Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng

Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Cẩm Chi

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

 

(Quái vật sư tử đầu chim, hay còn gọi là điểu sư, gia huy của Nhà Connington)

Ông đưa các cung thủ lên đầu tiên.

Balaq Đen chỉ huy một nghìn tay cung. Hồi còn trẻ, Jon Connington cũng xem thường các cung thủ giống như hầu hết các hiệp sĩ khác, nhưng sau khi bị đi đày, ông đã khôn ngoan hơn. Các mũi tên cũng nguy hiểm không kém gì kiếm, theo cách riêng của nó. Vì thế trong chuyến hải trình dài, ông khăng khăng bắt Harry Strickland Vô Gia Cư phải chia đội quân của Balaq thành mười nhóm nhỏ, mỗi nhóm một trăm người và cho mỗi đội lên một con thuyền.

Sáu con thuyền trong số đó đi gần nhau và đã đưa được người lên mũi Wrath (bốn con thuyền khác bị tụt lại phía sau nhưng chắc chắn sẽ tới nơi, đám người Volantis đảm bảo với họ như vậy, nhưng Griff không loại trừ khả năng họ bị mất tích hoặc đã cập bến ở đâu đó khác) , bây giờ đội quân chỉ còn sáu trăm tay cung. Trong số đó chỉ có hai trăm người đủ khả năng. “Họ sẽ cố gửi quạ đi liên lạc,” Ông nói với Balaq Đen. “Hãy canh tháp học sĩ. Ở đây.” Ông chỉ vào tấm bản đồ ông vẽ trên bùn trong khu trại. “Bắn hạ bất kỳ con quạ nào rời tòa lâu đài nhé.”

“Chúng tôi sẽ làm như vậy,” gã người đảo Summer trả lời.

Một phần ba số người của Balaq dùng nỏ, một phần ba dùng cung hai đoạn cong làm từ sừng và gân kiểu phương đông. Tốt hơn hai loại trên là trường cung làm từ gỗ thông đỏ của các cung thủ đến từ Westeros, và loại tốt nhất là đại cung bằng gỗ vàng tâm, được chính Balaq Đen và năm mươi cung thủ đảo Summer sử dụng. Chỉ có cung tên làm từ xương rồng mới có tầm bắn xa hơn cung gỗ vàng tâm. Dù sử dụng loại gì thì tất cả các cung thủ của Balaq đều có con mắt tinh tường, là những chiến binh kỳ cựu đã trải qua hàng trăm trận chiến, cướp bóc và giao tranh. Họ đã chứng tỏ khả năng một lần nữa ở Griffin’s Roost.

 

Lâu đài nhô lên trên bờ biển của mũi Wrath, tọa trên một vách đá đỏ cheo leo cao sừng sững, ba mặt là sóng biển của Vịnh Đắm Thuyền vỗ ì oạp xung quanh. Lối vào duy nhất được bảo vệ bởi một cổng chòi, đằng sau là một rặng núi trọc dài mà Nhà Connington gọi là cổ của griffin. Để bẻ gẫy được cái cổ đó không phải là chuyện dễ, vì rặng núi khiến những kẻ xâm nhập nằm ngay trong tầm tấn công của tên, đá và giáo mác từ hai tháp phòng ngự bên sườn cổng chính của lâu đài. Kể cả họ tới được cánh cổng, những người bên trong cũng sẽ dội nước sôi xuống đầu họ. Griff đã sẵn sàng mất một trăm người, có thể hơn.

Nhưng cuối cùng họ chỉ mất bốn.

Khu rừng mọc lấn vào vùng đất trống bên ngoài cổng chòi nên Franklyn Flowers có thể dùng bụi cây ngụy trang và dẫn người tới cách cánh cổng 20 mét mới lao lên cùng gỗ công thành họ đẽo từ trước. Tiếng gỗ đập vào nhau uỳnh uỳnh kéo hai tên lính lên đỉnh tường thành, nhưng lập tức bị các cung thủ của Balaq Đen bắn hạ trước khi chúng kịp dụi mắt cho tỉnh ngủ. Hóa ra cánh cổng đóng nhưng không cài then; và nó mở toang chỉ sau cú thúc thứ hai. Người của Ser Franklyn đang đi được nửa đường tới cổ griffin thì thấy tiếng tù và chiến từ trong lâu đài vang lên.

Con quạ đầu tiên cất cánh khi các móc sắt của họ đang được ném lên tường thành. Con thứ hai sau đó một chút. Nhưng chưa bay được quá trăm mét chúng đã bị tên bắn rơi. Một lính canh phía trong ném một thùng dầu xuống người đầu tiên tiếp cận cổng thành, nhưng hắn không có thời gian đun sôi dầu nên tác dụng sát thương chủ yếu là do cái thùng chứ không phải do dầu bên trong. Kiếm nhanh chóng được tuốt ra sáng loáng ở hơn chục điểm dọc theo tường lũy. Người của hội Chiến Binh Vàng leo lên và trèo vào trong, vừa chạy vừa hét “Griffin! Griffin!” câu khẩu hiệu khi ra trận của Nhà Connington ngày trước. Có lẽ nó khiến lớp lính phòng ngự càng thêm bối rối.

Cuộc tấn công diễn ra chóng vánh trong vài phút. Griff cưỡi trên lưng một con tuấn mã tới cổ griffin, bên cạnh là Harry Strickland Vô Gia Cư. Khi họ tiến đến gần lâu đài, ông thấy một con quạ thứ ba bay đi từ tháp của học sĩ, nhưng bị chính tay Balaq Đen bắn hạ. “Không có thông điệp gì hết,” anh ta bảo với Ser Franklyn Flowers ở trong sân. Thứ tiếp theo bay ra từ tháp học sĩ

 

chính là vị học sĩ. Cái cách ông ta vẫy tay khua khoắng khi rơi xuống thật dễ khiến người ta tưởng nhầm ông ta là một con chim.

