Trò chơi vương quyền 3B – Nước mắt sói tuyết

Trò chơi vương quyền 3B – Nước mắt sói tuyết

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 28

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Con ngựa cái đang thở dốc nhưng Jon không thể cho nó nghỉ. Cậu phải tới Tường Thành trước đội quân của Magnar. Có lẽ cậu cũng ngủ gục trên yên ngựa; nếu không rất khó để có thể ngồi vững khi còn thức. Bên chân bị thương càng ngày càng đau đớn. Cậu không dám nghỉ đủ lâu để lành vết thương. Đã thế mỗi lần lên ngựa cậu lại khiến nó toác thêm ra.

Khi lên tới đỉnh gò cao và nhìn thấy vệt vương lộ màu nâu trước mắt trải dài xuyên qua đồi núi và vùng đồng bằng, cậu vỗ vỗ cổ con ngựa và nói, “Cô bé, giờ chúng ta chỉ cần đi theo con đường đó. Sẽ sớm về đến Tường Thành thôi.” Lúc này, chân cậu cứng như gỗ và cơn sốt khiến đầu óc cậu quay cuồng, đến nỗi đã hai lần cậu nhận thấy mình đi sai đường.

Sắp về đến Tường Thành rồi. Cậu hình dung các bằng hữu đang ngồi trong đại sảnh uống món rượu được hâm nóng. Hobb bận bịu với nào ấm nào cốc, Donal Noye ở trong lò rèn, Maester Aemon ở trong phòng riêng bên dưới chuồng quạ. Còn Gấu Già thì sao? Rồi cả Sam, Grenn, Edd U Sầu, và Dywen với hàm răng gỗ… Jon chỉ có thể cầu nguyện cho vài người thoát được khỏi đỉnh Nắm Đấm.

Cậu cũng nghĩ nhiều đến Ygritte. Cậu nhớ mùi tóc, nhớ hơi ấm từ cơ thể cô… và nét mặt khi cô cắt cổ người đàn ông già tội nghiệp kia. Ngươi thật sai lầm khi yêu cô ta, một giọng nói thì thầm trong đầu cậu. Ngươi thật sai lầm khi bỏ lại cô ấy, một giọng khác quả quyết. Cậu tự hỏi liệu cha cậu có bị giằng xé như thế không khi rời bỏ mẹ cậu để quay về với phu nhân Catelyn. Cha đã thề nguyện một lòng một dạ với phu nhân Stark, còn mình đã thề nguyện trung thành với Đội Tuần Đêm.

Cậu đi gần hết thị trấn Mole, nhưng cơn sốt khiến cậu không biết mình đang ở đâu. Cả thị trấn gần như chìm dưới lòng đất, chỉ lác đác vài mái nhà nhỏ hiện ra dưới ánh trăng nhợt nhạt. Nhà thổ chỉ là một túp lều nhỏ, chẳng lớn hơn nhà xí là mấy, chiếc đèn lồng đỏ kêu cót két trong gió như con mắt đỏ ngầu nhìn xuyên qua đêm đen. Jon xuống ngựa, suýt ngã nhào khỏi lưng ngựa khi hét gọi hai thằng nhóc coi chuồng ngựa dậy. “Ta cần một con ngựa mới đóng sẵn yên và dây cương,” cậu nói giọng cương quyết. Hai thằng nhỏ mang cho cậu những thứ cậu yêu cầu, thêm cả một bầu rượu và nửa ổ bánh mì. “Đánh thức mọi người dậy,” cậu nói, “Cảnh báo họ rằng đám dân du mục đang ở phía nam của Tường Thành. Tập trung đồ đạc và tìm đến Hắc Thành ngay.” Cậu nhảy lên lưng con ngựa thiến đen, hai hàm răng nghiến chặt vì chân đau và phi nước đại về hướng bắc.

Khi những ngôi sao nhạt dần trên bầu trời phương đông, Tường Thành hiện ra trước mắt cậu, nhô lên khỏi rừng cây và làn sương sớm. Ánh trăng nhợt nhạt phản chiếu trên lớp băng. Cậu thúc ngựa chạy tiếp theo con đường trơn trượt xám xịt cho đến khi nhìn thấy những tòa tháp canh bằng đá và đại sảnh bằng gỗ của Hắc Thành lô nhô như đống đồ chơi đổ vỡ dưới vách đá khổng lồ. Đến lúc đó Tường Thành rực lên sắc tím hồng nhờ ánh bình minh.

