Trò chơi vương quyền 3B – Nước mắt sói tuyết
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 28
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Trên gác xép, một người phụ nữ đang ầm ĩ kêu đau đẻ, trong khi bên dưới, một người đàn ông đang nằm chờ chết bên đống lửa. Samwell Tarly không biết điều gì khiến cậu sợ hãi hơn.
Họ đã đắp một đống lông thú lên người Bannen và đốt lửa cháy thật cao, nhưng anh ta vẫn chỉ nói, “Lạnh. Làm ơn. Lạnh quá.” Sam cố cho anh ta ăn canh hành, nhưng anh ta không nuốt được. Nước canh chảy rớt ra môi, và xuống cằm trước khi Sam kịp đưa thìa canh vào trong miệng anh ta.
“Tên đó sắp chết rồi.” Craster nhìn anh ta với vẻ thờ ơ khi lão ta ngoạm một cái xúc xích. “Nhớ tử tế đâm một con dao vào ngực nó còn hơn là cắm cái thìa đó vào miệng nó, ngươi đã đề nghị ta như vậy.”
“Tôi không nhớ là chúng tôi đã đề nghị như vậy.” Khổng Lồ chỉ cao hơn mét rưỡi – tên thật của anh ta là Bedwyck – anh ta quá bé nhỏ với cái tên ấy. “Sát Nhân, mày hỏi xin lời khuyên của Craster hả?”
Sam co rúm lại khi nghe đến biệt danh ấy, nhưng cậu lắc đầu. Cậu xúc đầy một thìa canh khác, cố đưa thìa vào miệng Bannen.
“Thức ăn và lửa,” Khổng Lồ nói, “chúng tôi chỉ đề nghị ở ông hai thứ đó. Và ông miễn cưỡng cho chúng tôi thức ăn.”
“Hãy mừng vì ta không miễn cưỡng cho các ngươi lửa.” Craster là một gã béo lại càng thêm béo vì đám quần áo lông cừu hôi hám mà lão mặc cả ngày lẫn đêm. Mũi to, tẹt, miệng méo xẹo sang một bên, và lão đã mất một tai. Mặc dù mái tóc rối và bộ râu bờm xờm của lão đang chuyển sang màu hoa râm, nhưng hai bàn tay nhiều khớp đốt cứng cỏi của hắn trông vẫn đủ mạnh mẽ để gây tổn thương cho bất kỳ ai. “Ta cho các ngươi ăn thứ mà ta có, nhưng đám quạ người các ngươi lúc nào cũng đói. Ta là người sùng đạo, nếu không ta đã đuổi các ngươi đi hết rồi. Ngươi nghĩ là ta thích nhìn tên đó nằm chết trên sàn nhà của ta sao? Ngươi nghĩ ta cần mồm miệng của các ngươi sao, thằng nhóc?” Gã du mục nhổ nước bọt. “Đám quạ người. Có bao giờ một con quạ đen mang điềm lành đến cho ai không? Chẳng bao giờ. Chưa bao giờ hết.”
Canh vẫn chảy xuống khỏi khóe miệng Bannen. Sam lấy ống tay áo lau nước canh cho anh ta. Đôi mắt của người lính biệt kích ấy mở ra, nhưng dường như không nhìn thấy gì. “Lạnh,” anh ta nói, giọng yếu ớt. Các vị học sĩ chắc chắn biết cách cứu anh ta, nhưng bọn họ không có ai cả. Kedge Mắt Trắng đã cưa bàn chân bị thương của Bannen chín ngày trước, máu và mủ khiến Sam phát bệnh, nhưng đã quá muộn. “Lạnh lắm,” đôi môi tái nhợt nói.
Quanh gian nhà, hai chục anh em áo đen tả tơi ngồi xổm trên sàn, hoặc ngồi trên những cái ghế được đẽo gọt qua loa, họ cũng uống nước canh hành và gặm các khoanh bánh mì cứng. Hai người bị thương nặng hơn cả Bannen. Fornio mê sảng suốt nhiều ngày, còn vai Ser Byam rỉ ra thứ mủ vàng hôi thối. Khi họ rời khỏi Hắc Thành, Bernarr Nâu có mang theo các túi đựng lửa Myrish, dầu mù tạt, tỏi nghiền, cúc ngài, anh túc và các loại thảo mộc trị thương khác. Có cả thuốc ngủ nữa, thứ thuốc này là món quà cho một cái chết không đau đớn. Nhưng Bernarr Nâu đã chết trên đỉnh Nắm Đấm và không ai nghĩ đến việc tìm kiếm các cây thuốc của Maester Aemon. Dù là đầu bếp, nhưng Hake cũng biết đôi chút về thảo dược, mà Hake cũng chết rồi. Nên những người phụ trách bếp núc còn sống sót phải làm mọi việc có thể cho những người bị thương, tuy nhiên những gì họ làm được thì vô cùng ít ỏi. Ít nhất ở đây họ cũng được khô ráo, có lửa để sưởi. Nhưng họ cần thêm đồ ăn.