Mọi sự chống cự kết thúc ở đó. Số lính gác còn lại buông vũ khí. Và nhanh chóng, Griffin’s Roost một lần nữa là của ông, Jon Connington lại được làm lãnh chúa.

“Ser Franklyn,” ông nói, “kiểm tra pháo đài và khu bếp một lượt, lôi tất cả mọi người tìm được ra đây. Malo kiểm tra tháp học sĩ và kho vũ khí. Ser Brendel phụ trách chuồng ngựa, điện thờ và trại quân. Đưa họ ra sân và cố đừng giết ai cả, trừ những kẻ muốn chết. Chúng ta muốn có vùng đất bão tố, nhưng không phải bằng cách tàn sát. Nhớ kiểm tra dưới ban thờ Đức Mẹ nhé, ở đó có cầu thang dẫn xuống một cánh cửa bí mật. Và một cánh cửa nữa dưới tòa tháp phía tây bắc dẫn thẳng xuống biển. Không được để tên nào chạy thoát.”

“Ngài cứ yên tâm,” Franklyn Flowers hứa hẹn. Connington nhìn họ rời đi, sau đó vẫy Maester Nửa Mùa. “Haldon coi chuồng quạ nhé. Tối nay ta cần gửi thông điệp đi.”

“Hy vọng là họ để lại vài con quạ cho chúng ta.”

Ngay cả Harry Vô Gia Cư cũng bị sốc vì chiến thắng nhanh chóng của họ. “Ta không thể tưởng tượng được mọi việc lại dễ dàng đến vậy,” tướng chỉ huy nói khi họ cùng bước vào đại sảnh để kiểm tra chiếc Ngai Griffin mạ vàng chạm trổ, nơi năm mươi thế hệ Nhà Connington từng ngồi và cai trị.

“Phía trước sẽ nhiều khó khăn hơn. Vừa rồi chúng ta đánh úp họ bất ngờ. Nhưng tình trạng này không thể kéo dài mãi được, dù Balaq Đen có bắn chết hết mọi con quạ trong vương quốc.”

Strickland quan sát những tấm thảm bạc màu treo trên tường, những ô cửa sổ hình vòm cùng vô số các ô kính màu đỏ và trắng hình quả trám, các giá đựng thương, kiếm và búa chiến. “Cứ để chúng đến. Nơi này có thể cầm cự trước đội quân đông gấp hai mươi lần chúng ta, miễn là ta có đủ quân lương. Và ngài nói có lối dẫn ra biển đúng không?”

 

 

“Bên dưới. Một vịnh nhỏ dưới vách đá, chỉ hiện ra khi thủy triều rút thôi.” Nhưng Connington không định “để chúng đến”. Griffin’s Roost tuy mạnh nhưng nhỏ, và một khi còn ngồi đây, trông họ cũng sẽ nhỏ bé như vậy. Ngay bên cạnh có một lâu đài khác, rộng hơn rất nhiều và vô cùng vững chãi.

Chiếm được nó, cả vương quốc sẽ rung chuyển. “Ngài phải thứ lỗi cho tôi rồi, tướng chỉ huy. Cha tôi được chôn bên dưới điện thờ, và lâu lắm rồi tôi không cầu nguyện cho ông ấy.”

“Ồ, tất nhiên rồi.”

Tuy nhiên khi họ chia tay, Jon Connington không đi đến điện thờ. Thay vào đó, những bước chân dẫn ông lên mái tòa tháp phía đông, tòa tháp cao nhất ở Griffin’s Roost. Khi trèo lên, ông nhớ đến ngày xưa từng cùng cha ông lên đây cả trăm lần. Cha ông thích đứng trên đó nhìn bao quát khu rừng, vách núi lẫn biển cả, và biết rằng tất cả thuộc về gia tộc Connington. Ông lên đây một lần (chỉ một lần! ) với Rhaegar Targaryen. Hoàng tử Rhaegar lúc đó đang từ Dorne trở về, và ngài đã cùng đoàn tùy tùng nán lại đây đến nửa tháng. Khi đó ngài ấy còn rất trẻ, và ta thậm chí còn trẻ hơn. Cả hai chúng ta đều là những cậu bé. Trong bữa tiệc chào mừng, hoàng tử đem cây đàn hạc dây bạc ra chơi cho họ nghe. Một bài ca về tình yêu và bất hạnh, Jon Connington nhớ lại. Và mọi phụ nữ trong sảnh đều khóc thút thít khi ngài buông cây đàn xuống. Tất nhiên đàn ông thì không. Đặc biệt là cha ông, kẻ chỉ yêu đất mà thôi. Lãnh chúa Armond Connington dành cả đêm để thuyết phục hoàng tử đứng về phía ông trong cuộc tranh chấp với Lãnh chúa Morrigen.

Cánh cửa lên gác mái kẹt lại chặt cứng, rõ ràng chẳng có ai mở nó trong suốt mấy năm nay. Ông phải ghé vai vào mới mở được nó ra, nhưng khi Jon Connington bước ra ngoài tường lũy cao vút, quang cảnh đẹp đến nghẹt thờ hệt như trong trí nhớ của ông: vách đá cheo leo bị gió bào mòn, đỉnh núi răng cưa lởm chởm, biển cả gầm gào phía dưới, sóng vỗ vào chân lâu đài như một con thú oằn oại, trời mây trải ra tít tắp, khu rừng khoác lên tấm áo của mùa thu. “Mảnh đất của cha cậu thật đẹp,” Hoàng tử Rhaegar nói như vậy khi đứng ở ngay chỗ Jon đang đứng này. Và cậu nhóc khi đó trả lời, “Rồi một ngày, tất cả sẽ thuộc về tôi.” Tưởng như vậy có thể gây ấn tượng với hoàng tử sao, trong khi ngài thừa kế cả một vương quốc, từ Arbor tới Tường Thành?

