Trò chơi vương quyền 3B – Nước mắt sói tuyết

Trò chơi vương quyền 3B – Nước mắt sói tuyết

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 28

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Trong một giây, dường như nhà vua không nghe thấy gì. Stannis không biểu lộ cảm xúc gì với tin tức vừa đến, không tức giận, không hoài nghi, thậm chí cũng không nhẹ nhõm. Ngài nhìn chằm chằm vào chiếc Bàn Vẽ, hai hàm răng nghiến chặt. “Ngươi có chắc không?” ngài hỏi.

“Thưa bệ hạ, thần không thấy cái xác, không hề thấy,” Salladhor Saan trả lời. “Nhưng trong thành, những con sư tử đang nhảy múa. Dân chúng gọi đó là Đám Cưới Đẫm Máu. Họ thề là Lãnh chúa Frey đã chặt đứt đầu thằng nhóc, thế vào đó bằng cái đầu con sói tuyết của nó, rồi ghim vương miện quanh tai con sói. Mẹ nó cũng bị giết và cái xác trần truồng bị quẳng xuống sông.”

Tại tiệc cưới, Davos thầm nghĩ. Khi thằng nhóc đó là một vị khách, ngồi trên bàn tiệc của kẻ giết người kia. Lũ người Nhà Frey thật đáng nguyền rủa. Ông lại ngửi thấy mùi máu đang cháy và nghe thấy tiếng những con đỉa phát ra thứ âm thanh kêu xì xì, bắn tóe trên than cháy đỏ.

“Chính cơn thịnh nộ của vị lãnh chúa đó đã giết chết nó,” Ser Axell Florent khẳng định. “Đó là bàn tay của R’hllor!”

“Hãy đội ơn Thần Ánh Sáng!” Hoàng hậu Selyse – một người phụ nữ hốc hác, nhỏ bé, khắc khổ, với đôi tai to và miệng đầy ria mép – ngân nga.

“Tay của R’hllor có vết đồi mồi và bị liệt không?” Stannis hỏi. “Việc này giống với hành động của Walder Frey hơn là của bất cứ vị thần nào.”

“R’hllor lựa chọn công cụ theo ý muốn của ngài.” Viên hồng ngọc trên cổ Melisandre sáng lấp lánh. “Phương cách của ngài rất huyền bí, nhưng không ai có thể chống lại ý chí mạnh mẽ của ngài.”

“Không ai có thể chống lại ngài!” Hoàng hậu hét lên.

“Ả kia, im ngay. Lúc này không phải ngươi đang gặp ác mộng đâu.” Stannis nhìn chằm chằm chiếc Bàn Vẽ. “Con sói đó không có người kế vị, trong khi loài thủy quái lại quá nhiều. Đám sư tử sẽ ăn tươi nuốt sống chúng, trừ khi… Saan, ta cần những con tàu nhanh nhất của ngươi đưa sứ giả đến Quần Đảo Iron và Cảng White. Ta sẽ ân xá.” Cách ngài nghiến hai hàm răng vào nhau cho thấy ngài không thích từ đó. “Ân xá hoàn toàn, cho tất cả những kẻ biết ăn năn hối cải vì đã mưu phản và thề sẽ trung thành với đấng quân vương chính đáng. Chúng phải thấy…”

“Chúng sẽ không thấy.” Giọng Melisandre rất dịu dàng. “Thưa bệ hạ, thần rất tiếc. Nhưng đây chưa phải là kết thúc. Sẽ còn nhiều hơn những tên vua giả danh trỗi dậy hòng chiếm vương miện của những kẻ đã chết.”

“Nhiều hơn sao?” Trông Stannis có vẻ sẵn sàng bóp cổ mụ ta. “Còn nhiều kẻ tiếm ngôi hơn sao? Nhiều kẻ tạo phản nữa sao?”

“Thần đã nhìn thấy điều đó trong ngọn lửa.”

Hoàng hậu Selyse bước đến bên cạnh đức vua. “Thần Ánh Sáng cử Melisandre dẫn đường chỉ lối đưa ngài đến chiến thắng. Xin bệ hạ hãy lưu ý đến lời khuyên của cô ấy. Ngọn lửa thiêng liêng của R’hllor không nói dối đâu.”

“Ả kia, luôn có những lời dối trá lừa lọc. Ngay cả khi ngọn lửa đó nói thật, ta vẫn thấy đó chỉ là trò bịp bợm thôi.”

“Một con kiến nghe thấy lời vàng tiếng ngọc của một đấng minh quân chưa chắc đã hiểu ngài ấy nói gì,” Melisandre nói, “và con người đều là kiến trước khuôn mặt rực lửa của thần linh. Nếu có lúc thần nhầm lẫn một lời cảnh báo với một lời tiên tri hoặc ngược lại, thì sự sai sót là do người đọc, không phải do cuốn sách. Nhưng về việc này, thần biết rất chắc chắn – các sứ giả và sự ân xá sẽ không có lợi cho bệ hạ trong lúc này, không hơn mấy con đỉa kia. Ngài phải cho vương quốc thấy tín hiệu của ngài. Tín hiệu chứng minh quyền lực của ngài!”

“Quyền lực?” Nhà vua khịt mũi. “Ta có một ngàn ba trăm quân ở Dragonstone, ba trăm quân ở Storm’s End.” Bàn tay nhà vua lướt trên chiếc Bàn Vẽ. “Phần còn lại của Westeros đang nằm trong tay đội quân của ta. Ta không có thủy quân, nhưng Salladhor Saan có. Không mất đồng xu nào để thuê lính đánh thuê của ông ta. Không lợi nhuận hay viễn cảnh chiến thắng nào đủ hấp dẫn để làm mồi cho những kẻ lính đánh thuê đi theo đại nghĩa của ta được.”

“Thưa ngài,” Hoàng hậu Selyse nói, “quân lực của ngài nhiều hơn quân lực của Aegon cách đây ba trăm năm. Chỉ có điều, ngài không có rồng thôi.”

Stannis sa sầm mặt mày nhìn hoàng hậu. “Chín pháp sư băng qua biển cả để ấp kho trứng của Aegon Đệ Tam. Baelor Thần Thánh đã cầu nguyện cả nửa năm trời. Aegon Đệ Tứ đóng những con rồng bằng gỗ và sắt. Aerion Lửa Sáng uống cả chất gây cháy hòng biến thành rồng. Nhưng các pháp sư đã thất bại, những lời cầu nguyện của vua Baelor không được đáp lại, những con rồng gỗ bị thiêu rụi và hoàng tử Aerion chết trong cơn gào rú điên cuồng.”