Tất cả bọn họ đều cần thêm thức ăn. Họ càu nhàu suốt nhiều ngày nay. Karl liên tục nói về việc Craster chắc chắn phải có một tủ thức ăn bí mật, và Garth vùng Oldtown cũng bắt đầu nói đi nói lại điều đó, khi anh ta ở ngoài tầm nghe của tướng chỉ huy. Sam đã nghĩ đến việc xin thêm chút ít thức ăn bổ dưỡng hơn cho những người bị thương, nhưng cậu không có đủ can đảm. Đôi mắt Craster lạnh lùng và bủn xỉn, và mỗi khi gã du mục ấy nhìn cậu, hai bàn tay gã lại nắm vào một chút, như thể muốn cuộn thành nắm đấm. Lão có biết mình đã nói chuyện với Gilly không, vào lần cuối cùng đội của mình ở đây? Cậu tự hỏi. Cô ấy có nói với lão rằng mình đã nói sẽ đưa cô ấy đi cùng không? Lão có đánh cô ấy không?
“Lạnh,” Bannen nói. “Làm ơn. Lạnh…”
Bất chấp hơi nóng và khói trong gian nhà của Craster, Sam cũng thấy lạnh. Và mệt, rất mệt mỏi. Cậu cần ngủ, nhưng mỗi khi nhắm mắt, cậu lại mơ thấy tuyết đang rơi, những người đã chết lê lết về phía cậu với những cánh tay đen kịt cùng đôi mắt màu xanh sáng.
Trên gác, Gilly kêu một tiếng thổn thức đến rùng mình, vang dội cả gian nhà thấp, dài, và không có cửa sổ. “Rặn đi,” cậu nghe thấy một trong những người vợ nhiều tuổi hơn của Craster nói. “Mạnh hơn. Mạnh hơn nữa. Hét lên nếu muốn.” Cô hét ầm lên, to đến mức Sam phải nhăn mặt.
Craster ngẩng đầu trừng trừng nhìn lên. “Tao nghe la hét đủ rồi đấy.” Lão quát tháo vọng lên trên. “Nhét giẻ vào mồm nó, nếu không tao sẽ lên cho nó ăn vả đấy.” Sam biết lão sẽ làm vậy. Craster có mười chín vợ, nhưng không ai dám can ngăn một khi lão đã lên cầu thang đó. Hai đêm trước, các anh em áo đen cũng không dám lên khi lão đánh một cô gái trẻ. Nhưng chắc chắn chỉ có nhiều tiếng giận dữ đáp lại. “Lão giết con bé mất,” Garth vùng Greenaway nói, còn Karl cười cợt, “Nếu lão không muốn món thịt nhỏ xinh ấy, lão cho tao cũng ngon.” Bernarr Đen khẽ chửi rủa, còn Alan vùng Rosby đứng lên và đi ra ngoài để không phải nghe tiếng đánh đập. “Nhà của lão, quyền của lão,” lính biệt kích Ronnel Harclay nhắc họ. “Craster là bạn của Đội Tuần Đêm.”
Một người bạn, Sam thầm nghĩ khi cậu nghe tiếng kêu thét bị bóp nghẹt của Gilly. Craster là một lão già tàn bạo, cai trị vợ và con gái bằng bàn tay thép, nhưng tư gia của lão là một nơi ẩn náu. “Đám quạ người chết cóng,” Craster chế nhạo khi họ uể oải bước vào nhà lão – vài người ít ỏi còn sống sót qua tuyết, xác sống, và cái lạnh buốt da thấu thịt. “Nhưng không đông đúc như đám đi về phương bắc.” Dù vậy lão vẫn cho họ khoảng trống trên sàn nhà, cho họ một mái nhà để che tuyết rơi, một ngọn lửa để họ sưởi khô người, và các bà vợ của lão mang cho họ rượu nóng để uống cho ấm bụng. “Đám quạ người khốn kiếp,” lão gọi họ như vậy, nhưng lão vẫn cho họ ăn, mặc dù bữa ăn rất nghèo nàn.
Chúng ta là khách, Sam tự nhắc mình. Gilly là của lão. Là con gái, là vợ lão. Nhà của lão, quyền của lão.
Lần đầu tiên cậu đến nhà của Craster, Gilly đã cầu xin được giúp đỡ, và Sam cho cô mượn chiếc áo khoác đen của cậu để che bụng khi cô đến tìm Jon Snow. Các hiệp sĩ phải là người bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Chỉ một vài người trong số các anh em áo đen là hiệp sĩ, nhưng dù vậy… Tất cả đều nói lời tuyên thệ như nhau, Sam nghĩ bụng. Tôi là tấm khiên bảo vệ vương quốc. Phụ nữ là phụ nữ, dù họ có là người du mục. Chúng ta nên giúp cô ấy. Chúng ta nên làm thế. Gilly lo sợ cho đứa con của cô, sợ rằng đứa bé ấy sẽ là con trai. Craster nuôi các con gái lớn để làm vợ lão, và quanh khu vực nhà lão không thấy bóng dáng đàn ông, hay các cậu bé. Gilly nói với Jon rằng Craster đem hết con trai của lão cho các vị thần. Nếu các vị thần thấu lòng người, họ sẽ cho cô ấy một đứa con gái, Sam thầm cầu nguyện.
Trên gác, Gilly lại kêu gào đau đớn. “Đúng rồi,” một người phụ nữ nói. “Rặn một cái nữa. Ôi, ta thấy đầu thằng bé rồi.”
Đầu con bé, Sam khổ sở nghĩ bụng. Đầu con bé, đầu con bé.
