Trò chơi vương quyền 3B – Nước mắt sói tuyết

Trò chơi vương quyền 3B – Nước mắt sói tuyết

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 28

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Làng Cây Trắng, Sam nghĩ. Cầu xin đây là làng Cây Trắng. Cậu nhớ làng Cây Trắng. Làng Cây Trắng ở trên tấm bản đồ cậu đã vẽ trên đường về phương bắc. Giá như đây đúng là làng Cây Trắng. Làm ơn, hãy cho đây là làng Cây Trắng. Cậu mong muốn ngôi làng đó đến nỗi trong chốc lát cậu quên cả đôi chân mình, quên cả cơn đau ở bắp chân và ở hông, cùng với những ngón tay tê cóng đã mất hết cảm giác. Thậm chí cậu quên cả Lãnh chúa Mormont và tên Craster, đám xác sống và Ngoại Nhân. Làng Cây Trắng, Sam cầu nguyện tới bất cứ vị thần nào đang lắng nghe cậu.

Nhưng tất cả làng mạc của dân du mục trông đều na ná nhau. Một cây đước khổng lồ mọc giữa ngôi làng này… nhưng một cái cây màu trắng không có nghĩa nó là Cây Trắng. Liệu cây đước trong làng Cây Trắng có to hơn cây này không? Có thể cậu nhớ nhầm. Khuôn mặt tạc trên thân cây xanh xám kia dài và buồn bã; nhựa cây như những giọt nước mắt đỏ chảy xuống từ đôi mắt. Hồi họ đến phương bắc, liệu thân cây đó có như thế này không? Sam không thể nào nhớ ra được.

Xung quanh cái cây là dãy lều một gian lợp mái cỏ, một lối đi trải dài những khúc gỗ phủ rêu xanh, giếng nước bằng đá, chuồng cừu… nhưng không có cừu, cũng không một bóng người. Đám dân du mục đã gia nhập đoàn quân của Mance Rayder lên đỉnh Frostfangs, họ mang theo tất tật của nả, trừ mấy túp lều. Sam thấy biết ơn vì điều đó. Đêm tối đang đến và cậu sẽ có giấc ngủ ngon lành dưới mái lều. Cậu mệt lả. Cứ như thể cậu đã đi bộ cả nửa cuộc đời. Đôi ủng của cậu rách tươm, những vết rộp ở bàn chân cậu vỡ ra rồi chai lại, nhưng bây giờ dưới những vết chai đó lại phồng căng lên, những ngón chân cậu đang bị bỏng lạnh.

Nhưng Sam hiểu rằng hoặc là đi tiếp, hoặc là chết. Sau khi sinh, Gilly vẫn còn yếu và bây giờ lại phải bế đứa bé nên cô ta cần ngựa hơn cậu. Con ngựa thứ hai đã chết sau khi họ rời khỏi Craster ba ngày. Bấy nhiêu thời gian cũng đã là một kỳ tích đối với con vật đói ăn đáng thương đó. Có lẽ sức nặng của Sam đã giết chết nó. Lẽ ra họ định cưỡi chung con ngựa còn lại, nhưng cậu sợ điều tương tự lại xảy ra. Tốt hơn mình nên đi bộ.

Sam để Gilly nhóm lửa trong lối đi kia, còn cậu chúi đầu vào túp lều. Cô ấy giỏi việc đó hơn, còn cậu dường như chưa lần nào làm củi bén lửa, và lần cuối cùng cậu cố đánh viên đá lửa vào con dao, cậu đã bị đứt tay. Gilly buộc vết thương cho cậu vì tay cậu tê cứng và đau đớn, thậm chí còn khó chịu hơn lúc trước. Cậu biết mình phải rửa vết thương và thay băng mới, nhưng cậu sợ phải nhìn vết thương đó. Và cũng vì trời cóng đến nỗi cậu không muốn cởi găng tay ra chút nào.

Sam không biết mình hy vọng tìm được gì trong những túp lều trống không đó. Biết đâu đám du mục ấy để lại ít thức ăn cũng nên. Cậu phải ngó qua xem sao. Trên đường về phương bắc, Jon cũng tìm kiếm trong mấy túp lều của dân du mục. Sam nghe tiếng chuột sột soạt trong góc một túp lều, ngoài ra chẳng thấy gì khác ngoài đống rơm cũ, mùi hôi thối và vài đống tro tàn dưới ống khói.

