Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng

Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Cẩm Chi

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

 

Trên bãi cỏ của làng, người của hoàng hậu đã dựng giàn thiêu.

Phải gọi là bãi tuyết chứ nhỉ? Tuyết ngập đến đầu gối ở khắp mọi nơi, trừ chỗ bọn họ đã xúc tuyết đổ đi để đào những chiếc hố trên nền đất đóng băng với rìu, cuốc và thuổng. Gió xoáy từ hướng tây thổi lại, tuyết bay qua các mặt hồ đông cứng đến đây mỗi lúc một nhiều.

“Cô sẽ không muốn xem buổi lễ này đâu,” Aly Mormont nói.

“Đúng là tôi không muốn, nhưng tôi sẽ xem.” Asha Greyjoy là con gái của kraken, không phải mấy đứa con gái yểu điệu thướt tha, hễ nhìn thấy cái gì xấu xa là không chịu được.

Hôm ấy trời u ám, lạnh lẽo và khô hanh, giống như hôm trước và hôm sau đó. Hầu như cả ngày họ ở ngoài trời, run rẩy bên cạnh hai cái hố họ đào trên hai mặt hồ nhỏ đóng băng, những đôi tay đeo găng lóng ngóng nắm chặt cần câu cá. Cách đây chưa lâu, họ còn mong bắt được mỗi người một hai con, và đám người trong rừng sói với kỹ năng câu cá trong băng tốt hơn có thể câu tới bốn năm con. Nhưng hôm nay, Asha quay về với thành quả duy nhất là cái lạnh ngấm đến tận xương tủy. Aly cũng chẳng khá gì hơn. Đã ba ngày nay họ không bắt được con cá nào.

Gấu Cái nói một lần nữa. “Nhưng ta không muốn xem.”

Người của hoàng hậu có định thiêu cô đâu. “Vậy thì đi đi. Tôi hứa với cô sẽ không chạy. Tôi biết đi đâu bây giờ? Đến Winterfell chắc?” Asha cười phá lên. “Họ bảo Winterfell chỉ cách đây ba ngày cưỡi ngựa thôi.”

Sáu người của nữ hoàng đang vật lộn cắm hai cột gỗ thông vĩ đại vào những chiếc hố mà sáu lính khác đã đào xong. Asha không cần phải hỏi cũng biểt mục đích của họ.

Họ đang dựng cọc thiêu. Màn đêm sắp buông, và vị thần đỏ cần được ăn. Người của hoàng hậu gọi là lễ vật bằng máu và lửa, để Thần Ánh Sáng có thể

 

hướng đôi mắt rực lửa của ông ta xuống chúng ta và làm tan chảy lớp băng tuyết ngàn lần chết dẫm này đi.

“Ngay cả ở nơi tối tăm và đáng sợ này, Thần Ánh Sáng vẫn bảo vệ chúng ta,” Ser Godry Farring nói với đám lính đang đứng quanh xem đóng cọc xuống hố.

“Ông thần phương nam của các người thì có liên quan gì tới tuyết?” Artos Flint hỏi. Chòm râu đen của ông bị băng phủ kín. “Đây là cơn giận dữ mà các cựu thần trút lên chúng ta. Chúng ta phải cúng tế cho họ mới phải.”

“Đúng vậy,” Wull Xô Lớn nói. “Rahloo Đỏ chẳng có ý nghĩa gì ở đây cả. Các người sẽ chỉ làm các cựu thần giận dữ mà thôi. Họ đang ở trên đảo của họ và quan sát chúng ta đấy.”

Ngôi làng nhỏ nằm giữa hai cái hồ, trên chiếc hồ lớn hơn có vài hòn đảo cây cối mọc lùm xùm, nhô lên qua lớp nước đá trông như những nắm tay đông cứng của người khổng lồ chết đuối. Trên một trong các hòn đảo đó là một cây đước cổ thụ và xưomg xẩu, thân và cành cây trắng không khác gì màu tuyết xung quanh. Tám ngày trước, Asha và Aly Mormont đã đến gần để nhìn đôi mắt và cái miệng đỏ như máu đó. Chúng chỉ là nhựa cây, cô tự nhủ, nhựa đỏ chảy ra từ bên trong cây đước. Nhưng mắt cô lại hoài nghi; chúng tin vào những gì chúng thấy, và những gì chúng thấy là máu đông cứng lại.

“Băng tuyết này chính là do đám người phương bắc gây ra,” Corliss Penny khăng khăng. “Các ngươi cùng với mấy cái cây ma quỷ đó. Thần R’hllor sẽ cứu chúng ta.”

“R’hllor sẽ cho chúng ta chết cả nút,” Artos Flint nói.

Quỷ tha ma bắt mấy ông thần của các ngươi đi, Asha Greyjoy nghĩ.

Ser Godry Kẻ Giết Người Khổng Lồ kiểm tra mấy cái cọc, lắc thử một chiếc xem nó đã chặt hay chưa. “Tốt rồi, tốt rồi. Ổn đấy. Ser Clayton, đem lễ vật lên đây!”

 

Ser Clayton Suggs là cánh tay phải đắc lực của Godry. Hay là cánh tay quắt queo nhỉ? Asha không thích Ser Clayton. Trong khi Farring có vẻ tôn thờ vị thần đỏ một cách mãnh liệt thì Suggs chỉ đom giản là kẻ tàn bạo. Cô đã thấy hắn bên ngọn lửa đêm, quan sát hắn. Môi hắn mấp máy và mắt hắn thèm thuồng. Thứ hắn yêu không phải là vị thần, mà là ngọn lửa, cô đã rút ra nhận xét như vậy. Khi cô hỏi Ser Justin có phải Suggs luôn luôn như vậy hay không, anh ta nhăn mặt. “Ở Dragonstone hắn thường cá cược với những người tra tấn và giúp họ tra khảo tù nhân, đặc biệt nếu tù nhân là phụ nữ trẻ.”

Asha không thấy ngạc nhiên vì điều đó. Chắc hẳn Suggs sẽ vô cùng vui sướng nếu được thiêu cô. Trừ khi bão tuyết tan dần.

