Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng

Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Cẩm Chi

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

 

Tormund Giantsbane không hề cao lớn, nhưng các vị thần cho hắn khuôn ngực rộng và cái bụng khổng lồ. Mance Rayder đặt tên cho hắn là Tormund Người Thổi Tù Và vì phổi hắn cực khỏe, và thường nói rằng Tormund có thể cười bay tuyết trên đỉnh núi. Trong cơn thịnh nộ, tiếng gầm của hắn khiến Jon nhớ đến tiếng rống của voi ma mút.

Hôm đó Tormund la hét nhiều hơn và to hơn. Hắn rống, hắn gào thét, hắn đấm lên bàn mạnh đến nỗi một vò rượu bị lật, đổ hết ra ngoài. Trên tay hắn luôn có một cốc rượu mật ong, vò thế nước dãi hắn bắn ra khi dọa nạt cũng ngọt như mật. Hắn gọi Jon Snow là đồ hèn, đồ dối trá và phản bội, chửi anh là kẻ quỳ gối tim đen chó chết, là kẻ trộm, là con quạ thối tha, buộc anh tội bắt chẹt dân du mục. Hắn hai lần ném cốc rượu vào đầu Jon, tất nhiên là sau khi đã uống cạn rượu bên trong. Tormund không phải kiểu người dễ dàng lãng phí rượu mật ong hảo hạng. Jon bỏ ngoài tai những lời đó. Anh không bao giờ lên giọng hay đáp trả những lời đe dọa bằng đe dọa, nhưng anh cũng không nhượng bộ nhiều hơn những gì đã chuẩn bị sẵn từ trước.

Cuối cùng, khi bóng chiều đổ dài bên ngoài trại, Tormund Giantsbane – Cao Kều Ba Hoa, Người Thổi Tù Và, Người Phá Vỡ Mạn Thuyền, Tormund Nắm Đấm Sấm Sét, Chồng của Gấu, Vua Rượu Mật Ong của Sảnh Ruddy, Người Phát Ngôn của Thần Linh và Cha của Quỷ Dữ – mới giơ tay ra. “Xong rồi nhé. Hy vọng các vị thần lượng thứ cho ta. Nhưng ta biết hàng trăm bà mẹ sẽ không bao giờ tha thứ.”

Jon vỗ vào bàn tay hắn. Lời tuyên thệ vang lên trong đầu anh. Ta là thanh kiếm trong bóng đêm. Ta là người canh gác những bức tường thành. Ta là ngọn lửa xua tan băng giá, là ánh sáng gọi bình minh, là chiếc tù và đánh thức người say ngủ, là tấm khiên bảo vệ vương quốc loài người. Và riêng anh còn có thêm một đoạn điệp khúc mới: Ta là tên lính canh đã mở cổng thành cho kẻ địch tràn qua. Anh ước mình đã suy nghĩ kỹ hơn để biết chắc những việc anh làm là sai hay đúng. Nhưng anh đã đi quá xa để quay đầu lại. “Tất cả đã xong,” anh nói.

Cái nắm tay của Tormund chặt đến nỗi anh suýt gãy xương. Nét đó ở hắn vẫn

 

chưa thay đổi. Bộ râu vẫn y như cũ, dù khuôn mặt bên dưới lớp râu trắng đó đã gầy hơn trước rất nhiều, và trên hai gò má hồng hào kia đã in những vết hằn sâu. “Lẽ ra Mance nên giết ngươi khi ông ta có cơ hội,” hắn nói khi cố hết sức biến tay Jon thành một đống xương và bột nhão. “Vàng đổi lấy cháo, cả các cậu bé nữa… một sự đổi chác quá tàn nhẫn. Điều gì đã xảy ra với chàng trai đáng yêu mà ta từng biết vậy?”

Họ phong cậu ta làm tướng chỉ huy. “Ta từng nghe nói một cuộc đổi chác công bằng thường khiến cả hai bên không hài lòng. Ba ngày đúng không nhỉ?”

“Nếu ta sống được đến lúc đó. Một số người của ta sẽ phỉ nhổ vào ta nếu họ nghe được những điều khoản này.” Tormund thả tay Jon ra. “Đám quạ của ngươi cũng sẽ càu nhàu, nếu ta hiểu đúng về chúng. Và tất nhiên là ta hiểu chúng. Ta đã giết lũ khốn áo đen của ngươi nhiều đến mức không đếm xuể rồi.”

“Tốt nhất đừng to mồm nhắc đến chuyện đó khi ngươi ở phía nam Tường Thành.”

“Ha!” Tormund cười phá lên. Cái điệu đó cũng không thay đổi; hắn vẫn dễ cười và hay cười như trước. “Nói hay lắm! Ta sẽ không để lũ quạ các ngươi mổ chết đâu.” Hắn vỗ vai Jon. “Khi nào tất cả dân du mục của ta được an toàn đằng sau Tường Thành của ngươi, chia sẻ thịt và rượu mật ong với nhau… Đến khi đó…” Gã du mục tháo chiếc băng đeo tay bên trái và ném nó về phía Jon, sau đó làm tương tự với chiếc bên phải. “Trả cho ngươi món đầu tiên này. Ta thừa kế nó từ cha ta, cha ta thừa kế từ ông nội. Giờ chúng là của ngươi, thằng con hoang áo đen trộm cắp.” Hai chiếc băng tay làm bằng vàng cổ, đặc và nặng trịch, bên trên chạm trổ chữ rune cổ của Tiền Nhân. Kể từ khi Jon biết hắn, Tormund Giantsbane đã luôn đeo chúng; dường như chúng cũng là một phần cơ thể giống như bộ râu của hắn vậy. “Người Braavos sẽ nấu chảy chúng để lấy vàng. Nếu vậy thì sẽ thật đáng tiếc. Có lẽ ngươi nên giữ chúng thì hơn.”

“Không. Ta sẽ không để người đời nói rằng Tormund Nắm Đấm Sấm Sét bắt cư dân tự do từ bỏ của cải của họ, trong khi hắn giữ lại đồ của riêng mình.”

 

Hắn nhe răng cười. “Nhưng ta sẽ giữ lại chiếc nhẫn đeo trên của quý của ta. Nó to hơn mấy món đồ nhỏ xíu đó nhiều. Với ngươi nó sẽ trông như vòng cổ ấy.”

Jon không thể nhịn cưới. “Đúng là ngươi chẳng thay đổi gì.”

“À, có chứ.” Nụ cười tan biến như tuyết mùa hè. “Ta không còn là người đàn ông trước kia khi ở sảnh Ruddy nữa. Ta đã chứng kiến quá nhiều người chết, và cả những thứ tệ hơn nữa. Các con trai ta…” vẻ đau khổ làm mặt Tormund méo mó. “Dormund bị chém chết trong trận tấn công Tường Thành, và nó vẫn còn chưa qua tuổi thiếu niên. Một hiệp sĩ của nhà vua các ngươi đã giết nó, một thằng khốn trong bộ giáp màu xám với hình con nhậy trên khiên. Ta chứng kiến nó bị chém, nhưng con ta đã chết trước khi ta kịp nhào tới. Còn Torwynd… cái lạnh đã đem nó đi mất. Thằng bé đó lúc nào cũng yếu ớt. Và đến một đêm, nó đã không qua khỏi. Tệ hơn là khi chúng ta còn chưa phát hiện ra cái chết của thằng bé, nó đã tỉnh dậy với đôi mắt xanh lè và da dẻ trắng toát. Chính mắt ta phải chứng kiến toàn bộ. Thực sự rất khắc nghiệt, Jon ạ.” Nước mắt long lanh đầy lên trong mắt hắn. “Thực tình mà nói thằng bé chưa phải một người đàn ông trưởng thành nhưng nó là đứa con trai bé bỏng của ta, và ta yêu nó.”

