Trò chơi vương quyền 5C – Vũ điệu rồng thiêng
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Cẩm Chi
Số chương: 23
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Đêm trôi qua chậm chạp. Giờ của dơi kết thúc, nhường chỗ cho giờ của lươn, rồi giờ của lươn nhường chỗ cho giờ ma quỷ. Hoàng tử nằm trên giường, mắt nhìn đăm đăm lên trần nhà, mơ mộng nhưng không ngủ, hồi tưởng, hình dung, liên tục xoay người bên dưới tấm chăn bằng vải lanh, đầu óc bồn chồn với những suy nghĩ về lửa và máu.
Cuối cùng, Quentyn Martell không ngủ nữa mà ra phòng khách, rót một cốc rượu và uống trong bóng tối. Vị của nó ngọt dễ chịu trên đầu lưỡi, vì thế anh thắp một cây nến lên và rót thêm một cốc. Rượu sẽ giúp ta dễ ngủ, anh tự nhủ, nhưng anh biết anh chỉ đang tự dối mình.
Anh nhìn cây nến một hồi lâu, sau đó đặt cốc xuống và hơ lòng bàn tay lên trên ngọn lửa. Anh phải lấy hết can đảm mới có thể hạ tay xuống cho đến khi ngọn lửa chạm vào da thịt, cũng là khi anh giật tay lại và hét toáng lên vì đau. “Quentyn, cậu bị điên à?”
Không, chỉ sợ thôi. Tôi không muốn bị thiêu cháy. “Gerris?” “Tôi nghe thấy tiếng cậu đi lại.”
“Tôi không ngủ được.”
“Nên cậu chữa bằng cách tự đốt tay mình à? Một chút sữa ấm và một bài hát ru chắc sẽ có tác dụng với cậu đấy. Hoặc tốt hơn là tôi sẽ đưa cậu đến Đền Mỹ Nữ và tìm cho cậu một cô gái.”
“Ý anh là một còn điếm chứ gì.”
“Người ta gọi họ là các Mỹ Nữ. Họ có nhiều màu khác nhau. Chỉ các cô màu đỏ mới làm tình thôi.” Gerris ngồi xuống phía bên kia chiếc bàn. “Các nữ tu ở nhà nên học tập họ ở điểm này, tôi nghĩ vậy. Cậu có thấy các septa đều già nhăn nheo như quả mận khô không? Một cuộc đời trinh bạch sẽ biến cậu thành như vậy đấy.”
Quentyn liếc nhìn ra sân thượng, nơi bóng đêm dày đặc quanh các thân cây. Anh nghe được tiếng nước đổ xuống khe khẽ. “Mưa à? Thế thì lũ điếm của anh sẽ đi mất.”
“Không phải tất cả. Trong các khu vườn khoái lạc có những phòng riêng nhỏ ấm cúng, và đêm nào họ cũng chờ đợi, cho đến khi một người đàn ông chọn họ. Những người không được chọn sẽ ở lại cho đến khi mặt trời lên, cảm giác bị bỏ rơi và cô quạnh. Chúng ta có thể an ủi họ.”
“Họ có thể an ủi tôi mới phải chứ.” “Cả hai.”
“Nhưng đó không phải là kiểu an ủi mà tôi cần.”
“Tôi không đồng ý. Daenerys Targaryen không phải là người phụ nữ duy nhất trên thế giới. Cậu có muốn chết mà vẫn là một gã trai còn trinh không?”
Quentyn không muốn chết chút nào cả. Ta muốn về Yronwood hôn cả hai em gái anh, muốn cưới Gwyneth Yronwood, chứng kiến cô ấy lớn lên xinh đẹp, có con với cô ấy. Ta muốn cưỡi ngựa đấu thương, đi săn bắt, tới thăm mẹ ở Norvos, đọc những quyển sách mà cha gửi cho ta. Ta muốn Cletus, Will và Maester Kedry sống lại. “Anh có nghĩ Daenerys sẽ hài lòng nếu tôi đã từng ăn nằm với một ả điếm không?”
“Có thể. Đàn ông có thể thích gái trinh, nhưng phụ nữ thích đàn ông biết mình phải làm gì trong phòng ngủ. Đó là cũng là một kiểu đánh kiếm. Phải luyện tập thì mới giỏi được.”
Câu chế giễu khiến anh đau nhói. Quentyn chưa bao giờ cảm thấy mình bé bỏng đến thế, cho đến khi đứng trước mặt Daenerys Targaryen, cầu xin được nắm lấy tay cô ấy. Ý nghĩ về việc ăn nằm với cô khiến anh sợ hãi không kém so với lũ rồng. Nếu anh không thể làm cô hài lòng thì sao? “Daenerys có một nhân tình rồi,” anh biện hộ. “Cha tôi không cử tôi đến đây để mua vui cho nữ hoàng trong phòng ngủ. Anh biết tại sao chúng ta đến đây rồi đấy.”
“Cậu không thể lấy cô ấy được. Cô ấy đã có chồng.” “Cô ấy không yêu Hizdahr zo Loraq.”
“Yêu và cưới thì có liên quan gì đến nhau? Cậu là hoàng tử, cậu phải biết nhiều hơn thế chứ. Nghe nói cha cậu lấy vợ vì tình yêu. Và kết cục có vui vẻ gì không?”