Không có lính gác ra lệnh đứng lại khi cậu băng qua khu nhà phụ. Không ai chặn đường đi của cậu. Hắc Thành đổ nát y như Greyguard. Những đám cỏ nâu mọc lên giữa những vết nứt trên nền đá ở sân trong. Lớp tuyết lâu ngày phủ kín mái trại lính Flint và chất đống trên tường phía bắc tòa tháp Hardin – Jon vẫn thường ngủ ở đây trước khi trở thành hộ vệ của Gấu Già. Những vệt bồ hóng do khói bốc lên tạo thành vệt dài trên tường tháp tướng chỉ huy. Sau vụ hỏa hoạn, tướng Mormont đã chuyển tới Tháp Vua nhưng Jon cũng không nhìn thấy ánh sáng ở đó. Từ dưới mặt đất nhìn lên, cậu không biết liệu có lính tuần canh đi lại trên Tường Thành cao bảy trăm tấc phía trên hay không, nhưng cậu không thấy bóng người trên cầu thang hình chữ chi trông như lưỡi tầm sét bằng gỗ khổng lồ hướng về phía nam.

Nhưng có khói bốc lên từ ống khói trong kho vũ khí; chỉ là một làn khói mỏng manh gần như vô hình trên nền trời phương bắc xám xịt. Jon xuống ngựa rồi bước tập tễnh về phía đó. Hơi ấm tỏa ra từ cánh cửa mở như hơi thở nóng nực của mùa hè vậy. Bên trong, Donal Noye một-tay đang thổi bễ rèn. Ông ngẩng đầu lên khi nghe thấy tiếng động. “Jon Snow sao?”

“Không thể là ai khác.” Jon mỉm cười, bất chấp cơn sốt, kiệt sức, chân đau nhức, Magnar, người đàn ông già, Ygritte, Mance, bất chấp tất cả. Thật sung sướng khi được quay trở về nơi này, thật sung sướng khi được nhìn thấy Noye với cái bụng bự, ống tay áo xắn cao và mặt mũi lởm chởm râu đen.

Người thợ rèn nơi tay khỏi bễ rèn. “Mặt cậu…”

Cậu đã gần như quên mất khuôn mặt mình. “Một con đại bàng định móc mắt tôi.”

Noye nhíu mày. “Có sẹo hay nhẵn nhụi thì đó vẫn là khuôn mặt mà tôi đã nhìn thấy lần cuối. Chúng tôi nghe kể cậu đã đi theo Mance Rayder.”

Jon bấu vào cánh cửa để đứng cho vững. “Ai nói với ông vậy?”

“Jarman Buckwell. Cậu ta trở lại đây hai tuần trước. Đội trinh sát của cậu ta khẳng định đã tận mắt thấy cậu cưỡi ngựa đi bên cạnh đám dân du mục, và còn thấy cậu mặc cả áo choàng da cừu nữa.” Noye nhìn cậu. “Ta thấy nửa phần sau là sự thật.”

“Tất cả là thật,” Jon thú nhận, “từ đầu đến cuối.”

“Vậy ta có nên lấy kiếm moi ruột cậu không?”

“Không. Tôi chỉ hành động theo lệnh. Mệnh lệnh cuối cùng của Qhorin Cụt Tay. Noye, đội quân đâu cả rồi?”

“Đang bảo vệ Tường Thành trước đám bạn dân du mục của cậu.”

“Phải, nhưng bảo vệ ở đâu?”

“Mọi nơi. Trinh sát thấy Harma Đầu Chó ở rừng-ven-hồ, Rattleshirt ở Long Barrow, toán Weeper gần Icemark. Dọc khắp Tường Thành… bọn chúng ở khắp nơi, leo gần tới Cổng Hoàng Hậu, tấn công cổng Greyguard, tập trung trên Trạm Đông… nhưng chỉ thoáng thấy bóng chiếc áo choàng đen là bọn chúng biến mất hết. Nhưng rồi hôm sau chúng lại xuất hiện ngay ở nơi khác.”