“Lạnh,” Bannen yếu ớt nói. “Làm ơn. Lạnh quá.” Sam đặt bát canh và thìa xuống, đắp thêm một lớp lông thú ngang người anh ta, và đặt một thanh củi nữa vào bếp. Gilly lại thét lên rồi thở hổn hển. Craster ngoạm cái xúc xích đen cứng đờ của lão. Lão nói lão có đủ xúc xích cho lão và các bà vợ, nhưng không còn cho Đội Tuần Đêm.
“Đàn bà,” lão càu nhàu. “Chúng rền rĩ suốt… có lần con lợn nái của ta đẻ một đàn tám con lợn con mà không kêu lấy một tiếng.” Vừa nhai, lão vừa liếc nhìn Sam vẻ đầy khinh bỉ. “Thằng nhóc Sát Nhân kia, con nhỏ đó béo gần bằng mày đấy.” Lão cười ồ.
Sam không thể chịu đựng được nữa. Cậu loạng quạng rời khỏi đống lửa, ngượng nghịu bước đi quanh những người đang ngủ, đang ngồi xổm và đang chết trên nền đất cứng. Khói, tiếng kêu thét và rên rỉ khiến cậu muốn xỉu. Cúi thấp đầu, cậu chúi người qua tấm da hươu treo lơ lửng được coi là cửa và bước ra không gian của buổi hoàng hôn.
Trời nhiều mây, nhưng vẫn đủ sáng để làm lóa mắt khi bước ra khỏi bóng tối ảm đạm của gian nhà. Các tảng tuyết nặng làm những cành cây xung quanh oằn xuống, che phủ cả ngọn đồi màu vàng và nâu đỏ nhạt, nhưng tuyết rơi không nặng như trước nữa. Cơn bão đã qua, và những ngày ở lều của Craster… ừm, có lẽ không ấm, nhưng cũng không lạnh buốt. Cậu nghe thấy tiếng nước nhỏ giọt từ các cột băng quanh mái nhà lợp bằng cỏ. Cậu hít thở một hơi thật sâu và nhìn quanh quất.
Ở phía tây, Ollo Lòng Thòng và Tim Đá đang đi tới đi lui giữa đàn ngựa còn lại, cho chúng ăn và uống nước.
Theo hướng gió thổi, các anh em khác đang lột da và xẻ thịt những con ngựa quá yếu, không thể đi tiếp. Những người cầm giáo và các cung thủ đi lại canh gác phía sau các con hào bằng đất vốn là hàng rào phòng thủ duy nhất trước mọi kẻ thù đang ẩn nấp trong rừng sâu, trong khi khoảng chục đống lửa tỏa ra những làn khói xám xanh. Sam cũng nghe thấy văng vẳng tiếng rìu đốn cây trong rừng, nơi một đội đang chặt cây để đốt lửa cả đêm. Đêm là thời điểm tồi tệ. Khi trời tối. Và lạnh.
Từ khi họ ở nhà Craster, chưa xảy ra cuộc tấn công nào, không có xác sống, và cũng không có Ngoại Nhân. Và ở đây sẽ không bao giờ có, Craster nói. “Một người đàn ông ngoan đạo không có lý do gì để e sợ những thứ đó. Có lần ta cũng nói điều đó với Mance Rayder, khi hắn đến đây sục sạo. Hắn không chịu nghe ta, cũng như đám quạ người các ngươi với đủ loại gươm đao, nào đuốc nào lửa. Những thứ ấy không giúp gì được các ngươi đâu, khi tuyết trắng mang cái lạnh đến. Chỉ có các vị thần mới giúp được các ngươi thôi. Tốt nhất là các ngươi nên tỏ lòng tôn kính các vị thần ấy.”
Gilly cũng từng nói về cái lạnh tuyết trắng, và cô cũng kể về những thứ Craster dùng để cúng bái các vị thần. Nghe đến chuyện đó, Sam chỉ muốn giết chết lão. Bên ngoài Tường Thành không có luật lệ, cậu tự nhắc mình, và Craster là một người bạn của Đội Tuần Đêm.
Sam đi theo một tiếng kêu rời rạc vang lên từ phía sau gian nhà làm bằng đất và phên. Nền đất bên dưới chân cậu là tuyết tan và lớp bùn mềm mà Edd U Sầu khăng khăng cho là phân của Craster. Nhưng nó sền sệt hơn phân, dính vào ủng của Sam chặt đến nỗi cậu cảm thấy một bên ủng như muốn rơi ra.
Đằng sau vườn rau và chuồng cừu trống không, khoảng mười hai anh em đang bắn tên vào bia bắn được làm bằng cỏ và rơm. Gã quản gia tóc vàng hoe, người mảnh khảnh tên là Donnel Ngọt Ngào bắn một mũi tên trúng ngay sát tâm bắn ở khoảng cách 50 mét. “Ông anh, bắn thế nhé.”
“Được. Tôi sẽ cố.” Ulmer lưng gù, râu xám, da nhăn nheo, đi về phía bia bắn và lôi cung tên ra khỏi bao đựng tên buộc quanh hông. Hồi trẻ, ông ta là một kẻ sống ngoài vòng pháp luật, thành viên của Anh Em Rừng Vương ô nhục. Ông ta tuyên bố từng bắn một mũi tên xuyên tay của Bò Trắng trong đội Ngự Lâm Quân để giành được nụ hôn của công chúa người xứ Dorne. Ông ta trộm cả trang sức, và một thùng vàng của cô ta, nhưng khi rượu vào ông ta chỉ muốn khoe khoang về nụ hôn kia.