 

 

Griffin’s Roost cuối cùng cũng là của ông, dù chỉ một vài năm ngắn ngủi. Từ đây, Jon Connington đã cai trị vùng đất rộng lớn, trải dài nhiều dặm về phía tây, bắc và nam, giống như cha ông và cha của cha ông trước đó. Nhưng họ chưa bao giờ để mất đất đai, còn ông lại để mất. Ta đã vươn quá cao, yêu quá đậm sâu và liều lĩnh quá mức. Ta cố với một ngôi sao, nhưng quá đà và ngã xuống.

Sau Trận Chiến Chuông Rung, khi bị Aerys Targaryen tước ngôi vị và phải đi đày trong sự vong ơn và ngờ vực, các vùng đất và tước vị lãnh chúa vẫn ở lại với Nhà Connington, truyền sang cho em họ ông là Ser Ronald. Jon đã phong cho người em họ làm quản thành khi ông tới Vương Đô để phục vụ hoàng tử Rhaegar. Sau chiến tranh, Robert Baratheon hoàn thành việc hủy diệt griffin. Em họ Ronald của ông được giữ lại lâu đài và cái đầu, nhưng mất chức vụ lãnh chúa và chỉ còn là một hiệp sĩ của Griffin’s Roost, chín phần mười đất đai bị tước đoạt và trao cho các lãnh chúa xung quanh, những kẻ ủng hộ Robert.

Ronald Connington đã chết từ nhiều năm trước. Hiệp sĩ của Griffin’s Roost hiện tại là Ronnet con trai Ronald, và nghe đâu cậu ta đang tham chiến ở vùng đất ven sông. Như vậy là tốt nhất. Theo kinh nghiệm của Jon Connington, đàn ông sẽ chiến đấu vì những gì họ cho là của mình, ngay cả những thứ họ trộm cắp được. Ông không muốn kỷ niệm lần trở về này bằng việc giết chính họ hàng ruột thịt. Cha của Ronnet Đỏ đúng là đã lợi dụng sự sa sút của anh em họ để làm lợi cho mình, nhưng con trai ông ta lúc đó chỉ là một đứa trẻ. Jon Connington thậm chí không ghét Ser Ronald quá cố như trước đây. Lỗi là ở ông.

Ông đã mất tất cả ở Thánh Đường Đá, chỉ vì tính kiêu ngạo của mình.

Robert Baratheon khi ấy đang lẩn trốn đâu đó trong thị trấn, bị thương và đơn độc. Jon Connington biết điều đó, và ông còn biết rằng cái đầu của Robert trên ngọn giáo sẽ đặt dấu chấm hết cho cuộc tạo phản ngay lập tức. Nhưng ông còn trẻ và vô cùng ngạo mạn. Tại sao không?

Vua Aerys phong ông làm quân sư và giao cho ông cả một đội quân, ông

 

muốn chứng tỏ mình xứng đáng với sự tin tưởng đó, xứng đáng với tình yêu của Rhaegar. Ông sẽ tự tay xử tất cả các lãnh chúa phản phúc, và sẽ tự khắc tên mình vào lịch sử của Bảy Phụ Quốc.

Và ông từ trên Thánh Đường Đá đi xuống, phong tỏa thị trấn và bắt đầu cuộc tìm kiếm. Các hiệp sĩ của ông đi từ nhà này sang nhà khác, đập mọi cánh cửa, ngó nghiêng mọi căn hầm. Thậm chí ông còn cử người bò vào các ống cống để tìm kiếm, nhưng chẳng hiểu sao Robert vẫn tránh được ông. Dân cư trong thị trấn đang bao che hắn. Họ chuyển hắn từ nơi ẩn nấp này sang nơi ẩn nấp khác, luôn trước người của nhà vua một bước. Cả thị trấn đều là hang ổ cho lũ tạo phản. Cuối cùng, họ cũng bắt được kẻ tiếm quyền đang ẩn náu trong một nhà thổ. Hắn là loại vua gì vậy, loại vua gì mà lại nấp sau váy đàn bà?

Tuy nhiên trong khi cuộc tìm kiếm kéo dài, Eddard Stark và Hoster Tully tiến vào thị trấn với một đội quân phản nghịch. Chuông ngân lên, và sau đó là cuộc chiến. Robert thò mặt ra từ nhà thổ với thanh kiếm trong tay, và suýt nữa giết chết Jon trên bậc thềm của thánh đường cổ mà thị trấn được đặt tên theo.

Nhiều năm sau đó, Jon Connington vẫn tự nhủ lỗi không phải của ông, rằng ông đã làm tất cả những gì có thể. Lính của ông đã tìm kiếm mọi ngóc ngách có thể, ông còn hứa hẹn phần thưởng và tha thứ, ông bắt con tin và treo họ trong những chiếc lồng quạ, tuyên bố rằng họ sẽ không được cho thức ăn và nước uống, nếu dân làng không chịu giải Robert đến cho ông. Nhưng chẳng có tác dụng gì. “Kể cả Tywin Lannister cũng không thể làm gì khác,” ông từng khăng khăng như vậy trong một đêm nói chuyện với Tim Đen, trong năm đầu tiên ông bị lưu đày.