Cậu quay lại chỗ cây đước và xem xét nét mặt khắc trên thân cây. Không phải khuôn mặt mình đã thấy, cậu thú nhận với bản thân. Cái cây này chỉ to bằng nửa thân cây ở làng Cây Trắng mà thôi. Đôi mắt rơi lệ đỏ như máu, nhưng cậu cũng không nhớ nữa. Hết sức vụng về, cậu quỳ xuống. “Lạy các cựu thần, xin hãy nghe lời cầu xin của con. Cha con tôn thờ Thất Diện Thần, nhưng con đã thề nguyện với các ngài kể từ ngày con gia nhập Đội Tuần Đêm. Xin hãy cứu chúng con. Con sợ mình bị lạc đường. Chúng con vừa đói vừa lạnh. Con không biết bây giờ con tin vào vị thần nào nữa nhưng… làm ơn, nếu ngài có ở đó, xin hãy cứu chúng con. Gilly còn có một đứa con nhỏ.” Cậu chỉ có thể nói chừng đó. Bóng tối đã sẫm dần, những tán lá trên cây đước kêu xào xạc nhè nhẹ, rung rinh như hàng ngàn bàn tay đỏ đẫm máu. Cậu không biết liệu những vị thần của Jon có nghe thấy lời cầu xin của cậu không.

Khi quay trở lại sảnh, Gilly đã nhóm lửa xong. Cô ngồi sát bên bếp lửa, vạch áo lông thú ra cho đứa bé bú. Thằng bé cũng đói như chúng ta vậy, Sam nghĩ. Những người vợ lớn tuổi hơn của Craster đã lén mang đồ ăn cho họ, nhưng họ ăn gần hết số thực phẩm đó rồi. Còn Sam lại là một thợ săn vô dụng, ngay cả ở Đồi Horn, nơi có rất nhiều bẫy và có cả chó săn và thợ săn trợ giúp nhưng cậu cũng không săn bắn được gì; huống hồ ở đây, trong cánh rừng hoang vu vô tận này, cơ may để cậu bắt được thứ gì đó là quá xa vời. Nỗ lực câu cá ở những dòng suối sắp đóng băng hay ao hồ đều thất bại thảm hại.

“Còn xa chừng nào nữa hả Sam?” Gilly hỏi, “vẫn còn xa lắm à?”

“Không xa lắm. Không xa như trước nữa.” Sam tháo ba lô đựng đồ ra, vụng về ngồi xuống nền nhà và cố gắng khoanh chân lại. Lưng cậu đau ghê gớm do đi bộ quá lâu, đến nỗi cậu chỉ muốn được dựa lưng vào một trong những cây cột gỗ chạm trổ chống nóc lều, nhưng đống lửa lại ở giữa nhà, mà cậu thì cần hơi ấm hơn là sự thoải mái. “Vài ngày nữa chúng ta sẽ đến nơi thôi.”

Sam có mang theo bản đồ nhưng nếu đây không phải là làng Cây Trắng thì có bản đồ cũng vô ích. Cậu băn khoăn không hiểu có phải mình đã đi quá xa về hướng đông xung quanh hồ hay đã đi quá về hướng tây khi cậu cố gắng quay trở lại hai lần. Cậu bắt đầu thấy ghét hồ và sông suối. Phía trên không có đò hay cầu, điều đó có nghĩa phải đi vòng quanh mấy cái hồ để tìm chỗ lội qua được. Đi theo đường mòn bao giờ cũng dễ hơn vướng vào bụi rậm, đi vòng quanh đỉnh núi còn hơn là trèo qua nó. Nếu Bannen hay Dywen ở đây thì chúng ta đã đang ở Hắc Thành, được sưởi ấm trong những căn phòng tiện nghi rồi. Bannen đã chết, còn Dywen đi theo Grenn, Edd U Sầu và những người khác.

Tường thành dài ba trăm dặm và cao gần 200 mét, Sam tự nhắc mình. Nếu tiếp tục đi về phía nam, sớm muộn họ cũng sẽ thấy tường thành. Mà cậu chắc chắn họ đang đi về phía nam. Ban ngày đi theo hướng mặt trời, và vào những đêm sáng trăng, họ đi theo hướng ngôi sao Rồng Băng mặc dù họ ít đi vào ban đêm từ lúc con ngựa thứ hai chết. Ngay cả khi mặt trăng tròn đầy, đường đi dưới rừng cây vẫn quá tối, dễ dàng khiến Sam và cả con ngựa gãy chân. Chúng ta phải đi về hướng nam, chắc chắn phải như vậy.