Ông ta lắp cung và kéo, rất nhẹ nhàng, rồi bắn. Mũi tên cắm đích cách mũi tên của Donnel Hill khoảng 3cm. “Nhóc, được không?” ông ta hỏi và bước lùi lại.
“Được rồi,” người trẻ tuổi nói đầy vẻ miễn cưỡng. “Gió thổi tạt ngang giúp ông anh đấy. Lúc tôi bắn, gió thổi mạnh hơn.”
“Thế thì cậu nên công nhận. Mắt cậu tinh, tay cậu vững, nhưng cậu cần thêm ối thứ nữa để giỏi hơn một lính biệt kích. Fletcher Dick chính là người dạy tôi bắn cung, và tính đến giờ, chưa có cung thủ nào giỏi hơn ông ấy. Tôi đã kể cho cậu nghe về Dick già chưa nhỉ?”
“Mới kể có ba trăm lần thôi.” Ai ở Hắc Thành cũng từng nghe đến những câu chuyện tào lao của Ulmer về những người sống ngoài vòng pháp luật một thời danh tiếng; nào là về Simon Toyne và Kỵ Sĩ Cười, Oswyn Cổ Dài từng bị treo cổ ba lần, Wenda Hươu Trắng, Fletcher Dick, Ben Bụng To, và tất cả các thành viên còn lại. Tìm cớ để thoái lui, Donnel Ngọt Ngào nhìn quanh quất và thấy Sam đang đứng trong đống phân. “Sát Nhân,” ông ta gọi. “Đến đây đi, cho bọn tôi xem cậu giết Ngoại Nhân như thế nào.” Ông ta giơ cây cung làm bằng gỗ thông đỏ lên.
Sam đỏ bừng mặt mũi. “Không phải một mũi tên, mà là một con dao găm, làm bằng đá vỏ chai…”
Cậu biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu cậu cầm cây cung. Cậu sẽ bắn trượt bia và mũi tên bay vút vào giữa đám lá cây. Rồi cậu sẽ phải nghe tiếng cười giễu cợt.
“Không sao,” Alan vùng Rosby nói, anh ta cũng là một cung thủ cừ khôi. “Tất cả bọn tôi đều muốn xem Sát Nhân bắn cung. Phải không các cậu?”
Cậu không thể đối mặt với những nụ cười mỉa mai, những lời nói đùa ác ý và sự khinh bỉ trong ánh mắt của họ. Sam quay lưng đi ra, nhưng bên chân phải lún sâu trong đống phân, và khi cố rút chân lên, ủng cậu bị tuột ra. Cậu phải quỳ xuống kéo ủng lên, tiếng cười vang lên bên tai cậu. Dù đang đi tất, nhưng tuyết tan làm ướt đẫm cả ngón chân cái khi cậu bước đi. Vô dụng, cậu khổ sở nghĩ bụng. Cha hiểu rõ mình. Mình không có quyền sống trong khi rất nhiều con người dũng cảm phải chết.
Grenn đang trông một đống lửa ở hướng nam cổng khu nhà, áo buộc quanh hông khi cậu ta chẻ củi. Mặt cậu ta đỏ phừng phừng vì gắng sức, mồ hôi vã ra như tắm. Nhưng cậu ta cười khì khi Sam bước đến. “Sát Nhân, Ngoại Nhân lấy ủng của mày rồi hả?”
Cả cậu ta nữa sao? “Tại bùn thôi. Làm ơn đừng gọi tao như thế.”
“Sao không?” Grenn có vẻ thành thực không hiểu gì. “Bí danh ấy hay mà, và mày có được bí danh ấy hoàn toàn xứng đáng.”
Pyp vẫn luôn đùa rằng Grenn đần như bức tường tòa lâu đài, vì vậy Sam phải kiên nhẫn giải thích. “Đó chỉ là từ khác để gọi tao là đồ hèn nhát thôi,” cậu vừa nói vừa đứng trên chân trái và cố nhét chân vào chiếc ủng đầy bùn. “Bọn họ chế nhạo tao, y như khi bọn họ móc mỉa Bedwyck bằng cách gọi nó là ‘Khổng Lồ.’”
“Ừ, nó không phải người khổng lồ,” Grenn nói, “và Paul cũng không hề nhỏ. À, chắc hồi con nít nó cũng nhỏ, nhưng sau này thì không. Nhưng đúng là mày đã giết chết Ngoại Nhân, vì vậy hai chuyện này không giống nhau.”
“Tao chỉ… tao chưa bao giờ… Tao đã rất sợ hãi.”
“Tao cũng thế. Chỉ có Pyp nói tao đần đến nỗi không biết sợ là gì. Tao cũng biết sợ như mọi người chứ.” Grenn cúi xuống nhặt một khúc củi đã được chẻ và tung vào bếp lửa. “Ngày trước, mỗi khi phải chiến đấu với Jon, tao sợ nó lắm. Nó nhanh nhẹn, và nó đánh như thể nó muốn giết tao luôn.” Thanh củi ẩm ướt cháy bùng, nhả khói mù mịt trước khi bén lửa. “Nhưng tao chưa bao giờ nói gì hết. Tao nghĩ là mọi người đều giả vờ dũng cảm, và không ai trong chúng ta thực sự dũng cảm hết. Có lẽ giả vờ là cách người ta trở nên dũng cảm, tao cũng không rõ lắm. Cứ để bọn họ gọi mày là Sát Nhân đi, ai mà quan tâm chứ?”