Hoàng hậu Selyse tỏ ra cứng rắn. “Nhưng không ai trong số đó được R’hllor lựa chọn. Không có sao chổi đỏ rực vắt ngang thiên đàng báo hiệu sự xuất hiện của họ. Không ai có được thanh kiếm Thắp Lửa – thanh kiếm rực lửa của những vị anh hùng. Và không ai trong số họ phải trả giá. Phu nhân Melisandre sẽ nói với ngài, thưa bệ hạ. Chỉ có cái chết mới trả nợ sự sống.”

“Đứa bé ư?”

“Chính là đứa bé,” hoàng hậu tán thành.

“Chính là đứa bé,” Ser Axell nhắc lại.

“Ta ốm gần chết vì thằng bé chết tiệt này, ngay cả trước khi nó chào đời,” nhà vua phàn nàn. “Tên nó văng vẳng trong tai ta và là một đám mây đen che kín linh hồn ta.”

“Hãy giao đứa bé đó cho thần và ngài sẽ không bao giờ phải nghe nhắc đến tên nó nữa,” Melisandre hứa hẹn.

Đừng, bởi ngài sẽ phải nghe thằng bé gào thét khi mụ ta thiêu nó. Davos không nói ra. Tốt hơn là không nên nói gì, trừ khi nhà vua ra lệnh.

“Hãy dâng đứa bé cho R’hllor,” ả nữ tu đỏ nói, “và lời tiên tri cổ xưa sẽ trọn vẹn. Rồng của ngài sẽ trỗi dậy và sải rộng đôi cánh bằng đá của nó. Vương quốc sẽ là của ngài.”

Ser Axell quỳ một chân xuống. “Thưa bệ hạ, thần quỳ gối cầu xin bệ hạ. Hãy đánh thức con rồng đá và khiến lũ phản bội phải run sợ. Giống như Aegon, ngài bắt đầu là Lãnh chúa của Dragonstone. Giống như Aegon, ngài sẽ chinh phạt. Hãy để những kẻ giả mạo và bất trung cảm nhận được ngọn lửa của ngài.”

“Hoàng hậu của ngài cũng cầu xin ngài, thưa bệ hạ.” Hoàng hậu Selyse quỳ cả hai chân xuống trước nhà vua, hai tay đan vào nhau như đang cầu nguyện. “Robert và Delena đã làm nhơ bẩn chiếc giường của chúng ta và đặt một lời nguyền đối với hôn sự của chúng ta. Đứa bé đó là trái độc từ hành vi gian dâm. Hãy lấy bóng của nó ra khỏi bụng em và em sẽ sinh cho ngài rất nhiều những đứa con trai chính thống, em biết điều đó.” Tay bà ôm chặt lấy hai chân nhà vua. “Đó chỉ là một thằng bé được sinh ra trong cơn hoan lạc đầy thú tính của anh trai ngài và nỗi ô nhục của đứa em họ của em.”

“Nó là máu mủ của ta. Ngươi hãy thôi lải nhải về việc đó đi.” Vua Stannis đặt một tay lên vai hoàng hậu và lúng túng vùng ra khỏi bàn tay đang nắm lấy mình. “Có thể Robert đã nguyền rủa chiếc giường cưới của chúng ta. Nhưng anh ấy đã thề với ta rằng anh ấy không bao giờ muốn làm hoen ố thanh danh của ta, chỉ bởi vì đêm đó anh ấy uống say và không biết mình đã bước vào phòng ngủ nào. Nhưng như thế có làm sao? Đứa bé không có tội, bất kể sự thật thế nào.”

Melisandre đặt bàn tay lên cánh tay của nhà vua. “Thần Ánh Sáng luôn yêu thương người vô tội. Không có sự hy sinh nào quý báu hơn thế. Từ dòng máu vua chúa của nó và ngọn lửa không bị ô uế của thần linh, một con rồng sẽ được sinh ra.”

Stannis không vùng ra khỏi cái chạm tay của Melisandre như ngài vùng ra khỏi nắm tay của hoàng hậu. Ả nữ tu đỏ này có tất cả những gì Selyse không có; trẻ trung, đầy đặn và đẹp lạ thường, với khuôn mặt trái tim, mái tóc màu đồng và đôi mắt đỏ huyền ảo. “Chắc chắn sẽ kỳ diệu lắm khi nhìn thấy một con rồng đá sống lại,” ngài thú nhận, dù miễn cưỡng. “Và cưỡi rồng nữa… Ta nhớ lần đầu tiên cha đưa ta vào cung, Robert phải cầm tay ta. Ta khoảng 4 tuổi, anh ấy cũng chỉ lên 5 hay 6 mà thôi. Sau cùng hai anh em ta nhất trí rằng nhà vua phải là người cao quý giống như những con rồng phải thật đáng sợ vậy.” Stannis khịt mũi. “Nhiều năm sau, cha ta nói rằng sáng hôm đó, Aerys bị đứt tay vì ngạnh ngai cứa vào, vậy nên hôm đó quân sư của ông ta tiếp triều thay. Chính Tywin Lannister đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với chúng ta.” Những ngón tay ngài khẽ chạm lên mặt bàn, khẽ miết theo con đường mòn xuyên qua những ngọn đồi bằng sơn dầu. “Khi Robert đội vương miện, anh ấy cho hạ hết đống đầu lâu rồng xuống, nhưng anh ấy không chịu nổi cảnh ra lệnh hủy hoại chúng. Đôi cánh của rồng sải rộng khắp Westeros… từng có một con rồng to lớn…”

“Thưa bệ hạ!” Davos tiến đến. “Thần xin phép được nói?”

Stannis ngậm miệng lại mạnh đến nỗi hai hàm răng va vào nhau. “Lãnh chúa vùng Rainwood của ta. Ngươi nghĩ ta phong ngươi làm quân sư làm gì, nếu như không phải để ngươi lên tiếng?” Nhà vua vẫy tay. “Ngươi cứ nói tự nhiên.”

Thần Chiến Binh, xin hãy cho con dũng khí. “Thần biết rất ít về những con rồng và các vị thần… nhưng hoàng hậu vừa nói về những lời nguyền. Trong con mắt của cả thần linh và con người, không ai đáng bị nguyền rủa bằng Sát Vương.”

“Trên đời này không có thần linh nào hết, trừ R’hllor và Ngoại Nhân, và tên của hai vị thần này không được phép nhắc đến.” Miệng Melisandre tạo thành một vệt đỏ đậm nét. “Và những con người bé nhỏ thường nguyền rủa những điều họ không thể nào hiểu được.”

