tức đen tối,” Tormund lẩm bẩm. “Bọn quỳ gối các người vẫn hay nói vậy đúng không?”

“Chúng ta còn nói Cảm lạnh thì chích máu, sốt thì ăn thật nhiều,” Jon bảo hắn. “Chúng ta còn nói không bao giờ uống rượu với người Dorne khi trăng tròn nữa. Chúng ta có nhiều câu châm ngôn lắm.”

Mully cũng thêm vào. “Bà nội tôi cũng thường bảo, những người bạn mùa hè sẽ tan đi như tuyết mùa hè, nhưng những người bạn mùa đông sẽ là bạn mãi mãi.”

“Chắc hiện tại chừng đó châm ngôn là đủ cho chúng ta rồi nhỉ,” Jon Snow nói. “Ông có thể dẫn Clydas vào được không?”

Mully nói không sai; người phục vụ già đang run rẩy, mặt trắng bệch như tuyết bên ngoài. “Thưa tướng chỉ huy, có thể tôi ngu ngốc, nhưng… lá thư này làm tôi sợ. Ngài nhìn xem.”

Con hoang, đó là tất cả những gì viết bên ngoài cuộn – giấy da. Không có Lãnh chúa Snow hay Jon Snow hay Tướng chỉ huy gì hết. Đơn giản là Con hoang. Và lá thư được niêm phong bằng một vết sáp cứng màu hồng. “Ông làm rất đúng khi đến ngay lập tức,” Jon nói. Ông sợ hãi cũng không có gì sai. Anh mở dấu niêm phong, trải phẳng cuộn giấy da và đọc.

Tên vua giả mạo của ngươi đã chết, con hoang. Hắn và đội quân của hắn bị đập tan chỉ sau bảy ngày chiến đấu. Ta đang có trong tay thanh kiếm ma thuật của hắn. Bảo con điếm đỏ của hắn như vậy.

Lũ bạn của tên vua giả mạo của ngươi cũng đã chết. Đầu chúng đang bị treo trên tường thành Winterfell. Đến mà xem, con hoang. Tên vua giả của ngươi nói dối, và ngươi cũng vậy. Ngươi nói với cả thế giới rằng ngươi đã thiêu chết Vị- Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành. Nhưng ngươi lại cử hắn đến Winterfell đánh cắp cô dâu của ta.

Ta sẽ cướp lại cô dâu của ta. Nếu ngươi muốn lấy lại Mance Rayder thì hãy đến mà cứu hắn. Ta giam hắn vào một cái lồng cho cả phương bắc nhìn thấy,

 

bằng chứng về sự dối trá của ngươi. Cái lồng lạnh lẽo lắm, nhưng ta đã làm cho hắn một cái áo choàng từ da của sáu con điếm cùng hắn tới Winterfell.

Ta muốn cô dâu của ta trở lại. Ta muốn hoàng hậu của tên vua giả. Ta muốn con gái hắn và ả phù thủy đỏ của hắn. Ta muốn cả công chúa du mục nữa.

Ta muốn hoàng tử nhỏ của hắn, thằng nhóc con du mục. Và ta muốn Hôi Thối của ta. Đưa họ đến đây cho ta, con hoang, rồi ta sẽ để yên cho đám quạ đen các ngươi. Bằng không nếu ngươi giữ chúng, ta sẽ moi tim ngươi ra ăn, đồ con hoang ạ.

Bức thư được ký,

Ramsay Bolton,

Lãnh chúa đích thực của Winterfell.

“Snow?” Tormund Giantsbane hỏi. “Cái đầu máu me của cha ngươi vừa lăn từ tờ giấy ra à?”

Jon Snow không trả lời ngay lập tức. “Mully, giúp Clydas về phòng đi. Đêm tối, đường nhiều tuyết sẽ trơn trượt. Sa Tanh, cậu hãy đi với họ.” Anh đưa bức thư cho Tormund Giantsbane. “Đây, tự đọc đi.”