“Anh sai lầm ở chỗ đó,” Myles Toyne trả lời. “Lãnh chúa Tywin sẽ chẳng bao giờ bận tâm với việc tìm kiếm. Ông ta sẽ đốt trụi cả thành phố và mọi sinh vật sống trong đó. Dù là đàn ông trưởng thành, cậu nhóc hay đứa bé còn ẵm ngửa, hiệp sĩ cao quý hay septon mộ đạo, lợn hay gái điếm, chuột hay lũ tạo phản, ông ta sẽ thiêu tất cả bọn họ. Khi lửa cháy hết chỉ còn lại than và tro tàn, ông ta sẽ cho người đến tìm xương của Robert Baratheon. Sau đó, khi Stark và Tully đem quân tới, ông ta sẽ đề nghị tha thứ cho cả hai, và họ sẽ đồng ý rồi cúp đuôi trở về nhà.”

 

Ông ấy nói không sai, Jon Connington nhớ lại, người dựa vào tường bao lâu đài của tổ tiên. Ta thèm khát ánh vinh quang khi được giết Robert trong một trận đấu tay đôi, và ta không muốn bị mang danh đồ tể. Vì thế Robert đã thoát khỏi tay ta và giết chết Rhaegar trong trận Trident. “Ta đã không bảo vệ được nhà vua,” ông nói, “nhưng nhất định ta sẽ không phụ lòng hoàng tử.”

Khi Connington đi xuống, người của ông đã giải quân đồn trú trong lâu đài và cư dân còn sống sót ra sân.

Dù Ser Ronnet thực chất đang ở đâu đó phía bắc với Jaime Lannister, nhưng Griffin’s Roost không thiếu những con griffin. Trong số các tù binh có em trai Ronnet là Raymund, chị gái hắn là Alynne, và con hoang của hắn, một cậu nhóc tóc đỏ dữ dội được mọi người gọi là Ronald Storm.

Tất cả bọn họ sẽ là con tin đáng giá khi Ronnet Đỏ trở về và cố chiếm lại tòa lâu đài mà cha cậu ta đã đánh cắp. Connington ra lệnh giam họ vào tòa tháp phía tây và canh phòng cẩn mật. Đứa con gái bắt đầu khóc lóc, và thằng nhóc con hoang cố cắn một lính giáp bên cạnh nó. “Thôi đi, cả hai ngươi,” ông quát. “Các ngươi sẽ không gặp nguy hiểm gì cả, trừ khi Ronnet Đỏ là một tên đại ngốc.”

Chỉ có một vài tù binh từng phục vụ ở đây khi Jon Connington còn là lãnh chúa: một đội trưởng tóc hoa râm, mắt mù một bên; hai thợ giặt, một quản mã từng là cậu nhóc chăn ngựa trong Cuộc Tạo Phản Của Robert; đầu bếp, gần đây béo đến mức khổng lồ; và người chế tạo giáp và vũ khí trong lâu đài. Lần đầu tiên trong nhiều năm, Griff để cho râu mọc um tùm trong cuộc hải trình, và thật ngạc nhiên là chúng phần lớn mọc ra đỏ rực, những sợi bạc chỉ loáng thoáng như tro trong đám lửa. Mặc trên mình chiếc áo dài trắng đỏ có thêu hình hai con griffin của gia tộc ông đang chiến đẩu, đỏ trên nền trắng và trắng trên nền đỏ, trông ông giống hệt như như vị lãnh chúa trẻ trước kia, kẻ từng là bạn và đồng hành với hoàng tử Rhaegar, chỉ là già hơn và nghiêm nghị hơn… nhưng đàn ông và phụ nữ ở Griffin’s Roost vẫn nhìn ông bằng ánh mắt xa lạ.

“Một vài người trong các ngươi sẽ biết ta,” ông nói. “Những kẻ còn lại rồi sẽ biết. Ta là lãnh chúa chính đáng của các ngươi, sau khi đi đày trở về. Các kẻ

 

thù của ta nói với các ngươi rằng ta đã chết. Đó hoàn toàn là những điều bịa đặt, như các ngươi thấy đấy. Hãy phục tùng ta một cách trung thành như đối với em họ ta trước kia, và các ngươi sẽ không gặp nguy hiểm gì hết.”

Ông cho từng người một bước lên, hỏi tên họ, sau đó bắt họ quỳ gối và thề sẽ trung thành. Tất cả diễn ra rất nhanh chóng. Các binh lính đồn trú đặt kiếm dưới chân ông. Sau cuộc tấn công chỉ có tổng cộng bốn lính đồn trú sống sót. Không ai kháng cự. Không ai phải chết.

Đêm đó trong đại sảnh, những người chiến thắng tiệc tùng bằng thịt quay và cá mới bắt được, đồ uống là rượu đỏ đặc lấy từ dưới hầm lên. Jon Connington chủ trì từ trên Ngai Griffin, cùng ngồi trên chiếc bàn cao có Harry Strickland Vô Gia Cư, Balaq Đen, Franklyn Flowers, và ba quái vật griffin mà họ bắt giữ. Lũ trẻ mang dòng máu của ông và ông cảm giác cần hiểu nhiều về chúng hơn, nhưng khi thằng nhóc con hoang tuyên bố, “cha ta sẽ giết ngươi,” ông thấy hiểu chừng đó là quá đủ và quyết định giam họ trở lại vào ngục, sau đó bỏ dở bữa tối.

Haldon Maester Nửa Mùa không có mặt trong buổi tiệc. Lãnh chúa Jon thấy anh ta đang ở trong tháp học sĩ, cắm cúi bên một chồng giấy da với những tấm bản đồ trải khắp xung quanh. “Đang tính toán xem nhóm Chiến Binh Vàng còn lại đang ở đâu à?” Connington hỏi.

“Ước gì tôi có thể, thưa lãnh chúa.”

Mười nghìn người lên đường từ Volon Therys, với tất cả vũ khí, ngựa và voi. Nhưng đến nay, chưa đến một nửa số đó xuất hiện ở Westeros, trên hoặc gần nơi tập kết như đã định, một bờ biển dài hoang vắng rìa khu rừng mưa… một vùng đất Jon Connington biết rất rõ vì nó từng là của ông.