“Ta là một con người bé nhỏ,” Davos thú nhận, “Vậy hãy nói cho ta biết tại sao ngươi lại cần cậu bé Edric Storm này để đánh thức con rồng đá vĩ đại của ngươi.” Ông quyết tâm nhắc đến tên đứa bé thường xuyên nhất có thể.

“Thưa lãnh chúa, chỉ có cái chết mới đổi được sự sống. Một món quà vĩ đại cần phải có sự hy sinh vĩ đại.”

“Đâu là sự vĩ đại của đứa con hoang đó vậy?”

“Trong huyết quản nó có dòng máu vua chúa. Ngài đã thấy dù chỉ một chút dòng máu đó thôi có thể làm được những gì…”

“Ta thấy ngươi nướng vài con đỉa.”

“Và hai tên vua giả danh đã chết.”

“Robb Stark bị sát hại bởi Lãnh chúa Walder Frey của vùng Crossing, và chúng ta nghe nói Balon Greyjoy bị ngã từ trên cầu xuống. Vậy những con đỉa của ngươi giết ai vậy?”

“Ngài nghi ngờ sức mạnh của R’hllor sao?”

Không. Davos nhớ rất rõ đêm đó, một cái bóng sống quằn quại chui ra khỏi bụng cô ta dưới Storm’s End, đôi bàn tay đen ngòm của nó bấu chặt lấy bắp đùi cô ta. Ta phải nói năng thật cẩn thận ở nơi này, nếu không cái bóng nào đó cũng sẽ tìm đến ta. “Thậm chí một kẻ buôn lậu hành cũng phân biệt được hai với ba củ hành. Phu nhân, cô thiển cận lắm.”

Stannis phì cười. “Ông ấy đã tóm được điểm yếu của nàng rồi đấy. Hai không thể là ba được.”

“Chắc chắn là như vậy, thưa bệ hạ. Một, hoặc thậm chí cả hai tên vua giả kia không may bị chết… nhưng nếu là ba thì sao? Nếu Joffrey chết trong khi có chừng ấy quân lực, khi quanh nó là vô số quân lính và Ngự Lâm Quân, chẳng phải điều đó cho thấy sức mạnh của Thần Ánh Sáng sao?”

“Có thể.” Nhà vua nói như thể ngài đang miễn cưỡng trong từng câu chữ.

“Hoặc không.” Davos cố gắng hết sức che giấu nỗi sợ hãi của chính mình.

“Joffrey sẽ chết,” hoàng hậu Selyse tuyên bố đầy vẻ bình thản và tự tin.

“Cũng có khi hắn chết rồi đấy,” Ser Axell thêm vào.

Stannis bực tức nhìn bọn họ. “Các người có phải là lũ quạ được huấn luyện để lần lượt nhại lại ta không? Đủ rồi đấy.”

“Bệ hạ, hãy nghe em…” Hoàng hậu khẩn nài.

“Tại sao? Hai không thể là ba. Vua cũng đếm giỏi như những kẻ buôn lậu vậy. Các người có thể lui.” Stannis quay lưng về phía bọn họ.

Melisandre giúp hoàng hậu đứng dậy. Selyse bực bội bước ra khỏi phòng, ả nữ tu đỏ lê bước theo sau. Ser Axell nấn ná đủ lâu để dành cho Davos một cái nhìn cuối cùng. Một cái nhìn xấu xa trên một khuôn mặt xấu xí, ông thầm nghĩ khi bắt gặp ánh mắt chòng chọc đó.

Sau khi những người đó đi hết, Davos hắng giọng. Nhà vua ngẩng đầu lên. “Tại sao ngươi vẫn còn ở đây?”

“Thưa bệ hạ, về Edric Storm…”

Stannis tỏ điệu bộ khó chịu. “Hãy để ta yên.”

Davos vẫn kiên quyết. “Con gái ngài học bài cùng cậu bé, và hàng ngày cô bé vẫn chơi cùng cậu ta tại Vườn Aegon.”

“Ta biết điều đó.”

“Cô bé sẽ đau lòng lắm nếu có bất cứ rủi ro nào…”

“Ta cũng hiểu điều đó.”

“Nếu ngài nhìn thấy cậu bé…”

“Ta đã nhìn thấy nó rồi. Trông nó rất giống Robert. Đúng, nó tôn sùng anh ấy. Liệu ta có nên nói cho nó biết người cha yêu quý của nó bao lâu mới nghĩ đến nó một lần nhỉ? Anh trai ta đẻ rất nhiều con, nhưng sau khi chào đời, chúng trở thành nỗi phiền toái sau khi được sinh ra.”

“Cậu bé hỏi thăm ngài mỗi ngày, cậu bé ấy…”

“Davos, ngài đang khiến ta giận đấy. Ta sẽ không nghe gì về đứa con hoang đó nữa.”

“Thưa bệ hạ, cậu bé tên là Edric Storm.”

“Ta biết tên của nó. Liệu có cái tên nào thích hợp hơn chăng? Cái tên ấy cho người ta biết thân thế con hoang của nó, dòng dõi cao quý và những rắc rối mà nó mang theo. Edric Storm. Đó, ta nói rồi đó. Ngươi hài lòng chưa hả quân sư?”

“Edric…” ông bắt đầu nói.

“…là một đứa trẻ con! Nó có thể là đứa bé giỏi nhất trần gian nhưng điều đó cũng không quan trọng. Trách nhiệm của ta là vì cả vương quốc này.” Bàn tay ngài lướt trên chiếc Bàn Vẽ. “Ở Westeros có bao nhiêu đứa bé trai? Bao nhiêu đứa bé gái? Bao nhiêu đàn ông, bao nhiêu đàn bà? Bóng tối sẽ nuốt chửng hết tất cả bọn họ, cô ấy đã nói vậy. Bóng đêm sẽ không bao giờ kết thúc. Cô ấy nói những điều tiên tri… một anh hùng tái sinh nơi biển cả, những con rồng đá trỗi dậy… cô ấy nói về những dấu hiệu và thề rằng những dấu hiệu đó hướng vào ta. Ta chưa bao giờ yêu cầu điều đó, cũng chưa bao đòi được làm vua. Nhưng sao ta dám coi thường cô ta chứ?” Ngài nghiến răng. “Chúng ta không được chọn số phận của mình. Nhưng chúng ta phải… phải thực hiện trách nhiệm của mình, đúng không? Lớn hay nhỏ, tất cả chúng ta đều phải làm. Melisandre thề đã nhìn thấy ta trong ngọn lửa của cô ấy, khi ta đối mặt với bóng tối với thanh gươm Thắp Lửa giơ cao. Người Thắp Lửa!” Stannis khịt khịt mũi chế giễu. “Thanh gươm ấy sáng lắm, ta công nhận với ngươi như vậy, nhưng trên Xoáy Nước Đen, thanh gươm diệu kỳ ấy không khác gì những thanh kiếm bằng thép thông thường. Một con rồng sẽ xoay chuyển cuộc chiến. Aegon đã từng đứng đây như ta, và nhìn xuống chiếc bàn này. Ngươi có nghĩ liệu chúng ta có còn gọi ngài ấy là Aegon Người Chinh Phạt hay không nếu ngày đó ngài ấy không có những con rồng?”