“Mày có thích Ser Alliser gọi mày là Bò Rừng đâu.”
“Ông ấy nói tao to béo và ngu độn.” Grenn gãi râu. “Nhưng nếu Pyp muốn gọi tao là Bò Rừng, nó sẽ gọi đấy. Kể cả mày, hay Jon nữa. Bò rừng là loài động vật cực kỳ khỏe mạnh, vì vậy điều đó cũng không đến nỗi tệ, mà tao thì to béo, và càng ngày càng béo. Chẳng lẽ mày không thích là Sam Sát Nhân hơn Ser Lợn Béo à?”
“Tại sao tao không thể là Samwell Tarly thôi?” Cậu ngồi phịch xuống một khúc gỗ ẩm mà Grenn vẫn chưa chẻ ra. “Chính đá vỏ chai đã giết Ngoại Nhân. Không phải tao đâu, mà là đá vỏ chai.”
Cậu đã kể với bọn họ. Cậu đã kể với tất cả bọn họ. Nhưng cậu biết, một số người không tin. Dirk đã cho Sam xem con dao găm của anh ta và nói, “Tao có dao thép, thế tao muốn có dao làm bằng thủy tinh làm gì?” Bernarr Đen và ba gã người Garth đều nói thẳng rằng bọn họ nghi ngờ về toàn bộ câu chuyện, và Rolly vùng Sisterton đến ngay và nói, “Giống y chuyện mày đâm mấy bụi cây bí ẩn và hóa ra là Paul Nhỏ đang đại tiện, vì thế nên đúng là mày đã bịa chuyện.”
Chỉ có Dywen chịu nghe cậu kể, và cả Edd U Sầu nữa, và hai người ấy bắt cậu và Grenn phải nói chuyện đó với tướng chỉ huy. Mormont chau mày suốt quá trình cậu kể và đặt ra nhiều câu hỏi sắc bén, nhưng ông quá thận trọng, đến mức không lảng tránh bất kỳ vấn đề nào. Ông đề nghị Sam cho ông xem con dao găm đá vỏ chai trong túi đồ, mắc dù con dao ấy rất nhỏ bé. Mỗi khi Sam nhớ đến nơi giấu đồ mà Jon tìm thấy được chôn bên dưới chân núi Nắm Đấm, cậu những muốn khóc òa lên. Trong đó có rất nhiều dao găm, mũi giáo, và ít nhất hai đến ba trăm mũi tên. Jon tự làm dao găm cho cậu ta, Sam và tướng chỉ huy Mormont, và cậu ấy cũng đưa cho Sam một mũi giáo, một cái tù và hỏng, cùng vài mũi tên. Grenn cũng lấy một nắm mũi tên, và chỉ có chừng vậy thôi.
Vậy nên, lúc này những gì họ có chỉ là con dao găm của Mormont và con dao găm mà Sam đã đưa cho Grenn, cộng với mười chín mũi tên và một cây giáo cao làm bằng gỗ cứng có mũi nhọn bằng đá vỏ chai đen. Đội lính canh gác chuyển giáo cho nhau sau từng phiên canh, trong khi Mormont chia mũi tên cho các cung thủ giỏi nhất. Muttering Bill, Garth Greyfather, Ronnel Harclay, Donnel Hill Ngọt Ngào và Alan vùng Rosby mỗi người có ba mũi tên, còn Ulmer được bốn. Nhưng nếu bọn họ có bắn trúng đích, thì họ cũng sớm phải dùng đến mũi tên lửa như tất cả mọi người khác. Họ đã bắn cả trăm mũi tên lửa trên đỉnh Nắm Đấm, vậy mà lũ xác sống vẫn ào lên dồn dập.
Không đủ đâu, Sam nghĩ bụng. Hàng rào dốc làm bằng bùn và tuyết tan của Craster không thể trì hoãn sự di chuyển của lũ xác sống, bọn chúng đã leo lên những sườn núi dốc hơn nhiều trên đỉnh Nắm Đấm và bò nhung nhúc lên tường bao. Và thay vì ba trăm anh em được lệnh xếp hàng theo kỷ cương để đối phó với đám xác sống, thì chúng chỉ phải chiến đấu với bốn mươi mốt người còn sống sót trong tình trạng tả tơi, chín người bị thương quá nặng, không thể chiến đấu được. Trong số hơn sáu mươi người thoát được khỏi đỉnh Nắm Đấm, bốn mươi bốn người chống chọi được với bão và đến được nơi ở của Craster, nhưng ba người đã chết vì bị thương, và Bannen sẽ sớm là người thứ tư.
“Mày có nghĩ là đám xác sống đi hết rồi không?” Sam hỏi Grenn. “Sao bọn chúng không đến giết nốt chúng ta đi?”
“Chúng chỉ xuất hiện khi trời lạnh thôi.”
“Ừ,” Sam nói, “nhưng có phải cái lạnh đem đám xác sống đến không, hay bọn chúng mang cái lạnh đến?”
“Ai quan tâm làm gì?” Rìu của Grenn làm các mẩu gỗ bay tứ tán. “Điều quan trọng là chúng đến cùng nhau. Nhưng, bây giờ chúng ta đã biết là đá vỏ chai giết được bọn chúng rồi, biết đâu chúng sẽ không đến nữa. Biết đâu giờ chúng đang sợ chúng ta chết khiếp!”