Nếu là vài năm trước, ông sẽ không bao giờ dám đổ bộ vào mũi Wrath; các lãnh chúa ở đó quá trung thành với Nhà Baratheon và vua Robert. Nhưng giờ cả Robert lẫn em trai Renly đều đã bị giết, mọi thứ đã thay đổi. Stannis quá lạnh lùng và khắc nghiệt nên dù không ở cách xa nửa vòng trái đất cũng khó có thể khiến kẻ khác yêu mến và trung thành, và vùng đất bão tố cũng không có lý do gì để yêu quý Nhà Lannister. Trong khi đó, Jon Connington không

 

thiếu bạn ở đây. Một số lãnh chúa già vẫn nhớ ta, và các con trai họ hẳn sẽ được nghe chuyện của bọn họ. Mỗi người họ sẽ biết đến Rhaegar và việc con trai nhỏ của ngài bị đập đầu vào tường đá lạnh như thế nào.

Thật may là thuyền của ông nằm trong số những con thuyền đầu tiên đến đích. Lúc này vấn đề chỉ còn là lập một điểm cắm trại, tập hợp người khi họ lên bờ và di chuyển nhanh chóng trước khi các lãnh chúa ở đây nhận thức được mối nguy hiểm đe dọa họ. Và ở đây hội Chiến Binh Vàng đã chứng minh được nhuệ khí của mình. Họ có thể tập hợp và hành quân nhanh chóng mà không hề gặp phải cảnh hỗn độn giống như các đội quân khác gồm hiệp sĩ các nhà và binh đoàn địa phương thành lập vội vàng. Họ là hậu duệ của Thép Đắng, và tính kỷ luật là tối quan trọng đối với họ.

“Bằng giờ này ngày mai, chúng ta phải làm chủ được ba tòa lâu đài,” ông nói. Lực lượng đánh chiếm Griffin’s Roost chỉ bằng một phần tư sức mạnh của họ; cùng trong lúc đó Ser Tristan Rivers lên đường tới địa phận của Nhà Morrigen ở Crow’s Nest, và Laswell Peake tới Rain House, đồn lũy của Nhà Wylde, mỗi cánh quân với lực lượng tương đương. Phần còn lại trong đội quân vẫn ở lại trại để bảo vệ điểm tập kết và hoàng tử, dưới sự chỉ huy của Gorys Edoryen, người phụ trách tiền lương đến từ Volantis. Số lượng của họ sẽ tăng dần lên, ông hy vọng thế; mỗi ngày sẽ có thêm thuyền cập bến. “Chúng ta vẫn có quá ít ngựa.”

“Và không có voi,” Maester Nửa Mùa nhắc. Chưa thuyền nào trong số đám thuyền cog lớn chở voi xuất hiện. Lần cuối cùng họ nhìn thấy chúng là ở Lys, trước khi cơn bão làm nửa hạm đội tan tác. “Ở Westeros có ngựa, nhưng voi thì…”

“… không sao cả.” Chắc chắn những con thú lớn sẽ phát huy tác dụng trong các trận đánh kiểu dàn trận, nhưng họ sẽ cần thời gian để tập hợp sức mạnh trước khi có thể đối mặt với kẻ thù trên chiến trường. “Đống giấy da đó có thông tin gì hữu ích không?”

“Ôi, nhiều lắm, thưa lãnh chúa.” Haldon khẽ mỉm cười. “Nhà Lannister dễ dàng tạo kẻ thù nhưng có vẻ không giỏi giữ tình bạn. Mối liên minh với Nhà Tyrell đang lỏng lẻo dần, theo những gì tôi đọc được ở đây. Thái hậu Cersei

 

và hoàng hậu Margaery đang đánh nhau tranh giành vị vua nhỏ, như hai con chó cái tranh nhau mẩu xương gà, và cả hai đều bị buộc tội phản bội và trụy lạc. Mace Tyrell đã bỏ vây ở Storm’s End để quay về Vương Đô cứu con gái, chỉ để lại một lực lượng biểu trưng để vây người của Stannis trong lâu đài.”

Connington ngồi xuống. “Nói tiếp đi.”

“Ở phương bắc, Nhà Lannister đang dựa vào Nhà Bolton và ở vùng ven sông dựa vào Nhà Frey, cả hai đều là gia tộc từ lâu đã nổi tiếng tàn ác và bội bạc. Lãnh chúa Stannis Baratheon vẫn đang công khai tạo phản, và người sắt trên các hòn đảo của họ cũng dựng lên một vị vua. Có vẻ không ai nhắc đến vùng Thung Lũng, chứng tỏ Nhà Arryn không tham gia vào chuyện này.”

“Còn Dorne thì sao?” Thung Lũng ở xa; nhưng Dorne thì gần. “Con trai thứ hai của Doran đã đính hôn với Myrcella Baratheon, điều đó chứng tỏ người Dorne đã thỏa hiệp với Nhà Lannister, nhưng họ có một đội quân ở Đèo Xương và một đội quân nữa ở Đèo Hoàng Tử, chỉ chờ đợi ở đó…”

“Chờ đợi.” Ông nhíu mày. “Chờ cái gì?” Nếu không có Daenerys và mấy con rồng, Dorne là niềm hy vọng lớn nhất của họ. “Viết thư cho Sunspear. Phải báo cho Doran Martell biết con trai của em gái ông ta vẫn còn sống, và thằng bé đang trên đường về nhà để đòi lại chiếc ngai của cha mình.”

“Tuân lệnh lãnh chúa.” Maester Nửa Mùa liếc nhìn tấm giấy da còn lại. “Thời điểm đổ bộ của chúng ta quả là không thuận lọi hơn được nữa. Chúng ta có bạn bè và đồng minh ở mọi nơi.”