Jon đặt một tay lên vai hắn. “Ta rất tiếc.”

“Tại sao? Đâu phải lỗi của ngươi. Dù rằng tay ngươi cũng vấy máu như ta thôi. Nhưng không phải máu của thằng bé.” Tormund lắc đầu. “Tuy nhiên, ta vẫn còn hai cậu con trai khỏe mạnh.”

“Thế còn con gái… ?”

“Munda.” Nụ cười trở lại trên môi Tormund. “Nó lấy tên Ryk Giáo Dài làm chồng rồi. Phải thừa nhận đó là một tên hữu dũng vô mưu, nhưng hắn đối xử tốt với con bé. Nếu hắn làm đau con bé, ta sẽ giật đứt của quý của hắn và dùng nó đánh hắn nhừ tử.” Tormund vỗ vai Jon thân mật một lần nữa. “Đến lúc ngươi phải trở về rồi. Giữ ngươi ở lại lâu hơn, bọn chúng lại nghĩ chúng ta ăn thịt ngươi rồi cũng nên.”

 

“Vậy thì bình minh nhé. Ba ngày nữa, bắt đầu từ hôm nay. Các cậu nhóc trước.”

“Ta đã nghe ngươi nói mười lần rồi, quạ ạ. Người ta sẽ nghĩ chúng ta không tin tưởng nhau.” Hắn nhổ bọt. “Đúng, các cậu bé trước. Ma mút sẽ đi đường vòng xa hơn. Ngươi phải chắc chắn Trạm Đông sẽ chào đón họ. Còn ta đảm bảo không đánh nhau, không tấn công vào cánh cổng chết tiệt của ngươi.

Chúng ta sẽ đi ngay hàng thẳng lối, nối đuôi nhau như một bầy vịt con. Và ta là vịt mẹ. Haha!” Tormund tiễn Jon ra khỏi lều.

Bên ngoài, trời sáng sủa không một gợn mây. Mặt trời đã quay trở lại sau nửa tháng đi vắng, và phía nam, Tường Thành trắng xanh nhô cao lấp lánh trong ánh nắng. Có một câu nói Jon từng nghe từ những người già ở Hắc Thành, đó là: tâm trạng của Tường Thành còn bất thường hơn cả Vua Điên Aerys, hoặc đôi khi là, tâm trạng của Tường Thành còn bất thường hơn cả phụ nữ. Vào những ngày nhiều mây, trông nó như đá trắng. Vào những đêm không trăng, nó có màu đen như than. Trong cơn bão, dường như bức tường được tạc từ tuyết. Nhưng trong những ngày như thế này, người ta không thể gọi nó là thứ gì khác, ngoài băng. Vào những ngày như thế này, Tường Thành sáng lên lấp lánh như pha lê của một septon, mỗi vết nứt nẻ được ánh mặt trời tô đậm, trong khi cầu vồng nhảy nhót và nhạt dần đằng sau những gợn mây lăn tăn trong vắt. Vào những ngày như thế này, Tường Thành tuyệt đẹp.

Con trai cả của Tormund đứng gần bầy ngựa và đang nói chuyện với Leathers. Toregg Cao, cư dân du mục gọi cậu ta như vậy. Dù chỉ cao hơn Leathers chưa đến hai phân rưỡi, nhưng cậu ta vẫn cao hơn cha khoảng 30 phân. Hareth, cậu nhóc vạm vỡ ở Thị Trấn Chuột Chũi mà các anh em gọi là Ngựa, đang chúi đầu bên ngọn lửa, quay lưng về phía hai người còn lại. Jon chỉ mang theo mỗi cậu ta và Leathers đến cuộc hòa đàm; nhiều hơn sẽ bị coi là dấu hiệu của sợ hãi, và hai mươi người cũng chẳng có lợi hơn hai người là bao nếu Tormund muốn đổ máu. Jon chỉ cần duy nhất sự bảo vệ của Bóng Ma; con sói tuyết có thể đánh hơi được kẻ thù, ngay cả những kẻ che giấu được dã tâm đằng sau những nụ cười.

Tuy nhiên, Bóng Ma không ở đó. Jon lột một chiếc găng tay đen, cho hai ngón tay vào miệng và huýt. “Bóng Ma! Lại đây với tao!”

 

 

Từ trên cao, tiếng đập cánh vang lên. Con quạ của Mormont bay từ một cành sồi già xuống đậu trên yên ngựa của Jon. “Ngô,” nó hét lên. “Ngô, ngô, ngô.”

“Mày cũng đi theo tao à?” Jon với tay định xua con quạ đi, nhưng thay vào đó lại vuốt lông nó. Con quạ hếch mắt lên nhìn anh. “Snow,” nó lẩm bẩm và gật gù cái đầu vẻ ranh mãnh. Sau đó Bóng Ma xuất hiện giữa hai thân cây với Val bên cạnh.

Trông họ như thể thuộc về nhau. Val mặc toàn màu trắng; quần ống túm len trắng nhét vào trong đôi bốt cao bằng da tẩy trắng, áo choàng da gấu trắng, ghim cài trên vai hình khuôn mặt khắc trên gỗ đước, áo dài chùng trắng có khuy cài bằng xương. Hơi thở của cô cũng trắng… nhưng hai mắt cô màu xanh dương, mái tóc tết dài màu đậm hơn mật ong, và hai má cô đỏ ửng lên vì lạnh. Đã lâu lắm rồi Jon Snow chưa được nhìn thấy cảnh tượng nào đáng yêu như vậy.

“Cô định cố ăn cắp con sói của tôi đấy à?” Anh hỏi.

“Tại sao không chứ? Nếu mỗi phụ nữ có một con sói tuyết bên mình thì đàn ông sẽ ngọt ngào hơn nhiều. Ngay cả quạ cũng vậy.”

“Ha!” Tormund Giantsbane cười phá lên. “Đừng đấu khẩu với cô ta, Lãnh chúa Snow, cô ta quá thông minh nên những kẻ như ta và ngươi không đấu lại được đâu. Đánh cắp cô ta nhanh lên, trước khi Toregg tỉnh ra và chiếm cô ta trước.”

Gã đần Axell Florent nói gì về Val ấy nhỉ? Một cô gái khêu gợi, dễ nhìn. Hông đẹp, ngực đẹp, thân hình phù hợp để sinh con. Tất cả đều đúng, nhưng người phụ nữ du mục này còn hơn cả như vậy. Cô ấy đã chứng minh được điều đó bằng cách tìm thấy Tormund khi các lính biệt kích dày dạn của Đội Tuần Đêm không làm được. Tuy không phải công chúa, nhưng cô ấy sẽ là một người vợ xứng đáng cho bất kỳ lãnh chúa nào.

Nhưng cây cầu đó đã bị đốt lâu rồi, và chính Jon là người tự tay châm đuốc. “Toregg cứ việc thoải mái với cô ấy,” anh tuyên bố. “Ta đã nói lời tuyên thệ

 

rồi.”

“Cô ấy sẽ không phiền chứ. Cô có đồng ý không, cô gái?”

Val vỗ vào con dao dài bằng xương bên hông. “Lãnh chúa Quạ cứ việc lẻn vào giường ta đêm nào cũng được, nếu anh ta dám. Khi bị thiến rồi, anh ta sẽ dễ dàng giữ vững lời tuyên thệ hơn.”

“Ha!” Tormund khịt mũi lần nữa. “Con nghe thấy chưa, Toregg? Tránh xa cô ả ra. Ta có một đứa con gái rồi, không cần thêm đứa nữa đâu.” Thủ lĩnh du mục lắc đầu và chui vào lại trong lều.