“Thưa bệ hạ,” Davos lên tiếng, “cái giá…”

“Ta biết cái giá phải trả! Đêm qua, khi nhìn vào lò sưởi, ta cũng đã thấy vài điều trong ngọn lửa. Ta đã nhìn thấy một vị vua, một chiếc vương miện đang cháy trên trán của ông ta, đang cháy… đang cháy, Davos ạ. Vương miện của chính ông ta thiêu rụi da thịt ông ta và biến nó thành tro bụi. Ngươi có nghĩ ta cần Melisandre nói cho ta biết điều đó có ý nghĩa gì hay không? Hay ngươi nói cho ta biết được không?” Nhà vua di chuyển, khiến bóng của ngài đổ lên hình vẽ Vương Đô trên bàn. “Nếu Joffrey chết… thì mạng sống của một đứa con hoang có ý nghĩa gì đối với cả một vương quốc chứ?”

“Mọi thứ,” Davos khẽ trả lời.

Stannis nhìn ông, hàm răng nghiến lại. “Ra ngoài,” cuối cùng nhà vua nói, “trước khi những lời ngươi nói khiến ngươi phải quay trở lại ngục tối.”

Đôi khi những trận gió bão thổi dữ dội đến nỗi người ta không thể làm gì khác ngoài việc gập buồm lại. “Vâng, thưa bệ hạ.” Davos cúi người, nhưng Stannis dường như đã quên mất sự hiện diện của ông.

Trời lạnh giá khi ông rời khỏi Trống Đá. Một cơn gió lộng thổi đến, khiến cờ xí bay phần phật dọc theo bức tường thành. Davos ngửi thấy mùi muối trong không khí. Biển cả. Ông yêu mùi vị mằn mặn đó. Nó khiến ông muốn bước lên tàu, giương buồm và hướng về phía nam với Marya và hai đứa con nhỏ. Ngày nào ông cũng nghĩ đến vợ con, đêm đến ông càng nghĩ nhiều hơn. Một phần trong ông không muốn gì hơn là được đưa Devan về nhà. Ta không thể. Chưa được. Giờ ta là một lãnh chúa, là quân sư của nhà vua, ta không được phép khiến ngài ấy thất vọng.

Ông ngước mắt nhìn lên những bức tường thành. Ở những gờ tường giữa các lỗ châu mai, cả ngàn bức tượng kỳ cục và máng xối hình đầu thú nhìn xuống ông, mỗi cái một vẻ; rồng bay, sư tử đầu chim, ác quỷ, nhân ngư, rồng túi, hung thần, rắn mắt thần và cả ngàn sinh vật lạ lùng nhô lên từ những lỗ châu mai như thể chúng lớn lên từ đó. Và những con rồng có ở khắp mọi nơi. Đại Sảnh là một con rồng đang nằm sấp. Mọi người đi ra đi vào qua miệng rồng. Những gian bếp là một con rồng cuộn tròn, với khói và hơi nóng tỏa ra từ bếp bốc lên qua lỗ mũi nó. Các tòa tháp là những con rồng uốn quanh những bức tường thành hay đang sẵn sàng bay lên; tháp Winwyrrn dường như đang rít lên thách thức trong khi Tháp Rồng Biển lạnh lùng vươn lên khỏi những con sóng. Những con rồng nhỏ hơn tạo thành khung cổng. Móng vuốt rồng nổi lên trên bờ tường để nắm lấy những ngọn đuốc, những đôi cánh bằng đá to lớn bọc lấy lò rèn và kho vũ khí, những cái đuôi tạo thành cửa tò vò, cây cầu hay bậc thang bên ngoài.

Davos thường nghe nói rằng các thầy pháp sư của thành Valyria không cắt và chạm trổ giống như những thợ nề bình thường mà họ dùng đá, lửa và phép thuật giống như thợ gốm dùng đất sét. Nhưng lúc này ông đang băn khoăn. Liệu có phải chúng là rồng thật và bằng cách nào đó, bị biến thành đá không?

“Tôi nghĩ ả đàn bà mặc đồ đỏ đó khiến chừng ấy con rồng sống lại, tòa lâu đài sẽ sụp đổ. Làm gì có loại rồng nào nhan nhản khắp phòng ốc, cầu thang và đồ đạc? Cả cửa sổ. Ống khói? Và cầu tiêu nữa?”

Davos quay người lại và thấy Salladhor Saan đang đứng cạnh. “Ông đã tha thứ cho sự bội bạc của ta, phải không Salla?”

Lão cướp biển già nua chỉ một ngón tay về phía ông. “Tha thứ, phải. Nhưng quên thì không. Tất cả đống vàng trên Đảo Claw lẽ ra đã là của tôi, tôi phát mệt và già cả người mỗi khi nghĩ đến kho báu ấy. Nếu tôi chết trong cảnh bần hàn, đám vợ và thê thiếp của tôi sẽ nguyền rủa ngài, Lãnh chúa Củ Hành ạ. Lãnh chúa Celtigar đã có cả đống rượu ngon trong khi tôi không được nếm một giọt nào, một con đại bàng biển được ông ấy huấn luyện bay từ cổ tay, và một chiếc tù và ma thuật biết gọi mời thủy quái từ dưới biển sâu. Chiếc tù và đó quả là hữu ích, để dìm lũ người Tyroshi và đám sinh vật đáng ghét của hắn xuống biển. Nhưng liệu tôi có chiếc tù và đó để thổi không? Không, bởi nhà vua đã phong cho lão bạn già của tôi làm quân sư.” Lão luồn cánh tay vào cánh tay Davos và nói, “người của hoàng hậu không ưa ông đâu, ông bạn già của tôi ạ. Tôi nghe nói một quân sư đích thực phải có đội quân riêng. Có thật như vậy không?”