Nhưng cậu không biết chắc mình đã đi chệch về phía tây hay phía đông bao xa. Họ sẽ đến được tường thành, đúng… chỉ một ngày hay nửa tháng nữa thôi, không thể lâu hơn thế… nhưng cổng thành ở đâu? Họ phải tìm thấy cổng Hắc Thành, đó là lối đi độc đạo xuyên qua tường thành dày 100 dặm.

“Tường Thành có lớn như Craster vẫn nói không?” Gilly hỏi.

“Lớn hơn chứ.” Sam cố nói giọng vui vẻ. “Đến mức cô không thể nhìn thấy những tòa lâu đài ẩn đằng sau tường thành đâu. Nhưng chúng ở đó đấy, rồi cô sẽ thấy. Tường Thành toàn là băng tuyết nhưng các lâu đài được làm bằng đá và gỗ. Có những tháp cao, mái vòm lớn và đại sảnh khổng lồ với ngọn lửa cháy bập bùng cả ngày lẫn đêm trong lò sưởi. Trong đó nóng lắm Gilly ạ, cô sẽ không tin nổi đâu.”

“Tôi đứng cạnh lò sưởi được không? Tôi và đứa bé ấy? Mẹ con tôi không đứng lâu đâu, chỉ đến khi mẹ con tôi ấm người lên thôi.”

“Cô đứng đó bao lâu cũng được. Cô cũng sẽ được ăn uống nữa. Rượu hâm nóng và một tô thịt nai hầm hành, rồi bánh mì vừa ra lò của Hobb, nóng hổi đến nỗi các ngón tay cô sẽ bỏng mất.” Sam rút găng hơ tay trước đống lửa và ngay lập tức cậu hối tiếc vì việc đó. Các ngón tay cậu bị tê cóng vì lạnh, nhưng khi ngón tay có cảm giác trở lại thì đau đến nỗi cậu suýt bật khóc. “Thỉnh thoảng mấy anh em cũng ngân nga ca hát,” cậu kể để quên đi cơn đau. “Dareon hát hay nhất, nhưng họ đã phái nó đến Trạm Đông rồi. Nhưng vẫn còn có Halder. Và Cóc nữa. Tên thật của nó là Todder, nhưng nó trông như một con cóc nên chúng tôi gọi nó như vậy. Nó thích hát nhưng giọng hát của nó thì rất tệ.”

“Thế anh có hát không?” Gilly chỉnh lại tấm lông thú khi cô đổi bên cho đứa bé bú bầu sữa bên kia.

Sam đỏ mặt. “Tôi… tôi cũng biết mấy bài. Khi còn nhỏ tôi rất thích hát. Tôi cũng thích nhảy, nhưng cha tôi không thích như vậy. Cha nói nếu muốn nhảy tôi phải ra ngoài sân, vừa nhảy tay vừa cầm kiếm mới được.”

“Anh có thể hát vài bài hát phương nam để ru đứa nhỏ không?”

“Cũng được.” Sam nghĩ một lát. “Có một bài hát ngài tư tế hay hát cho tôi và các chị gái nghe hồi nhỏ để ru bọn tôi ngủ. Đó là Bài ca của Thất Diện Thần.” Cậu hắng giọng và khẽ hát:

Nét mặt Đức Cha nghiêm nghị và mạnh mẽ,

người ngồi để phán xét đúng sai.

Người đo đếm cuộc sống này, ngắn hay dài,

và yêu thương con cái.

Đức Mẹ cho ta món quà cuộc sống

và trông nom những người vợ.

Nụ cười thánh thiện xoa dịu mọi xung đột

và yêu thương con cái.

Thần Chiến Binh đứng trước kẻ thù,

bảo vệ chúng ta trên mọi ngả.

Với kiếm và khiên, giáo và cung,

người bảo vệ lũ trẻ.

Bà Già thông thái,

người nhìn ra số phận của chúng ta đang trải ra trước mắt.

Thần thắp sáng ngọn đèn vàng,

soi đường chỉ lối cho con trẻ

Thần Thợ Rèn làm việc ngày đêm,

để thế giới của đàn ông trở nên chân chính.