Khi Jon gãi sau tai Bóng Ma, Toregg đem con ngựa của Val đến cho cô. Cô vẫn cưỡi con ngựa xám nhỏ mà Mully chuẩn bị cho cô ngày cô rời Tường Thành, một con vật bờm xờm, còi cọc và bị mù một mắt. Khi quay ngựa hướng về Tường Thành, cô hỏi, “Con quái vật nhỏ thế nào rồi?”

“Lớn gấp đôi hồi cô rời đi, và to mồm gấp ba lần. Mỗi khi nó đòi sữa, cô có thể nghe thấy tiếng khóc của nó từ Trạm Đông.” Jon cưỡi lên con ngựa của mình.

Val thúc ngựa đi bên cạnh anh. “Vậy là… tôi đã đem Tormund về cho anh, đúng như lời hứa. Bây giờ thì sao? Tôi lại trở về căn ngục cũ à?”

“Ngục của cô bị chiếm rồi. Hoàng hậu Selyse đã giành lấy Tháp Vương cho riêng mình. Cô còn nhớ Tháp Hardin không?”

“Cái tháp trông như sắp sập đó à?”

“Trông nó vẫn vậy từ hàng trăm năm nay rồi. Tôi đã cho người chuẩn bị tầng trên cùng cho cô. Cô sẽ có nhiều không gian hơn so với khi ở Tháp Vương, tuy nhiên sẽ không thoải mái bằng. Chưa ai gọi nó là Cung điện Hardin cả.”

“Tôi sẽ luôn chọn tự do thay vì thoải mái.”

“Cô sẽ có tự do trong tòa lâu đài, nhưng tôi rất tiếc phải nói rằng cô vẫn là tù

 

binh. Tuy nhiên, tôi hứa cô sẽ không bị kẻ nào quấy nhiễu. Người của tôi canh gác Tháp Hardin, không phải người của hoàng hậu. Và Wun Wun ngủ ngay ở lối ra vào.”

“Dùng người khổng lồ làm bảo vệ à? Ngay cả Dalla cũng không dám khoác lác như vậy.”

Đám dân du mục của Tormund nhìn họ đi qua, ló mặt ra từ những chiếc lều và lán trại bên dưới những thân cây khẳng khiu trụi lá. Với mỗi một người trong độ tuổi chiến đấu, Jon lại thấy ba phụ nữ và từng đó trẻ em, những khuôn mặt gầy gò với gò má hóp và đôi mắt nhìn không chớp. Khi Mance Rayder đưa đội quân tiến đánh Tường Thành, những người đi theo hắn lùa theo những đàn cừu, dê và lợn vĩ đại, nhưng giờ, loài động vật duy nhất còn lại quanh đây là ma mút. Anh dám chắc nếu không phải vì sự dữ tợn của người khổng lồ thì chúng cũng đã bị giết thịt rồi. Ma mút có rất nhiều thịt.

Jon cũng thấy những dấu hiệu của bệnh tật và ốm yếu. Điều đó khiến anh lo lắng đến mức không thể nói thành lời. Nếu đội quân của Tormund đói khát và bệnh tật như vậy thì hàng nghìn người đi theo Mẹ Chuột Chũi tới Hardhome còn thê thảm tới mức nào? Cotter Pyke sẽ sớm tới đó thôi. Nếu hướng gió thuận lợi, giờ này đoàn thuyền của ông ấy chắc đang trên đường quay lại Trạm Đông, và chở theo nhiều cư dân tự do hết mức có thể.

“Cuộc thương lượng của anh với Tormund thế nào rồi?” Val hỏi.

“Một năm nữa hãy hỏi lại tôi nhé. Phần khó khăn vẫn đang ở trước mắt. Đó là tôi phải thuyết phục người của chính mình ăn bữa cơm tôi vừa nấu cho họ.

Tôi e là sẽ chẳng ai trong số họ thích mùi vị của nó đâu.” “Để tôi giúp.”

“Cô giúp rồi đó thôi. Cô đã đưa Tormund về.”

“Tôi có thể làm nhiều hơn thế.” Ừ, tại sao không nhỉ? Jon nghĩ. Họ đều tin rằng cô ấy là công chúa. Val trông cũng giống công chúa thật, và cô ấy cưỡi ngựa như thể được sinh ra trên lưng ngựa. Một công chúa chiến binh, anh

 

nghĩ, chứ không phải một cô nàng yểu điệu thướt tha, ngồi chải tóc trên đỉnh tháp và chờ đợi một kỵ sĩ nào đó đến giải cứu. “Tôi phải báo cho hoàng hậu về thỏa thuận này,” anh nói. “Cô có thể đến gặp bà ấy, nếu cô chấp nhận quỳ gối.” Không nên xúc phạm hoàng hậu khi anh còn chưa kịp mở miệng nói lời nào.

“Tôi có được cười khi quỳ gối không?”

“Chắc là không. Đây không phải trò đùa. Một dòng sông máu chảy giữa chúng ta, cổ xưa, sâu thẳm và đỏ rực. Stannis Baratheon là một trong số ít những người cho phép dân du mục vào bên trong vương quốc. Tôi cần nhận được sự ủng hộ của hoàng hậu đối với những gì tôi vừa làm.”

Nụ cười tinh nghịch của Val tắt ngấm. “Tôi hứa với anh, Lãnh chúa Snow. Tôi sẽ là một công chúa du mục thực sự trước mặt hoàng hậu của anh.”

Bà ta không phải hoàng hậu của tôi, anh định nói như vậy. Thực tình mà nói, anh chỉ mong ngày bà ta rời đi từng giây từng phút. Và nếu các vị thần tốt bụng, bà ta sẽ đem theo cả Melisandre nữa.

Suốt quãng đường còn lại, họ cưỡi ngựa đi trong im lặng, Bóng Ma chạy lẽo đẽo dưới chân. Con quạ của Mormont theo họ ra đến cổng, sau đó đập cánh bay lên khi bọn họ xuống ngựa. Ngựa đi lên phía trên, tay cầm khúc củi cháy dở để thắp sáng lối đi trong đường hầm đóng băng.

Một nhóm nhỏ các anh em áo đen đang đợi ở cổng khi Jon cùng hai người hộ tống xuất hiện phía nam Tường Thành. Trong số họ có Ulmer của hội Anh Em Rừng Vương, và cung thủ già tiến lên phía trước để nói thay cho tất cả mọi người “Thưa lãnh chúa, các cậu nhóc đang đặt ra nhiều câu hỏi đấy ạ.

Liệu có hòa bình không, thưa ngài? Hay là máu và sắt?”

“Hòa bình,” Jon Snow trả lời. “Ba ngày nữa, Tormund Giantsbane sẽ dẫn người của hắn vượt qua Tường Thành. Như những người bạn chứ không phải kẻ thù. Một số người thậm chí sẽ còn gia nhập với anh em chúng ta. Chúng ta sẽ phải sẵn sàng chào đón họ. Giờ thì quay lại với nhiệm vụ của mọi người đi.” Jon đưa cương ngựa cho Sa-tanh. “Ta phải gặp hoàng hậu Selyse.” Bà ta

 

sẽ coi đó là sự khinh thường nếu anh không chịu đến gặp bà ngay lập tức. “Sau đó ta sẽ phải viết một lá thư. Đem giấy da, bút lông và một lọ mực đen của học sĩ vào phòng cho ta. Sau đó triệu tập Marsh, Yarwyck, Septon Cellador và Clydas.” Cellador chắc đang nửa say nửa tỉnh, còn Clydas là sự thay thế tồi tệ cho một học sĩ thực thụ, nhưng đó là tất cả những gì anh có.

Cho đến khi Sam trở về. “Người phương bắc nữa. Flint và Norrey. Leathers, anh cũng nên có mặt ở đó.”