“Nhưng không có rồng,” Jon Connington nói, “vì thế để họ chịu quy phục, chúng ta phải có thứ gì đó cho họ.”

“Vàng và đất đai là những động cơ truyền thống.”

“Ước gì chúng ta có những thứ đó. Có thể một số người sẽ chấp nhận những lời hứa suông, nhưng Strickland và người của ông ta sẽ muốn được lựa chọn những mảnh đất và lâu đài tốt nhất, đòi lại những gì đã mất của tổ tiên khi họ bị đi đày. Không được.”

 

 

“Lãnh chúa có một phần thưởng cho họ đấy chứ,” Haldon Maester Nửa Mùa nhận định. “Cơ hội nắm tay hoàng tử Aegon. Một cuộc hôn nhân chính trị để mang một lãnh chúa lớn nào đó tới dưới cờ của chúng ta.”

Một cô dâu cho hoàng tử đáng yêu của chúng ta. Jon Connington vẫn còn nhớ như in đám cưới của hoàng tử Rhaegar. Elia chưa bao giờ xứng đáng với ngài ấy. Cô ta ngay từ đầu đã mỏng manh, yếu đuối, và sau khi sinh con, cô ta lại càng yếu ớt hơn. Sau khi sinh công chúa Rhaenys, hoàng hậu đã phải ở trên giường suốt nửa năm, và lần sinh hoàng tử Aegon gần như là cửa tử đối với cô ấy. Hoàng hậu sẽ không thể sinh thêm con được nữa, sau đó các học sĩ đã nói với hoàng tử Rhaegar như vậy.

“Daenerys Targaryen có thể một ngày nào đó sẽ trở về,” Connington nói với Maester Nửa Mùa. “Aegon phải được tự do để lấy cô ấy.”

“Lãnh chúa là người hiểu rõ nhất,” Haldon nói. “Trong trường hợp đó, chúng ta có thể xem xét việc tặng cho những người bạn tiềm năng một món quà nhỏ hơn.”

“Theo cậu thì là gì?”

“Là ngài. Ngài vẫn đang độc thân. Và là một lãnh chúa lớn, vẫn còn tráng kiện, không có con cháu nối dõi ngoại trừ đám anh em họ mà chúng ta vừa truất quyền sở hữu, xuất thân từ một gia tộc lâu đời với một tòa lâu đài vững chãi, đất đai trù phú và rộng lớn chắc chắn sẽ được phục hồi và có thể sẽ mở rộng dưới nền trị vì của một vị vua vĩ đại, một khi chúng ta chiến thắng. Ngài là một chiến binh, là quân sư của vua Aegon, ngài sẽ nói thay cho cậu ấy và cai trị vương quốc này từ phía sau, chỉ là không chính danh. Tôi nghĩ nhiều lãnh chúa tham vọng sẽ rất muốn được gả con gái cho một người như vậy.

Thậm chí cả hoàng tử xứ Dorne.”

Câu trả lời của Jon Connington là một cái lườm dài và lạnh lẽo. Có những lúc Maester Nửa Mùa làm ông phật ý cũng chẳng kém gì so với tên lùn hồi xưa. “Ta không nghĩ vậy.” Cái chết đang bò dần lên cánh tay ta. Không ai được phép biết điều đó, không có vợ con gì hết. Ông đứng lên. “Hãy chuẩn bị thư

 

cho hoàng tử Doran đi.” “Vâng thưa lãnh chúa.”

Đêm đó, Jon Connington ngủ trong phòng ngủ của lãnh chúa, trên chiếc giường từng là của cha ông, bên dưới chiếc màn trướng bụi bặm bằng nhung màu đỏ trắng. Ông tỉnh dậy lúc bình minh vì tiếng mưa rơi và tiếng gõ cửa rụt rè của một người hầu, muốn biết xem lãnh chúa mới định ăn sáng bằng gì. “Trứng luộc, bánh mỳ nướng và đậu. Một bình rượu. Loại rượu tồi tệ nhất trong hầm ấy.”

“Loại… loại tồi nhất ấy ạ?” “Ngươi nghe thấy rồi đấy.”

Khi thức ăn và rượu được mang lên, ông cài then cửa, đổ rượu ra một cái chậu và ngâm tay vào trong đó. Ngâm giấm và tắm bằng giấm là phương pháp chữa trị mà Quý Cô Lemore bày cho người lùn, khi cô ấy sợ người lùn nhiễm bệnh vảy xám, nhưng mỗi sáng lại yêu cầu một hũ giấm sẽ khiến ông bại lộ. Rượu thì hợp lý hơn, nhưng ông thấy không cần phải lãng phí rượu ngon. Bốn móng tay trên các ngón đều đã chuyển thành màu đen, nhưng ở ngón cái thì chưa. Trên ngón giữa, màu xám đã lan quá đốt thứ hai. Ta nên chặt bỏ chúng, ông nghĩ, nhưng ta sẽ giải thích về hai ngón tay bị mất thế nào đây? Ông không dám để mọi người biết ông có căn bệnh này. Dù kỳ quặc, nhưng những kẻ hồ hởi ra chiến trường và đối mặt với cái chết để giải cứu một người bạn đồng hành sẽ sẵn sàng rời bỏ chính người bạn đồng hành đó trong nháy mắt nếu biết người đó mang bệnh vảy xám. Ta nên để thằng lùn chết tiệt đó chết đuối mới phải.