Sam ước gì cậu tin được điều đó, nhưng cậu lại cho rằng, khi chết rồi, làm gì có ai thấy sợ, lúc ấy nỗi sợ hãi chẳng có ý nghĩa gì hơn nỗi đau đớn, tình yêu thương, hay nghĩa vụ. Cậu quàng tay ôm hai chân, mồ hôi vã ra bên dưới các lớp áo quần bằng len, da và lông thú của cậu. Con dao găm đá vỏ chai đã làm con thú nhợt nhạt ấy tan chảy trong rừng, đúng vậy… nhưng Grenn nói như thể chuyện sẽ xảy ra y như vậy với đám xác sống. Chúng ta vẫn chưa biết thế nào, cậu nghĩ bụng. Thực ra là chúng ta chưa biết gì hết. Giá như Jon ở đây. Cậu quý Grenn, nhưng cậu không thể trò chuyện với cậu ta như với Jon. Jon sẽ không gọi mình là Sát Nhân, mình biết như thế. Và mình có thể nói chuyện với cậu ấy về em bé của Gilly. Nhưng Jon đã cưỡi ngựa đi cùng Qhorin Cụt Tay, và từ lúc đó họ chưa nghe được tin gì từ cậu ấy. Cậu ấy cũng có con dao đá vỏ chai, nhưng liệu cậu ấy có nghĩ đến việc sử dụng dao không? Hay cậu ấy đang nằm chết và đóng băng ở hẻm núi nào đó… hay tệ hơn, cậu ấy đã chết và trở thành xác sống lởn vởn trong khu rừng?
Cậu không thể hiểu tại sao các vị thần lại muốn lấy Jon Snow với Bannen đi và để cho cậu sống, trong khi cậu hèn nhát và vụng về đến thế. Lẽ ra cậu phải chết trên đỉnh Nắm Đấm, nơi mà cậu đã vãi tè ra quần đến ba lần và làm mất cả thanh gươm của mình. Và lẽ ra cậu đã chết trong rừng nếu Paul Nhỏ không vác cậu đi. Giá như tất cả chỉ là một giấc mơ. Như thế mình có thể tỉnh giấc. Sẽ tuyệt vời biết bao khi cậu được tỉnh giấc trên đỉnh Nắm Đấm của Tiền Nhân, với các anh em áo đen xung quanh cậu, có cả Jon và Bóng Ma nữa. Tuyệt vời hơn nữa là được thức giấc ở Hắc Thành, phía sau Tường Thành, và đi vào phòng chung để ăn một tô bột lúa mì, cùng với một thìa bơ đang tan ra và chút mật ong chờ sẵn bên cạnh. Chỉ nghĩ đến điều đó thôi bụng cậu đã sôi lên ầm ầm.
“Tuyết.”
Sam ngẩng lên khi nghe thấy âm thanh đó. Con quạ của tướng chỉ huy Mormont đang bay lượn vòng quanh đống lửa, đôi cánh đen của nó đập phần phật.
“Tuyết,” con quạ kêu lên. “Tuyết, tuyết.”
Con quạ đi đến đâu, Mormont sẽ sớm xuất hiện ở đó. Tướng chỉ huy chui ra từ bên dưới lùm cây, ông ngồi trên con ngựa giữa Dywen già và lính biệt kích Ronnel Harclay mặt cáo – ông ta được đưa lên thay vị trí của Thoren Smallwood. Lính mang giáo gác cổng hét lên thách thức, nhưng Gấu Già cộc lốc đáp lại, “Cậu nghĩ cái quái gì đang đi vào đó hả? Ngoại Nhân móc mắt cậu rồi sao?” Ông cưỡi ngựa đi vào giữa hai cột cổng, một cột treo đầu lâu con cừu đực, còn cột kia là đầu lâu một con gấu, sau đó ông ghì cương, nắm tay lại và huýt sáo. Con quạ bay vù đến chỗ ông khi nghe thấy tiếng huýt gọi.
“Thưa tướng chỉ huy,” Sam nghe tiếng Ronnel Harclay nói, “chúng ta chỉ có hai mươi hai con ngựa, và tôi nghĩ sẽ chỉ có một nửa đủ sức đến được Tường Thành.”
“Ta biết,” Mormont lầm bầm. “Chúng ta vẫn phải đi. Craster đã nói thẳng như vậy.” Ông liếc nhìn sang hướng tây, những đám mây đen kịt đang che kín mặt trời. “Các vị thần đã cho chúng ta thời gian trì hoãn, nhưng trì hoãn đến bao giờ?” Mormont nhảy phắt xuống ngựa, xua con quạ bay vút vào không trung. Lúc đó ông nhìn thấy Sam và la lớn, “Tarly!”
“Tôi ạ?” Sam vụng về đứng lên.
“Tôi ạ?” Con quạ đậu trên đầu người đàn ông già đó. “Tôi ạ?”
“Cậu tên là Tarly phải không? Hay cậu có anh em ruột quanh đây? Phải, chính cậu. Im miệng và đi với ta.”
“Với ngài ạ?” Ba từ đó vuột ra the thé.
Tướng chỉ huy Mormont dành cho cậu cái nhìn khinh miệt. “Cậu là người của Đội Tuần Đêm. Cố đừng có són tiểu ra quần mỗi khi ta nhìn cậu. Đi, ta nói rồi.” Đôi ủng của ông tạo ra những âm thanh kêu lép nhép trong bùn, và Sam phải bước vội để bắt kịp ông, “Ta đã nghĩ rất nhiều về con dao găm đá vỏ chai của cậu.”