Tên du mục nhìn lá thư ngờ vực rồi đưa ngay lại cho Jon. “Bực mình thật… nhưng Tormund Nắm Đấm Sấm Sét có nhiều việc phải làm hơn là học cách nói chuyện với tờ giấy. Chúng chẳng bao giờ nói được điều gì tốt đẹp cả, đúng không?”

“Thường là như vậy,” Jon Snow thừa nhận. Đôi cánh chim đen mang lời u tối. Có lẽ những câu châm ngôn cổ đó đúng hơn anh tưởng. “Bức thư gửi đến từ Ramsay Snow. Ta sẽ đọc cho ngươi những gì hắn viết.”

Khi anh đọc xong, Tormund huýt sáo. “Ha. Đúng là tên khốn. Đoạn về Mance là thế nào? Hắn bị nhốt trong lồng à? Bằng cách nào, khi hàng trăm người đã thấy phù thủy đỏ của ngươi thiêu chết hắn?”

 

 

Đó là Giáp Xương, Jon suýt buột miệng, Đó là thuật phù thủy. Là ảo ảnh, cô ta gọi nó như vậy. “Melisandre… cô ta bảo hãy nhìn lên bầu trời.” Anh đặt lá thư xuống. “Một con quạ trong cơn bão, cô ta đã thấy trước điều này.” Khi cậu có câu trả lời, hãy đem nó đến cho ta.

“Có khi là dối trá hết.” Tormund gãi râu. “Nếu có cái bút lông ngỗng với mực của maester, ta cũng có thể ghi thằng nhỏ của ta to và dài như cánh tay, nhưng lời nói không phải là sự thật.”

Hắn có thanh Sứ Giả Ánh Sáng. Hắn nói về những cái đầu trên tường thành Winterfell. Hắn biết về đám nữ chiến binh và số lượng của họ. Hắn biết Mance Rayder. “Không. Chắc chắn có sự thật trong đó.”

“Ta đâu có bảo ngươi sai. Ngươi định làm gì bây giờ hả quạ?”

Jon co duỗi bàn tay cầm kiếm. Đội Tuần Đêm không can dự. Anh nắm tay lại và mở ra lần nữa. Những dự định của ngươi chỉ có thể là tạo phản. Anh nghĩ về Robb với những bông tuyết tan trên tóc. Giết thăng nhóc để người đàn ông được sinh ra. Anh nghĩ đến Bran leo trèo các tòa tháp thoăn thoắt như một con khỉ. Nghĩ đến tiếng cười khanh khách của Rickon. Nghĩ đến Sansa ngồi chải lông cho Quý Cô và ca hát một minh. Ngươi chẳng biết gì, Jon Snow ạ. Anh nghĩ đến Arya với mái tóc rối bù như tổ chim. Ta đã làm cho hắn một cái áo choàng từ da của sáu con điếm cùng hắn tới Winterfell… Ta muốn cô dâu của ta trở lại… Ta muốn cô dâu của ta trở lại… Ta muốn cô dâu của ta trở lại…

“Ta nghĩ chúng ta nên thay đổi kế hoạch thôi,” Jon Snow nói. Họ nói chuyện trong vòng hai giờ.

Ngựa và Rory đã gác thay cho Fulk và Mully ở cửa kho vũ khí. “Đi với ta,” Jon bảo họ khi thời khắc đến. Bóng Ma lẽ ra cũng đi cùng, nhưng khi con sói chạy theo, Jon nắm lấy gáy con vật và cố đẩy nó vào trong. Rất có thể Borroq cũng nằm trong số những người tụ tập ở Sảnh Khiên. Và điều cuối cùng anh muốn lúc này là con sói của anh tấn công con lợn lòi của kẻ đội lốt.