“Hobb đang nướng bánh hành,” Sa-tanh nói. “Tôi có nên yêu cầu tất cả bọn họ đến ăn bữa tối với ngài không?” Jon suy nghĩ một lúc. “Không. Bảo họ hãy lên đỉnh Tường Thành lúc hoàng hôn để gặp ta.” Anh quay về phía Val. “Tiểu thư. Hãy đi cùng tôi!”

“Con quạ đã ra lệnh, tù binh phải nghe lời thôi.” Cô nói, giọng vui đùa. “Hoàng hậu của anh chắc phải dữ tợn lắm nhỉ, nên đàn ông trưởng thành mới bủn rủn khụy gối xuống như vậy mỗi khi gặp bà ta chứ. Tôi có nên mặc giáp xích thay vì len và lông thú không? Quần áo này là của Dalla cho tôi, tôi không muốn máu bắn tung tóe lên chúng đâu.”

“Nếu lời lẽ có thể làm chảy máu thì đúng là cô có lý do để sợ hãi. Tôi nghĩ quần áo của cô sẽ được an toàn, tiểu thư ạ.”

Họ lên đường tới Tháp Vương trên một lối mòn nhỏ mới được dọn sạch tuyết, hai bên đường là những đống tuyết bẩn. “Tôi nghe nói hoàng hậu của anh có bộ râu bờm xờm đen nhánh.”

Jon biết anh không nên cười, nhưng anh không thể cưỡng lại được. “Chỉ có chút ria mép thôi. Nhưng rất thưa. Cô có thể gọi chúng là lông.”

“Thất vọng quá!”

Dù nói đi nói lại về việc muốn trở thành chủ nhân của dinh thự mới, Selyse Baratheon có vẻ như không hề vội vàng từ bỏ sự thoải mái ở Hắc Thành để đến với bóng tối ở Pháo Đài Đêm. Tất nhiên bà có lính canh – bốn người giữ cửa, hai người phía ngoài trên bậc cầu thang, hai người bên trong đứng cạnh lò than. Chỉ huy họ là Ser Patrek vùng Núi Vương trong bộ trang phục hiệp sĩ

 

màu trắng, xanh da trời và bạc. Áo choàng của anh ta tung tóe hình các ngôi sao năm cánh. Khi đứng trước Val, viên hiệp sĩ quỳ một gối và hôn lên găng tay của cô. “Trông cô xinh đẹp hơn cả những lời đồn đại, thưa công chúa,” anh ta tuyên bố. “Hoàng hậu cũng kể cho tôi rất nhiều về vẻ đẹp của cô.”

“Sao lạ vậy? Bà ấy còn chưa gặp tôi mà.” Val vỗ nhẹ lên đầu Ser Patrek. “Đứng lên đi nào, ser quỳ gối! Đứng lên, đứng lên!” Giọng điệu của cô ấy nghe như đang nói chuyện với một con chó vậy.

Jon phải cố hết sức mới không phá lên cười. Giữ bộ mặt nghiêm nghị, anh nói với viên hiệp sĩ rằng anh muốn diện kiến hoàng hậu. Ser Patrek cho một kỵ binh hạng nặng trèo cầu thang lên hởi xem hoàng hậu có muốn gặp họ hay không. “Nhưng con sói phải ở lại đây,” Ser Patrek khăng khăng.

Jon đã lường trước điều đó. Con sói làm hoàng hậu Selyse lo lắng, không kém Wun Weg Wun Dar Wun là bao. “Bóng Ma, ở lại đây nhé.”

Họ thấy hoàng hậu đang ngồi khâu vá bên ngọn lửa, trong khi tên hề của bà ta nhảy múa vòng quanh với những tiếng nhạc mà chỉ hắn mới nghe nổi, chuông bò treo trên những chiếc gạc kêu leng keng. “Con quạ con quạ,” Mặt Sẹo kêu to khi nhìn thấy Jon. “Dưới biển, lũ quạ trắng như tuyết, ta biết, ta biết, ồ ố ô.” Công chúa Shireen đang cuộn tròn trên một chiếc ghế bên cửa sổ, chiếc mũ trùm đầu kéo lên che nơi vảy xám làm mặt cô bé biến dạng kinh khủng nhất.

Không có dấu vết gì của Quý cô Melisandre. Jon thở phào nhẹ nhõm. Sớm hay muộn anh cũng sẽ phải đối mặt với nữ tu đỏ, nhưng anh không muốn gặp cả hoàng hậu và cô ta cùng một lúc. “Thưa hoàng hậu.” Anh quỳ một gối. Và Val làm theo.

Hoàng hậu Selyse để đống đồ may vá sang một bên. “Đứng lên đi!”

“Nếu hoàng hậu cho phép, thần xin được giói thiệu tiểu thư Val. Dalla chị cô ấy là…”

“… mẹ của thằng nhóc to mồm vẫn làm chúng ta thức giấc mỗi đêm. Ta biết

 

cô ta là ai rồi, Lãnh chúa Snow.” Hoàng hậu khịt mũi. “Thật may cho ngươi là cô ấy trở về trước chồng ta, nếu không ngươi sẽ gặp rắc rối lớn. Thực sự là cực lớn đấy.”

“Cô là công chúa du mục à?” Shireen hỏi Val.

“Vài người gọi tôi như vậy,” Val nói. “Chị tôi là vợ của Mance Rayder, Vị- Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành. Chị ấy chết khi sinh con cho ông ấy.”

“Tôi cũng là công chúa,” Shireen tuyên bố, “nhưng tôi không có chị gái. Tôi từng có một người anh họ, nhưng anh ấy lên thuyền và đi rồi. Anh ấy chỉ là con hoang, nhưng tôi thích anh ấy.”

“Shireen,” mẹ cô bé nói. “Mẹ dám chắc tướng chỉ huy không đến đây để nghe con nói về nghiệp chướng của Robert đâu. Mặt Sẹo, làm một tên ngốc ngoan ngoãn và đưa công chúa về phòng đi nào.”

Chuông trên người hắn leng keng. “Đi xa, đi xa,” tên hề hát, “Đi với ta xuống lòng biển, đi xa, đi xa, đi xa.” Hắn vừa nhảy cóc vừa nắm tay công chúa nhỏ và kéo cô bé về phòng.

Jon nói, “Thưa hoàng hậu, thủ lĩnh của dân du mục đã đồng ý với những điều khoản của thần.”

Hoàng hậu Selyse gật đầu rất khẽ. “Chồng ta luôn muốn cho đám người man rợ này một nơi ẩn náu. Chỉ cần giữ vững nền hòa bình cho nhà vua và tuân theo luật pháp của nhà vua, họ sẽ được chào đón ở vương quốc của chúng ta.” Bà ta bặm môi. “Nghe nói họ có nhiều người khổng lồ hơn đi cùng.”

Val trả lời. “Gần hai trăm, thưa hoàng hậu. Và hơn tám mươi con ma mút.”

Hoàng hậu rùng mình. “Những sinh vật đáng sợ.” Jon không biết bà ta đang nói đến những con voi ma mút hay người khổng lồ. “Tuy nhiên, những con vật đó có thể có ích cho chồng ta trên chiến trường.”

“Có thể như vậy, thưa hoàng hậu,” Jon nói, “nhưng lũ ma mút quá to nên

 

không thể đi qua cổng thành của chúng ta.” “Không làm cho cổng to hơn được nữa à?”

“Như vậy… thần nghĩ đó không phải là ý kiến hay.”

Selyse khụt khịt. “Nếu ngươi nghĩ vậy. Chắc chắn ngươi biết về những chuyện đó rõ hơn ta. Thế ngươi định cho đám dân du mục này ở đâu? Chắc chắn Thị Trấn Chuột Chũi không đủ rộng để chứa… họ có bao nhiêu người ấy nhỉ?”