Hầu như không. Doran Martell và bà vợ người Norvos sống ly thân trong một nửa cuộc hôn nhân, nửa còn lại dành cho cãi cọ. Một số người nói đó là lần quyết định vội vàng duy nhất của cha anh, lần duy nhất ông nghe theo trái tim thay vì khối óc, và kết quả là ông phải hối hận cả đời. “Không phải rủi ro nào cũng kết thúc bằng thất bại,” anh khăng khăng. “Đây là nhiệm vụ của tôi. Là số mệnh của tôi.” Anh là bạn của tôi cơ mà, Gerris. Tại sao anh lại giễu cợt những hy vọng của tôi? Chẳng cần anh bỏ thêm dầu vào lửa, tôi cũng đã đủ hoài nghi và sợ hãi rồi. “Đây sẽ là cuộc phiêu lưu vĩ đại của tôi.”
“Con người chết vì những cuộc phiêu lưu đó.”
Anh ta nói không sai. Điều đó cũng được kể lại trong các câu chuyện. Vị anh hùng lên đường với bạn bè và những người đồng hành, đối mặt với hiểm nguy, và chiến thắng trở về. Chỉ có một số bạn đồng hành của anh ta là không bao giờ quay lại. Tuy nhiên, các anh hùng không bao giờ chết. Ta phải là người hùng đó. “Tất cả những gì tôi cần là lòng can đảm. Anh muốn Dorne nhớ đến tôi như một kẻ thất bại sao?”
“Dorne sẽ chẳng nhớ chúng ta được bao lâu đâu.” Quentyn mút vết bỏng trên lòng bàn tay. “Dorne nhớ Aegon và các chị em gái của ông ấy. Rồng không dễ bị lãng quên. Họ sẽ nhớ cả Daenerys nữa.”
“Nếu cô ấy đã chết thì không đâu.”
“Cô ấy vẫn sống.” Cô ấy phải sống. “Cô ấy đang mất tích, nhưng tôi có thể đi tìm.” Và khi đó, cô ấy sẽ nhìn tôi theo cách cô ấy nhìn tên lính đánh thuê.
Một khi tôi chứng minh được mình xứng đáng với cô ấy.
“Từ trên lưng rồng sao?”
“Tôi cưỡi ngựa từ khi lên 6 rồi.” “Và ngã hết lần này đến lần khác.”
“Nhưng điều đó đâu ngăn được tôi tiếp tục leo lên lưng ngựa.”
“Cậu chưa bao giờ bị ném từ ba nghìn mét xuống đất,” Gerris phân tích. “Và ngựa hiếm khi biến người cưỡi chúng thành xương cháy và tro.”
Ta hiểu những mối nguy hiểm chứ. “Tôi sẽ không nghe thêm về chuyện này nữa. Anh đi được rồi. Tìm một con thuyền và chạy về nhà đi, Gerris.” Hoàng tử đứng dậy, thổi nến và bò lại vào giường với đống chăn đệm bằng vải lanh ướt đẫm mồ hôi. Lẽ ra mình nên hôn một trong hai chị em sinh đôi Nhà Drinkwater, hoặc là cả hai người họ. Mình nên hôn họ khi còn có thể. Lẽ ra mình nên tới Norvos thăm mẹ, nơi bà sinh ra, để mẹ biết mình không quên bà ấy. Anh nghe thấy tiếng mưa rơi lộp độp lên tường gạch bên ngoài.
Khi giờ của sói đến, mưa đã rơi mau và đều hơn, tạo thành từng dòng xối xả, lạnh lẽo và dữ dội. Nó sẽ nhanh chóng biến các con đường lát gạch của Meereen thành những dòng sông. Ba người Dorne ăn sáng trong cái ớn lạnh trước bình minh – một bữa ăn đơn giản gồm trái cây, bánh mỳ và pho mát, uống kèm sữa dê. Khi Gerris rót cho mình một cốc rượu, Quentyn cản anh lại. “Không uống rượu. Chúng ta thừa thời gian để uống sau khi xong việc ”
“Hy vọng là thế,” Gerris nói.
Gã to xác nhìn ra ngoài sân hiên. “Tôi biết là trời sẽ mưa mà,” giọng anh ta buồn rầu. “Đêm qua xương cốt tôi đau nhức. Chúng luôn đau nhức khi trời chuẩn bị mưa. Lũ rồng sẽ không thích đâu. Lửa và nước không hợp nhau, đó là chân lý rồi. Chẳng hạn cậu vừa nhóm bếp lò, lửa cháy rừng rực xong thì trời mưa xối xả, và chẳng mấy chốc củi của cậu ướt nhẹp còn lửa đã tắt ngóm.”
Gerris cười khúc khích. “Rồng không làm bằng gỗ, Arch ạ.”
“Một số. Vua Aegon già, vị vua hung hăng ấy, ông ta dựng cả một con rồng gỗ để chinh phạt chúng ta. Tuy nhiên kết cục của nó không được tốt đẹp cho lắm.”