 

 

Sảnh Khiên là một trong những phần cổ nhất của Hắc Thành, một căn sảnh đại tiệc dài và lạnh lẽo xây bằng đá đen, xà nhà bằng gỗ sồi ám đen bởi khói từ hàng thế kỷ. Ngày xưa, khi Đội Tuần Đêm còn là một đội quân lớn hơn nhiều, trên các bức tường trong sảnh có treo những hàng khiên gỗ đủ màu sắc rực rỡ. Theo truyền thống từ trước đến nay, khi một hiệp sĩ mặc áo choàng đen nghĩa là anh ta từ bỏ gia huy trước đây của mình để đổi lấy chiếc khiên đen tuyền của các anh em. Những chiếc khiên bỏ đi sẽ được treo ở Sảnh Khiên.

Hàng trăm hiệp sĩ đồng nghĩa với hàng trăm chiếc khiên. Diều hâu và đại bàng, rồng và điểu sư, mặt trời và hươu đực, sói và rồng bay, manticore, bò tót, cây và hoa, đàn hạc, giáo, cua và thủy quái kraken, sư tử đỏ, sư tử vàng, sư tử kẻ ô bàn cờ, cú, cừu, tiên cá, người cá, ngựa giống, ngôi sao, xô nước, ổ khóa, người bị lột da, người bị treo cổ, người bị thiêu, rìu, trường kiếm, rùa, kỳ lân, gấu, lông ngỗng, rắn, bọ cạp, và hàng trăm chiếc khiên mang những huy hiệu khác, tô điểm cho các bức tường của Sảnh Khiên, màu sắc sặc sỡ hơn mọi chiếc cầu vồng.

Nhưng khi một hiệp sĩ chết, khiên của anh ta sẽ bị tháo xuống để theo anh ta lên giàn thiêu hoặc xuống mộ, và mỗi năm tháng, mỗi thế kỷ trôi qua, số lượng hiệp sĩ gia nhập đội quân áo đen ngày càng ít. Rồi đến một ngày, các hiệp sĩ của Hắc Thành cảm thấy chẳng cần phải ăn riêng nữa. Sảnh Khiên từ đó bị bỏ hoang. Trong một trăm năm qua, căn sảnh hiếm khi được sử dụng. Là một sảnh ăn nhưng nó chẳng có gì hấp dẫn – vừa tối tăm, vừa bẩn thỉu, vừa lạnh lẽo, lại khó đốt lò sưởi trong mùa đông, tầng hầm nhung nhúc chuột và xà nhà gỗ vĩ đại không chỉ bị mọt ăn mà còn trang hoàng đầy mạng nhện.

Nhưng nó đủ rộng và đủ dài cho hai trăm người ngồi, và có thể chứa gấp rưỡi số đó nếu họ ngồi sát lại. Khi Jon và Tormund bước vào, một âm thanh vọng lên nghe như tiếng ong rộ lên trong tổ. Số lượng dân du mục đông gấp năm lần số quạ, vì anh chỉ nhìn thấy có một nhúm áo đen. Trên tường chỉ còn chưa đến một tá khiên, trông chúng thật buồn và ảm đạm với màu sơn bạc phếch và những vết nứt dài trên gỗ. Nhưng những ngọn đuốc mới đang cháy bập bùng trên các chân đế bằng sắt dọc theo tường, và Jon đã lệnh cho người mang vào thêm bàn và ghế. Mọi người sẽ lắng nghe tốt hơn khi được ngồi

 

thoải mái, Maester Aemon từng bảo anh như vậy; những người phải đứng thường rất dễ gào thét.

Ờ đầu sảnh là một chiếc bục đã lún. Jon trèo lên đó cùng Tormund Giantsbane bên cạnh, và giơ tay lên ra hiệu mọi người im lặng. Nhưng tổ ong lại càng vo ve to hơn. Sau đó Tormund đưa chiếc tù và chiến lên môi và thổi một hồi. Âm thanh ngập tràn căn sảnh, vọng lên xà nhà phía trên đầu. Không khí im lặng bao trùm.