Ông nghe nhiều quá rồi, lão cướp biển già ạ. Một tên buôn lậu phải hiểu rõ con người như hiểu những đợt thủy triều, nếu không hắn không thể sống lâu để mà buôn lậu. Đám người của hoàng hậu có thể giữ chân các môn đệ cuồng nhiệt của Thần Ánh Sáng, nhưng số ít hơn người dân của Dragonstone vẫn đang giao phó mạng sống của mình cho các vị thần mà họ đã biết từ tấm bé. Họ nói Stannis bị trúng ma thuật, rằng Melisandre đã kéo ngài ấy ra khỏi sự tôn sùng Thất Diện Thần để quỳ gối trước lũ ma quỷ của bóng đêm, và… tội ác khủng khiếp nhất là… cô ta và vị thần của cô ta đã khiến ngài thất bại.

Cả những hiệp sĩ và các lãnh chúa đều cảm thấy điều đó. Davos đã tìm đến họ, tuyển chọn họ kỹ lưỡng y như lúc ông lựa chọn đoàn thủy thủ của mình. Ser Gerald Gower đã chiến đấu anh dũng trong trận Xoáy Nước Đen, nhưng sau đó người ta nghe thấy ông ấy nói rằng R’hllor đã quá kém cỏi khi để cho đội quân của ông ấy bị đánh đuổi bởi một thằng lùn và một kẻ đã chết. Ser Andrew Estermont có quan hệ họ hàng với nhà vua, từng là hộ vệ của nhà vua mấy năm trước đó. Gã con hoang của Nightsong chỉ huy đội quân bọc hậu giúp Stannis an toàn trở lại đoàn thuyền lớn của Salladhor Saan, nhưng ông ta đã dâng hiến cho Thần Chiến Binh niềm tin mãnh liệt như chính con người ông ấy vậy. Người của nhà vua, không phải người của hoàng hậu.

“Một cướp biển vùng Lyseni từng nói với tôi rằng một tên buôn lậu giỏi phải biết giấu mặt,” Davos thận trọng đáp lại. “Những cánh buồm đen, mái chèo bọc kín và một đoàn thủy thủ biết giữ mồm giữ miệng.”

Tên cướp biển người Lyseni cười vang. “Một đoàn thủy thủ không có lưỡi thì tốt hơn. Những thằng câm to con không biết đọc và cũng không biết viết.” Nhưng rồi lão có vẻ buồn rười rượi. “Nhưng tôi thấy vui khi biết có người ủng hộ ông, bạn già của tôi ạ. Ông nghĩ liệu nhà vua có giao đứa trẻ cho ả nữ tu đỏ đó không? Một con rồng nhỏ có thể kết thúc cuộc chiến vĩ đại này.”

Thói quen khiến ông đưa tay lên tìm bao da may mắn trên cổ, nhưng mẩu xương khớp ngón tay không còn trên đó nữa. “Ngài ấy sẽ không đâu,” Davos nói. “Ngài ấy không thể hại máu mủ của mình.”

“Lãnh chúa Renly sẽ rất vui khi nghe được điều đó.”

“Renly là một tên phản bội. Edric Storm là một đứa trẻ vô tội trước mọi tội ác. Nhà vua là một người công tâm.”

Salla nhún vai. “Chúng ta cùng xem. Hoặc rồi ông xem. Còn tôi, tôi sẽ quay về với biển cả. Thậm chí ngay lúc này, những tên buôn lậu bất lương có lẽ cũng đang đi ngang qua Vịnh Xoáy Nước Đen, hy vọng trốn được thuế quan của các lãnh chúa.” Lão vỗ lưng Davos. “Hãy bảo trọng. Cả ông và những người bạn câm của ông. Ông bây giờ trưởng thành hơn rất nhiều rồi, nhưng trèo cao thì ngã đau đấy.”

Davos nhớ lại câu nói đó khi ông trèo lên những bậc cầu thang ở Tháp Rồng Biển để tới phòng của vị học sĩ bên dưới chuồng quạ. Ông không cần Salla phải nói cho ông biết rằng ông đã lên quá cao. Ta không biết đọc, không biết viết, giới quý tộc coi thường ta, ta không biết cai trị, làm sao ta làm quân sư được? Ta thuộc về những con thuyền, không phải thuộc về những tòa lâu đài.

Ông cũng nói vậy với Maester Pylos. “Ngài là một thuyền trưởng trứ danh,” vị học sĩ đáp. “Thuyền trưởng cai trị con thuyền của mình, phải không? Ngài phải băng qua những con nước nguy hiểm khó lường, giương buồm đón gió lên, biết khi nào sắp có bão và làm sao để vượt qua nó. Làm quân sư cũng giống như thế.”

Pylos có ý tốt nhưng sự tự tin của ông trở nên rỗng tuếch. “Không hề giống nhau đâu!” Davos phản đối. “Vương quốc không phải là một con thuyền… nếu không vương quốc này sẽ bị chìm đắm. Ta hiểu rõ gỗ, dây chão và dòng chảy, đúng, nhưng những thứ đó đâu giúp ích gì cho ta lúc này. Ta biết phải tìm hướng gió nào để đưa vua Stannis tới ngai vàng của người đây?”

Vị học sĩ cười khi nghe điều đó. “Và ngài đã tìm được hướng gió đó rồi đấy, thưa ngài. Ngài có biết rằng lời nói chính là ngọn gió và ngài đã thổi bay cả lời nói của tôi đi bằng những ý nghĩ tốt đẹp của chính ngài. Tôi nghĩ nhà vua biết rõ người có gì ở ngài.”

“Những củ hành,” Davos buồn rầu nói. “Đó là những gì ngài có ở tôi. Quân sư của nhà vua lẽ ra phải là một quý tộc cao quý, người nào đó trí tuệ và có học, một thủ lĩnh của trận chiến hay một hiệp sĩ…”

“Ser Ryam Redwyne là hiệp sĩ vĩ đại nhất vào thời của ông ta và là một trong những quân sư tệ hại nhất. Những lời cầu nguyện của ngài Tư Tế Murmison hóa ra là kỳ diệu, nhưng khi làm quân sư, chẳng mấy chốc ông ta đã bị cả vương triều cầu nguyện cho ông ấy chết quách đi. Lãnh chúa Butterwell nổi tiếng tài trí hơn người, Myles Smallwood dũng khí, Ser Otto Hightower học rộng biết nhiều nhưng khi làm quân sư, tất cả bọn họ đều thất bại. Bẩm sinh, các vị vua rồng thường chọn họ hàng làm quân sư, và kết quả đạt được ví như Baelor Breakspear và Maegor Tàn Nhẫn. Đối lập lại điều này, ngài có thể thấy Tư Tế Barth, con trai của người thợ rèn mà Cựu Vương có được từ thư viện của Tháp Đỏ, người đã mang đến cho vương quốc bốn mươi năm sống bình yên và thịnh vượng.” Pylos cười. “Lãnh chúa Davos, ngài hãy đọc lịch sử của chính mình, và ngài sẽ thấy những nghi ngại của ngài là vô căn cứ.”