Có thể lần này cũng vậy, hoàng tử nghĩ. Anh không bận tâm đến sự điên rồ và thất bại của Aegon Đê Tiện, nhưng trong lòng anh đầy hoài nghi và e sợ. Câu đùa gượng gạo từ những người bạn chỉ làm anh đau đầu. Họ không hiểu. Họ có thể là người Dorne, nhưng ta đại diện cho cả xứ Dorne. Nhiều năm nữa sau khi ta đã chết, chuyện của ngày hôm nay sẽ trở thành bài hát ca ngợi ta.
Anh đột ngột đứng lên. “Đến giờ rồi.”
Các bạn anh cũng đứng dậy. Ser Archibald uống nốt chỗ sữa dê và lau sữa trên ria bằng mu bàn tay vĩ đại. “Để tôi đi lấy trang phục diễn viên kịch câm của chúng ta.” Anh ta trở về với cái bọc họ nhận từ tay Hoàng Tử Rách Rưới trong cuộc gặp lần thứ hai. Bên trong là ba chiếc áo choàng dài có mũ làm từ vô số các mảnh vải hình vuông nhỏ khâu lại với nhau, ba chiếc dùi cui, ba đoản kiếm, ba chiếc mặt nạ đồng sáng bóng. Một con bò đực, một con sư tử và một con khỉ.
Mọi thứ cần thiết để trở thành một chiến binh Thú Đồng. “Có thể họ sẽ hỏi một từ mật mã,” Hoàng Tử Rách Rưới cảnh báo khi đưa cái bọc cho họ. “Từ đó là chó nhé.”
“Ông chắc đấy chứ?” Gerris đã hỏi ông ta như vậy. “Đủ chắc để đánh cược một mạng sống.”
Hoàng tử hiểu ông ta muốn nói gì. “Mạng sống của tôi.” “Còn ai vào đây nữa.”
“Làm sao ông biết mật mã của họ?”
“Chúng ta tình cờ gặp vài người trong đội Thú Đồng và Meris nhẹ nhàng hỏi họ. Nhưng một hoàng tử lẽ ra phải khôn ngoan hơn chứ, tại sao lại hỏi những
câu như vậy? Ở Pentos, chúng ta có một câu ngạn ngữ. Không bao giờ hỏi thợ làm bánh xem anh ta bỏ gì vào bánh. Cứ ăn thôi.”
Cứ ăn thôi. Nghe cũng có lý, Quentyn nghĩ. “Tôi sẽ là bò tót,” Arch tuyên bố.
Quentyn đưa cho anh ta chiếc mặt nạ bò tót. “Tôi sẽ là sư tử.”
“Vậy là tôi sẽ làm khỉ.” Gerris ấn chiếc mặt nạ khỉ vào tay anh ta. “Họ thở thế nào trong mấy cái mặt nạ này nhỉ?”
“Cứ đeo vào thôi.” Hoàng tử không có tâm trạng nào để đùa cợt.
Trong cái bọc còn có một cây roi – một mảnh da cũ bẩn thỉu với tay cầm bằng đồng và xương, đủ khỏe để đánh tuột da một con bò. “Cái đó để làm gì?” Arch hỏi.
“Daenerys dùng roi để điều khiển con quái vật màu đen.” Quentyn cuộn cây roi lại và đeo nó vào thắt lưng. “Arch, đem cả búa theo nữa. Có thể chúng ta sẽ cần đến nó.”
Lẻn vào Đại Kim Tự Tháp Meereen vào ban đêm không phải việc dễ dàng. Ngày nào mọi cánh cửa cũng được đóng chặt và cài then mỗi khi mặt trời lặn rồi đóng nguyên như vậy cho đến sáng sóm hôm sau. Lính canh được bố trí ở mọi lối vào, và đứng nhiều hơn nữa trên ban công của tầng thấp nhất, nơi họ có thể nhìn xuống đường phố. Ban đầu, lính canh đều là quân Thanh Sạch.
Giờ là nhóm Thú Đồng. Quentyn hy vọng điều đó sẽ làm nên sự khác biệt.
Họ đổi gác khi mặt trời lên, nhưng còn nửa tiếng nữa mới đến bình minh khi ba người Dorne bắt đầu đi xuống cầu thang dành cho người hầu. Những bức tường xung quanh họ xây bằng gạch mang vài chục màu sắc khác nhau, nhưng bóng tối biến tất cả thành màu đen cho đến khi được ánh đuốc của Gerris mang theo chiếu vào. Trên đường xuống, họ không gặp ai cả. Tiếng động duy nhất phát ra là tiếng lộp cộp của giày trên nền gạch mòn vẹt dưới chân.
Cổng chính của kim tự tháp quay mặt ra quảng trường chính của Meereen, nhưng đám người Dorne đi theo đường phụ mở ra một con ngõ nhỏ. Đó là cánh cổng mà nô lệ vẫn dùng ngày xưa mỗi khi họ phải đi lo việc cho chủ nhân, nơi dân đen và lái buôn đến, đi và đưa đồ.
Hai cánh cửa làm bằng đồng đặc và được cài bằng một thanh sắt nặng. Đứng trước cửa là hai lính Thú Đồng, với gậy tày, giáo và đoản kiếm trong tay.
Ánh đuốc sáng lập lòe trên những chiếc mặt nạ đồng đánh bóng của họ – một con chuột và một con cáo. Quentyn ra dấu bảo gã to xác ở lại phía sau trong bóng tối. Anh và Gerris cùng nhau tiến lên phía trước.