“Không phải của tôi,” Sam nói.
“Thế thì là của Jon Snow vậy. Nếu tất cả cái chúng ta cần chỉ là dao găm đá vỏ chai, vậy thì tại sao chúng ta chỉ có hai con dao thôi? Tất cả mọi người ở Tường Thành nên được trang bị con dao này vào ngày họ nói lời tuyên thệ.”
“Chúng ta chưa bao giờ biết…”
“Chúng ta chưa bao giờ biết! Nhưng chắc hẳn phải có một lần chúng ta biết. Đội Tuần Đêm đã quên mục đích chân chính của đội, Tarly ạ. Cậu không đắp lên bức tường thành cao tới cả 300 mét để ngăn cản lũ du mục đánh cắp phụ nữ. Tường Thành được xây đắp để bảo vệ vương quốc của con người… và không chống lại những con người khác, những đám dân du mục mà cậu phải đối diện. Đã quá nhiều năm rồi, Tarly, hàng trăm, hàng ngàn năm rồi. Chúng ta không còn nhận biết được kẻ thù đích thực nữa. Và lúc này kẻ thù ở ngay đây, nhưng chúng ta không biết chiến đấu ra sao với nó. Có phải đá vỏ chai do rồng tạo ra, như người ta đồn đại không?”
“H…học sĩ không nghĩ vậy ạ,” Sam nói lắp. “Các học sĩ nói rằng nó xuất phát từ lửa dưới đất. Họ gọi là đá vỏ chai ạ.”
Mormont khịt mũi. “Họ gọi là bánh chanh cũng được. Nếu thứ đá ấy giết được kẻ thù đúng như cậu nói, thì ta cần có nhiều thứ đá ấy hơn.”
Sam trượt chân. “Jon đã tìm được nhiều hơn, ở trên đỉnh Nắm Đấm. Cả trăm đầu mũi tên, mũi giáo nữa ạ…”
“Cậu cũng đã nói vậy. Nhưng cũng chẳng có ích gì cho chúng ta ở đây. Để quay trở lại đỉnh Nắm Đấm, chúng ta cần phải được trang bị những thứ vũ khí mà chúng ta không có, cho đến khi đến được đỉnh Nắm Đấm khốn kiếp ấy. Chúng ta còn phải đối phó với cả đám dân du mục nữa. Chúng ta phải tìm ra đá vỏ chai ở đâu đó khác.”
Sam gần như đã quên hết cả đám dân du mục, vì từ đó đến nay xảy ra quá nhiều chuyện. “Những đứa con rừng rậm thường sử dụng các lưỡi dao làm bằng đá vỏ chai,” cậu nói. “Họ biết nơi tìm ra đá vỏ chai.”
“Những đứa con rừng rậm đều chết hết rồi,” Mormont nói. “Tiền Nhân giết một nửa số đó bằng lưỡi dao đồng, và người Andal giết số còn lại bằng sắt thép. Tại sao một con dao đá vỏ…”
Gấu Già ngừng nói khi Craster chui ra từ giữa hai tấm da hươu sống ngoài cửa. Gã du mục cười, để lộ hàm răng xấu xí. “Ta có một đứa con trai.”
“Con trai,” con quạ của Mormont nói theo. “Con trai, con trai, con trai.”
Nét mặt tướng chỉ huy cứng ngắc. “Chúc mừng ông.”
“Thật sao, lúc này ư? Về phần ta, ta sẽ vui khi ông và đám người của ông cuốn xéo hết đi. Đến lúc rồi, ta nghĩ vậy đấy.”
“Ngay khi những người bị thương của chúng tôi đủ khỏe…”
“Lão quạ già, bọn chúng khỏe nếu chúng muốn, cả hai chúng ta đều biết rõ điều đó. Còn những tên đang hấp hối, lão cũng biết quá rõ, cắt đứt yết hầu của bọn chúng đi và thế là xong chuyện. Hoặc để bọn chúng lại đây, nếu lão không muốn ra tay, ta sẽ giúp lão làm việc ấy.”
Tướng chỉ huy Mormont nổi giận đùng đùng. “Thoren Smallwood khăng khăng nói ông là bạn của Đội Tuần Đêm.”
“Phải,” Craster nói. “Ta đã cho các ngươi những gì ta có, nhưng mùa đông sắp đến, và bây giờ con nhỏ kia lại sinh thêm một thằng nhóc khóc la ầm ĩ để ta phải nuôi ăn nữa.”
“Chúng tôi có thể nuôi đứa bé,” ai đó nói.
Craster ngoảnh đầu. Hai mắt hắn nheo lại. Lão khạc nhổ vào chân Sam. “Sát Nhân, ngươi vừa bảo sao?”
Sam há hốc rồi lại ngậm miệng lại. “Tôi… tôi… tôi chỉ định nói là… nếu ông không muốn đứa nhỏ… phải nuôi ăn nó… khi mùa đông đang đến, thì chúng tôi… chúng tôi có thể nuôi nó, và…”
“Con trai ta. Máu thịt của ta. Ngươi nghĩ ta lại giao nó cho đám quạ người các ngươi sao?”
“Tôi chỉ nghĩ là…” Ông không có đứa con trai nào hết, ông vứt bỏ chúng, Gilly đã nói vậy, ông bỏ chúng lại trong rừng, vì thế ở đây ông chỉ có vợ, và con gái lớn lên để làm vợ.