Jon nén lại một tiếng rên. “Đòn nghi binh. Ông có nhận thấy rằng Mance muốn chúng ta dàn mỏng lực lượng không?” Và chính Bowen Marsh đã hiến kế đó cho Mance, “Cổng phía này nhưng đòn tấn công lại từ phía kia.”

Noye băng ngang căn phòng. “Chân cậu ướt sũng máu rồi.”

Jon mệt mỏi nhìn xuống. Đúng vậy. Vết thương của cậu lại toác ra. “Một vết thương do tên bắn…”

“Mũi tên của dân du mục.” Đó không phải là câu hỏi. Noye tuy chỉ còn một cánh tay nhưng cánh tay ấy vạm vỡ và cuồn cuộn cơ bắp. Ông đưa tay đỡ Jon. “Mặt mũi cậu trắng bệch, máu chảy nhiều quá. Ta sẽ đưa cậu đến chỗ Aemon.”

“Không còn thời gian đâu. Đám dân du mục đang ở phía nam của Tường Thành, và chúng sẽ xuất hiện từ Vương Miện Hoàng Hậu để tấn công cổng thành.”

“Bao nhiêu tên?” Noye dìu Jon ra khỏi cửa.

“Một trăm hai mươi tên được trang bị khí giới đầy đủ, ấy là xét theo nghĩa đầy đủ của dân du mục. Áo giáp đồng, một vài vũ khí bằng thép. Ở đây còn lại bao nhiêu người?”

“Hơn bốn mươi người,” Donal Noye đáp. “Tàn tật và ốm yếu, cùng vài thằng bé non choẹt vẫn đang trong quá trình huấn luyện.”

“Khi Marsh rời đi, ông ấy đã chỉ định ai là người quản thành?”

Người thợ rèn cười vang. “Ser Wynton, xin các thánh thần che chở cho ông ấy. Vị hiệp sĩ cuối cùng trong lâu đài và trong số chúng ta. Vấn đề là, Stout dường như quên mất và không ai lao đến nhắc nhở ông ấy. Có lẽ giờ này ta giống chỉ huy nhất. Kẻ lành lặn nhất trong số những kẻ tàn tật.”

Ít nhất chiến tranh cũng dành cho người lành lặn. Người thợ rèn một tay là một chiến binh can trường, dũng cảm và dày dặn kinh nghiệm. Còn Ser Wynton Stout… ông ấy từng là một chiến binh rất giỏi, ai cũng công nhận vậy, nhưng giờ ông đã 80 tuổi, sức khỏe và sự khôn ngoan đều đã hao mòn. Có lần ông ấy ngủ gật ngay trong bữa tối và suýt chết đuối trong bát súp đậu.

“Con sói tuyết của cậu đâu?” Noye hỏi khi họ băng qua sân.

“Bóng Ma. Tôi đã phải bỏ nó lại khi leo lên Tường Thành. Tôi đã hy vọng nó sẽ tìm được đường quay về đây.”

“Thật tiếc, cậu nhóc ạ. Không thấy dấu vết nào của nó cả.” Họ tập tễnh bước đến cánh cửa buồng học sĩ, bên trong một tòa tháp bằng gỗ chạy dài dưới chuồng quạ. Người thợ rèn đá chân vào cửa. “Clydas!”

Lát sau, một người đàn ông nhỏ thó lưng gù trong bộ quần áo màu trắng ló đầu ra. Đôi mắt màu hồng nhỏ xíu của ông ta mở to khi nhìn thấy Jon. “Đặt cậu nhóc xuống. Tôi sẽ đi tìm học sĩ về.”

Lửa đang cháy trong lò sưởi, khiến căn phòng khá ngột ngạt. Hơi ấm khiến Jon buồn ngủ. Ngay khi Noye đặt cậu nằm xuống, cậu nhắm mắt lại để thế giới thôi quay mòng mòng trước mắt. Cậu nghe thấy tiếng quạ kêu và tiếng càu nhàu trên chuồng quạ. “Snow,” một con quạ nói. “Snow, snow, snow.” Jon nhớ đó là việc của Sam. Liệu Samwell Tarly đã trở về an toàn hay đó chỉ là tiếng quạ thôi?