Mười chín ngày nay, họ vẫn đang ở cách Winterfell ba ngày đường. Từ Deepwood Motte tới Winterfell chưa đầy 350 dặm. 300 dặm theo đường quạ bay. Nhưng chẳng có ai trong số họ là quạ, và bão tuyết vẫn cứ vần vũ không ngừng. Sáng nào khi thức dậy Asha cũng mong được nhìn thấy mặt trời, nhưng chẳng bao giờ tuyết ngừng rơi. Cơn bão đã vùi lấp mọi nhà cửa và lều bạt dưới một đống tuyết bẩn, và lớp tuyết sẽ nhanh chóng đủ dày để nuốt trọn cả sảnh dài.

Và họ cũng chẳng có thức ăn, ngoài những con ngựa chết, cá câu lên được từ hồ (mỗi ngày một ít hơn) và bất cứ con vật gầy còm nào những người cắt cỏ tìm được trong khu rừng lạnh lẽo chết chóc kia. Các hiệp sĩ và lãnh chúa của nhà vua giành phần lớn số thịt ngựa, nên những kẻ thường dân hầu như chẳng được gì. Chẳng trách mà họ bắt đầu ăn cả thịt người chết.

Asha cũng kinh hãi như tất cả mọi người khi nghe Gấu Cái kể bốn người nhà Peasebury bị bắt gặp đang xẻ thịt một người của Lãnh chúa Fell khi hắn qua đời. Họ xé từng mảng thịt ra từ đùi và mông xác chết trong khi một cánh tay đang được cắm vào xiên và quay trên bếp lửa, nhưng cô không thể giả vờ ngạc nhiên. Cô dám cá họ không phải là bốn người đầu tiên nếm mùi vị thịt người trong cuộc hành quân ác nghiệt này – chỉ là những kẻ đầu tiên bị phát hiện mà thôi.

Bốn người của Peasebury phải trả giá cho bữa tiệc bằng mạng sống của chính mình, theo chỉ thị của nhà vua… và sẽ bị thiêu sống để chấm dứt cơn bão,

 

theo người của hoàng hậu. Asha Greyjoy chẳng tin gì vào vị thần đỏ của họ, nhưng cô thấy may mắn khi họ làm như vậy. Nếu không, chắc chắn những giàn thiêu khác sẽ mọc lên, và Ser Clayton Suggs sẽ có cơ hội hoàn thành ý nguyện của hắn.

Bốn kẻ ăn thịt người bị Ser Clayton giải ra trong tinh trạng trần như nhộng, cổ tay bị buộc sau lưng bằng dây da. Kẻ trẻ nhất trong số họ vấp ngã trên tuyết, hai người khác lê bước như người đã chết rồi, mắt dán chặt xuống đất. Asha ngạc nhiên khi họ trông quá bình thường. Cô nhận ra họ không phải quái vật. Họ chỉ là những người đàn ông.

Người già nhất trong số đó hẳn là đội trưởng. Chỉ có hắn tỏ ra thách thức, chửi rủa người của hoàng hậu khi họ chĩa thương vào người hắn và giải ra. “Mẹ kiếp các ngươi, mẹ kiếp tên thần đỏ của các ngươi,” hắn nói. “Ngươi nghe thấy ta nói không, Farring? Kẻ Giết Người Khổng Lồ? Ta đã cười sằng sặc khi thằng em họ khốn kiếp của ngươi chết ngắc, Godry ạ. Đáng lẽ chúng ta nên ăn cả hắn mới phải, khi bọn họ nướng hắn lên, mùi hắn mới thơm làm sao. Ta dám chắc thịt thằng nhóc ngon và mềm lắm. Thật hấp dẫn!” Dù nhận một cú đánh bẳng cán thương và ngã khụy xuống đất, nhưng hắn vẫn không ngừng nói. Khi đứng dậy, hắn nhổ ra một mồm đầy máu và răng gãy, sau đó tiếp tục. “Của quý là phần ngon nhất, giòn tan trên xiên. Quả là một cái xúc xích béo ngậy.” Ngay cả khi bị quấn xích quanh người, hắn vẫn tiếp tục. “Corliss Penny, đến đây. Penny, họ chó gì mà lại nghĩa là đồng xu thế? Mẹ ngươi đòi giá bằng đó à? Còn ngươi, Suggs, thằng con hoang khốn kiếp, ngươi…”

Ser Clayton không nói lời nào. Một nhát kiếm nhanh gọn rạch toang họng tên hạ sĩ, một dòng máu đỏ tươi chảy xuống ngực hắn.

Cậu nhóc khóc nhè lại càng khóc to hơn, người cậu run lên theo từng cơn nấc. Cậu ta gầy đến nỗi Asha có thể đếm từng dẻ xương sườn. “Không,” cậu ta cầu xin, “xin hãy tha cho tôi, anh ta chết rồi, anh ta chết rồí, trong khi chúng tôi quá đói, cầu xin các người…”

“Tên hạ sĩ đó khôn đấy,” Asha nói với Aly Mormont. “Hắn trêu tức để Suggs giết hắn.” Cô tự hỏi chiêu thức đó có tác dụng lần thứ hai nữa hay không, nếu

 

chẳng may cô đến lượt.

Bốn nạn nhân bị trói lại quay lưng vào nhau, hai người dựa vào một cột. Ba người sống và một người chết bị treo ở đó, trong khi các môn đồ thờ Thần Ánh Sáng chất củi và cành khô xuống dưới chân họ, sau đó tưới dầu lên. Họ phải làm mọi việc thật nhanh. Tuyết đang rơi rất dày, như bao ngày trước, và củi sẽ nhanh chóng ướt nhẹp.

“Nhà vua đâu?” Ser Corliss Penny hỏi.

Bốn ngày trước, một trong các cận vệ của nhà vua đã đầu hàng trước đói khát và giá lạnh. Cậu nhóc tên là Bryen Farring, họ hàng với Ser Godry. Stannis Baratheon buồn rầu đứng bên giàn hỏa thiêu trong khi xác cậu nhóc chìm trong ngọn lửa. Sau đó, nhà vua lui về tháp canh của mình. Kể từ đó ông chưa xuất hiện trở lại… dù thỉnh thoảng mọi người vẫn thoáng nhìn thấy ông trên đỉnh tháp, trong ánh lửa hiệu cháy sáng đêm ngày. Một số người nói ông đang nói chuyện với vị thần đỏ. Những người khác khăng khăng ông đang gọi Quý cô Melisandre. Dù câu trả lời là gì thì trong mắt Asha Greyjoy, nhà vua đang mất phương hướng và cần người cứu giúp.