Người làm ra cái búa, cuốc cày

và ánh lửa sáng cho trẻ con.

Thần Trinh Nữ nhảy múa trên trời cao,

người sống trong niềm khát khao của những ai đang yêu.

Nụ cười của người dạy cho đàn chim biết bay,

đưa những bé con vào giấc mộng.

Bảy vị thần đã làm nên tất cả,

luôn lắng nghe mỗi lần ta gọi.

Nào hãy nhắm mắt lại, con sẽ không vấp ngã,

họ đang dõi theo con, hỡi các bé yêu.

Nào hãy nhắm mắt lại, con sẽ không vấp ngã,

họ đang dõi theo con, hỡi các bé yêu.

Sam nhớ lần cuối cùng cậu hát bài này với mẹ để ru bé Dickon ngủ. Cha cậu nghe thấy liền tức giận xông vào. “Ta không muốn nghe thêm một lần nào nữa đâu đấy,” Lãnh chúa Randyll nói giọng cay nghiệt với mẹ cậu. “Bà đã làm hỏng một thằng con trai bằng mấy bài hát đó, bà định làm thế với đứa bé này nữa phải không?” Sau đó ông nhìn Sam rồi bảo, “nếu ngươi muốn hát, ra chỗ các chị gái ngươi mà hát. Ta không muốn ngươi đến gần con trai ta.”

Con của Gilly đã ngủ. Nó là một sinh linh bé nhỏ và tĩnh lặng đến mức Sam lo ngại cho nó. Cậu bé thậm chí còn không có một cái tên. Cậu đã hỏi Gilly về việc đó nhưng cô gái nói đặt tên cho đứa trẻ trước 2 tuổi sẽ là một điều xui xẻo. Rất nhiều đứa trẻ đã chết.

Cô gái nhét bầu vú vào bên trong tấm lông thú. “Hay quá. Anh hát rất hay.”

“Cô phải nghe Dareon hát. Giọng nó ngọt như rượu mật ong vậy.”

“Chúng tôi đã uống thứ rượu mật ngọt nhất vào ngày Craster biến tôi thành vợ. Đó là vào mùa hè, không lạnh chút nào.” Gilly nhìn cậu thắc mắc. “Anh mới hát về sáu vị thần phải không? Craster luôn nói với chúng tôi rằng những người phương nam như anh có bảy vị thần mà.”

“Bảy,” cậu công nhận, “nhưng không ai hát về Kẻ Lạ Mặt cả.” Khuôn mặt của vị thần này mang hình hài của cái chết. Ngay cả việc nhắc đến vị thần này cũng khiến Sam khó chịu. “Ta nên ăn cái gì đó. Một hai miếng thôi cũng được.”

Họ chẳng còn lại gì ngoài mấy cái xúc xích đen rắn như củi. Sam cắt cho mỗi người vài miếng mỏng. Phải dùng lực để cắt khiến cổ tay cậu đau đớn nhưng cậu đói đến mức đủ sức gan lì chịu đựng cơn đau ấy. Nếu nhai một lúc, mấy miếng xúc xích sẽ mềm ra và ăn cũng khá ngon. Những người vợ của Craster trộn xúc xích với tỏi.

Ăn xong, Sam ra ngoài đi tiểu và ngó chừng con ngựa. Cơn gió lạnh buốt từ phương bắc thổi đến khiến lá cây kêu lạo xạo khi cậu ngang qua. Cậu phải đập vỡ lớp băng trên mặt suối để ngựa có chỗ uống nước. Tốt hơn mình nên đưa ngựa vào trong nhà. Cậu không muốn sớm mai khi thức dậy lại thấy con ngựa chết cóng. Nhưng dù ngựa có chết, Gilly sẽ vẫn tiếp tục đi. Cô gái rất dũng cảm, chứ không giống cậu. Giá như cậu biết phải làm gì với cô một khi về đến Hắc Thành. Cô cứ nói đi nói lại rằng sẽ làm vợ cậu nếu cậu muốn, nhưng những người anh em của Đội Tuần Đêm không cưới vợ; hơn nữa, cậu là người Nhà Tarly vùng Đồi Horn, tức là cậu không bao giờ có thể cưới một đứa con gái du mục. Mình sẽ phải nghĩ về việc này. Miễn là sống sót về được đến Tường Thành, những chuyện còn lại không thành vấn đề.