“Bốn nghìn, thưa hoàng hậu. Họ sẽ giúp chúng ta đóng quân trong các tòa lâu đài bỏ hoang, giúp bảo vệ Tường Thành tốt hơn.”

“Theo những gì ta được nghe thì mấy tòa lâu đài đó đều đổ nát hết rồi. Những nơi ảm đạm, hoang vu và lạnh lẽo, hầu như chẳng hơn gì đống gạch vụn. Ở Trạm Đông chúng ta còn nghe nói có chuột và nhện nữa.”

Giờ này, chắc chắn cái lạnh đã giết hết lũ nhện rồi, Jon nghĩ, và chuột có thể là một nguồn thực phẩm hữu ích cho mùa đông. “Tất cả đều đúng, thưa hoàng hậu… nhưng ngay cả những đống đổ nát cũng là nơi trú ẩn. Và Tường Thành sẽ đứng giữa họ và bọn Ngoại Nhân.”

“Ta thấy có vẻ ngươi đã xem xét chuyện này rất kỹ, Lãnh chúa Snow. Ta chắc chắn vua Stannis sẽ hài lòng khi ông thắng trận trở về.”

Đó là nếu ông ấy trở về. “Tất nhiên,” hoàng hậu tiếp tục, “đám du mục sẽ phải nhận Stannis làm vua và R’hllor làm vị thần của mình.”

Đây rồi, cuối cùng chúng ta đã đối mặt nhau trên con đường hẹp. “Hoàng hậu, xin người thứ lỗi. Đó không phải là những điều khoản mà chúng thần trao đổi.”

Mặt nữ hoàng đanh lại. “Một sơ suất tai hại.” Chút ấm áp ít ỏi trong giọng nói của bà lập tức biến mất toàn bộ.

 

“Cư dân tự do không quỳ gối,” Val nói với bà ta. “Vậy thì họ càng phải quỳ,” hoàng hậu tuyên bố.

“Người cứ thử làm thế xem, và chúng tôi sẽ nổi dậy một lần nữa ngay khi cơ hội đầu tiên xuất hiện,” Val hứa hẹn. “Nổi dậy với đao kiếm trong tay.”

Môi hoàng hậu mím lại, và cằm bà ta khẽ rung lên. “Ngươi thật xấc láo! Ta nghĩ chỉ có bọn du mục mới hành xử như vậy. Chúng ta phải nhanh chóng tìm cho ngươi một người chồng để hắn dạy ngươi thế nào là lịch sự.” Hoàng hậu quay đầu và nhìn về phía Jon. “Ta không đồng ý, tướng chỉ huy. Cả chồng ta cũng vậy. Ta không thể cản ngươi mở cổng thành, cả hai chúng ta đều hiểu rõ, nhưng ta dám chắc ngươi sẽ phải trả lời cho chuyện này một khi nhà vua trở về từ chiến trận. Có thể ngươi sẽ muốn suy nghĩ lại đấy.”

“Thưa hoàng hậu.” Jon quỳ lần nữa. Lần này Val không làm theo. “Thần xin lỗi vì các hành động của thần khiến người không hài lòng. Thần làm những gì thần cho là tốt nhất. Giờ thần được phép đi chưa?”

“Đi đi, ngay lập tức!”

Khi đã ra ngoài và tránh xa khỏi hoàng hậu, Val bắt đầu xả cơn giận của mình. “Anh nói dối về bộ râu của bà ta. Râu trên cằm bà ta còn rậm hơn cả lông giữa hai chân tôi nữa. Và đứa con gái… mặt con bé…”

“Do bệnh vảy xám đấy.”

“Chúng tôi gọi đó là cái chết màu xám.”

“Ở trẻ em, đó không phải lúc nào cũng là căn bệnh chết người.”

“Nhưng ở phía bắc Tường Thành thì đúng như vậy. Cây cần độc dược là giải pháp tốt nhất, nhưng một cái gối hoặc một nhát kiếm cũng có tác dụng không kém. Nếu là mẹ của đứa trẻ đáng thương như vậy thì tôi đã trao cho nó món quà ân huệ từ lâu rồi.”

 

Đây là một Val mà Jon chưa từng thấy bao giờ. “Công chúa Shireen là đứa con duy nhất của hoàng hậu.”

“Tôi thấy đáng thương cho cả hai người họ. Đứa trẻ đó không sạch bệnh.”

“Nếu Stannis thắng trong cuộc chiến này, Shireen sẽ là người thừa kế Ngai Sắt.”

“Vậy thì tôi thấy đáng thương cho Bảy Phụ Quốc của anh.” “Các học sĩ nói bệnh vảy xám không…”

“Các học sĩ cứ việc tin vào những gì họ muốn tin. Nếu muốn biết sự thật, hãy hỏi các phù thủy rừng rậm ấy. Cái chết xám chỉ ngủ thôi, và nó sẽ tỉnh dậy.

Đứa trẻ đó không sạch bệnh!”

“Cô bé có vẻ rất đáng yêu. Cô không thể biết…”

“Tôi biết. Anh chẳng biết gì, Jon Snow ạ.” Val nắm lấy cánh tay anh. “Tôi muốn đưa con quái vật ra khỏi đó. Thằng bé và vú em của nó. Anh không thể để họ ở chung tòa tháp với một đứa con gái đã chết được.”

Jon giật tay cô ra. “Con bé chưa chết.”

“Nó chết rồi. Mẹ nó không nhìn ra thôi. Dường như cả anh cũng vậy. Nhưng cái chết đã ở đó.” Cô bước nhanh lên trên, sau đó quay lại. “Tôi đã đem Tormund Giantsbane về cho anh. Hãy đem quái vật về cho tôi.”

“Tôi sẽ làm nếu có thể.”

“Anh phải làm. Anh nợ tôi một món nợ, Jon Snow.” Jon nhìn cô sải bước. Cô ấy sai rồi. Chắc chắn cô ấy sai rồi. Vảy xám không phải là căn bệnh chết người ở trẻ em.

Anh lại không thấy Bóng Ma đâu. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây. Một cốc rượu nóng nêm gia vị sẽ giúp ích cho mình lúc này. Hai cốc thì

 

càng tốt. Nhưng việc đó phải để sau đã. Anh có những kẻ thù phải đối mặt. Loại kẻ thù kinh khủng nhất: các anh em.

Anh thấy Leathers đang đợi anh bên ngoài chiếc lồng kéo bằng ròng rọc quay tay. Hai người họ vào trong lồng và lên đỉnh Tường Thành cùng nhau. Càng lên cao, gió càng thổi manh. Lên được khoảng 15 mét, chiếc lồng nặng bắt đầu xoay theo từng con gió. Nó đập vào Tường Thành liên tục, khiến những tinh thể trong như pha lê rơi xuống như mưa và sáng lấp lánh trong ánh mặt trời. Họ lên đến tòa tháp cao nhất của lâu đài. Ở độ cao 120 mét, gió dường như mọc răng, nó cắn xé chiếc áo choàng đen của anh, khiến chiếc áo đập lật phật vào các song sắt. Ở độ cao hơn 200 mét, gió như cắt vào da thịt anh.

Tường Thành là của ta, Jon tự nhủ khi đám người quay ròng rọc đang kéo chiếc lồng vào, ít nhất trong hai ngày nữa.

Jon nhảy xuống mặt băng, cảm ơn mấy người kéo lồng, gật đầu với các lính giáo đang đứng canh gác. Cả hai đều đội mũ len trùm đầu, nên anh chẳng nhìn thấy mặt họ ngoại trừ đôi mắt, nhưng anh nhận ra Ty qua mớ tóc đen bóng dầu rối rắm sau lưng và Owen qua chiếc xúc xích nhét vào bao kiếm bên hông. Dù sao anh cũng vẫn nhận ra họ, chỉ qua cách họ đứng. Một lãnh chúa tử tế phải hiểu người của mình, cha anh từng nói với anh và Robb như vậy hồi ở Winterfell.