“Canty, đi tìm nhà vua và nói với ngài rằng mọi thứ đã sẵn sàng,” Ser Godry nói với tên kỵ binh hạng nặng đứng gần đó nhất.

“Nhà vua đang ở đây rồi.” Giọng nói này là của Richard Horpe.

Bên ngoài lớp áo giáp xích và giáp tấm, Ser Richard mặc áo chẽn chần bông, bên trên có huy hiệu hình ba con nhậy đầu lâu trên nền tro và xám. Vua Stannis đi bên cạnh anh ta. Đằng sau họ, Arnolf Karstark tập tễnh chống gậy bằng gỗ mận gai cố gắng đuổi theo. Lãnh chúa Arnolf tìm thấy bọn họ tám ngày trước. Người đàn ông phương bắc đem theo một con trai, ba cháu trai, bốn trăm lính giáo, hai tá cung thủ, một tá lính cưỡi ngựa đánh thương, một maester và một lồng quạ… nhưng chỉ đủ quân lương để nuôi người của riêng ông.

Karstark thực ra không phải là lãnh chúa, Asha từng nghe nói ông ta chỉ là người quản thành Karhold trong khi lãnh chúa thực sự đang bị Nhà Lannister

 

bắt giữ. Ông già trông gầy gò hốc hác với cái lưng còng, vai trái cao hơn vai phải mười lăm phân, cái cổ khẳng khiu, đôi mắt xám leo nheo và hàm răng vàng khè. Cái đầu gần hói của ông ta chỉ còn vài sợi tóc bạc lơ thơ; bộ râu hình chĩa nửa xám nửa trắng rối bù xù. Asha cho rằng nụ cười của ông ta có nét gì đó chanh chua. Tuy nhiên nếu những lời đồn đại là đúng thì Karstark sẽ giữ Winterfell nếu họ chiếm được tòa lâu đài đó. Cách đây từ rất lâu, Nhà Karstark là một nhánh của Nhà Stark, và Lãnh chúa Arnolf là chư hầu đầu tiên của Eddard Stark tuyên bố ủng hộ Stannis.

Theo những gì Asha biết, Nhà Karstark thờ các cựu thần phương bắc, cũng là các vị thần của các bộ tộc Wull, Norrey, Flint và các bộ tộc trên núi khác. Cô tự hỏi có phải Lãnh chúa Arnolf đến để chứng kiến lễ hiến tế theo yêu cầu của nhà vua, để ông tận mắt nhìn thấy sức mạnh của vị thần đỏ hay không.

Khi nhìn thấy Stannis, hai người bị trói vào cọc bắt đầu cầu xin tha mạng. Nhà vua lắng nghe trong im lặng, hàm ông nghiến chặt. Sau đó ông nói với Godry Farring, “Bẳt đầu được rồi.”

Kẻ Giết Người Khổng Lồ giơ hai tay lên. “Thần Ánh Sáng, xin hãy nghe chúng con.”

“Thần Ánh Sáng, xin hãy bảo vệ chúng con,” người của hoàng hậu cầu nguyện, “vì màn đêm tối tăm và đầy rẫy nỗi kinh hoàng.”

Ser Godry ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đen kịt. “Cảm ơn người đã cho mặt trời sưởi ấm chúng con, và mong người hãy cho mặt trời trở lại, soi đường cho chúng con tìm đến kẻ thù của người.” Những bông tuyết tan ra trên mặt anh ta. “Cảm ơn người đã cho những vì sao chiếu sáng, bảo vệ chúng con khi đêm xuống, và mong người hãy xé đi lớp màn đã che giấu chúng bấy lâu nay, để ánh sáng rực rỡ của các vì sao một lần nữa quay trở lại.”

“Thần Ánh Sáng, xin hãy bảo vệ chúng con,” người của hoàng hậu cầu nguyện, “và xua đi bóng đêm ác nghiệt này.”

Ser Corliss Penny tiến lên một bước, nắm chặt ngọn đuốc bằng cả hai tay. Anh ta giơ nó lên qua đầu và quay tròn cho ngọn lửa bùng lên. Một trong số

 

những kẻ bị trói bắt đầu rên rỉ.

“R’hllor,” Ser Godry hát, “chúng con dâng cho người bốn kẻ xấu xa. Với những trái tim hân hoan và lòng thành khẩn, chúng con xin dâng họ cho ngọn lửa của người thanh tẩy, để thiêu đốt bóng tối trong tâm hồn họ. Hãy để thân xác hèn hạ của họ héo úa và cháy đen, để linh hồn bay vào ánh sáng, tự do và trong sạch. Hỡi thần linh, xin người hãy chấp nhận máu của họ, hỡi thần linh, hãy làm tan chảy những sợi xích băng đang trói buộc các bầy tôi trung thành của người. Chữa lành vết thương cho họ, ban cho thanh kiếm của chúng con sức mạnh để chúng con có thể chiến đấu với kẻ thù. Hãy nhận lễ vật này và chỉ đường cho chúng con tới Winterfell, để chúng con có thể đánh bại những kẻ vô tín ngưỡng.”

“Thần Ánh Sáng, hãy chấp nhận lễ vật này,” một trăm người cùng hòa giọng. Ser Corliss dùng đuốc châm lửa giàn thiêu, sau đó chọc cây đuốc vào đống củi dưới chân giàn thiêu thứ hai. Một vài sợi khói bắt đầu bay lên. Những kẻ bị trói bắt đầu ho. Những lưỡi lửa đầu tiên xuất hiện, e lệ như những cô gái đồng trinh, chúng bay lên, nhảy nhót từ đống củi sang chân người. Chỉ trong chốc lát, cả hai chiếc cọc đã ngập trong lửa.

“Anh ta chết rồi,” cậu bé khóc lóc hét lên khi ngọn lửa bắt đầu liếm lên chân cậu. “Chúng tôi tìm thấy xác anh ta… xin hãy tha mạng… tại chúng tôi quá đói mà…” Ngọn lửa liếm lên hạ bộ cậu nhóc. Khi lông ở đó bắt đầu cháy, tiếng cầu xin biến thành một tiếng thét dài.

Asha Greyjoy nếm được cả vị mật nơi cuống họng. Trên Quần đảo Sắt, cô đã chứng kiến các thầy tu ở đó cắt cổ nô lệ và hiến xác họ cho biển cả để vinh danh Thần Chết Chìm. Hành động đó đã kinh khủng, nhưng những gì trước mắt cô còn man rợ hơn.