Dẫn con ngựa đi dọc lối đi khá đơn giản. Ngược lại, đưa nó chui qua cửa ra vào không hề dễ nhưng Sam đã quyết tâm. Gilly đang lơ mơ ngủ khi cậu cho con ngựa vào được bên trong lều. Cậu buộc con ngựa vào một góc, cho thêm ít củi tươi vào đống lửa, cởi chiếc áo choàng nặng trịch ra rồi nhẹ nhàng luồn xuống dưới lớp lông thú, nằm bên cạnh cô gái du mục. Chiếc áo choàng của cậu đủ rộng để đắp và giữ ấm cơ thể cho cả ba.

Gilly ám mùi sữa quện với tỏi và mùi ẩm mốc của tấm lông thú cũ nhưng giờ cậu đã quen với mùi đó. Sam thấy mùi đó rất thơm. Cậu thích nằm ngủ bên cạnh cô, khiến cậu nhớ lại quãng thời gian từ rất lâu rồi, khi Sam còn ngủ chung giường với hai chị gái ở Đồi Horn. Nhưng khi Lãnh chúa Randyll quả quyết rằng việc ngủ chung giường với các chị sẽ khiến cậu mềm yếu như con gái, cậu phải ra ngủ riêng. Nhưng ngủ một mình trong phòng riêng chưa bao giờ khiến cậu mạnh mẽ hơn và dũng cảm hơn. Cậu tự hỏi không biết cha sẽ nói gì khi nhìn thấy cậu lúc này. Cậu hình dung mình sẽ nói với cha rằng, Thưa cha, con đã giết một tên Ngoại Nhân. Con đã đâm hắn bằng con dao đá vỏ chai, và các anh em trong đội gọi con là Sam Sát Nhân. Nhưng ngay cả trong tưởng tượng, Lãnh chúa Randyll chỉ quắc mắt ngờ vực.

Đêm đó giấc mơ của cậu mới thật lạ lùng. Cậu quay trở lại Đồi Horn, về đến lâu đài nhưng cha cậu không có ở đó. Bây giờ đó là lâu đài của Sam. Jon Snow cũng ở đó với cậu. Có cả Lãnh chúa Mormont – Gấu Già, Grenn, Edd U Sầu, Pyp và Cóc cùng tất cả những người anh em trong Đội Tuần Đêm, nhưng họ mặc áo choàng trắng thay vì mặc áo đen. Sam ngồi trên bàn cao thết đãi tất cả mọi người, cậu dùng thanh kiếm Tai Ương vĩ đại của cha cắt thịt nướng. Tiệc có cả bánh ngọt, rượu mật ong, ca hát và nhảy múa, ai ai cũng đều thấy ấm áp. Cậu về phòng khi bữa tiệc kết thúc, nhưng không về phòng ngủ của cha mẹ cậu, thay vào đó cậu về căn phòng nơi cậu từng ngủ chung với hai chị gái. Chỉ có điều chỗ của hai chị gái nó giờ là Gilly đang chờ đợi trên chiếc giường êm ái to lớn, không mặc gì ngoài tấm lông thú thùng thình và hai bầu vú đang rỉ sữa.

Cậu bất chợt thức giấc trong cái lạnh và nỗi khiếp sợ.

Lửa đã lụi chỉ còn lại than hồng cháy âm ỉ giữa đống tro tàn. Không khí dường như đóng băng, lạnh vô cùng. Trong góc nhà, con ngựa đang hí vang và hai chân sau của nó đang đá những khúc gỗ. Gilly ngồi bên đống lửa, ôm chặt đứa bé vào lòng. Sam loạng choạng đứng dậy, hơi thở hổn hển yếu ớt từ cái miệng há to. Lối đi dài chìm trong màn đêm với những cái bóng mỗi lúc một đen hơn. Lông tay cậu dựng đứng lên.

Không có gì hết, cậu tự nhủ. Chỉ là mình đang lạnh thôi.

Thế rồi, ngay chỗ cửa ra vào, một trong những cái bóng chuyển động. Một cái bóng to lớn.

Đây vẫn là mơ thôi, Sam cầu nguyện. Ôi, xin hãy cho con vẫn đang ngủ, xin hãy cho đây là cơn ác mộng thôi. Nó chết rồi, nó chết rồi, mình đã nhìn thấy nó chết. “Nó đến vì đứa bé,” Gilly khóc. “Nó đánh hơi thấy thằng bé. Trẻ sơ sinh tỏa ra mùi của sự sống. Nó đến đây vì sự sống.”