Hôm đó, một lần nữa mặc quần áo và đeo găng tay chỉnh tề, Connington kiểm tra thật kỹ tòa lâu đài và gửi lời mời Harry Strickland Vô Gia Cư cùng các đội trưởng của ông ta cùng ông lập một hội đồng chiến tranh. Chín người bọn họ tập trung trong sảnh: Connington và Strickland, Haldon Maester Nửa Mùa, Balaq Đen, Ser Franklyn Flowers, Malo Jayn, Ser Brendel Byrne, Dick Cole, và Lymond Pease. Maester Nửa Mùa có vài tin tức tốt. “Thông tin từ Marq Mandrake đã bay về trại. Người Volantis cho ông ta lên bờ ở

 

Estermont, cùng với gần năm trăm người nữa. Ông ta đã chiếm được Greenstone.”

Estermont là một hòn đảo gần Mũi Wrath nhưng đó chưa bao giờ là mục tiêu của họ. “Lũ người Volantis chết tiệt đang rất hào hứng vì đuổi được chúng ta đi, họ thả chúng ta lên bất cứ mẩu đất nào tìm được,” Franklyn Flowers nói. “Tôi dám chắc người của chúng ta đang lang thang trên khắp nửa Stepstones chết tiệt này.”

“Cùng với lũ voi của ta nữa,” Harry Strickland nói, giọng buồn rầu. Harry Vô Gia Cư nhớ mấy con voi của ông ta.

“Mandrake không có cung thủ nào đi cùng,” Lymond Pease nói. “Làm sao chúng ta biết được Greenstone đã thả đi bao nhiêu con quạ trước khi nó sụp đổ?”

“Chắc hẳn bọn họ đã làm điều đó,” Jon Connington nói, “nhưng chúng mang theo thông điệp gì đây? Cùng lắm là mẩu tin lộn xộn về đám cướp biển.” Ngay cả trước khi họ ra khơi từ Volon Therys, ông đã hướng dẫn các thuyền trưởng không giương cờ trong các đợt tấn công đầu tiên – không phải con rồng ba đầu của hoàng tử Aegon, không phải hình griffin của gia tộc ông, cũng không phải hình đầu lâu trên nền vàng của hội nhóm. Cứ để Nhà Lannister dồn mọi nghi ngờ vào Stannis Baratheon, cướp biển đến từ Stepstones, bọn cướp trong rừng, hoặc bất kỳ ai chúng nghĩ ra. Nếu thông báo gửi về Vương Đô lộn xộn và mâu thuẫn thì càng tốt. Ngai Sắt phản ứng càng chậm, chúng càng mất nhiều thời gian để tập trung sức mạnh và kêu gọi đồng minh. “Chắc chắn sẽ có thuyền ở Estermont. Đó là một hòn đảo.

Haldon, gửi thư cho Mandrake nói hãy để một đạo quân ở lại phía sau và đem toàn bộ số người còn lại tới Mũi Wrath, cùng với bất kể tù binh quý tộc nào.”

“Vâng thưa lãnh chúa. Nhà Estermont có mối liên hệ máu mủ với cả hai vị vua. Những con tin giá trị.”

“Khoản tiền chuộc sẽ lớn,” Harry Vô Gia Cư hồ hỏi nói.

“Đã đến lúc chúng ta cần gặp hoàng tử Aegon rồi,” Lãnh chúa Jon thông báo.

 

“Ở đây đằng sau tường thành của Griffin’s Roost, cậu ấy sẽ an toàn hơn khi ở trại.”

“Để tôi cử kỵ sĩ đi,” Franklyn Flowers nói, “nhưng tôi nghĩ cậu nhóc sẽ không thích ý tưởng ở lì một nơi an toàn đâu. Cậu ấy muốn tham gia vào mọi thứ cơ.”

Khi bằng tuổi cậu ấy, chẳng phải tất cả chúng ta đều như vậy hay sao, Lãnh chúa Jon nghĩ và nhớ lại. “Đã đến lúc giương cờ hiệu của hoàng tử lên chưa?” Pease hỏi.

“Vẫn chưa. Cứ để Vương Đô nghĩ đây chỉ là một lãnh chúa bị lưu đày trở về nhà cùng vài lính đánh thuê để đòi quyền thừa kế. Một câu chuyện cũ quen thuộc. Tôi thậm chí sẽ viết cho vua Tommen, trình bày hệt như vậy, cầu xin tha thứ và được trả lại đất đai cùng chức vụ. Như vậy chúng sẽ có thứ gì đó để suy ngẫm trong một thời gian. Và khi chúng đang lưỡng lự, chúng ta sẽ bí mật gửi thư cho bạn bè ở vùng đất bão tố và Reach. Cả Dorne nữa.” Đó là bước quan trọng nhất. Các lãnh chúa nhỏ hơn có thể đi theo họ vì sợ bị hại hoặc hy vọng chiến thắng, nhưng chỉ hoàng tử xứ Dorne mới có sức mạnh để đánh bại Nhà Lannister và các đồng minh. “Trên hết, chúng ta phải có Doran Martell.”

“Ít cơ hội lắm,” Strickland nói. “Gã người Dorne sợ cái bóng của chính mình. Hắn sẽ không dám liều đâu.”

Ông thì cũng có khác gì. “Hoàng tử Doran đúng là một người đàn ông cẩn trọng. Ông ta sẽ không bao giờ tham gia với chúng ta, trừ khi ông ta tin rằng chúng ta sẽ thắng. Vì thế để thuyết phục ông ấy, chúng ta phải biểu dương sức mạnh.”

“Nếu Peake và Rivers thành công, chúng ta sẽ kiểm soát phần lớn Mũi Wrath,” Strickland lập luận. “Bốn tòa lâu đài chỉ trong chừng đó ngày, một khởi đầu quá tuyệt, nhưng sức mạnh của chúng ta mới chỉ có một nửa. Chúng ta cần đợi nửa còn lại trong đội quân của ta. Chúng ta cũng đang thiếu ngựa và một số voi nữa. Ta nghĩ lúc này cần chờ đợi. Tập trung sức mạnh, thuyết phục một số lãnh chúa nhỏ về phe chúng ta, để Lysono Maar cho gián điệp đi

 

do thám kẻ thù xem thế nào.”