Nhắm mắt vào, cô tự nhủ. Bịt tai lại. Quay mặt đi. Ngươi không cần phải chứng kiến cảnh này. Người của hoàng hậu đang hát bài tán ca, ca ngợi R’hllor đỏ, nhưng cô không nghe được lời hát của họ giữa những tiếng thét. Hơi nóng của lửa phả vào mặt cô, nhưng cô vẫn thấy run rẩy. Không khí trở nên nồng nặc với mùi khói và mùi thịt cháy, một trong những cái xác vẫn co giật giữa những sợi xích nóng đỏ trói anh ta vào cọc.

 

 

Một lát sau, những tiếng gào thét chấm dứt.

Không nói một lời nào, vua Stannis bỏ đi, trở lại với tòa tháp canh cô độc của ông. Về với ngọn lửa hiệu để tìm kiếm những câu trả lời trong đó, Asha biết. Arnolf Karstark cố cà nhắc bước theo nhà vua, nhưng Ser Richard Horpe nắm lấy cánh tay ông ta và xoay người ông ta về phía sảnh dài. Những người đứng xem bẳt đầu di tản, mỗi người trở về với ngọn lửa của riêng mình và chút đồ ăn đạm bạc cho bữa tối nếu anh ta may mắn tìm được.

Clayton Suggs tiến lên bên cạnh cô. “Con đĩ người sắt có thích màn trình diễn vừa rồi không?” Hơi thở của hắn tanh mùi rượu và hành. Đôi mắt hắn trông như mắt lợn, Asha nghĩ. Quả là phù hợp; trên khiên và áo khoác của hắn cũng có hình một con lợn có cánh. Suggs áp mặt vào cô gần đến nỗi cô đếm được từng cái mụn đầu đen trên mũi hắn. “Người xem sẽ còn đông hơn khi kẻ quằn quại trên cọc là ngươi.”

Hắn nói không sai. Lũ sói không ưa cô; cô là người sắt, và cô phải trả giá cho những tội lỗi mà người của mình gây ra, cho Moat Cailin, Deepwood Motte và Torrhen’s Square, cho hàng thế kỷ cướp bóc dọc bờ biển đá, cho tất cả những gì Theon đã làm ở Winterfell.

“Bỏ tôi ra, ser.” Mỗi lần Suggs nói chuyện với cô là cô lại muốn có đôi rìu của mình. Asha có tài khiêu vũ ngón tay không thua kém bất cứ người đàn ông nào trên quần đảo, và cô có đủ mười ngón tay để chứng minh điều đó. Uớc gì ta có thể khiêu vũ với gã đàn ông này. Giống như mặt một số người đàn ông cần có râu, mặt Ser Clayton cần có một chiếc rìu bổ giữa hai mắt. Nhưng ở đây cô không có rìu, nên việc tốt nhất cô có thể làm là cố thoát khỏi hắn. Nhưng điều đó chỉ khiến Ser Clayton giữ cô chặt hơn, bàn tay đeo găng bấu chặt vào cánh tay cô như móng sắt.

(Trò chơi ném và bắt rìu của người Sắt, trong đó ít nhất hai người chơi ném rìu vào nhau. Người chơi phải bắt lấy cây rìu hoặc nhảy qua mà không được lỡ nhịp. Cái tên ra đời vì cuối trò chơi, người chơi dễ mất một ngón tay hoặc nhiều hơn thế)

 

“Cô ấy bảo anh buông ra kìa,” Aly Mormont nói. “Tốt nhất là anh nên nghe theo đi, ser. Tiểu thư Asha không phải để cho lên giàn lửa.”

“Rồi cô ta sẽ phải lên thôi,” Suggs khăng khăng. “Chúng ta đã dung túng kẻ thờ quỷ dữ này quá lâu rồi.” Tuy nhiên hắn vẫn thả tay Asha ra. Không ai muốn làm Gấu Cái bực mình một cách không cần thiết.

Vừa lúc đó, Justin Massey xuất hiện. “Nhà vua đã có các kế hoạch khác cho tù binh ưu tú của ông ấy rồi,” anh ta nói và nở nụ cười nhẹ nhàng. Hai má anh ta đỏ ửng lên vì lạnh.

“Nhà vua ấy à? Hay là ngươi?” Suggs khịt mũi vẻ khinh miệt. “Cứ việc mưu mô đi, Massey. Cô ta sẽ vẫn bị dâng cho lửa thôi, cô ta và dòng máu hoàng gia của mình. Nữ tu đỏ từng nói, trong dòng máu hoàng gia có sức mạnh. Sức mạnh để thỏa mãn vị thần đỏ của chúng ta.”

“Cứ để R’hllor hài lòng với bốn người chúng ta vừa gửi cho đi đã.”

“Bốn tên tiện dân hạ đẳng. Món quà cho kẻ ăn mày. Đám cặn bã đó sẽ không bao giờ đủ để tuyết ngừng rơi.”

Gấu Cái lên tiếng. “Vậy nếu anh thiêu cô ấy, và tuyết vẫn rơi thì sao? Ai sẽ bị thiêu tiếp theo? Tôi chăng?”

Asha không thể lặng im thêm được nữa. “Tại sao không phải là Ser Clayton nhỉ? Có lẽ R’hllor sẽ thích một trong những người của mình. Một người đàn ông trung thành, dù lửa liếm lên của quý rồi mà vẫn hát tán dương thần đỏ.”

Ser Justin phá lên cười. Nhưng Suggs không thấy hài hước như vậy. “Cứ cười đi, Massey. Nếu tuyết vẫn cứ rơi, chúng ta sẽ xem ai mới là người cười.” Hắn liếc mắt nhìn mấy cái xác trên cọc, mỉm cười và tới nhập hội với Ser Godry cùng đám người của hoàng hậu.

“Anh hùng của tôi,” Asha nói với Justin Massey. Anh ta xứng đáng với danh hiệu đó, dù động cơ của anh ta là gì. “Cảm ơn ser vì đã giải cứu.”

 

“Hành động vừa rồi sẽ gây bất lợi cho anh trước người của hoàng hậu đấy,” Gấu Cái nói. “Anh đã mất hết lòng tin vào thần R’hllor đỏ rồi à?”