Bóng đen to lớn cúi xuống để chui qua dầm cửa, đi vào trong sảnh, lê người về phía chúng. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn lửa, cái bóng hiện ra là Paul Nhỏ.

“Cút đi,” Sam thốt lên. “Chúng tao không muốn mày ở đây.”

Hai tay của Paul đen như than đá, khuôn mặt trắng như sữa, đôi mắt lóe lên màu xanh lạnh giá. Lớp băng tuyết phủ trắng bộ râu của nó, và trên vai nó, một con quạ đang cúi xuống rỉa những mảng thịt trắng trên má nó. Sam xón tiểu ra quần, cậu cảm nhận được hơi ấm đang chảy xuống dưới chân mình. “Gilly, giữ yên con ngựa và đưa nó ra ngoài. Cô phải làm ngay đi.”

“Còn anh…” cô lên tiếng.

“Tôi có dao đây. Một con dao găm làm bằng đá vỏ chai.” Cậu vừa lần tìm con dao vừa đứng lên. Cậu đã đưa con dao đầu tiên cho Grenn, nhưng may mắn thay cậu vẫn kịp nhớ lấy con dao của Lãnh chúa Mormont trước khi rời khỏi nhà của Craster. Cậu nắm chặt lấy con dao, di chuyển ra xa đống lửa, cách xa Gilly và đứa bé. “Paul à?” Cậu cố lấy giọng dũng cảm hết sức có thể nhưng tiếng phát ra lại lạc đi. “Paul Nhỏ. Mày biết tao không? Tao là Sam, Sam béo ú, Sam Sợ Chết, mày đã cứu mạng tao ở trong rừng. Mày vác tao đi khi tao không thể bước tiếp. Chưa từng có ai vác tao như vậy, trừ mày.” Sam lùi ra xa, tay nắm chặt con dao, sụt sịt. Mình đúng là thằng hèn. “Paul ơi, đừng hại chúng tao. Làm ơn đừng hại chúng tao. Tại sao mày lại muốn hại chúng tao chứ?”

Gilly bò lùi lại phía sau băng qua nền nhà bẩn thỉu. Tên xác sống quay đầu lại nhìn cô gái nhưng Sam hét lên “KHÔNG!” và nó ngoái lại. Con quạ trên vai nó rỉa thịt từ một bên má nhợt nhạt đang phân hủy. Sam dúi con dao về phía trước, thở mạnh như lò bễ thợ rèn. Gilly đã đến được chỗ con ngựa. Sam cầu xin các vị thần hãy cho cậu sức mạnh. Một lần thôi xin hãy giúp đỡ con. Đủ lâu để cô ấy có thể thoát ra ngoài.

Paul Nhỏ tiến về phía cậu. Sam lùi dần lùi dần cho đến khi lưng chạm vào bức tường gỗ thô ráp. Cậu dùng cả hai tay để cầm con dao chặt hơn. Dường như tên xác sống không hề sợ con dao đá vỏ chai kia. Có lẽ nó không biết đó là cái gì. Nó di chuyển chậm chạp, nhưng chính Paul Nhỏ khi còn sống cũng không hề nhanh nhẹn. Sau lưng con thú, Gilly đang thì thầm để trấn tĩnh con ngựa và cố kéo nó ra phía cửa. Nhưng có lẽ con ngựa đã ngấm luồng hơi lạnh tỏa ra từ tên xác sống và bỗng trở nên bất kham, cứ lùi lại, giơ bộ móng vung chới với vào không khí. Paul quay nhanh về phía phát ra tiếng động và dường như mất hết hứng thú với Sam.

Không còn thời gian để nghĩ, cầu nguyện, hay lo sợ nữa. Samwell Tarly phi người ra trước và thọc con dao găm vào lưng Paul Nhỏ. Vì đang trong tư thế nghiêng người nên tên xác sống không nhận thấy Sam đang lao đến. Con quạ rít lên và bay lên không. “Mày chết đi!” Sam thét lên khi đâm dao vào người xác sống. “Mày chết đi, chết đi!” Sam vừa gào thét vừa đâm liên tiếp, tạo ra những vết rách rộng trên chiếc áo choàng nặng nề của Paul. Các mảnh đá vỏ chai văng tung tóe khi lưỡi dao vỡ vụn bởi chiếc áo giáp lưới dưới lớp áo len.