Không lâu sau Maester Aemon tới. Ông tiến đến chậm chạp với những bước thận trọng, một bàn tay lốm đốm của ông đặt lên cánh tay Clydas. Trên chiếc cổ khẳng khiu là chuỗi xích nặng nề gồm các mắt xích vàng, bạc lấp lánh giữa mắt xích sắt, chì, thiếc và những kim loại tầm thường khác. “Jon Snow,” ông nói, “khi nào khỏe hơn, cậu phải kể cho tôi nghe tất cả những điều cậu đã làm và đã thấy. Donal, đặt ấm rượu và bộ dụng cụ bằng sắt của ta lên bếp. Ta cần chúng nóng đỏ lên. Clydas, ta cần con dao sắc của ngươi.” Vị học sĩ đã hơn 100 tuổi, teo tóp, yếu ớt, tóc rụng hết và mắt lòa. Nhưng dù đôi mắt trắng đục đó không còn nhìn thấy gì thì trí thông minh của ông vẫn sắc bén như ngày nào.

“Đám dân du mục đang tràn tới,” Jon nói với ông khi Clydas đưa lưỡi dao dọc ống quần của cậu và cắt miếng vải dày màu đen đã cứng lại vì vết máu khô và ướt đẫm máu mới. “Chúng tràn đến từ phía nam. Chúng tôi đã trèo lên Tường Thành…”

Maester Aemon đưa tấm vải băng thô ráp lên ngửi khi Clydas đã cắt băng ra.

“Tôi đã đi với chúng. Qhorin Cụt Tay đã lệnh cho tôi gia nhập đội quân của bọn chúng.” Jon co rúm người lại khi ngón tay của học sĩ sờ nắn vết thương của cậu. “Gã Magnar vùng Thenn – á á á á á á, đau quá.” Cậu nghiến chặt răng lại. “Gấu Già đâu rồi?”

“Jon… ta rất đau lòng khi phải nói chuyện này, nhưng tướng chỉ huy Mormont đã bị chính bàn tay của các anh em áo đen giết tại nơi ở của Craster.”

“Anh em… người của chúng ta ư?” Lời nói của Aemon khiến cậu đau đớn gấp trăm lần so với những ngón tay của ông. Jon nhớ lần cuối cùng cậu nhìn thấy Gấu Già, khi ông đứng trước lều và con quạ đậu trên vai ông liên tục đòi ăn ngô. Mormont chết rồi ư? Cậu đã lo sợ điều đó kể từ khi chứng kiến hậu quả của cuộc chiến trên đỉnh Nắm Đấm, nhưng cậu vẫn không khỏi choáng váng. “Ai đã ra tay? Ai đã làm phản?”

“Garth vùng Oldtown, Ollo Lòng Thòng, Dirk… bọn cướp, những tên hèn nhát và lũ giết người, chính là bọn chúng. Lẽ ra chúng ta phải biết trước điều đó. Đội Tuần Đêm không còn như xưa nữa. Quá ít người trung thực để đưa những kẻ đểu cáng vào đúng quy củ.” Donal Noye lật mặt dao của học sĩ trên bếp lửa. “Mười hai người đàn ông đích thực đã quay trở vệ. Gồm Edd U Sầu, Khổng Lồ, mấy chàng trai vùng Aurochs bạn của cậu. Chúng tôi nghe được chuyện từ họ.”

Chỉ mười hai người thôi sao? Hai trăm người giỏi nhất của Đội Tuần Đêm đã cùng tướng chỉ huy Mormont rời khỏi Hắc Thành. “Vậy Marsh là tướng chỉ huy sao?” Quả Lựu Già tốt bụng và là viên hộ vệ cần cù, nhưng ông ấy không hề phù hợp để đối mặt với đám dân du mục.

“Hiện tại là thế, cho tới khi chúng ta tổ chức một phiên bầu chọn,” Maester Aemon nói, “Clydas, mang cho ta bình rượu.”