Jon đi bộ tới rìa Tường Thành và nhìn xuống tử địa nơi đội quân của Mance Rayder bỏ mạng. Anh tự hỏi giờ này Mance đang ở đâu. Hắn có tìm thấy em không, em gái? Hay em chỉ là cái cớ để anh thả hắn ra?

Đã lâu lắm rồi kể từ lần cuối anh gặp Arya. Bây giờ trông con bé thế nào nhỉ? Anh có còn nhận ra nó nữa không? Arya Đê Tiện. Mặt con bé lúc nào cũng bẩn thỉu. Con bé có còn giữ thanh kiếm mà anh đã nhờ Mikken rèn cho nó hay không? Đâm chúng bằng đầu nhọn, anh nói với cô bé. Con bé có thể áp dụng nó trong đêm đám cưới nếu một nửa những thông tin anh nghe được về Ramsay Snow là sự thật. Hãy đưa con bé về nhà, Mance. Ta đã cứu con trai ngươi khỏi ngọn lửa của Melisandre, và giờ ta chuẩn bị cứu bốn nghìn dân du mục của ngươi. Ngươi chỉ nợ ta mỗi tính mạng của con bé thôi.

Phía bắc khu rừng ma ám, bóng chiều đang dần bò tới qua những thân cây.

 

Bầu trời phía tây đỏ rực lên, trong khi ở phía đông, ngôi sao đầu tiên bắt đầu ló rạng. Jon Snow gập các ngón bên bàn tay cầm kiếm lại, nhớ đến tất cả những gì anh đã mất. Sam, tên béo ngốc nghếch đáng yêu kia, cậu đã chơi tôi một vố thật ác khi đưa tôi lên làm tướng chỉ huy, cậu có biết không? Tướng chỉ huy không có bạn bè.

“Lãnh chúa Snow?” Leathers nói, “Chiếc lồng đang đi lên.” “Ta nghe thấy rồi.” Jon từ rìa bức tường quay lại.

Những người đầu tiên lên tới nơi là trưởng các bộ tộc Flint và Norrey, trong bộ đồ bằng lông và sắt. Tộc trưởng của Norrey trông như một con cáo già – nhăn nheo và nhỏ thó, nhưng đôi mắt lanh lợi và hoạt bát. Torghen Flint thấp hơn nửa cái đầu, nhưng nặng phải gấp đôi – một ông già cộc cằn to béo, hai tay to như đùi lợn với những đốt ngón tay đỏ rực xương xẩu, nặng nhọc chống gậy mận gai và tập tễnh bước đi. Tiếp theo là Bowen Marsh thu mình trong tấm da gấu. Theo sau ông ta là Othell Yarwyck. Tiếp đến là Septon Cellador nửa say nửa tỉnh.

“Đi cùng ta,” Jon nói với bọn họ. Họ đi về phía tây trên đỉnh Tường Thành, dọc theo những con đường trải sỏi tiến về phía mặt trời lặn. Khi đi cách trạm nghỉ sưởi ấm khoảng 50 mét, anh nói, “Có biết tại sao ta lại triệu tập mọi người không? Ba ngày nữa, chúng ta sẽ mở cổng cho Tormund và người của hắn đi qua Tường Thành. Chúng ta sẽ phải chuẩn bị rất nhiều thứ.”

Đón nhận câu thông báo của anh là sự im lặng. Sau đó Othell Yanvyck nói, “Tướng chỉ huy, bọn chúng là hàng nghìn…”

“… dân du mục gầy nhẳng, da bọc xương, đói khát và xa nhà.” Jon chỉ về phía lửa trại của dân du mục. “Bọn họ có bốn nghìn người, theo lời Tormund nói.”

“Bọn chúng có ba nghìn người quanh ngọn lửa.” Bowen Marsh sống chỉ để đo đạc và đong đếm. “Nghe nói số người ở Hardhome với mụ phù thủy rừng rậm còn gấp đôi số đó. Và Ser Denys cũng gửi thư nói về những khu trại lớn trên núi, bên ngoài Tháp Đêm…”

 

Jon không phủ nhận điều đó. “Tormund nói Khóc Lóc định cố vượt qua Cầu Đầu Lâu một lần nữa.”

Quả Lựu Già chạm vào cái sẹo của ông. Ông nhận lấy cái sẹo đó vì bảo vệ Cầu Đầu Lâu trong làn gần đây nhất Khóc Lóc cố tìm đường vượt qua hẻm Gorge. “Chắc chắn tướng chỉ huy không định đồng ý cho… cho cả tên quái vật đó đi qua đấy chứ?”

“Ta không hề muốn.” Jon vẫn chưa quên mấy cái đầu mà Khóc Lóc để lại cho anh với những hốc mắt đầy máu. Jack Bulwer Đen, Hai Lông Lá, Garth Lông Xám. Ta không thể trả thù cho họ, nhưng ta sẽ không quên tên họ. “Nhưng đúng đấy, thưa các lãnh chúa. Cả hắn nữa. Chúng ta không thể lựa chọn giữa đám dân du mục, nói tên này được qua, tên kia không được qua. Hòa bình nghĩa là hòa bình cho tất cả mọi người.”

Norrey khạc nhổ. “Chẳng khác gì thương lượng hòa bình với sói và lũ quạ ăn xác thối.”

“Trong các hầm ngục của ta thanh bình lắm,” Flint Già càu nhàu. “Đưa tên Khóc Lóc cho ta.”

“Khóc Lóc đã giết báo nhiêu lính biệt kích rồi?” Othell Yarwyck hỏi. “Hắn đã cưỡng hiếp, giết hay đánh cắp bao nhiêu phụ nữ?”

“Ba người trong dòng tộc của ta,” Flint Già nói. “Và hắn thường chọc mù những đứa con gái nào hắn không thèm bắt.”

“Khi một người gia nhập đội quân áo đen, mọi tội lỗi của hắn đều được tha thứ,” Jon nhắc. “Nếu chúng ta muốn dân du mục chiến đấu bên cạnh mình, chúng ta phải tha thứ cho những tội lỗi trong quá khứ của họ, giống như tất cả chúng ta ở đây.”

“Khóc Lóc sẽ không nói lời tuyên thệ đâu,” Yarwyck khăng khăng. “Hẳn sẽ không đời nào chịu mặc áo choàng đen. Ngay cả những tên cướp khác cũng không tin tưởng hắn.”

 

“Không cần phải tin người mới dùng được người.” Nếu không làm sao ta có thể sử dụng tất cả các ngươi?

“Chúng ta cần Khóc Lóc và những kẻ khác giống hắn. Ai hiểu rõ về rừng hoang hơn một tên du mục? Ai hiểu kẻ thù của chúng ta hơn một người từng đánh nhau với chúng?”

“Tất cả những gì tên Khóc Lóc biết làm là hiếp và giết,” Yarwyck nói.

“Một khi vượt qua Tường Thành, quân du mục sẽ đông gấp ba lần chúng ta,” Bowen Marsh nói. “Và đó mới chỉ là đội quân của Tormund. Thêm cả người của Khóc Lóc và những kẻ hiện đang ở Hardhome, chúng sẽ đủ sức mạnh để kết liễu Đội Tuần Đêm chỉ trong một đêm.”

“Số lượng không quyết định thắng bại của chiến tranh. Các người chưa nhìn thấy họ thôi. Một nửa trong số họ đang sắp chết đến nơi rồi.”

“Tôi lại muốn họ chết hơn,” Yarwyck nói. “Nếu lãnh chúa hài lòng.”