“Làm sao ta có thể đọc lịch sử khi ta không biết chữ?”

“Thưa ngài, bất cứ ai cũng có thể đọc,” Maester Pylos đáp. “Không cần đến những phép thuật màu nhiệm, không cần dòng dõi cao quý, tôi đang dạy văn cho con trai ngài theo lệnh của nhà vua. Vậy hãy để tôi dạy ngài đọc chữ.”

Đó quả là một lời đề nghị tốt đẹp và Davos không thể chối từ. Vậy nên ngày nào ông cũng đến phòng của vị học sĩ trên đỉnh Tháp Rồng Biển, nhăn mặt chau mày với những cuộn giấy, những tấm da dê và những bộ sách bằng da để đánh vần thêm vài chữ. Sự nỗ lực đó thường khiến ông đau đầu và biến ông thành tên hề y như thằng ngốc Mặt Sẹo. Con trai Devan của ông chưa được 12 tuổi nhưng khả năng học của cậu bé vượt xa khả năng của cha mình, còn công chúa Shireen và Edric Storm đọc dễ như trở bàn tay. Khi phải đọc sách, Davos còn non dại hơn cả mấy đứa con nít. Nhưng ông vẫn quyết tâm. Giờ đây ông là quân sư của nhà vua, và một quân sư nhất thiết phải biết đọc.

Những bậc thang xoắn ốc ở Tháp Rồng Biển trở thành hành trình đau đớn đối với Maester Cressen sau khi ông bị ngã gãy hông. Davos thấy nhớ vị học sĩ già đó. Ông nghĩ Stannis cũng nhớ ông ấy. Pylos có vẻ thông minh, cần cù và có thiện chí nhưng cậu ta quá trẻ, và nhà vua không tin cậu ta như tin cẩn Cressen. Vị học sĩ đó đã ở bên Stannis rất lâu… Cho tới khi ông ấy không thuận ý Melisandre và bị chết vì điều đó.

Lên tới bậc thang trên cùng, Davos nghe thấy tiếng chuông khe khẽ leng keng chỉ có thể là của Mặt Sẹo. Tên hề của công chúa đứng đợi bên ngoài cửa của học sĩ giống như một con chó săn trung thành. Đôi vai uể oải và sụp xuống, khuôn mặt to bè với những đường vân vuông xanh đỏ sặc sỡ, Mặt Sẹo đội một chiếc mũ làm từ bộ gạc hươu buộc chặt vào một chiếc xô thiếc. Cả chục quả chuông treo lủng lẳng trên nhánh gạc hươu, kêu rủng rẻng mỗi khi cậu ta cử động… chuông rung liên hồi vì cậu ngốc đó hiếm khi đứng yên. Cậu ta rung chuông làm om sòm mỗi nơi đi qua; Davos biết rõ tại sao Pylos lại bắt cậu ta đứng ngoài cửa trong khi Shireen học bài. “Dưới biển con cá lớn nuốt cá bé,” cậu hề ngốc nghếch thì thầm với Davos. Cậu ta lắc lắc cái đầu và những quả chuông bắt đầu rung lên leng keng, và ngân nga, “Tôi biết, tôi biết, ồ ố ô.”

“Nhưng trên này thì cá nhỏ dạy cá lớn,” Davos nói, ông luôn cảm thấy già nua mỗi khi ngồi xuống học đọc. Có lẽ sự việc sẽ khác nhiều nếu Maester Cressen già nua là người dạy ông đọc, còn Pylos chỉ đáng tuổi con trai ông mà thôi.

Ông thấy vị học sĩ ngồi bên chiếc bàn gỗ dài ngập sách và giấy cuộn, đối diện với ba đứa trẻ. Công chúa Shireen ngồi giữa hai thằng bé. Ngay cả lúc này Davos vẫn thấy vui sướng vô cùng khi nhìn thấy con trai mình kết bạn với công chúa và một đứa con hoang của nhà vua. Giờ Devan là một lãnh chúa, không chỉ là hiệp sĩ. Lãnh chúa của vùng Rainwood. Davos cảm thấy tự hào về điều đó hơn là tước hiệu của mình. Thằng bé cũng biết đọc. Nó đọc và viết như thể đó là khả năng bẩm sinh. Pylos không phàn nàn gì mà còn khen ngợi sự siêng năng của nó, còn thầy dạy võ thì nhận xét Devan cũng hứa hẹn tài năng với kiếm và thương. Và cậu bé cũng ngoan đạo. “Các anh trai của con đã lên Thiên Đường Ánh Sáng và ngồi bên cạnh Thần Ánh Sáng,” Devan nói khi cha kể cho cậu nghe các anh trai cậu đã chết như thế nào. “Con sẽ cầu nguyện cho các anh, và cho cả cha nữa, cha ạ, để cha có thể bước đi trong Ánh Sáng của Thần cho đến ngày tận cùng.”

“Cha, chúc cha buổi sáng tốt lành,” cậu bé chào ông. Trông thằng bé giống hệt Dale hồi xưa, Davos thầm nghĩ. Chắc chắn con trai cả của ông chưa bao giờ mặc đẹp như Devan trong bộ y phục của cận vệ, nhưng cả hai anh em đều có khuôn mặt vuông vức mộc mạc, đôi mắt nâu cương trực và mái tóc nâu mỏng tung bay. Hàm và cằm Devan lún phún những sợi râu vàng, và chắc chắn mấy sợi râu lún phún ấy sẽ khiến nhiều cô gái liễu yếu đào tơ thấy thẹn thùng, mặc dù thằng bé rất tự hào về “bộ râu” của mình. Cũng giống như Dale đã từng tự hào về bộ râu của nó. Devan lớn tuổi nhất trong ba đứa trẻ đang ngồi học.

Nhưng Edric Storm lại cao hơn nó ba phân, ngực và vai cũng to rộng hơn. Cậu bé giống cha ở điểm đó; cậu không bao giờ bỏ luyện kiếm và khiên mỗi sáng. Các vị bô lão có thể nói rằng so với Stannis hồi nhỏ thì thằng bé con hoang đó có nhiều điểm giống Robert và Renly lúc bé hơn; mái tóc đen như than, đôi mắt màu xanh sâu thẳm, cái miệng, hàm răng và xương gò má. Chỉ có đôi tai là nhắc người ta biết mẹ nó là một người Nhà Florent.