Một phiên bầu chọn. Khi mà Qhorin Cụt Tay và Ser Jaremy Rykker đều đã chết, chú Ben Stark vẫn mất tích, còn ai để chọn đây? Chắc chắn không thể chọn Bowen Marsh hay Ser Wynton Scout. Liệu Thoren Smallwood hay Ser Ottyn Wythers có thoát khỏi đỉnh Nắm Đấm không? Không, sẽ là Cotte Pyke hoặc Ser Denys Mallister. Nhưng ai mới được chứ? Các chỉ huy ở Tháp Đêm và Trạm Đông đều tài giỏi, nhưng họ là những người hoàn toàn khác; Ser Denys nhã nhặn, thận trọng, nghĩa hiệp nhưng ông đã già; Pyke trẻ hơn, vốn là con rơi, ăn nói cộc cằn và cực kỳ liều lĩnh. Tệ hơn nữa là hai người này vốn có hiềm khích với nhau. Gấu Già luôn phải tách họ ra xa và canh giữ hai đầu đối lập của Tường Thành. Jon biết người Mallister không tin tưởng người Quần Đảo Iron.

Cơn đau khiến cậu nhớ đến tai họa của chính mình. Vị học sĩ siết chặt tay cậu. “Clydas, mang rượu anh túc ra đây.”

Jon cố nhỏm dậy. “Tôi không cần đâu.”

“Cậu sẽ cần,” Aemon nói chắc chắn, “sẽ rất đau đấy.”

Donal Noye băng ngang phòng và đẩy cậu nằm xuống. “Hãy nằm yên nếu không tôi sẽ trói cậu vào đấy.” Mặc dù chỉ dùng một tay nhưng người thợ rèn giữ cậu như thể cậu là một đứa trẻ vậy. Clydas quay trở lại với bình rượu xanh và một chiếc cốc tròn bằng đá. Maester Aemon rót đầy cốc và nói, “Cậu uống cốc rượu này đi.”

Cậu cảm thấy vị máu trộn lẫn với một thứ thuốc đặc sệt, trắng như vôi. Tất cả những gì cậu có thể làm là cắn chặt môi lại để không nôn ộc ra.

Clydas mang vào một chậu nước ấm để Maester Aemon rửa sạch mủ và máu ở vết thương cho cậu. Mặc dù ông đã nhẹ nhàng hết sức có thể nhưng chỉ một cái động chạm nhẹ nhất cũng khiến Jon muốn thét lên. “Người của Magnar rất có kỷ luật và họ có khí giới bằng đồng,” cậu kể cho họ nghe. Nói chuyện giúp cậu quên đi cơn đau dưới bắp chân.

“Magnar là lãnh chúa vùng Skagos,” Noye nói. “Ở Trạm Đông có những người Skagos, lần đầu tiên tôi đến Tường Thành, tôi nhớ là đã nghe thấy chúng nói về ông ta.”

“Ta nghĩ là Jon đang sử dụng từ ngữ theo ý nghĩa cổ xưa của nó,” Maester Aemon nói, “không phải tên dòng tộc mà là tước hiệu. Nó xuất phát từ Cổ Ngữ.”

“Nó có nghĩa là lãnh chúa,” Jon đồng tình. “Styr là Magnar của nơi nào đó được gọi là vùng Thenn, ở tít xa phía bắc của Frostfang. Hắn có một trăm lính riêng, và khoảng hai chục lính đột kích nắm rõ địa thế của vùng Quà Tặng gần bằng chúng ta. Nhưng có điều Mance không tìm thấy chiếc tù và đó. Tù Và Mùa Đông, đó là thứ mà hắn đang đào bới dọc sông Milkwater để tìm cho ra.”

Maester Aemon ngừng lại, tay ông cầm chiếc khăn mặt. “Tù Và Mùa Đông là một truyền thuyết cổ xưa. Chẳng lẽ vị Vua-Ngoài-Tường-Thành thực sự tin rằng vật đó có tồn tại sao?”

“Tất cả bọn chúng đều tin điều đó,” Jon đáp. “Ygritte nói họ đã đào hàng trăm ngôi mộ… mộ của các vị vua và các vị anh hùng, không bỏ sót ngôi mộ nào trong thung lũng sông Milkwater, nhưng họ chưa hề…”

“Ygritte là ai?” Donal Noye cắt lời cậu.