“Hai người đến sớm thế,” con cáo nói.
Quentyn nhún vai. “Chúng tôi có thể đi, nếu các anh muốn. Các anh thích gác thì cứ tự nhiên.” Giọng anh không giống giọng người Ghis chút nào, anh biết; nhưng một nửa số người trong đội Thú Đồng là nô lệ được thả tự do, nói đủ thứ tiếng khác nhau, vì thế ngữ giọng của anh không có gì đặc biệt.
“Có điên mới thích,” con chuột nói. “Nói mật mã của ngày hôm nay đi,” con cáo nói.
“Chó,” người Dorne nói.
Hai tên lính Thú Đồng nhìn nhau. Trong một khoảnh khắc, Quentyn đã sợ có điều gì không ổn, sợ rằng Meris Xinh Đẹp và Hoàng Tử Rách Rưới đã cho họ từ mật mã sai. Sau đó con cáo gầm gừ. “Được rồi, chó,” anh ta nói. “Cánh cổng là của các anh.” Khi họ đi khỏi, hoàng tử mới thở được bình thường trở lại.
Họ không có nhiều thời gian. Lính gác thật sắp đến. “Arch,” anh gọi, và gã to xác xuất hiện, ánh đuốc chiếu sáng chiếc mặt nạ bò tót của anh ta. “Then cài. Nhanh lên.” Then cửa bằng sắt dày cộp và năng chịch, nhưng được tra dầu đầy đủ. Ser Archibald có thể nhấc nó lên mà không gặp vấn đề gì. Khi anh ta dựng then cài lên, Quentyn kéo cửa mở ra và Gerris bước vào, huơ huơ cây đuốc. “Đem nó lại đây, nhanh lên.”
Chiếc xe kéo của đồ tể đang đợi trong con ngõ nhỏ ở ngoài. Người đánh xe quật con la một roi và chiếc xe tiến lên, bánh xe vành sắt lăn trên đường lát gạch lộc cộc. Một phần tư con bò nằm trên sàn xe, cùng với xác hai con cừu. Sáu người đi bộ bước vào. Năm người mặc áo choàng và đeo mặt nạ của đội Thú Đồng, nhưng Meris Xinh Đẹp không chịu cải trang. “Lãnh chúa của cô đâu?” anh hỏi Meris.
“Ta không có lãnh chúa nào cả,” cô ta trả lời. “Nếu ngươi định hỏi về hoàng tử thì ông ấy đang ở gần thôi, cùng với năm mươi người nữa. Chỉ cần đem được con rồng ra, ông ấy sẽ đưa ngươi đi khỏi đây an toàn như đã hứa. Caggo chỉ huy ở đây.”
Ser Archibald nheo mắt nhìn chiếc xe của đồ tể. “Cái xe bò đó có đủ lớn để chở một con rồng không?” Anh ta hỏi.
“Phải đủ. Nó đủ chỗ cho hai con bò mộng.” Kẻ Giết Xác ăn mặc theo kiểu Thú Đồng, khuôn mặt với các đường khâu và sẹo chẳng chịt của anh ta giấu đằng sau chiếc mặt nạ hình rắn độc, nhưng hoàng tử nhận ra anh ta qua chiếc arakh màu đen quen thuộc treo lủng lẳng ở một bên hông. “Chúng ta nghe nói hai con rồng đó nhỏ hơn con quái vật của nữ hoàng.”
“Cái hố đã kìm hãm sự phát triển của chúng.” Theo những cuốn sách mà Quentyn đọc thì những chuyện tương tự cũng xảy ra ở Bảy Phụ Quốc. Không con rồng nào được đẻ ra và nuôi lớn trong Hố Rồng ở Vương Đô có thể to bằng Vhagar hay Meraxes, lại càng không thể to bằng Ác Mộng Đen, con quái vật của vua Aegon. “Cô có đem đủ xích không?”
“Anh có bao nhiêu con rồng?” Meris Xinh Đẹp nói. “Chúng tôi mang đủ cho mười con, giấu bên dưới đống thịt ấy.”
“Tốt lắm.” Quentyn thấy chóng mặt. Chuyện này chẳng cảm giác thật gì cả. Có lúc nó như một trò chơi, một lúc sau lại giống như cơn ác mộng, như một giấc mơ tồi tệ trong đó anh thấy mình mở một cánh cửa tối tăm, biết rằng nỗi kinh hoàng và cái chết đang chực chờ trong đó, nhưng chẳng hiểu sao anh vẫn không thể ngăn mình lại được. Hai lòng bàn tay anh ướt đẫm mồ hôi.
Anh lau chúng vào đùi và nói, “Bên ngoài chiếc hố còn nhiều lính gác nữa.” “Chúng tôi biết,” Gerris nói. “Chúng ta cần phải sẵn sàng đối mặt với họ.” “Chúng ta sẵn sàng rồi,” Arch nói.