“Tôi mất niềm tin vào nhiều thứ hơn thế rồi,” Massey nói, hơi thở tạo thành màn sương trong không khí, “nhưng tôi vẫn tin vào bữa tối. Các quý cô có muốn tham gia với tôi không?”

Aly Mormont lắc đầu. “Tôi không muốn ăn.”

“Tôi cũng đâu có muốn. Nhưng cứ cố nuốt vài miếng thịt ngựa thì hơn, nếu không cô sẽ sớm hối hận đấy. Chúng ta có tám trăm con ngựa khi khởi hành từ Deepwood Motte. Đêm qua họ đếm được còn sáu mươi tư.”

Cô không thấy ngạc nhiên trước con số đó. Hầu hết chiến mã lóm của họ đều không trụ được, trong đó có cả ngựa của Massey. Ngựa thường cũng đã chết gần hết. Ngay cả loại ngựa nhỏ của người phương bắc cũng đi không còn vững vì thiếu cỏ. Nhưng họ cần gì ngựa? Stannis chẳng hành quân đi đâu nữa. Mặt trời, trăng và sao đã không xuất hiện từ lâu, lâu đến nỗi Asha bắt đầu tự hỏi có phải trước đó chúng chỉ xuất hiện trong mơ hay không. “Tôi sẽ ăn.”

Aly lắc đầu. “Tôi thì không.”

“Vậy thì để tôi trông chừng tiểu thư Asha cho,” Ser Justin nói. “Tôi hứa với cô, tôi sẽ không để cô ta trốn thoát.”

Gấu Cái miễn cưỡng đồng ý, bất chấp giọng lưỡi đùa cợt của anh ta. Họ chia tay ở đó, Aly về trại, cô và Justin Massey tới sảnh dài. Quãng đường không xa, nhưng tuyết rơi dày đặc và gió không ngừng gào rú, còn chân Asha đông cứng lại như hai cục băng. Mắt cá chân giống như mũi dao đâm theo mỗi bước cô đi.

Dù nhỏ bé và tàn tạ, sảnh dài vẫn là tòa nhà lớn nhất trong làng, vì thế các Lãnh chúa và đội trưởng đã tranh lấy chúng cho mình, trong khi Stannis ở trong tòa tháp canh bằng đá bên bờ hồ. Hai lính gác đứng chắn ở cửa, dựa người vào hai cây giáo dài. Một người nâng cánh cửa lật lên cho Massey, và

 

Ser Justin đưa Asha vào căn phòng ấm áp bên trong.

Ghế dài và bàn chân rời được kê dọc hai bên theo chiều dài căn phòng, đủ chỗ chứa năm mươi người… nhưng phải đến cả trăm người đang chui rúc trong đó. Trên nền đất ở giữa phòng họ đào một chiếc rãnh để đốt lửa, trên mái nhà là một hàng lỗ thông khói. Đàn sói ngồi ở một bên rãnh, các hiệp sĩ và lãnh chúa phương nam ngồi phía bên kia.

Đám người phương nam trông mới tội nghiệp làm sao, Asha nghĩ bụng – một đám gầy gò, má hóp, một số người xanh lét và ốm yếu, những kẻ khác mặt sạm gió và đỏ lựng lên. Ngược lại, người phương bắc có vẻ tráng kiện và khỏe mạnh. Đàn ông ai nấy đều hồng hào, râu dày như bụi rậm, với lông thú và giáp sắt trên người. Có thể họ cũng lạnh và đói, nhưng cuộc hành quân dễ dàng hơn đối với họ, nhất là khi họ có ngựa nhỏ và móng gấu.

Asha tháo đôi găng tay hở ngón bằng lông ra, nhăn mặt co duỗi những ngón tay. Cô bắt đầu thấy đau buốt khi hai bàn chân gần như đóng băng tan dần ra trong hơi ấm. Các chủ trại nhỏ để lại khá nhiều than bùn khi họ bỏ đi, vì thế không gian mờ mịt khói và bốc mùi nồng của đất khi than bùn cháy. Cô treo áo khoác vào một cái móc sau cánh cửa, sau khi đã rũ hết tuyết bám trên đó.

Ser Justin tìm được chỗ ngồi cho họ trên ghế dài và đi lấy bữa tối cho cả hai – bia và thịt ngựa, cháy cạnh bên ngoài và đỏ bên trong. Asha uống một hớp bia và ăn thịt. Phần ăn hôm nay nhỏ hơn hôm trước, nhưng bụng cô vẫn sôi ùng ục khi ngửi thấy mùi thức ăn. “Cảm ơn ser,” cô nói, máu và mỡ ngựa chảy xuống cằm.

“Cứ gọi tôi là Justin thôi.” Massey cắt phần thịt thành những miếng nhỏ và xiên một miếng bằng dao găm.

Phía cuối bàn, Will Foxglove đang nói với mọi người xung quanh rằng Stannis sẽ tiếp tục hành quân đến Winterfell sau ba ngày nữa. Ông ta nghe thông tin đó từ một trong những cậu bé chăm ngựa cho nhà vua.

“Nhà vua đã nhìn thấy chiến thắng trong ngọn lửa rồi,” Foxglove nói, “một chiến thắng sẽ được người đời ngợi ca suốt hàng nghìn năm sau, dù trong lâu

 

đài của các lãnh chúa hay túp lều của đám nông dân.”

Justin Massey ngẩng lên. “Số người chết rét tối qua đã lên đến tám mươi.” Anh ta lôi một mẩu xương sụn ra khỏi răng và ném nó cho con chó gần nhất. “Nếu chúng ta hành quân, con số đó sẽ là hàng trăm.”

“Hàng nghìn người sẽ chết nếu chúng ta ở lại đây,” Ser Humfrey Clifton nói. “Tiến lên hoặc là chết, tôi nghĩ vậy.”

“Còn tôi thì nghĩ là tiến lên và chết. Mà đến được Winterfell rồi thì sau đó thế nào? Chúng ta sẽ chiếm nó bằng cách nào đây? Một nửa số người của chúng ta ốm yếu đến mức chân còn không bước nổi. Họ sẽ trèo tường ra sao? Đóng tháp bao vây như thế nào?”