“Một phụ nữ của tộc người tự do.” Cậu phải giải thích thế nào với họ về Ygritte đây? Cô nồng nàn, khôn ngoan, vui nhộn, rằng cô có thể hôn một người đàn ông, hoặc cắt cổ anh ta. “Cô ấy đi cùng Styr, nhưng cô ấy không… cô ấy trẻ, thực ra chỉ là một cô bé, hoang dã, nhưng cô ấy…” Cô ấy giết một người đàn ông già chỉ vì ông ta đã nhóm lửa. Lưỡi cậu cứng đờ và líu ríu vụng về. Món thuốc nhựa cây anh túc đang làm mờ suy nghĩ của cậu. “Tôi đã phá vỡ lời thề và đến với cô ấy. Tôi không cố ý, nhưng…” Đó là sai lầm. Sai lầm khi yêu cô ấy, sai lầm khi rời bỏ cô ấy… “Tôi đã không đủ mạnh mẽ. Cụt Tay lệnh cho tôi đi cùng với họ để theo dõi, tôi không được chùn bước, tôi…”

Đầu cậu có cảm giác như bị một miếng vải len ướt đẫm buộc kín.

Maester Aemon lại ngửi vết thương của Jon lần nữa. Rồi ông đặt miếng vải đầy máu vào chậu và nói, “Donal, vui lòng mang cho ta con dao nóng đến đây. Ta cần cậu giữ chặt cậu ta.”

Mình sẽ không kêu thét, cậu tự nhủ khi nhìn thấy lưỡi dao nung đỏ rực. Nhưng cậu cũng không giữ được lời hứa đó. Donal Noye ghì chặt cậu xuống, còn Clydas giúp định hướng bàn tay cho học sĩ. Jon không động đậy, cậu chỉ liên tục đấm mạnh nắm tay vào bàn. Trong cơn đau kinh khủng đó, cậu cảm thấy mình thật nhỏ bé, yếu đuối và vô dụng, không khác gì một đứa trẻ gào khóc trong đêm tối. Ygritte, cậu nghĩ đến cô khi ngửi thấy mùi hôi khét của da thịt bị cháy và tiếng thét của cậu như vọng đến tận tai cô. Ygritte, ta phải thét lên. Ngay lập tức, cơn đau bắt đầu lắng xuống. Nhưng rồi lưỡi dao lại chạm vào cậu một lần nữa và cậu ngất lịm.

Khi mở hé mắt, cậu thấy mình được đắp chăn len và lại có cảm giác lâng lâng. Dường như cậu không thể cử động, nhưng cũng không sao. Đã có lúc cậu mơ đến Ygritte đang ở bên, đôi tay dịu dàng của cô đang âu yếm cậu. Cuối cùng cậu nhắm mắt và ngủ thiếp đi.

Lần thức dậy sau đó không êm ái như vậy. Căn phòng chìm trong bóng tối nhưng dưới lớp chăn len, cơn đau quay trở lại, cơn đau nhức nhối ở chân bỗng trở thành con dao nung đỏ dù chỉ một cử động nhỏ. Khó khăn lắm Jon mới cố ngó xuống xem chân của mình còn giữ lại được không. Choáng váng, cậu kìm nén một tiếng thét rồi đấm mạnh tay xuống.

“Jon à?” Một ngọn nến hiện ra, và một khuôn mặt thân quen đang nhìn cậu, người đó có đôi tai to lớn và những đường nét quá đỗi thân quen. “Cậu không nên cử động.”

“Pyp ư?” Jon đưa tay ra và cậu ta siết chặt tay cậu. “Tôi cứ tưởng cậu đã đi…”

“…với Quả Lựu Già ư? Không, ông ấy thấy tôi còn non và xanh lắm. Grenn cũng đang ở đây.”

“Tôi đây.” Grenn bước đến phía bên kia chiếc giường. “Tôi ngủ quên.”