Connington lạnh lùng nhìn vị chỉ huy trưởng mập ú. Người đàn ông này không phải là Tim Đen, không phải Thép Đắng, cũng không phải Maelys. Ông ta sẽ đợi cho đến khi cả bảy địa ngục đóng băng chứ không chịu mạo hiểm nhận thêm một vài vết phồng rộp nữa. “Chúng ta không đi nửa vòng trái đất để chờ đợi. Cơ hội tốt nhất của chúng ta là đánh nhanh và đánh mạnh, trước khi Vương Đô biết chúng ta là ai. Tôi muốn chiếm Storm’s End. Một pháo đài gần như bất khả chiến bại, và là chỗ đứng cuối cùng của Stannis Baratheon ở phương nam. Một khi chiếm được nó, chúng ta sẽ có một hậu phương vững chắc để rút lui khi cần thiết, và việc chiếm được nó cũng chứng tỏ sức mạnh của chúng ta.”

Các đội trưởng của hội Chiến Binh Vàng nhìn nhau. “Nếu Storm’s End vẫn nằm trong tay những người trung thành với Stannis, chúng ta sẽ chiếm nó từ tay hắn chứ không phải của Nhà Lannister,” Brendel Byme phản đối. “Tại sao không thỏa thuận với hắn rồi cùng chống lại Nhà Lannister?”

“Stannis là em trai Robert, cùng là hạng người như kẻ lật đổ Nhà Targaryen,” Jon Connington nhắc. “Thêm vào đó, hắn lại đang ở cách xa mấy ngàn cây số, chỉ huy một đạo quân ít ỏi còn lại. Chúng ta đang cách hắn cả nửa vương quốc. Để đến được chỗ hắn sẽ mất nửa năm, trong khi chúng ta chẳng được lợi lộc gì mấy từ hắn cả.”

“Nếu Storm’s End mạnh đến mức bất khả chiến bại thì ngài định hạ nó bằng cách nào?” Malo hỏi.

“Bằng mưu mẹo.”

Harry Strickland Vô Gia Cư không đồng ý. “Chúng ta sẽ đợi.”

“Đúng vậy.” Jon Connington đứng lại. “Nhưng chỉ mười ngày, không hơn không kém. Chúng ta sẽ cần chừng đó thời gian để chuẩn bị. Sáng ngày thứ mười một, chúng ta sẽ lên đường tới Storm’s End.”

Bốn ngày sau, hoàng tử đến nhập bọn với họ. Chàng trai cưỡi ngựa dẫn đầu

 

đoàn người gồm một trăm kỵ binh, ba con voi ì ạch đi cuối. Đi cùng cậu ta là Quý cô Lemore, một lần nữa xuất hiện trong bộ y phục trắng của nữ tu. Đi phía trước họ là Ser Rolly Duckfield, chiếc áo choàng trắng như tuyết tung bay trên vai.

Một chiến binh cừ và đáng tin cậy, nhưng chưa đủ khả năng làm hiệp sĩ của Ngự Lâm Quân, Connington nghĩ khi quan sát Vịt xuống ngựa. Ông đã cố thuyết phục hoàng tử đừng trao cái áo choàng đó cho Duckfield, chỉ ra rằng vinh dự đó phải để dành cho các chiến binh tiếng tăm hơn, những người mà lòng trung thành của họ sẽ giúp đại nghĩa của ta thêm chính đáng, nếu không cũng phải là con của các lãnh chúa lớn, bởi chúng ta cần lòng trung thành của họ trong giai đoạn khó khăn tiếp theo, nhưng thằng bé nhất quyết không nghe. “Vịt dám chết vì ta nếu cần thiết,” cậu nói, “và đó là tất cả những gì ta cần ở một người lính Ngự Lâm. Sát Vương cũng là một chiến binh vĩ đại, và cũng là con của một lãnh chúa lớn đấy thôi.” Ít nhất ta cũng có thể thuyết phục cậu ta để ngỏ sáu vị trí còn lại, nếu không chắc Vịt sẽ dẫn theo sáu con vịt con nữa đi theo, kẻ sau tồi tệ hơn kẻ trước. “Hộ tống hoàng tử về phòng ta,” ông ra lệnh. “Ngay lập tức.”

Nhưng hoàng tử Aegon Targaryen không hề ngoan ngoãn như Griff Trẻ ngày xưa. Phải một giờ đồng hồ sau, cậu ta mới xuất hiện trước cửa phòng, với Vịt đi bên cạnh. “Lãnh chúa Connington,” cậu nói, “Ta thích tòa lâu đài này của ngài.”

“Cha ngài có một vương quốc tuyệt đẹp,” ông nói, và mái tóc bạch kim của ngài tung bay trong gió, đôi mắt ngài có màu tím sẫm, sẫm hơn màu mắt của cậu bé này. “Thần cũng rất thích. Hoàng tử ngồi đi, ngồi xuống đi. Ser Rolly, anh có thể lui được rồi.”

“Không, ta muốn Vịt ở lại.” Hoàng tử ngồi xuống. “Chúng ta đã nói chuyện với Strickland và Flowers. Họ kể cho chúng ta nghe về cuộc tấn công vào Storm’s End.”

Jon Connington cố nuốt cơn giận dữ. “Vậy Harry Vô Gia Cư có cố thuyết phục ngài trì hoãn nó không?”

“Thực ra là có,” hoàng tử nói, “nhưng ta sẽ không đồng ý đâu. Harry cứ như một bà già ấy, ngài có thấy vậy không? Ngài tính toán không sai. Ta muốn tấn công… nhưng có một sự thay đổi nhỏ. Ta sẽ dẫn đầu đội quân.”

 

About The Author

Ngo David

Power is Power