“Chúng ta nên ở lại đây cho đến khi thời tiết bình thường trở lại,” người lên tiếng là Ser Ormund Wylde, một hiệp sĩ già lờ đờ như xác chết, đối lập hoàn toàn với cái tên của ông. Asha từng nghe họ đồn đại rằng một số kỵ binh hạng nặng đang cá cược nhau xem hiệp sĩ và lãnh chúa vĩ đại nào sẽ là người tiếp theo chết rét. Và Ser Ormund rõ ràng là một ứng cử viên sáng giá. Không biết họ đặt cược bao nhiêu vào ta nhỉ? Asha tự hỏi. Có lẽ vẫn còn thời gian cá cược. “Ít nhất ở đây chúng ta còn có chỗ chui ra chui vào,” Wylde nhấn mạnh, “và trong hồ còn có cá.”

“Cá thì ít mà người câu cá thì nhiều,” Lãnh chúa Peasebury rầu rĩ nói. Ông ta có lý do chính đáng để buồn rầu; người của ông vừa bị Ser Godry đốt, và nghe đâu một số kẻ trong chính căn sảnh này còn truyền tai nhau rằng Peasebury biết quá rõ những gì người của mình làm, có khi ông ta còn tham gia bữa tiệc với họ cũng nên.

“Ông ấy nói không sai,” Ned Woods, một trong các lính trinh sát đến từ Deepwood lầm bầm. Mọi người gọi anh ta là Ned Không Mũi; sương giá đã lấy mất chỏm mũi của anh ta hai mùa đông trước. Woods hiểu khu rừng sói không kém gì ai. Ngay cả các lãnh chúa cao quý nhất của nhà vua cũng phải im lặng khi nghe anh ta nói. “Tôi biết quá rõ những cái hồ đó. Các người quây lấy chúng như lũ giòi trên xác chết, hàng trăm người. Rồi thi nhau đục hết lỗ này đến lỗ khác trên mặt hồ, thật lạ là vẫn chưa có ai rơi xuống. Gần

 

hòn đảo có những chỗ trông như tảng pho mát bị chuột khoét vậy.” Anh ta lắc đầu. “Còn gì trong hồ nữa. Các ngươi câu hết cá rồi còn đâu.”

“Lại càng thêm lý do để tiếp tục hành quân,” Humfrey Clifton khăng khăng. “Nếu số phận chúng ta là phải chết thì hãy chết với thanh kiếm trong tay.”

Đêm trước và đêm trước nữa, họ cũng tranh luận chuyện tương tự. Tiến lên và chết, ở lại đây và chết, hay là quay về và chết.

“Muốn chết thì cứ tự nhiên thôi Humfrey,” Justin Massey nói. “Riêng tôi, tôi muốn sống để chứng kiến thêm một mùa xuân nữa.”

“Một số người sẽ bảo đó là hèn nhát,” Lãnh chúa Peasebury trả lời. “Nhưng thà hèn nhát còn hơn đi ăn thịt người.”

Mặt Peasebury méo lại vì cơn giận dữ đột ngột. “Ngươi…”

“Cái chết là một phần của chiến tranh, Justin.” Ser Richard Horpe đứng giữa cửa, tuyết tan trên mái tóc đen của anh ta ẩm ướt. “Những người hành quân cùng chúng ta sẽ được chia tất cả tài sản cướp bóc được từ Bolton và tên con hoang của hắn, và trên hết là sự vinh quang bất diệt. Những kẻ quá yếu đuối không tiến lên được sẽ phải tự bảo vệ mình. Nhưng ta hứa, chúng ta sẽ gửi thực phẩm về một khi chiếm được Winterfell.”

“Các người sẽ không chiếm được Winterfell.”

“Ồ, được chứ,” trên bàn cao có tiếng cười khúc khích, nơi Arnolf Karstark đang ngồi với con trai Arthor và ba cháu trai. Lãnh chúa Arnolf đột ngột đứng dậy, như một con chim kền kền bay lên từ chỗ con mồi. Một bàn tay lốm đốm của ông ta phải bám chặt vào vai con trai để khỏi ngã. “Chúng ta sẽ chiếm lại nó, vì Ned và con gái ông ấy. Đúng, và cả cho Sói Trẻ đã bị chúng giết hại dã man nữa. Ta và người của ta sẽ dẫn đường nếu cần thiết. Ta cũng đã nói như vậy với nhà vua. Chúng ta hãy hành quân trước tuần trăng mới, và tẩt cả chúng ta sẽ được tắm trong máu của Nhà Frey và Bolton.”

 

Mọi người bắt đầu giậm chân, đấm tay xuống mặt bàn. Asha để ý thấy hầu hết đều là người phương bắc. Bên kia hố lửa, các lãnh chúa phương nam ngồi im lặng trên ghế dài.

Justin Massey chờ đến khi âm thanh huyên náo dịu xuống, sau đó mới nói, “Lòng can đảm của ông rất đáng khen, Lãnh chúa Karstark ạ, nhưng chỉ có can đảm không đủ để tấn công tường thành Winterfell. Ông định chiếm tòa lâu đài bằng cách nào đây? Bằng bóng tuyết à?”

Một trong các cháu trai của Lãnh chúa Arnolf trả lời. “Chúng ta sẽ chặt cây làm gỗ công thành và phá cổng.”

“Và chết.”

Một cháu trai nữa lên tiếng. “Chúng ta sẽ làm thang để trèo lên tường thành.” “Và chết.”

Arthor Karstark, con trai thứ của Lãnh chúa Arnolf lên tiếng. “Chúng ta sẽ dựng tháp bao vây.”

“Vẫn chết, chết, chết.” Ser Justin đảo mắt. “Các chư thần ơi, người Nhà Karstark các người điên hết rồi sao?”

“Các chư thần ấy à?” Richard Horpe nói. “Ngươi quên mất mình rồi sao, Justin. Ở đây chúng ta chi có một vị thần thôi, không được nói đến các loại quỷ dữ khác trong đội quân này. Chỉ có Thần Ánh Sáng mới có thể cứu chúng ta. Ngươi không đồng ý sao?” Anh ta đặt một tay lên chuôi kiếm như để nhấn mạnh, nhưng mắt không rời khỏi mặt Justin Massey.

Dưới cái nhìn chằm chằm đó, Ser Justin dịu giọng. “Thần Ánh Sáng, đúng vậy. Đức tin của ta cũng mãnh liệt như của ngươi, ngươi biết điều đó mà, Richard.”