Cổ họng Jon khát khô. “Nước,” cậu hổn hển. Grenn mang nước đến và đưa lên miệng cậu. “Tôi đã nhìn thấy đỉnh Nắm Đấm,” cậu nói sau khi uống một hơi dài. “Máu, lũ ngựa chết… Noye nói mười hai người đã quay trở về… gồm những ai vậy?”

“Dywen, Khổng Lồ, Edd U Sầu, Donnel Hill, Ulmer, Lew Tay Trái, Garth. Thêm bốn hoặc năm người nữa. Và tôi.”

“Còn Sam?”

Grenn quay mặt đi. “Jon, cậu ấy giết được một tên Ngoại Nhân. Tôi đã chứng kiến cảnh đó. Cậu ấy đâm nó bằng con dao đá vỏ chai mà cậu đưa cho cậu ta, và chúng tôi gọi cậu ấy là Sam Sát Nhân. Cậu ấy ghét bị gọi như thế lắm.”

Sam Sát Nhân. Jon không thể hình dung liệu có chiến binh nào như Sam. “Chuyện gì xảy ra với cậu ấy?”

“Chúng tôi bỏ cậu ấy lại,” Grenn đau khổ thốt lên. “Tôi đã lay, la hét gọi cậu ấy, thậm chí tát vào mặt cậu ấy nữa. Khổng Lồ đã cố kéo chân cậu ấy, nhưng Sam nặng quá. Chắc cậu vẫn còn nhớ khi tập luyện cậu ta thường nằm dưới đất, cuộn tròn người lại rồi khóc lóc chứ? Nhưng ở Craster cậu ấy thậm chí không hề khóc. Dirk và Ollo đập phá mọi bức tường để tìm thức ăn, Garth và Garth đánh nhau, một vài kẻ khác hãm hiếp vợ của Craster. Edd U Sầu nhận thấy bọn của Dirk sẽ giết tất cả những người trung thành để bịt đầu mối, trong khi chúng đông gấp đôi bọn tôi. Chúng tôi đành để Sam lại với Gấu Già. Jon, cậu ấy không chịu đi.”

Cậu ấy là anh em của các cậu mà, cậu suýt nói vậy. Làm sao các cậu có thể bỏ cậu ấy lại với đám dân du mục và bọn sát nhân chứ?

“Có thể cậu ta vẫn còn sống,” Pyp nói. “Sáng mai tất cả chúng ta sẽ đều ngạc nhiên nhìn thấy cậu ta phi ngựa quay về cũng nên.”

“Với cái đầu của Mance Rayder nữa chứ.” Jon thấy Grenn đang cố tỏ ra vui vẻ. “Sam Sát Nhân!”

Jon cố ngồi dậy lần nữa. Cố gắng đó vẫn là một sai lầm y như lần đầu. Cậu hét ầm lên và luôn miệng chửi rủa.

“Grenn, đi gọi Maester Aemon dậy đi,” Pyp nói, “Nói với ông ấy rằng Jon cần thêm sữa anh túc.”

Đúng thế đây, cậu nghĩ vậy nhưng lại nói. “Không. Tên Magnar…”

“Chúng tôi biết,” Pyp đáp. “Nhóm tuần canh trên Tường Thành được cảnh báo cẩn trọng ở phía nam và Donal Noye đã phái vài người đến đỉnh Weatherback canh chừng vương lộ rồi. Maester Aemon còn gửi quạ tới Trạm Đông và Tháp Đêm nữa.”

Maester Aemon lê bước đến cạnh gường, một tay ông đặt lên vai Grenn. “Jon, hãy nhẹ nhàng với chính mình. Cậu tỉnh lại là tốt, nhưng cậu phải đợi vết thương lành. Chúng ta rót rượu đun sôi vào vết thương và đắp thuốc cây tầm ma, hạt mù tạt và bột mì lên men rồi băng lại, nhưng nếu cậu không nghỉ ngơi thì…”

“Tôi không thể.” Jon cố vượt qua cơn đau để gượng dậy. “Mance sẽ sớm tấn công chỗ này… hàng ngàn quân, thêm cả bọn khổng lồ và voi ma mút… mọi người đã gửi tin đến Winterfell chưa? Và báo tin cho đức vua nữa?” Mồ hôi túa ra trên trán cậu. Cậu nhắm mắt lại một lát.