“Ta chẳng thấy hài lòng gì cả.” Giọng Jon lạnh lẽo như cơn gió đang giật áo choàng của họ. “Trong trại đó có hàng trăm, hàng nghìn trẻ em. Cả phụ nữ nữa.”

“Các nữ chiến binh.”

“Một số thôi. Cùng với họ là những người mẹ, người bà, góa phụ và các bé gái… ngài cũng muốn họ phải chết hết sao?”

“Các anh em không nên cãi nhau ầm ĩ,” Septon Cellador nói. “Chúng ta hãy quỳ xuống cầu nguyện Bà Lão ban cho chúng ta sự thông thái.”

“Lãnh chúa Snow,” Norrey nói, “ngài định cho đám du mục đó ở đâu? Hy vọng không phải ở vùng đất của tôi chứ?”

“Đúng,” Flint Già nói. “Ngài muốn đưa chúng đến vùng Quà Tặng, đó là điều điên rồ, nhưng hãy chú ý đừng để chúng lang thang ra ngoài, nếu không tôi sẽ

 

gửi lại ngài đầu của chúng đấy. Mùa đông đang đến gần rồi, tôi không muốn thêm các miệng ăn nữa.”

“Đám du mục sẽ ở lại Tường Thành,” Jon trấn an bọn họ. “Hầu hết sẽ ở một trong những tòa lâu đài bỏ hoang của chúng ta. Đội Tuần Đêm giờ đã có quân đồn trú ở Icemark, Long Barrow, Sable Hall, Greyguard, và Deep Lake, tất cả đều thiếu rất nhiều quân số, nhưng mười tòa lâu đài khác vẫn bị bỏ không.

Đàn ông có vợ con, tất cả những đứa trẻ mồ côi dưới 10 tuổi, bà già, các bà mẹ góa, đám phụ nữ không biết đánh nhau. Chúng ta sẽ đưa các nữ chiến binh đến Long Barrow để nhập hội với các chị em của họ, đàn ông độc thân sẽ đến các pháo đài khác mà chúng ta vừa mở cửa trở lại. Những người gia nhập đội quân áo đen sẽ ở lại đây, hoặc được đưa sang Trạm Đông hay Tháp Đêm. Tormund sẽ lấy Oakenshield làm cứ địa, để hắn ở trong tầm mắt chúng ta.”

Bowen Marsh thở dài. “Nếu chúng không giết chúng ta bằng kiếm thì chúng cũng sẽ làm việc đó bằng miệng. Trời ạ, tại sao tướng chỉ huy có thể đề xuất nuôi ăn Tormund và hàng nghìn người của hắn được cơ chứ?”

Jon đã lường trước câu hỏi đó. “Qua Trạm Đông chúng ta sẽ mang thức ăn đến bằng thuyền, sao cho đủ dùng thì thôi. Thực phẩm sẽ đến từ vùng đất ven sông, vùng đất bão tố và thung lũng Arryn, từ Dorne và vùng Reach, từ các Thành Phố Tự Trị phía bên kia biển hẹp.”

“Và chúng ta sẽ phải trả tiền thực phẩm… tôi xin hỏi bằng cách nào đây?”

Bằng vàng, từ Ngân Hàng Sắt của Braavos, Jon định nói như vậy. Nhưng thay vào đó, anh nói, “Ta đã đồng ý cho dân tự do giữ lại lông và da thú. Họ sẽ cần đến chúng để giữ ấm khi mùa đông đến. Tất cả những tài sản khác, họ sẽ phải giao nộp. Vàng, bạc, hổ phách, đá quý, các tác phẩm điêu khắc, bất cứ thứ gì có giá trị. Chúng ta sẽ đưa tất cả những thứ đó qua Biển Hẹp và bán ở các Thành Phố Tự Trị.”

“Tất cả tài sản của dân du mục,” Norrey nói. “Chắc đủ để ngài mua một giạ lúa mạch. Có khi được hai giạ đấy.”

 

“Tướng chỉ huy, tại sao không tước cả vũ khí của đám du mục nữa?” Clydas hỏi.

Leathers phá lên cười. “Các người muốn dân du mục chiến đấu bên cạnh các người, chống lại kẻ thù chung. Chúng ta sẽ chiến đấu kiểu gì nếu không có vũ khí? Các người muốn chúng ta ném tuyết vào bọn xác sống à? Hay là muốn chúng ta dùng que đâm chúng?”

Vũ khí mà hầu hết dân du mục mang theo cũng chẳng hơn những cái que là bao, Jon nghĩ. Dùi cui gỗ, rìu đá, vồ, giáo bằng gỗ vót nhọn tôi qua lửa, dao làm bằng xương, đá và đá rồng, khiên bằng liễu gai, giáp xương và da thuộc. Người Thenn mặc đồ đồng, và những tên cướp như Khóc Lóc mang những thanh kiếm thép và sắt cướp được từ xác chết… nhưng ngay cả những thứ đó cũng thường cũ kỹ, dúm dó vì được sử dụng quá nhiều lần và lốm đốm những vết gỉ sét.

“Tormund Giantsbane sẽ không bao giờ sẵn sàng tước vũ khí của người phe hắn,” Jon nói. “Hắn không phải là gã Khóc Lóc, nhưng cũng không hèn nhát. Nếu tôi yêu cầu hắn điều đó, chắc chắn sẽ có đổ máu xảy ra.”

Norrey đưa ngón tay lên vuốt râu. “Ngài có thể cho đám du mục của ngài ở trong các pháo đài đổ nát, Lãnh chúa Snow, nhưng ngài sẽ giữ họ ở lại bằng cách nào? Điều gì sẽ ngăn họ tiến về phía nam tới một vùng đất đẹp đẽ hơn, ấm áp hơn?”

“Vùng đất của chúng ta,” Flint Già nói.

“Tormund đã thề với ta. Hắn sẽ ở cùng phe với chúng ta cho đến mùa xuân. Khóc Lóc và các đội ưưởng khác cũng sẽ thề như vậy, hoặc chúng ta sẽ không để họ qua.”

Flint Già lắc đầu. “Họ sẽ phản bội chúng ta.”

“Lời của Khóc Lóc chằng có giá trị gì cả,” Othell Yarwyck nói. “Chúng là những kẻ hoang dã vô thần,” Septon Cellador nói. “Ngay cả ở phương nam người ta cũng đều biết đến sự phản trắc của dân du mục.”

 

 

Leathers khoanh tay lại. “Còn nhớ trận chiến dưới kia không? Hồi đó tôi ở phe bên kia, nhớ không? Giờ tôi mặc màu đen giống các người và luyện cho lũ nhóc của các người kỹ năng chém giết. Một số kẻ sẽ gọi tôi là phản bội. Có thể… nhưng tôi không man rợ hơn lũ quạ các người. Chúng tôi cũng có các vị thần. Chính là các cựu thần của Winterfell.”

“Các vị thần phương Bắc, kể từ trước khi bức tường này được dựng lên,” Jon nói. “Tormund đã thề trước chính những vị thần đó. Hắn sẽ giữ lời thôi. Ta hiểu hắn cũng như hiểu Mance Rayder. Ta đã đi cùng họ một thời gian, chắc mọi người vẫn còn nhớ.”

“Tôi vẫn chưa quên,” Lãnh chúa Quản Gia nói.

Tất nhiên rồi, Jon nghĩ, ta không nghĩ ngài quên đâu.

“Mance Rayder cũng đã nói lời thề,” Marsh tiếp tục. “Hắn ta thề sẽ không đeo vương miện, không lấy vợ, không sinh con. Sau đó hắn phản bội, làm tất cả những việc đó, và dẫn một đội quân đáng sợ tấn công vương quốc. Chính tàn dư của đội quân đó đang chờ đợi phía bên kia Tường Thành.”