“Thứ ta nghi ngờ là lòng can đảm của ngươi chứ không phải đức tin, Justin ạ. Ngươi luôn miệng thuyết giáo về việc bại trận kể từ khi chúng ta lên đường

 

từ Deepwood Motte. Ta phải tự hỏi không biết ngươi đứng về phe nào.”

Cổ Massey đỏ rực lên. “Ta sẽ không ở đây để nghe ngươi sỉ nhục.” Anh ta giật chiếc áo khoác ẩm từ trên tường xuống mạnh đến nỗi cô nghe thấy tiếng rách, sau đó hùng hổ đi qua trước mặt Horpe và ra cửa. Một luồng khí lạnh tràn vào sảnh, làm tro trong lò sưởi cuộn lên và lửa cũng được quạt hồng lên hơn một chút.

Bỏ cuộc sớm vậy sao, Asha nghĩ. Vị anh hùng của ta đúng là làm bằng mỡ. Ngay cả như vậy, Ser Justin vẫn là một trong số những người ít ỏi phản đối, nếu người của hoàng hậu muốn thiêu sống cô. Cô đứng dậy, mặc áo choàng và theo anh ra ngoài trời tuyết.

Chưa đi được 10 mét cô đã bị lạc. Asha vẫn nhìn thấy lửa hiệu cháy trên đỉnh tháp canh, một quầng sảng màu cam nhạt trôi trong không khí. Nhưng còn lại, cả ngôi làng đã biến mất. Cô chỉ có một mình giữa một thế giới trắng toát của tuyết và tĩnh lặng, lặn lội đi trong lớp tuyết dày đến tận đùi. “Justin?” cô gọi. Nhưng không có ai trả lời. Đâu đó phía bên trái, cô nghe thấy tiếng ngựa hí. Con vật tội nghiệp nghe có vẻ sợ hãi. Có lẽ nó biết nó sẽ trở thành bữa tối cho ngày mai. Asha quấn chiếc áo choàng thật chặt quanh người.

Cô vô tình mò mẫm trở về bãi cỏ của làng. Hai chiếc cọc bằng gỗ thông vẫn đứng đó, ám đen và cháy xém, nhưng chưa bị đốt trụi. Những sợi xích trói quanh người chết giờ đã nguội, nhưng chúng vẫn quấn chặt lấy những cái xác bằng vòng tay của sắt. Một con quạ đang đậu trên xác một người, lôi ra những mảnh thịt cháy bám trên cái đầu lâu đen kịt. Tuyết đã rơi phủ kín lớp tro dưới chân giàn thiêu và ngập đến mắt cá chân người chết. Các cựu thần muốn chôn anh ta, Asha nghĩ. Họ không gây ra những việc này.

“Nhìn cho kỹ vào, con đĩ,” giọng trầm trầm của Clayton Suggs vang lên phía sau cô. “Trông ngươi cũng sẽ xinh đẹp như vậy một khi ngươi bị nướng lên. Nói ta nghe xem, lũ mực ống có biết hét không?”

Hỡi Thần Chết Chìm, nếu người có thể nghe thấy lời cầu nguyện của con từ thủy cung nơi đáy sóng, xin người hãy cho con một chiếc rìu ném, nhỏ thôi cũng được. Thần Chết Chìm không trả lời. Hiếm khi ông trả lời. Vấn đề của

 

các vị thần là ở chỗ đó. “Ngươi có thấy Ser Justin đâu không?”

“Thằng ngốc vênh váo đó sao? Ngươi muốn gì ở hắn hả con đĩ? Nếu ngươi cần làm tình thì ta đàn ông hơn Massey nhiều.”

Lại con đĩ nữa à? Thật lạ khi đám đàn ông như Suggs hay dùng từ đó để miệt thị phụ nữ, trong khi đó là thứ mà bọn họ ai cũng thích. Suggs còn tệ hơn cả Liddle Giữa. Khi nói ra từ đó, hắn dùng nó theo đúng nghĩa đen. “Vua của ngươi thiến bất cứ kẻ nào phạm tội hãm hiếp đẩy,” cô nhắc.

Ser Clayton cười khúc khích. “Nhà vua nhìn vào lửa nhiều quá nên bị mù dở rồi. Nhưng đừng sợ, con đĩ ạ, ta sẽ không hiếp ngươi đâu. Ta muốn giết ngươi hơn, và ta thích nhìn ngươi bị thiêu đến chết.”

Lại là tiếng hí của con ngựa đó. “Ngươi có nghe thấy không?” “Nghe thấy cái gì?”

“Một con ngựa. Không, nhiều hơn một.” Cô nghiêng đầu nghe ngóng. Tuyết làm âm thanh trở nên méo mó. Rất khó để biết nó từ hướng nào vọng lại.

“Ngươi đùa đấy à, đồ con mực? Ta chẳng nghe…” Suggs quắc mắt. “Chết tiệt. Bọn kỵ binh.” Hắn lật đật sờ đai đeo kiếm, tay hắn vụng về trong đôi găng bằng da và lông thú, rồi cuối cùng hắn cũng rút được thanh trường kiếm ra khỏi bao.

Lúc này, các kỵ sĩ đã tiến tới trước mặt họ.

Họ xuất hiện trong cơn bão như một đám hồn ma, những người đàn ông to cao trên lưng những con ngựa nhỏ, và trông họ lại càng vĩ đại hơn trong đống da lông thú kềnh càng. Những thanh kiếm lủng lẳng bên hông, khẽ ca bài ca của thép khi chúng lạch cạch trong vỏ. Asha thấy một chiếc rìu chiến buộc trên yên ngựa của một người, một chiếc búa chiến trên lưng một người khác. Họ đem theo cả khiên, nhưng băng tuyết đã che hết các huy hiệu vẽ bên trên. Dù cuộn mình trong các lớp len, lông và da thuộc, Asha vẫn cảm giác trần trụi khi đứng đó. Một chiếc tù và, cô nghĩ, mình cần một chiếc tù và để đánh

 

thức doanh trại.

“Chạy đi, con đĩ ngu đần kia,” Ser Clayton quát. “Chạy đi báo cho nhà vua ngay. Lãnh chúa Bolton đang tấn công chúng ta,” Dù là kẻ cục súc, nhưng Suggs không thiếu lòng dũng cảm. Kiếm trong tay, hắn phăm phăm đi trong tuyết, đứng giữa đám kỵ binh và tháp của nhà vua, đèn hiệu trên tháp sáng le lói sau hắn như con mắt màu cam của một vị thần lạ lẫm. “Ai đấy? Đứng lại! Đứng lại!”