Bụng Quentyn quặn lên. Anh đột nhiên thấy cần đi ngoài, nhưng anh biết mình không thể đi vào lúc này được. “Vậy thì đường này.” Anh hiếm khi cảm thấy mình trẻ con như vậy. Nhưng họ vẫn đi theo; Gerris và gã to xác, Meris, Caggo và các chiến binh khác của hội Gió Thổi. Hai lính đánh thuê đã lôi nỏ ra từ chỗ giấu bên trong chiếc xe kéo.
Phía bên kia chuồng gia súc, tầng đáy của Đại Kim Tự Tháp trở thành một mê cung, nhưng Quentyn Martell từng xuống đây với nữ hoàng, và anh nhớ đường. Họ đi dưới ba mái vòm bằng gạch vĩ đại, sau đó xuống một đoạn đường đá dốc dẫn sâu vào lòng đất, qua hầm ngục và các phòng tra tấn, và qua hai bể nước sâu bằng đá. Tiếng bước chân họ vọng oang oang lên tường, trong khi chiếc xe chở thịt kêu lộc cộc phía sau. Gã to xác giật một cây đuốc cắm trong chân đế trên tường xuống để soi đường.
Cuối cùng, hai cánh cửa sắt nặng nề cũng xuất hiện trước mặt họ, gỉ sét và gớm ghiếc. Một sợi xích khóa chặt hai cánh cửa, mỗi mắt xích to như cánh tay đàn ông. Kích thước và độ dày của những cánh cửa đó đủ để Quentyn Martell nghi ngờ liệu việc họ đang làm có ngu ngốc hay không. Thậm chí tệ hơn, hai cánh cửa rõ ràng có những vết lồi lõm do thứ gì đó bên trong cố thoát ra ngoài. Sắt dày bị nứt nẻ ba chỗ, và góc bên trên của cánh cửa bên trái trông có vẻ bị nung chảy một phần.
Bốn người trong đội Thú Đồng đứng gác cổng. Ba người cầm giáo dài; người thứ tư trang bị dao găm và đoản kiếm là tên đội trưởng. Mặt nạ của hắn đúc hình đầu rắn thần basilisk. Ba người còn lại đeo mặt nạ hình côn trùng.
Quentyn nhận ra đó là mặt nạ châu chấu. “Chó,” anh nói. Tên hạ sĩ khựng lại.
Chỉ cần chừng đó là đủ để Quentyn Martell nhận ra có gì đó không ổn ở đây. “Hạ chúng,” anh khàn khàn ra lệnh khi tay gã basilisk với lấy đoản kiếm.
Tên hạ sĩ khá nhanh nhẹn. Nhưng gã to xác nhanh hơn. Anh ta ném cây đuốc vào con châu chấu gần nhất, với ra sau và lôi chiếc búa chiến ra. Đoản kiếm của gã basilisk còn chưa kịp tuốt ra khỏi vỏ da thì lưỡi búa đã bổ xuống thái dương hắn, cắt qua lớp đồng mỏng của chiếc mặt nạ, vào đến thịt và xương phía dưới. Tên hạ sĩ lảo đảo tránh sang bên được nửa bước thì đầu gối gập lại, và hắn ngã khụy xuống sàn, toàn thân co giật.
Quentyn khiếp đảm đứng nhìn, bụng quặn lên. Kiếm của anh vẫn ở trong vỏ. Anh còn chưa kịp thò tay với kiếm. Anh đứng nhìn trân trối vào tên hạ sĩ đang co giật, hấp hối trước mặt. Cây đuốc bị rơi vẫn ở trên sàn, ánh lửa lập lòe khiến những cái bóng nhảy nhót, uốn éo một cách kỳ quái như nhạo báng người đàn ông đang giãy chết. Hoàng tử không nhận ra mũi giáo của một con châu chấu lao đến chỗ mình, cho đến khi Gerris đâm sầm vào hắn, đấy hắn ngã sang bên. Ngọn giáo sượt qua má chiếc mặt nạ sư tử anh đang đeo. Ngay cả như vậy, lực của cú đánh vẫn mạnh đến nỗi nó làm chiếc mặt nạ gần rách toạc. Suýt nữa nó đã đâm thẳng qua họng ta, hoàng tử sững sờ nghĩ.
Gerris chửi thề khi đám châu chấu bao vây anh. Quentyn nghe thấy tiếng bước chân chạy. Sau đó, đám lính đánh thuê từ trong bóng tối lao ra. Một trong các tên lính gác chỉ kịp liếc nhìn họ trước khi bị Gerris áp sát quá tầm tấn công của giáo. Anh ta luồn kiếm vào bên dưới chiếc mặt nạ đồng và đâm vào cổ tên lính, vừa đúng lúc tên châu chấu thứ hai nhận một mũi tên vào ngực.
Tên châu chấu cuối cùng vội hạ giáo xuống. “Xin hàng, tôi xin đầu hàng.”
“Không. Ngươi phải chết.” Caggo chặt phăng đầu hắn bằng một nhát arakh, thép Valyrian cắt ngọt qua thịt, xương và sụn nhẹ nhàng như cắt vào mỡ. “Ồn ào quá,” anh ta phàn nàn. “Kẻ nào không bị điếc cũng sẽ nghe được chúng ta.”