“Ta triệu tập mọi người hôm nay để lên kế hoạch về việc giải cứu người ở Hardhome.” Jon Snow mở đầu. “Hàng nghìn cư dân tự do đang tụ tập ở đó, mắc kẹt và chết đói, và chúng ta cũng nhận được những bản báo cáo về những xác sống trong rừng.” Phía bên trái, anh nhìn thấy Marsh và Yarwyck. Othell ngồi giữa đám thợ xây, trong khi Bowen có Wick Cán Dao, Lew Tay Trái, và Alf Bùn Nhão bên cạnh. Bên phải anh là Soren Đập Vỡ Khiên ngồi khoanh tay trước ngực. Xa hơn ở phía sau, Jon thấy Gavin Thương Gia và Harle Đẹp Trai đang thì thầm với nhau. Ygon Cha Già ngồi với các bà vợ, Howd Lang Thang ngồi một mình. Borroq ngồi trong một góc tối dựa lưng vào tường. Thật may là con lợn lòi của hắn không có ở đó. “Số thuyền ta cử đi để đưa Mẹ Chuột Chũi và người của bà ta về đã bị sóng đánh tan tác.

Chúng ta phải cử người đi cứư trợ bằng đường bộ, hoặc là để họ chết.” Jon thấy hai người trong số các hiệp sĩ của hoàng hậu Selyse cũng đến. Ser Narbert và Ser Benethon ngồi gần cửa ra vào ở cuối sảnh. Nhưng còn lại tất cả người của hoàng hậu đều vắng mặt. “Ta đã hy vọng có thể tự mình dẫn đầu nhóm xuất kích và đem càng nhiều cư dân tự do sống sót về càng tốt.” Màu đỏ thấp thoáng ở cuối sảnh khiến Jon để ý. Quý cô Melisandre đã tới. “Nhưng giờ ta không thể tới Hardhome. Tormund Giantsbane sẽ dẫn đầu đội quân. Ta đã đồng ý cho ông ta mang đi bao nhiêu người cũng được.”

“Vậy ngươi sẽ ở đâu, hả quạ?” Borroq nói như sấm. “Ẩn nấp ở Hắc Thành với con chó trắng của ngươi à?”

“Không, ta sẽ đi về phương nam.” Sau đó Jon đọc cho họ bức thư của Ramsay Snow.

Sảnh Khiên trở nên điên loạn.

 

 

Tất cả mọi người hò hét cùng một lúc. Họ nhảy chồm chồm, đấm vào không khí. Dù được ngồi ghế dễ chịu đến mấy cũng không xoa dịu được họ. Họ khua kiếm, đập rìu vào khiên. Jon Snow liếc nhìn Tormund. Giantsbane thổi chiếc tù và lần nữa, lần này dài và to gấp đôi lần trước.

“Đội Tuần Đêm không liên quan gì đến các cuộc chiến của Bảy Phụ Quốc,” Jon nhắc họ khi cuối cùng âm thanh huyên náo cũng lắng xuống một chút. “Chúng ta không có nhiệm vụ chống lại tên Con Hoang Nhà Bolton, để trả thù cho Stannis Baratheon, hay bảo vệ góa phụ và con gái của ông ấy. Sinh vật chuyên may áo choàng từ da phụ nữ này đã thề sẽ lấy đầu ta, và ta sẽ bắt hắn phải trả lời cho những tuyên bố đó… nhưng ta sẽ không bắt các anh em phải từ bỏ lời thề của mình.

“Đội Tuần Đêm sẽ vẫn tới Hardhome. Ta sẽ tới Winterfell một mình, trừ khi…” Jon ngừng lại. “… có ai muốn sát cánh với ta không?”