Grenn ngạc nhiên nhìn Pyp. “Cậu ấy không biết rồi.”

“Jon,” Maester Aemon nói, “đã có rất nhiều chuyện đã xảy ra kể từ khi cậu ra đi, trong đó không có mấy tin tốt lành. Balon Greyjoy tự xưng vương lần nữa và hắn cử tàu chiến đánh chiếm phương bắc. Vua mọc lên như nấm và chúng ta đã gửi thư thỉnh cầu đến tất cả bọn họ, nhưng sẽ không có ai đến giúp đâu. Gươm đao của bọn họ phải phục vụ vô khối việc khác cấp bách hơn, trong khi chúng ta đang ở quá xa và đã bị lãng quên. Còn Winterfell… Jon, hãy mạnh mẽ lên… Winterfell không còn nữa…”

“Không còn nữa?” Jon nhìn chằm chằm vào đôi mắt trắng đục của Aemon và nhăn mặt. Các em tôi đang ở Winterfell. Bran và Rickon…”

Vị học sĩ chạm vào trán cậu. “Jon, ta rất tiếc. Các em trai cậu đã bị giết theo lệnh của Theon Greyjoy, sau khi hắn chiếm Winterfell nhân danh cha của hắn. Khi các chư hầu của cha cậu đe dọa sẽ lấy lại Winterfell, hắn thiêu rụi lâu đài.”

“Hai em của cậu đã được báo thù.” Grenn tiếp lời. “Con trai của Bolton đã giết sạch bọn người Đảo Iron và nghe nói anh ta đã lột từng mảng da của Theon Greyjoy để trừng phạt những gì hắn đã làm.”

“Jon, tôi rất tiếc.” Pyp siết chặt vai cậu. “Tất cả chúng tôi đều rất tiếc.”

Jon chưa bao giờ ưa Theon Greyjoy, nhưng hắn được cha cậu giám hộ. Một cơn đau ghê gớm khiến cậu lại phải nằm xuống. “Có sự nhầm lẫn rồi,” cậu khẳng định. “Ở tháp Vương Miện Hoàng Hậu, tôi nhìn thấy một con sói tuyết, sói tuyết màu xám… màu xám… nó nhận ra tôi.” Nếu Bran đã chết, liệu linh hồn thằng bé có còn sống trong con sói tuyết không? Giống như Orell vẫn sống trong con đại bàng của lão ta vậy?

“Hãy uống thứ này đi.” Grenn đưa chiếc cốc lên miệng cậu. Jon uống. Trong đầu cậu tràn ngập hình ảnh của chó sói và đại bàng, đâu đó vang lên tiếng cười của các em trai nữa. Những khuôn mặt phía trên cậu bắt đầu mờ dần và tan biến. Hai thằng nhóc không thể chết được. Theon không bao giờ làm việc đó đâu. Và Winterfell nữa… phiến đá nâu, vỉ lò bằng gỗ sồi, bầy quạ chao liệng quanh những tòa tháp, hơi nước bốc lên từ những hồ nước nóng trong rừng, những vị vua ngồi trên ngai vàng đá… làm sao Winterfell có thể không còn được chứ?

Giấc mơ đến, cậu thấy mình lại được quay về nhà, được té nước trong những hồ nước nóng dưới cây đước trắng khổng lồ khắc nét mặt của cha cậu. Ygritte cũng ở bên cậu, cười với cậu rồi trút bỏ quần áo đến khi cô trần truồng như trong ngày rửa tội, cô cố hôn cậu nhưng cậu không thể đáp lại, vì cha đang nhìn hai người. Cậu là máu thịt của Winterfell, là người của Đội Tuần Đêm. Mình sẽ không sinh ra một đứa con hoang, cậu nói vậy với cô. Ta sẽ không đâu, không đâu. “Anh chẳng biết gì hết, Jon Snow,” cô thầm thì, da cô tan ra trong hồ nước nóng, lớp thịt bên dưới tuột khỏi xương cho đến khi chỉ còn lại đầu lâu và bộ xương, hồ nước sủi bong bóng dày đặc và đỏ quạch.

About The Author

Ngo David

Power is Power