“Chó,” Quentyn nói. “Mật mã của ngày hôm nay là chó mà. Tại sao chúng không để chúng tôi qua? Mọi người nói…”
“Mọi người nói kế hoạch của ngươi là kế hoạch điên rồ, ngươi quên rồi sao?” Meris Xinh Đẹp trả lời. “Ngươi đến để làm gì thì làm ngay đi.”
Lũ rồng, hoàng tử Quentyn nghĩ. Đúng vậy. Chúng ta đến vì lũ rồng. Anh cảm giác như mình sắp ốm đến nơi. Ta đang làm gì ở đây thế này? Cha ơi, tại sao? Bốn người chết trong vài tích tắc, để làm gì cơ chứ? “Lửa và máu,” anh thì thầm, “máu và lửa.” Máu chảy thành vũng dưới chân anh, thấm đẫm vào nền gạch. Lửa đang ở đằng sau những cánh cửa kia. “Sợi xích… chúng ta không có chìa khóa…”
“Tôi có chìa khóa.” Arch nói rồi vung búa chiến lên, cú chém nhanh và mạnh. Tia lửa tóe ra nơi chiếc búa giáng vào cái khóa. Và thêm một lần nữa, một lần nữa, một lần nữa. Sau cú thứ năm, chiếc khóa vỡ ra, và sợi xích leng keng rơi xuống, âm thanh to đến nỗi Quentyn dám chắc cả nửa kim tự tháp đều nghe thấy. “Đem chiếc xe lại đây.” Lũ rồng sẽ dễ bảo hơn nếu được ăn no. Để chúng ăn no thịt cừu nướng đã.
Archibald Yronwood nắm lấy hai cánh cửa sắt và đẩy chúng ra. Bản lề gỉ sét kêu lên ken két, đánh thức nốt những kẻ vẫn còn chưa tỉnh dậy khi Arch phá khóa. Một luồng không khí nóng đột ngột phả vào họ, mùi tro, lưu huỳnh và thịt cháy xộc lên sực nức.
Bên trong cánh cửa mọi thứ tối thui, thứ bóng tối ảm đạm thê lương dường như sống động, đáng sợ và đói khát. Quentyn cảm nhận được có cái gì đó trong bóng tối đang cuộn lên và chờ đợi. Thần Chiến Binh, xin hãy cho con lòng dũng cảm, anh cầu nguyện. Dù không hề muốn làm việc này, nhưng anh thấy không còn lựa chọn nào khác. Tại sao Daenerys lại cho ta xem lũ rồng? Rõ ràng cô ấy muốn ta chứng tỏ khả năng của mình. Gerris đưa một cây đuốc cho anh. Anh bước qua cánh cửa.
Con màu xanh là Rhaegal, con màu trắng là Viserion, anh tự nhủ. Gọi tên chúng, ra lệnh cho chúng, nói chuyện với chúng một cách điềm tĩnh nhưng nghiêm khắc. Làm chủ chúng, giống như Daenerys đã làm chủ Drogon trong hố đấu. Cô gái chỉ có một mình trong bộ đồ lụa mỏng manh, nhưng cô ấy không hề nao núng. Mình không được sợ. Cô ấy làm được, mình cũng vậy.
Cái chính là không được tỏ ra khiếp sợ. Động vật có thể ngửi thấy mùi sợ hãi, và rồng… Anh thì biết gì về rồng? Có ai biết gì về rồng đâu? Chúng đã biến mất khỏi trái đất suốt cả thế kỷ nay rồi.
Miệng hố ở ngay phía trước. Quentyn chậm rãi tiến lên, hướng đuốc từ bên này sang bên nọ. Tường, nền và trần nhà uống hết ánh sáng. Anh nhận ra chúng đều bị cháy xém. Tường gạch cháy đen thui và vỡ vụn thành tro. Càng bước vào trong, không khí càng ấm. Anh bắt đầu toát mồ hôi.
Hai con mắt hiện ra trước mặt anh.
Hai con mắt bằng đồng sáng hơn cả khiên đánh bóng, chúng phát sáng nóng rực đằng sau một tấm mạng bằng hơi nước bay lên từ mũi con rồng. Ánh đuốc của Quentyn chiếu lên những cái vảy xanh sẫm, màu xanh của rêu trong rừng già lúc hoàng hôn, ngay trước khi những tia nắng cuối cùng tắt hẳn. Sau đó con rồng mở miệng, nhiệt và ánh sáng bao trùm lấy họ. Đằng sau hàm răng đen nhọn hoắt, anh thoáng nhìn thấy quầng sáng như trong lò sưởi, ánh sáng lung linh của một ngọn lửa đang ngủ yên, sáng hơn ngọn đuốc của anh gấp trăm lần. Đầu con rồng to hơn đầu ngựa, cái cổ dài cứ vươn cao, vươn cao mãi, trải ra như một con rắn xanh khổng lồ khi cái đầu thò lên, cho đến khi đôi mắt màu đồng sáng rực nhìn thẳng xuống anh.
Màu xanh, hoàng tử nghĩ, vảy của nó màu xanh. “Rhaegal,” anh nói. Giọng anh nghẹn lại trong cổ, và âm thanh phát ra chỉ là tiếng ồm ồm đứt quãng. Con ếch, anh nghĩ, ta lại biến thành Ếch một lần nữa rồi. “Thức ăn,” anh nhớ lại và cất giọng khàn khàn gọi. “Đem thức ăn lại đây.”