“Dạ, buổi sáng tốt lành, thưa ngài,” Edric cũng chào theo. Có thể thằng bé hơi hung dữ và cao ngạo nhưng các học sĩ, quản gia và thầy dạy võ đã giáo dục nó rất tốt. “Ngài đến từ chỗ chú của cháu phải không? Chú cháu thế nào ạ?”

“Ngài khỏe,” Davos nói dối. Thật ra nhà vua đang phờ phạc và lo lắng vì cậu ta nhưng ông thấy không cần thiết phải trút lên cậu bé nỗi lo đó. “Ta hy vọng ta không quấy rầy giờ học của các con.”

“Chúng tôi vừa kết thúc xong, thưa ngài,” Maester Pylos đáp.

“Chúng cháu đang đọc về vua Daeron Đệ Nhất.” Công chúa Shireen là một đứa bé rầu rĩ, ngoan ngoãn và hiền lành, nhưng không hề xinh đẹp. Cô bé thừa hưởng khuôn mặt vuông vắn của Stannis và đôi tai Nhà Florent của Selyse, các vị thần còn tàn nhẫn hơn khi sắp đặt cho cô bé bị bệnh da thịt hóa đá ngay khi còn nằm nôi. Căn bệnh đã biến một bên má và nửa cổ cô bé thành màu xám, nứt toác và thô ráp, nhưng cô bé may mắn vẫn còn sống và giữ được đôi mắt. “Ngài ấy tham chiến và chinh phạt vùng Dorne. Người ta gọi ngài ấy là Rồng Con.”

“Ngài ấy tôn thờ nhầm thần linh,” Devan nói thêm, “nhưng mặt khác ông ấy là một vị vua vĩ đại và rất dũng cảm trên chiến trường.”

“Đúng vậy,” Edric Storm tán thành, “nhưng cha tôi dũng cảm hơn. Rồng Con chưa bao giờ chiến thắng ba trận trong một ngày cả.”

Công chúa nhìn cậu bé với đôi mắt mở to. “Bác Robert thắng ba trận chỉ trong một ngày sao?”

Đứa con hoang gật đầu. “Đó là lần đầu khi cha trở về quê hương kêu gọi các chư hầu. Lãnh chúa Grandison, Cafferen và Fell lập kế hoạch hợp sức tại Summerhall và hành quân đến Storm’s End, nhưng nhờ người đưa tin, cha phát hiện ra kế hoạch của chúng và ngay lập tức lên đường với tất cả kỵ sĩ và hộ vệ. Khi những kẻ chủ mưu lần lượt đến Summerhall, cha đánh bại từng tên trước khi chúng kịp hợp sức. Cha giết chết Lãnh chúa Fell bằng một trận đấu tay đôi và bắt con trai ông ta là Silveraxe.”

Devan nhìn Pylos. “Có phải thế không ạ?”

“Tôi vừa nói vậy mà, phải không?” Edric Storm đáp trước khi học sĩ kịp trả lời. “Ông đánh bại cả ba bọn họ, và cha chiến đấu dũng cảm đến nỗi sau đó Lãnh chúa Grandison và Cafferen đều thuận theo cha, cả Silveraxe nữa. Chưa ai từng đánh bại cha tôi.”

“Edric, con không nên khoe khoang như vậy,” Maester Pylos nói. “Vua Robert cũng có lúc thất bại như những người khác thôi. Lãnh chúa Tyrell đã thắng ông ở trận Ashford và ông ấy cũng đã thua rất nhiều trận đấu thương.”

“Nhưng dù sao cha vẫn thắng nhiều hơn thua. Và cha cũng giết hoàng tử Rhaegar trong trận Trident.”

“Đúng vậy,” học sĩ tán thành. “Nhưng bây giờ ta phải tập trung vào Lãnh chúa Davos, ngài ấy đã rất kiên nhẫn chờ đợi. Ngày mai chúng ta sẽ đọc nhiều hơn về Cuộc Chinh Phạt Vùng Dorne của vua Daeron.”

Công chúa Shireen và hai cậu bé lễ phép chào tạm biệt. Khi mấy đứa bé đi rồi, Maester Pylos tiến lại gần Davos. “Thưa ngài, có lẽ ngài cũng muốn thử đọc một chút về Cuộc Chinh Phạt Vùng Dorne chứ?” Anh ta đẩy nhẹ quyển sách mỏng, bìa da ngang qua bàn. “Vua Daeron đã viết bằng phong cách tao nhã, đơn giản, và lịch sử về ngài ấy thấm đẫm máu, chiến tranh và lòng quả cảm. Con trai ngài rất say mê với cuốn sách này.”

“Con trai ta chưa đầy 12 tuổi. Ta là quân sư của nhà vua. Hãy cho ta một lá thư khác, nếu có thể.”

“Theo lệnh ngài.” Maester Pylos lục lọi trên bàn, mở ra rồi gạt bỏ một loạt mảnh giấy da dê. “Không có bức thư nào mới. Có lẽ một bức cũ…”

Davos cũng thích đọc sách như những người khác, nhưng ông cảm thấy Stannis không chọn ông làm quân sư vì sở thích của ông. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là giúp vua trị vì thiên hạ, và để làm được điều đó ông phải hiểu được những từ ngữ mà quạ mang đến. Ông nhận ra rằng cách tốt nhất để học một điều gì đó là phải thực hiện nó; mảnh vải cánh buồm hay cuộn giấy da đều không thành vấn đề.

“Cái này có thể giúp ích cho mục đích của chúng ta.” Pylos chuyển cho ông một bức thư.

Davos trải miếng giấy da nhăn nhúm hình vuông nhỏ xuống và nheo mắt trước những con chữ nhỏ xíu lằng nhằng. Đọc quả là vất vả cho đôi mắt, ông sớm học được điều đó. Thỉnh thoảng ông thắc mắc liệu Citadel có trao giải thưởng bằng tiền cho vị học sĩ nào viết chữ bé nhất không. Pylos bật cười với ý nghĩ đó, nhưng…

“Gửi đến… năm nhà vua,” Davos đọc, hơi lưỡng lự một chút ở chữ năm, bởi ông thường không nhìn thấy con số đó được viết ra. “Vị vua… bê… vua… bênh?”

“Bên ngoài,” vị học sĩ chữa lại.

Davos nhăn mặt. “Vị vua bên ngoài Tường Thành đến… đến phương nam. Hắn dẫn đầu một… một… rất lắm…”

“Rất lớn.”

“…một đoàn người du mục rất lớn. Lãnh chúa M… Mmmor… Mormont đã gửi… quạ từ… khu… khu…”

“Khu rừng. Khu rừng ma.” Pylos gạch chân những từ đó bằng đầu ngón tay trỏ. “…khu rừng ma. Ông ấy… bị… tấn công?”