Tên kỵ binh đi đầu thắng cương ngựa trước mặt hắn. Phía sau anh ta là những người khác, có lẽ khoảng chừng một tá. Asha không có thời gian để đếm bọn họ. Có lẽ hàng trăm tên nữa đang ở ngoài kia trong cơn bão, và đang theo sát ngay sau gót họ. Toàn bộ đạo quân của Roose Bolton có lẽ đang bao vây họ, ẩn nấp trong bóng tối và mưa tuyết. Tuy nhiên, những người này…

Nếu là nhóm trinh sát thì quá đông, mà là đội quân tiên phong thì quá ít. Có hai người mặc đồ đen toàn thân. Đội Tuần Đêm, cô lập tức nhận ra. “Các người là ai?” cô hỏi.

“Những người bạn,” một giọng nói có phần quen thuộc vang lên. “Chúng tôi đi tìm mọi người ở Winterfell, nhưng chỉ thấy Umber Thức Ăn Quạ đang đánh trống thổi tù và. Phải mất một thời gian chúng tôi mới tìm được mọi người ở đây.” Tên kỵ sĩ nhảy xuống ngựa, cởi mũ và cúi chào. Râu anh ta quá dày và phủ đầy băng nên phải mất một lúc cô mới nhận ra đó là ai. “Tris à?” cô hỏi.

“Tiểu thư.” Tristifer Botley quỳ một gối. “Thiếu Nữ cũng ở đây. Roggon, Grimtongue, Fingers, Rook… sáu người chúng tôi, những kẻ còn đủ sức cưỡi ngựa. Cromm chết vì bị thương rồi.”

“Cái gì vậy?” Ser Clayton Suggs hỏi. “Các ngươi là người của cô ta à? Sao các ngươi lại trốn được khỏi hầm ngục của Deepwood thế?”

Tris đứng dậy và phủi tuyết trên quần. “Sybelle Glover được trả một khoản tiền hậu hĩnh, đổi lại chúng tôi sẽ được tự do. Và ông ta chấp nhận nó, dưới danh nghĩa nhà vua.”

 

 

“Tiền chuộc nào? Ai lại đi trả tiền để chuộc đám bọt biển các ngươi?”

“Là tôi đây, ser.” Người vừa nói tiến lên phía trước trên lưng con ngựa nhỏ. Ông ta rất cao, rất gầy, chân rất dài, đến nỗi cô cảm giác như nó không quết đất khi cưỡi ngựa đã là một kỳ tích. “Tôi cần một đội hộ tống đủ mạnh để đưa tôi an toàn đến gặp nhà vua, và phu nhân Sybelle đã có quá nhiều miệng ăn phải phục vụ rồi.” Một chiếc khăn che kín các đường nét trên mặt ông ta, nhưng đầu ông ta đội chiếc mũ kỳ cục nhất mà Asha từng nhìn thấy kể từ lần cuối cô tới Tyrosh, một chiếc mũ tháp không vành làm bằng vải mềm, giống như ba hình trụ xếp chồng lên nhau. “Tôi nghe nói có thể gặp vua Stannis ở đây. Tôi cần nói chuyện với ông ấy ngay lập tức.”

“Ngươi là tên quái nào vậy?”

Gã cao kều khẽ khàng trượt xuống từ lưng ngựa, bỏ chiếc mũ kỳ cục ra khỏi đầu và cúi chào. “Xin hân hạnh giới thiệu, tôi là Tycho Nestoris, một bầy tôi hèn mọn đến từ Ngân Hàng Sắt ở Braavos.”

Trong số tất cả những thứ kỳ lạ đột nhiên xuất hiện trong đêm, điều cuối cùng Asha Greyjoy có thể nghĩ đến là một phái viên ngân hàng ở Braavos. Nó quá đột ngột. Cô phá lên cười. “Vua Stannis đã lấy tháp canh làm chỗ ở. Ser Clayton chắc chắn sẽ rất vinh dự được đưa ông đến gặp nhà vua.”

“Vậy thì tốt quá. Thời gian rất quan trọng.” Phái viên ngân hàng nhìn cô bằng đôi mắt đen lanh lợi. “Nếu tôi không nhầm thì cô là tiểu thư Asha Nhà Greyjoy đúng không?”

“Đúng, tôi là Asha Nhà Greyjoy. Nhưng có phải tiểu thư không thì tùy thuộc vào ý kiến riêng của mỗi người.”

Người đàn ông Braavos mỉm cười. “Chúng tôi đem một món quà đến cho cô.” Ông ta vẫy người đàn ông đứng phía sau. “Chúng ta cứ tưởng sẽ gặp được nhà vua ở Winterfell. Nhưng chính cơn bão tuyết này đã nuốt chửng cả tòa lâu đài, chao ôi. Đằng sau tường thành ở đó, chúng ta tìm thấy Mors Umber cùng một đội quân toàn các cậu bé xanh non, đang đợi nhà vua đến.

 

Ông ta giao cho tôi thứ này.”

Một cô gái và một ông già, Asha nghĩ khi hai người bị vứt sỗ sàng xuống tuyết trước mặt cô. Cô gái đang run cầm cập, ngay cả khi có lông thú bọc quanh người. Nếu không quá sợ hãi đến như vậy thì trông cô ta cũng khá xinh đẹp, dù đầu mũi đã đen lại vì tê cóng. Ông già… không ai có thể nghĩ ông ta đẹp. Cô thấy bù nhìn còn có nhiều da thịt hơn ông ta. Mặt ông ta là một chiếc đầu lâu bọc da bên ngoài, tóc bạc trắng và bẩn thỉu. Và ông ta bốc mùi hôi thối. Chỉ hình ảnh của ông ta thôi cũng khiến Asha khiếp sợ.

Ông già ngước mắt nhìn lên. “Chị. Thấy chưa. Lần này em nhận ra chị rồi nhé.”

Tim Asha ngừng đập một nhịp. “Theon à?”

Gã định nhe răng cười, nhưng môi dính lại với nhau. Một nửa hàm răng gã đã mất, còn một nửa chúng để lại cho gã cũng sứt mẻ và vỡ vụn. “Theon,” gã nhắc lại. “Tên em là Theon. Ai cũng phải biết tên mình chứ.”

 

About The Author

Ngo David

Power is Power