Gã to xác nghe thấy tiếng anh. Arch vật lộn lôi chân một con cừu ra khỏi cái xe và ném nó xuống hố.
Rhaegal bắt lấy nó trên không. Cú táp rất nhanh, lửa phun ra giữa hai hàm răng, giống như một cơn lốc xoáy màu vàng cam với những đường vân xanh lá. Con cừu bị thiêu cháy trước khi rơi xuống. Trước khi cái xác bốc khói kịp rơi xuống nền gạch, răng con rồng đã ngoạm lấy nó. Một quầng lửa vẫn đang lập lòe bên trên cái xác. Không khí tanh mùi gỗ cháy và lưu huỳnh. Mùi tanh của rồng.
“Tôi tưởng có hai con chứ,” gã to xác nói.
Viserion. Đúng. Viserion đâu rồi? Hoàng tử hạ thấp đuốc xuống để chiếu vào không gian tối tăm phía dưới. Anh vẫn nhìn thấy con rồng xanh đang cắn xé cái xác bốc khói của con cừu, cái đuôi dài của nó quật từ bên này sang bên kia khi nó đang ăn. Một chiếc vòng cổ bằng sắt dày đeo trên cổ con vật, với một sợi xích đứt tầm 1 mét dính lủng lẳng vào đó. Các mắt xích vỡ vụn vương vãi khắp sàn, lẫn với những mẩu xương cháy đen – những vòng xoắn bằng kim loại một phần bị thiêu chảy. Rhaegal bị xích vào tường và sàn nhà trong lần cuối mình tới đây, hoàng tử nhớ lại, nhưng Viserion đậu trên trần nhà. Quentyn lùi lại, nhấc đuốc và nghển cổ lên.
Ban đầu, anh chỉ nhìn thấy những vòm gạch phía trên bị lửa rồng thiêu đen kịt. Anh thấy một chút tro chảy xuống, chứng tỏ có cử động. Một thứ gì đó màu xám giấu nửa người trong gạch khẽ động đậy. Hoàng tử nhận ra con rồng tự làm hang cho mình. Một cái hang trong tường gạch. Tầng đáy cửa Đại Kim Tự Tháp Meereen rất to và dày để nâng đỡ trọng lượng của khối kiến trúc vĩ đại phía trên; ngay cả những bức tường bên trong cũng dày gấp ba lần tường phòng vệ của bất cứ tòa lâu đài nào. Nhưng Viserion đã dùng lửa và móng để tự đào một cái hố trên đó, đủ rộng để nó có thể ngủ bên trong.
Và chúng ta vừa mới đánh thức nó. Anh nhìn thấy một thứ trông như một con rắn trắng khống lồ, đang duỗi mình ra trong hốc tường ngay chỗ cong tiếp giáp với trần nhà. Tro tiếp tục rơi xuống, và một chút gạch vụn cũng rơi ra.
Con rắn lúc này trở thành cái cổ và cái đuôi, sau đó cái đầu rồng với chiếc sừng dài xuất hiện, đôi mắt nó sáng lên trong bóng tối như hai hòn than màu vàng. Cánh nó sải ra loạt soạt.
Tất cả mọi kế hoạch bay sạch khỏi đầu Quentyn. Anh nghe thấy Caggo Kẻ Giết Xác hò hét gọi lính đánh thuê. Xích sắt, anh ta đang gọi người mang xích đến, hoàng tử xứ Dorne nghĩ. Kế hoạch của họ là cho hai con rồng ăn và xích chúng trong trạng thái lờ đờ, giống như nữ hoàng đã làm. Một con rồng, hoặc cả hai thì càng tốt.
“Thêm thịt,” Quentyn nói. Khi được ăn no, chúng sẽ chậm chạp hon. Anh đã thấy tác dụng của nó đối với lũ rắn ở Dorne, nhưng ở đây, với hai con quái vật này… “Đem… đem…”
Viserion từ trên trần nhà lao xuống, đôi cánh da màu xám sải rộng ra. Sợi xích sắt lắc qua lắc lại dữ dội trên cổ nó. Lửa của nó làm cái hố sáng rực lên, màu vàng nhạt pha lẫn đỏ và cam, một đám mây tro nóng lẫn với lưu huỳnh cuộn lên trong không khí khi đôi cánh trắng đập phành phạch.
Một bàn tay nắm lấy vai Quentyn. Cây đuốc tuột khỏi tay anh và rơi xuống nền nhà, sau đó rơi xuống hố trong khi lửa vẫn đang cháy. Anh thấy mình đang đối mặt với một con khỉ đồng. Gerris. “Quent, thế này không được đâu. Chúng quá hoang dã, chúng…”
Con rồng sà xuống giữa hai người Dorne và cánh cửa, với một tiếng gầm đủ để khiến hàng trăm con sư tử bỏ chạy. Đầu nó quay bên này bên kia, nhìn đám người đột nhập – người Dorne, hội Gió Thổi, Caggo. Cuối cùng, con rồng nhìn Meris Xinh Đẹp lâu nhất, mũi khụt khịt. Vì cô ta là phụ nữ, Quentyn đã hiểu. Nó biết cô ấy là phụ nữ. Nó đang tìm kiếm Daenerys. Nó muốn mẹ nó và không hiểu tại sao cô ấy lại không có ở đây.