“Đám tàn dư tan nát.”

“Một thanh kiếm gãy vẫn có thể được rèn lại. Một thanh kiếm gãy vẫn có thể giết người.”

“Dân du mục không có luật lệ, cũng chẳng có các lãnh chúa,” Jon nói, “nhưng họ yêu quý con cái của mình. Ông có đồng ý điều đó không?”

“Điều chúng ta quan tâm không phải là con của chúng. Chúng ta sợ cha chúng, chứ không phải đàn con.”

“Ta cũng vậy thôi. Thế nên ta mới muốn giữ con tin.” Ta không phải tên ngốc cả tin như ông nghĩ… cũng không mang tẹo dòng máu du mục nào, dù ông muốn nghĩ ra sao. “Một trăm cậu bé tuổi từ 8 đến 16. Mỗi đội trưởng và thủ lĩnh phải giao nộp một người con trai, còn lại chọn bằng cách rút thăm. Các

 

cậu bé sẽ cho làm tiểu đồng hoặc cận vệ, để người của chúng ta có thời gian làm việc khác. Rồi một ngày sẽ có những người trong số họ muốn gia nhập đội quân áo đen. Những sự việc lạ lùng hơn từng xảy ra rồi. Số còn lại sẽ tiếp tục làm con tin để chắc chắn cha mẹ chúng trung thành với chúng ta.”

Người phương Bắc nhìn nhau. “Con tin?” người nhà Norrey suy tư. “Tormund đồng ý với việc này rồi à?”

Hoặc đồng ý, hoặc phải nhìn người của hắn chết dần. “Hắn gọi đó là cái giá trả phải bằng máu,” Jon Snow nói, “nhưng hắn sẽ trả.”

“Đúng, tại sao không chứ?” Flint Già chống mạnh gậy xuống băng. “Chúng ta luôn gọi chúng là những đứa trẻ được bảo hộ khi Winterfell đòi giữ các cậu nhóc làm con tin, chẳng có gì đáng sợ cả.”

“Chẳng có gì đáng sợ, trừ những đứa mà cha mẹ chúng làm các vị Vua Mùa Đông phật ý,” Norrey nói. “Những đứa được trả về trong tình trạng mất đầu. Vậy nói tôi nghe, chàng trai… nếu đám du mục bạn cậu tạo phản thì cậu có dám làm những việc phải làm không?”

Hỏi Janos Slynt ấy. “Tormund Giantsbane sẽ không dám giỡn mặt với ta. Ta có thể chỉ là một cậu nhóc xanh non trong mắt ông, Lãnh chúa Norrey ạ, nhưng ta vẫn là con trai của Eddard Stark.”

Câu nói đó vẫn chưa làm Lãnh chúa Quản Gia hài lòng. “Ngài nói những thằng nhóc đó sẽ được dùng làm cận vệ. Chắc hẳn tướng chỉ huy không định cho họ tập chiến đấu đấy chứ?”

Cơn giận của Jon bừng lên. “Không thưa ngài, ta định cho chúng khâu đồ lót bằng ren. Tất nhiên họ sẽ luyện tập để chiến đấu rồi. Họ cũng sẽ đánh bơ, bổ củi, dọn phân chuồng ngựa, đổ bô, đưa thư… và xen kẽ với những việc đó, họ sẽ được tập luyện với giáo, kiếm và trường cung.”

Marsh mặt lại càng đỏ gay đỏ tía. “Xin tướng chỉ huy bỏ quá cho nếu tôi nói thẳng, nhưng tôi không có cách nào nhẹ nhàng hơn để diễn tả việc này.

Những gì ngài vừa nói chẳng khác gì phản bội. Tám nghìn năm qua, người

 

của đội Đội Tuần Đêm đứng trên Tường Thành và chiến đấu chống lại bọn du mục. Giờ ngài lại muốn cho chúng đi qua, cho chúng ở trong lâu đài của chúng ta, cho chúng ăn, cho chúng mặc, dạy chúng cách chiến đấu. Lãnh chúa Snow, tôi có phải nhắc ngài không? Ngài đã đọc lời tuyên thệ.”

“Ta biết mình đã thề điều gì.” Jon đã nói lời tuyên thệ. “Ta là thanh kiếm trong bóng đêm. Ta là người gác những bức tường thành. Ta là ngọn lửa xua tan bàng giá, là ánh sáng gọi bình minh, là chiếc tù và đánh thức người say ngủ, là tấm khiên bảo vệ vương quốc loài người. Ông chẳng phải cũng đã nói những lời đó khi tuyên thệ hay sao?”

“Đúng vậy. Tướng chỉ huy biết mà.”

“Ông có chắc là ta không quên đoạn nào không? Đoạn về nhà vua và các luật lệ, và chúng ta phải bảo vệ mọi tấc đất của ngài và bám chặt lấy mọi tòa lâu đài đổ nát ấy? Đoạn đó thế nào nhỉ?” Jon chờ đợi một câu trả lời. Nhưng không có câu trả lời nào cả. “Ta là tấm khiên bảo vệ vương quốc loài người. Chính là những lời đó. Vậy hãy nói cho ta nghe, lãnh chúa – đám du mục đó là gì, nếu không phải là người?”

Bowen Marsh mở miệng. Nhưng chẳng thốt ra được lời nào. Cổ ông ta đỏ lựng lên.

Jon Snow quay mặt đi. Tia nắng cuối cùng đã nhạt. Anh quan sát những vết nứt trên Tường Thành chuyển từ màu đỏ sang xám, rồi đen, từ những vệt lửa đỏ thành những dòng sông băng đen kịt. Phía dưới, Quý cô Melisandre chắc hẳn đang đốt lửa đêm và tụng kinh, Thần Ánh Sáng, xin hãy bảo vệ chúng con, vì màn đêm tối tăm và đầy rẫy nỗi kinh hoàng.

“Mùa đông đang đến rồi,” cuối cùng Jon nói và phá vỡ không gian im ắng nặng nề, “và cùng với nó là bọn Bóng Trắng. Tường Thành là nơi chúng ta chặn chúng lại. Tường Thành được xây nên để ngăn chúng… nhưng Tường Thành phải có người. Cuộc thảo luận này đã đến hồi kết thúc. Chúng ta có rất nhiều việc phải làm trước khi cánh cổng được mở ra. Tormund và người của hắn ta sẽ cần thức ăn, quần áo mặc và ngựa cưỡi. Một số người ốm yếu và cần được chăm sóc. Những nhiệm vụ đó sẽ đặt lên vai ông, Clydas ạ. Hãy cứu càng nhiều người càng tốt.”

Clydas chớp đôi mắt hồng mờ đục. “Tôi sẽ làm hết sức có thể, Jon. Ý tôi là, thưa lãnh chúa.”

“Chúng ta cần chuẩn bị tất cả xe đẩy, xe ngựa sẵn sàng để đưa cư dân tự do đến nhà mới của họ. Othell, ông sẽ lo việc đó.”

Yarwyck nhăn nhó. “Vâng, thưa tướng chỉ huy.”

“Lãnh chúa Bowen, ông sẽ thu lộ phí. Vàng, bạc, hổ phách, kiềng cổ, vòng tay, dây chuyền. Phân loại tất cả rồi đếm và chắc chắn chúng đến Trạm Đông một cách an toàn.”

“Vâng, thưa Lãnh chúa Snow,” Bowen Marsh nói.

Và Jon nghĩ về những lời nữ tu đỏ nói, “Băng tuyết và những con dao trong bóng tối. Máu đông đặc và cứng ngắc, và một lưỡi thép trần.” Anh co duỗi bàn tay cầm kiếm. Gió đang thổi mỗi lúc một mạnh hơn.

 

About The Author

Ngo David

Power is Power