Tiếng hò hét rầm rầm vang lên là tất cả những gì Jon mong đợi, âm thanh huyên náo đến mức hai chiếc khiên cũ rơi từ trên tường xuống. Soren Đập Vỡ Khiên đứng lên, cả kẻ Lang Thang cũng vậy. Toregg Cao, Brogg, cả Harle Thợ Săn lẫn Harle Đẹp Trai, Ygon Cha Già, Doss Mù, thậm chí cả Hải Mã Vĩ Đại. Ta đã có các tay kiếm của mình, Jon Snow nghĩ, và bọn ta chuẩn bị đến tìm ngươi đây, Con Hoang.

Anh thấy Yarwyck và Marsh đang lẩn ra ngoài, cùng với người của họ. Chẳng sao cả. Giờ anh không cần họ nữa. Anh không muốn có họ. Không ai có thể nói anh bắt các anh em phá vỡ lời tuyên thệ. Nếu việc này là phá bỏ lời thề thì tội lỗi nằm ở ta, và chỉ thuộc về ta. Sau đó Tormund vỗ vào lưng anh, cái miệng thiếu răng cười xếch đến tận mang tai. “Quạ nói hay lắm. Giờ thì mang rượu mật ong ra thôi! Biến họ thành người của mình, và cho họ uống say, công thức là như vậy. Chúng ta sẽ biến ngươi thành dân du mục, nhóc ạ. Ha!”

“Ta sẽ cho người mang bia lên,” Jon lơ đãng nói. Anh nhận ra Melisandre cũng đã rời đi, và các hiệp sĩ của hoàng hậu cũng vậy. Lẽ ra mình nên đến gặp Selyse trước. Bà ta có quyền biết về cái chết của chồng mình. “Xin phép

 

nhé. Việc chuốc say họ ta để lại cho ngươi đấy.”

“Ha! Nhiệm vụ quá phù hợp với ta, quạ ạ. Ngươi cứ việc đi đâu thì đi!”

Ngựa và Rory theo sau Jon khi anh ròi Sảnh Khiên. Mình phải nói chuyện với Melisandre sau khi gặp hoàng hậu, anh nghĩ. Nếu cô ta có thể nhìn thấy một con quạ trong cơn bão thì cô ta cũng có thể tìm thấy Ramsay Snow giúp mình. Sau đó anh nghe thấy tiếng hô hoán… và một tiếng gầm to đến nỗi như làm rung chuyển Tường Thành. “Âm thanh từ Tháp Hardin, thưa lãnh chúa,” Ngựa báo cáo. Anh ta còn định nói thêm, nhưng bị một tiếng thét vang lên ngắt lời.

Ý nghĩ đầu tiên của Jon là Val. Nhưng đó không phải tiếng thét của phụ nữ. Là một người đàn ông đang kêu lên đau đớn. Anh vội chạy tới. Ngựa và Rory chạy theo anh. “Có phải xác sống không nhỉ?” Rory hỏi. Jon cũng tự hỏi như vậy. Hay là những cái xác đã phá xích thoát ra?

Khi họ tới được Tháp Hardin, tiếng thét đã dừng lại, nhưng Wun Weg Wun Dar Wun vẫn đang gào rống. Người khổng lồ đang cầm chân một cái xác máu me và vung vẩy, giống như cách Arya khi còn nhỏ vẫn vung vẩy con búp bê, lắc nó như lắc một quả chùy gai bị dính rau vậy. Tuy nhiên, Arya chẳng bao giờ xé con búp bê ra thành từng mảnh. Tay cầm kiếm của xác chết văng ra cách đó vài mét, tuyết bên dưới nó chuyển thành màu đỏ.

“Thả hắn ra,” Jon hét. “Wun Wun, thả hắn ra.”