Quentyn vùng người ra khỏi tay Gerris. “Viserion,” anh hô. Con màu trắng là Viserion. Đột nhiên anh cứ sợ mình gọi nhầm. “Viserion,” anh gọi một lần nữa, tay quờ quạng tìm cây roi đeo ở bên hông. Cô ấy có thể thuần hóa con màu đen bằng một cây roi. Ta cũng sẽ làm được như vậy.
Con rồng biết tên của nó. Nó quay đầu và nhìn hoàng tử người Dorne một hồi lâu. Lửa trắng cháy rực đằng sau hàm răng đen nhọn hoắt như dao găm. Mắt nó như hai hồ vàng nấu chảy, khói bay lên từ lỗ mũi.
“Nằm xuống,” Quentyn nói. Sau đó anh ho, và ho một lần nữa.
Không khí dày đặc mùi khói và mùi tanh của lưu huỳnh khiến anh ngạt thở. Viserion mất hứng thú. Con rồng quay về phía tên lính của hội Gió Thổi và lao ra cửa. Có lẽ nó ngửi thấy mùi máu của đám lính canh bị giết hoặc mùi thịt trên xe kéo. Hoặc có thể bây giờ nó mới nhìn thấy cánh cửa đã mở ra.
Quentyn nghe thấy tiếng đám lính đánh thuê gào thét. Caggo đang kêu mang sợi xích tới, còn Meris Xinh Đẹp đang la hét bảo ai đó tránh sang một bên.
Con rồng vụng về di chuyển trên mặt đất, giống như một người đàn ông quờ quạng bò trên đầu gối và khuỷu tay, nhưng nhanh hơn những gì hoàng tử người Dorne tưởng. Khi tên lính của hội Gió Thổi không kịp tránh đường, Viserion gầm lên một tiếng nữa. Quentyn nghe thấy tiếng leng keng của sợi xích và tiếng thịch của nỏ vang lên.
“Không,” anh hét lên, “Không, đừng, đừng,” nhưng đã quá muộn. Đồ ngốc là tất cả những gì anh kịp nghĩ trước khi mũi tên đâm vào cổ Viserion và biến mất trong bóng tối. Một vạt lửa sáng lên nơi mũi tên đâm vào – máu rồng, phát sáng màu vàng và đỏ rực.
Gã cầm nỏ đang lóng ngóng tìm một mũi tên nữa thì hàm răng của con rồng đã ngoạm quanh cổ hắn. Người đàn ông đeo mặt nạ của đội Thú Đồng, hình con hổ dữ tợn. Khi hắn buông vũ khí để cố banh hàm Viserion ra, từng giọt lửa rơi xuống từ miệng con hổ. Mắt người đàn ông cháy nổ lép bép, và chiếc mặt nạ đồng bắt đầu chảy ra. Con rồng cắn một tảng thịt, hầu hết từ cổ của tên lính đánh thuê, rồi nuốt và thả cái xác cháy xuống nền nhà.
Những người khác trong hội Gió Thổi lùi lại. Ngay cả Meris Xinh Đẹp cũng mất can đảm trước những gì đang diễn ra. Cái đầu có sừng của Viserion gật gù nhìn đi nhìn lại giữa họ và con mồi của nó, nhưng sau một hồi, nó quên mất đám lính đánh thuê và cúi xuống xé thịt người chết. Lần này là một cẳng chân.
Quentyn thả roi ra. “Viserion,” anh gọi, lần này giọng to hơn. Anh làm được, anh sẽ làm được, cha anh cử anh đến nơi tận cùng trái đất cũng chỉ vì việc này, anh không thể phụ lòng ông được. “VISERION!” Anh vụt cây roi vào không khí, một tiếng tách vang lên vọng vào những bức tường cháy đen.
Cái đầu màu xám trắng ngẩng lên. Đôi mắt màu vàng vĩ đại nheo lại. Những vạt khói mỏng bay cuộn lên từ mũi con rồng.
“Nằm xuống,” hoàng tử ra lệnh. Ngươi không được để nó ngửi thấy mùi sợ
hãi. “Nằm xuống, nằm xuống, nằm xuống.” Anh lôi roi ra và quật vào mặt con rồng. Viserion rít lên.
Sau đó một làn gió nóng phả lên người anh, anh nghe thấy tiếng đôi cánh da đập phành phạch, không khí đầy tro bụi, và một tiếng gầm chói tai vang vọng lên những bức tường gạch cháy đen. Anh nghe thấy tiếng các bạn mình kêu thất thanh. Gerris đang liên tục, liên tục gọi tên anh, còn gã to xác thì rống lên, “Đằng sau cậu! Đằng sau cậu! Đằng sau cậu!”
Quentyn quay người và giơ tay trái lên che mắt trước cơn gió nóng rực như lò lửa. Rhaegal, anh tự nhủ, con màu xanh là Rhaegal.
Khi giơ chiếc roi lên, anh thấy cây roi đang cháy. Tay anh cũng vậy. Cả người anh, cả người anh cũng đang cháy.
Ôi, anh nghĩ. Sau đó anh bắt đầu hét lên.