“Đúng.”

Hài lòng, ông chau mày đọc tiếp. “Đến nay như… những con quạ khác có bay về nhưng không mang theo tin. Chúng tôi… e rằng… Mormont và toàn bộ quân đã bị giết…” Đột nhiên chợt nhận ra mình đang đọc cái gì. Ông lật bức thư lại và thấy lớp xi niêm phong màu đen. “Đây là thư của Đội Tuần Đêm. Học sĩ, vua Stannis đã đọc bức thư này chưa?”

“Tôi đã mang nó đến cho Lãnh chúa Alester khi nó mới được chuyển đến. Lúc đó ông ấy là quân sư. Tôi tin rằng ông ấy đã bàn bạc với hoàng hậu. Khi tôi hỏi ông ấy liệu có muốn gửi thư trả lời không, ông ấy bảo tôi đừng có ngu. Ông ấy nói, “Nhà vua đang thiếu người chiến đấu trong chính cuộc chiến của ngài ấy, chẳng việc gì phải phí quân đối với lũ người du mục đó.”

Đúng là như vậy. Và nội dung viết về năm vị vua chắc sẽ khiến Stannis tức giận. “Chỉ có người đang chết đói mới xin bánh mì của một kẻ ăn xin,” ông lẩm bẩm.

“Ngài nói gì ạ, thưa ngài?”

“Điều mà vợ ta hay nói.” Davos gõ những ngón tay cụt ngủn lên mặt bàn. Lần đầu tiên ông nhìn thấy Tường Thành là khi ông còn nhỏ tuổi hơn Devan bây giờ, khi ông phục vụ trên tàu Cobblecat dưới sự chỉ huy của Roro Uhoris, một gã người Tyrosh nổi tiếng lênh đênh khắp chốn trên vùng biển hẹp, được biết đến với cái tên Gã Con Hoang Mù, mặc dù gã chẳng mù cũng chẳng phải là con hoang. Roro đã băng thuyền qua Skagos vào Biển Run Rẩy, ghé qua hàng trăm vùng vịnh nhỏ chưa từng có bóng dáng của một chiếc thuyền buôn nào trước đó. Gã mang theo thép, kiếm, rìu, mũ sắt, áo giáp lưới loại tốt để đổi lấy lông thú, ngà voi, hổ phách và thủy tinh. Khi con thuyền Cobblecat quay về phương nam, các khoang hàng đã chật kín hàng hóa nhưng đến Vịnh Hải Cẩu, ba chiếc thuyền lớn tiến đến dồn nó vào Trạm Đông. Họ đã mất toàn bộ số hàng còn Gã Con Hoang Mù bị mất đầu vì tội buôn bán vũ khí cho đám du mục.

Hồi còn đi buôn lậu, Davos cũng giao thương ở Trạm Đông. Anh em áo đen là kẻ thù xấu xa, nhưng lại là khách hàng tốt, nếu tàu chở đúng hàng. Nhưng mỗi khi ông lấy vàng của họ, ông không bao giờ quên hình ảnh cái đầu của Con Hoang đã lăn trên sàn thuyền Cobblecat như thế nào. “Hồi nhỏ ta có gặp vài tên du mục,” ông kể cho Maester Pylos nghe. “Chúng ăn trộm giỏi, nhưng mặc cả dở tệ. Chúng đã cuỗm sạch khoang hàng của chúng ta. Nói chung, chúng cũng giống như những tộc người khác cả thôi, có người tốt và cũng có kẻ xấu.”

“Con người cả mà,” Vị học sĩ đồng tình. “Chúng ta đọc tiếp chứ, thưa ngài?”

Đúng vậy, ta là quân sư của nhà vua. Stannis có thể là vua của Westeros trên danh nghĩa, nhưng thực tế thì ngài ấy là vua chiếc Bàn Vẽ của mình. Ngài ấy nắm giữ đảo Dragonstone và vùng Storm’s End, ngài ấy cũng có đồng minh dù là không thuận hòa cho lắm với Salladhor Saan, nhưng chỉ có thế. Tại sao Đội Tuần Đêm lại tìm đến sự giúp đỡ của ngài ấy? Có lẽ họ không hiểu quân lực của ngài ấy yếu kém thế nào, hay sự nghiệp của ngài ấy đã tiêu tan ra sao. “Cậu chắc vua Stannis chưa hề nhìn thấy bức thư này chứ? Hoặc Melisandre nữa?”

“Chưa. Liệu tôi có nên chuyển thư đến cho họ không? Ngay lúc này?”

“Không,” Davos trả lời ngay lập tức. “Cậu đã làm tròn bổn phận khi mang thư đến cho Lãnh chúa Alester.” Nếu Melisandre biết được bức thư này… Cô ta đã từng nói sao nhỉ? Một người mà tên không được nói ra đang tập trung sức mạnh của mình, Davos Seaworth ạ. Cái lạnh sẽ đến và bóng đêm sẽ không bao giờ tan… Và Stannis đã nhìn thấy một hình ảnh trong ngọn lửa, một vòng tròn những bó đuốc rực cháy trên băng tuyết, xung quanh toàn là nỗi sợ hãi.

“Thưa lãnh chúa, ngài không khỏe sao?” Pylos hỏi.

Học sĩ, ta đang sợ. Ông muốn nói vậy. Davos nhớ lại câu chuyện mà Salladhor Saan từng kể cho ông, rằng Azor Ahai đã tôi thanh kiếm Thắp Lửa bằng cách đâm thanh kiếm đó xuyên thấu tim người vợ mà ông ta yêu quý. Ông ta giết vợ để chiến đấu lại với bóng đêm. Nếu Stannis là một Azor Ahai khác, có lẽ nào Edric Storm phải vào vai của Nissa Nissa? “Ta đang suy ngẫm, học sĩ. Xin hãy thứ lỗi.” Có hại gì nếu tên vua du mục nào đó tấn công phương bắc? Có vẻ như Stannis sẽ không nắm giữ phương bắc. Khó lòng mong chờ nhà vua bảo vệ những người không chịu công nhận ngài là đấng minh quân. “Hãy đưa cho ta một bức thư khác,” ông đột ngột nói. “Bức thư này quá…”

“…quá khó phải không?” Pylos gợi ý.

Giá lạnh sẽ đến, Melisandre thì thầm, và bóng đêm sẽ không bao giờ kết thúc. “Rắc rối,” Davos trả lời. “Quá… rắc rối. Đưa cho ta một bức thư khác đi.”

About The Author

Ngo David

Power is Power