Sam rên rỉ, phả ra một lớp sương mù trắng trong không khí đen tối. Cậu buông cán dao vô tích sự xuống và hấp tấp lùi lại khi Paul Nhỏ quay người về phía cậu. Trước khi cậu kịp lấy ra con dao bằng thép mà người anh em nào cũng mang theo thì đôi tay đen ngòm của tên xác sống đã bóp chặt lấy cổ của cậu. Những ngón tay của Paul lạnh đến mức cậu thấy bỏng rát. Chúng ấn sâu vào phần thịt mềm ở cổ họng Sam. Chạy đi Gilly, cậu muốn thét lên nhưng chỉ phát ra những âm thanh tắc nghẹn.

Những ngón tay lóng ngóng vụng về cuối cùng cũng tìm thấy con dao, nhưng khi cắm phập vào bụng tên xác sống, mũi dao bị mắc kẹt trong chuỗi xích sắt, lưỡi dao xoay tròn tuột khỏi tay Sam. Các ngón tay của Paul Nhỏ xiết chặt hơn và bắt đầu vặn. Nó sắp bẻ gãy cổ mình, Sam tuyệt vọng nghĩ. Cậu cảm thấy cổ họng đông cứng lại, phổi như bốc cháy. Cậu đấm mạnh rồi giật cổ tay của nó ra nhưng vô ích. Cậu đá xoạc hai chân nó, nhưng vẫn vô ích. Thế giới như co lại thành hai ngôi sao xanh, một cơn đau chí mạng và luồng hơi lạnh khủng khiếp đến nỗi nước mắt như đóng băng trên đôi mắt cậu. Sam quằn quại, kéo giật trong tuyệt vọng… và rồi nó lảo đảo xô về phía trước.

Paul Nhỏ to béo và rất khỏe nhưng Sam vẫn nặng cân hơn nó, đám xác sống thường rất lóng ngóng, cậu đã thấy điều đó trên đỉnh Nắm Đấm. Sự di chuyển bất ngờ khiến Paul loạng choạng lùi lại một bước, rồi người sống và kẻ chết cùng nhau ngã sầm xuống đất. Cú va chạm đánh bật một bàn tay xác sống ra khỏi cổ họng Sam, cho cậu cơ hội được hít thở thật nhanh trước khi những ngón tay băng giá quay trở lại. Cậu thấy vị máu tanh trong miệng. Sam ngoái cổ tìm kiếm con dao, rồi bỗng nhìn thấy ánh sáng màu cam lờ mờ trước mắt. Lửa! Chỉ còn than hồng lẫn trong đống tro tàn, nhưng vẫn là lửa… cậu không thể hít thở hay suy nghĩ gì được… Sam vặn người sang bên, kéo Paul theo mình… cánh tay cậu quật xuống nền đất bẩn thỉu, quờ quạng, chới với, làm tro bụi bay tứ tung, cho đến khi bàn tay cậu cảm thấy thứ gì đó nong nóng… một khúc than hoa, lửa cháy âm ỉ đỏ trong đống tro đen… ngón tay của cậu nắm chặt cục than và đập mạnh vào miệng của Paul, mạnh đến nỗi cậu cảm thấy răng xác sống vỡ vụn.

Mặc dù vậy, bàn tay ghì xiết của tên xác sống không hề nới lỏng. Những ý nghĩ cuối cùng của cậu trôi về người mẹ đã yêu thương cậu và người cha luôn thất vọng vì cậu. Lối đi dài quay mòng mòng trước mắt khi cậu nhìn thấy một làn khói bay lên giữa mấy cái răng gãy của Paul. Và khuôn mặt của xác chết bốc cháy, đôi bàn tay biến mất.

Sam hít thở và yếu ớt lăn ra xa. Xác sống đang cháy, lớp tuyết phủ trên bộ râu nó chảy xuống để lộ ra lớp thịt phía dưới bị cháy đen. Sam nghe tiếng con quạ kêu rít lên nhưng Paul không phát ra âm thanh nào. Khi hắn há miệng, chỉ có ngọn lửa phun ra. Và đôi mắt hắn… đã biến mất, ánh mắt xanh lạnh đã biến mất.