Wun Wun không nghe, hoặc nghe không hiểu. Người khổng lồ cũng đang chảy máu, với những vết kiếm chém trên bụng và cánh tay. Anh ta đập tên hiệp sĩ chết vào tháp đá xám, đập liên tục cho đến khi đầu hắn đỏ rực và nhão nhoét như một quả dưa mùa hè. Chiếc áo choàng hiệp sĩ bay lật phật trong gió lạnh. Nó từng làm bằng len trắng viền kim tuyến và trang trí bằng những ngôi sao xanh. Máu và xương bay khắp mọi nơi.

Người đổ ra từ các pháo đài và tòa tháp xung quanh. Người phương bắc, cư dân tự do, người của hoàng hậu… “Xếp thành một hàng,” Jon Snow ra lệnh. “Ngăn họ lại. Tất cả mọi người, đặc biệt là người của hoàng hậu.” Người chết

 

là Ser Patrek vùng Núi Vương; phần lớn đầu hắn đã rời khỏi cổ, nhưng huy hiệu của hắn cũng dễ nhận dạng như khuôn mặt hắn. Jon không muốn mạo hiểm để Ser Malegorn, Ser Brus hay bất kỳ hiệp sĩ nào khác của hoàng hậu cố trả thù anh.

Wun Weg Wun Dar Wun rống lên một lần nữa rồi bẻ và giật tay còn lại của Ser Patrek. Cánh tay rời ra khỏi vai, một tia máu đỏ tươi trào ra. Giống như một đứa trẻ bứt cánh hoa cúc ra khỏi bông hoa, Jon nghĩ. “Leathers, nói chuyện với anh ta đi, cho anh ta bình tĩnh lại. Dùng Ngôn Ngữ Cổ ấy, anh ta hiểu Ngôn Ngữ Cổ. Lùi lại, tất cả mọi người. Cất dao và kiếm đi, chúng ta đang làm anh ta sợ đấy.” Họ không thấy người khổng lồ đã bị chém hay sao? Jon cần phải chấm dứt chuyện này, nếu không nhiều người nữa sẽ chết. Họ không hiểu gì về sức mạnh của Wun Wun. Một chiếc tù và, mình cần một chiếc tù và. Khi thấy ánh thép sáng lóe lên, anh quay về phía đó. “Không dùng kiếm!” Anh hét lớn. “Wick, cất con dao…”

… đi, anh định nói như vậy. Khi Wick Cán Dao chém vào cổ anh, lời nói biến thành một tiếng rên. Jon xoay người tránh con dao, vừa kịp lúc nên con dao chỉ làm anh hơi xước da. Hắn chém ta. Khi anh đặt tay lên một bên cổ, máu trào ra giữa các ngón tay. “Tại sao?”

“Vì Đội Tuần Đêm.” Wick chém anh lần nữa. Lần này Jon tóm được cổ tay và bẻ tay hắn về phía sau cho đến khi hắn làm rơi con dao. Gã phục vụ gầy còm lùi lại, hai tay giơ lên như thể đang nói, không phải tôi, không phải tôi. Mọi người đang gào thét. Jon với thanh Móng Dài, nhưng các ngón tay anh trở nên cứng đờ và lóng ngóng. Chẳng hiểu sao anh không thể rút được thanh kiếm ra khỏi vỏ.

Sau đó Bowen Marsh đứng đó trước mặt anh, nước mắt chảy xuống hai má. “Vì Đội Tuần Đêm.” Ông ta đấm Jon vào bụng. Khi ông ta thu tay lại, con dao đâm sâu vào người anh.

Jon ngã khụy xuống. Anh sờ thấy chuôi dao và lôi nó ra. Trong đêm đen lạnh giá, vết thương bốc khói. “Bóng Ma,” anh thì thầm. Cơn đau xâm chiếm lấy anh. Đâm chúng bằng đầu nhọn. Khi lưỡi dao thứ ba đâm vào giữa hai bả vai anh, anh khẽ rên lên và ngã úp mặt xuống tuyết. Anh không cảm nhận được lưỡi dao thứ tư. Chỉ còn thấy buốt giá…

 

About The Author

Ngo David

Power is Power