Cậu bò ra cửa. Không khí lạnh đến nỗi hít vào cũng thấy đau nhưng đó là nỗi đau ngọt ngào. Cậu thò đầu ra khỏi lối đi. “Gilly?” cậu gọi to. “Gilly, tôi giết nó rồi. Gil…” Cô bé đứng dựa lưng vào thân cây đước, hai tay ôm ghì lấy đứa bé. Đám xác sống bủa vây quanh hai mẹ con. Có đến một tá, hai chục, nhiều lắm… có kẻ vốn là dân du mục vẫn khoác trên mình bộ lông thú và da người… và rất nhiều trong số đó từng là anh em của Sam. Sam nhìn thấy gã Lark vùng Sisterman, gã Hồn Ma, Ryles. Cái bướu trên cổ Chett màu đen, một lớp tuyết mỏng phủ trên những nốt u nhọt của hắn. Và xác sống kia trông giống Hake lắm, mặc dù cũng khó biết chắc chắn vì nó chỉ còn nửa đầu. Chúng đã phanh thây con ngựa tội nghiệp, đang moi ruột gan nó ra với những bàn tay đẫm máu. Một luồng hơi nhợt nhạt bay lên từ bụng con vật.

Sam thút thít. “Thật không công bằng…”

“Công bằng.” Con quạ đậu trên vai nó. “Công bằng, xa, sợ.” Nó vỗ cánh và rít lên cùng với tiếng thét của Gilly. Đám xác sống đang tiến sát về phía cô. Cậu nghe tiếng lá cây màu đỏ thẫm của cây mao lương đang rì rầm, thì thầm với nhau bằng thứ ngôn ngữ mà cậu không hiểu nổi. Ánh sao dường như chuyển động, xung quanh chúng hàng cây cũng đang rên rỉ, cót két. Mặt mũi Sam Tarly tái nhợt thành màu sữa đông đặc và đôi mắt trợn trừng. Quạ! Chúng ở trên cây đước, hàng trăm, hàng ngàn con đang đậu trên những nhánh cây xương trắng ló ra giữa những tán lá. Cậu nhìn thấy đàn quạ rít lên, sải rộng những đôi cánh đen, rồi từng bầy giận dữ sà xuống đám xác sống. Chúng bâu xung quanh mặt Chett, mổ lia lịa vào đôi mắt xanh của hắn, rồi bu quanh gã người Sister, và rỉa những mảng thịt lớn từ cái đầu vỡ nát của Hake. Bầy quạ đông đến nỗi Sam ngẩng lên nhưng không thấy ánh trăng đâu nữa.

“Đi,” con quạ đậu trên vai hắn nói, “Đi, đi, đi.”

Sam chạy, luồng hơi lạnh giá phả ra từ miệng cậu. Xung quanh cậu, đám xác sống đang đập vào những đôi cánh đen và những cái mỏ sắc đang lao vào chúng, và đám xác sống không hề kêu rít hay la hét. Đàn quạ bỏ qua Sam. Cậu nắm tay Gilly, kéo cô bé ra khỏi cây đước. “Chúng ta phải đi thôi.”

“Nhưng đi đâu?” Gilly chạy theo cậu, tay vẫn bế chặt đứa con. “Chúng đã giết chết ngựa của chúng ta, làm sao ta có thể…”

“Người anh em!” Tiếng gọi sắc lẹm trong đêm, vang lên giữa tiếng rít của hàng ngàn con quạ. Dưới rừng cây, một người đàn ông quấn chặt từ đầu đến chân bằng tấm vải đen xám đang cưỡi trên một con nai sừng tấm. “Lại đây,” người đó gọi. Chiếc mũ trùm đầu che kín khuôn mặt người đó.

Người đó mặc đồ đen. Sam đẩy Gilly về phía ông ta. Con nai sừng tấm thật lớn, một con nai khổng lồ, từ vai xuống đã cao hơn 2 mét, với bộ khung gạc rộng lớn. Con vật quỳ xuống để chúng trèo lên. “Lên nào,” người ngồi trên nói rồi với xuống bằng bàn tay đeo găng để kéo Gilly lên ngồi đằng sau ông ta. Sau đó đến lượt Sam. “Xin đa tạ,” cậu hổn hển nói. Nhưng chỉ đến khi nắm bàn tay đó, cậu mới nhận ra rằng người đàn ông kia không hề đeo găng. Bàn tay đó đen xì và lạnh giá, với những ngón tay cứng như đá.

About The Author

Ngo David

Power is Power