“Sam, im miệng,” tướng chỉ huy Mormont nói. “Cậu nói bấy nhiêu đủ rồi. Quá nhiều rồi. Vào trong.”
“Thưa tướng chỉ huy…”
“Vào trong!”
Mặt mũi đỏ bừng, Sam nhét người qua hai tấm da hươu sống, trở lại với bóng tối ảm đạm của gian nhà. Mormont vào theo sau. “Cậu còn ngu đến mức nào nữa hả?” ông nói khi đã ở bên trong nhà, giọng nói của ông giận dữ và như bị bóp nghẹt. “Ngay cả khi Craster cho chúng ta đứa bé ấy, thì nó cũng chết trước khi chúng ta về tới Tường Thành. Lúc này mang theo một đứa bé sơ sinh để chăm lo chẳng khác nào có thêm tuyết rơi. Hai cái vú to bự của cậu có sữa cho nó bú không? Hay cậu định đưa luôn cả mẹ đứa nhỏ đi hả?”
“Cô ấy muốn đi cùng,” Sam nói. “Cô ấy cầu xin tôi…”
Mormont giơ một bàn tay lên. “Tarly, ta không muốn nghe thêm bất cứ từ nào về chuyện này nữa. Cậu đã được lệnh phải tránh xa những người vợ của Craster ra.”
“Cô ấy là con gái của lão ta,” Sam yếu ớt nói.
“Đến xem Bannen thế nào. Đi ngay. Trước khi cậu khiến ta hết kiên nhẫn.”
“Vâng, thưa ngài.” Sam run rẩy bước đi.
Nhưng khi đến chỗ đống lửa, cậu chỉ thấy Khổng Lồ đang kéo một chiếc áo khoác lông thú lên đầu Bannen. “Anh ta kêu lạnh,” người đàn ông nhỏ thó nói, “Tao chỉ mong anh ta đến được nơi nào đó ấm áp hơn.”
“Vết thương của anh ấy…” Sam nói.
“Vết thương chết tiệt.” Dirk đá chân vào xác chết. “Chân anh ta đau quá. Làng cũ của tao cũng có người mất một chân. Thế mà lão sống đến tận 94 tuổi.”
“Cái lạnh,” Sam nói. “Anh ấy chưa bao giờ đủ ấm.”
“Anh ta chưa bao giờ được ăn no,” Dirk nói. “Thằng cha Craster con hoang khốn nạn kia làm anh ta chết đói.”
Sam lo lắng nhìn quanh, nhưng Craster vẫn chưa quay trở vào gian nhà. Nếu lão ở trong này, mọi chuyện chắc chắn sẽ diễn biến xấu lắm. Lão du mục ấy ghét những đứa con hoang, mặc dù người lính biệt kích nói rằng bản thân lão cũng bị đẻ hoang, cha lão là một tên quạ người đã chết ngắc từ lâu và mẹ lão là một phụ nữ du mục.
“Craster phải lo bữa ăn cho người của lão,” Sam nói. “Tất cả những người phụ nữ ấy. Lão đã cho chúng ta những gì lão có thể cho.”
“Mày đừng tin vậy. Lúc nào chúng ta đi, lão sẽ mở ngay nắp tủ đựng rượu mật ong và ngồi xuống chén say sưa một cái chân giò lợn phết mật ong. Và cười nhạo chúng ta, khi phải chết đói trong tuyết. Lão già khốn kiếp. Bọn du mục không đứa nào là bạn của Đội Tuần Đêm hết.” Anh ta đá xác Bannen. “Không tin tao, mày cứ thử hỏi lão xem.”
Lúc mặt trời lặn, họ thiêu xác của người lính biệt kích trong đống lửa mà lúc trước Grenn đã nhóm lên. Tim Đá và Garth vùng Oldtown khênh cái xác trần truồng và đu đưa qua lại hai lần giữa hai người trước khi vứt vào đống lửa. Những người còn lại chia nhau quần áo, vũ khí, áo giáp và những tài sản của anh ta. Ở Hắc Thành, Đội Tuần Đêm chôn người chết cùng với tất cả kỷ vật của họ. Nhưng họ không ở Hắc Thành. Và xương không quay trở lại như đám xác sống kia.
“Cậu ấy tên là Bannen,” Tướng Mormont nói, khi ngọn lửa thiêu xác anh ta. “Cậu ấy là một người dũng cảm, một lính biệt kích xuất sắc. Cậu ấy đến với chúng ta từ… cậu ta đến từ đâu vậy?”
“Cảng White,” có người nói to.
Mormont gật đầu. “Cậu ấy từ Cảng White đến với chúng ta, và cậu ấy luôn luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Cậu ấy giữ nguyên lời thề, cưỡi ngựa đi xa, và anh dũng chiến đấu. Chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy cậu ấy nữa.”
“Và bây giờ nhiệm vụ canh gác của cậu ấy kết thúc,” các anh em áo đen nói bằng giọng trịnh trọng. “Và bây giờ nhiệm vụ canh gác của cậu ấy kết thúc,” Mormont lặp lại.
“Kết thúc,” con quạ của ông nói theo. “Kết thúc.”
Mắt Sam đỏ hoe và cậu buồn nôn vì mùi khói. Khi nhìn ngọn lửa, cậu nghĩ đã thấy Bannen ngồi dậy, hai bàn tay anh ta nắm lại thành nắm đấm, như thể anh muốn chiến đấu với những ngọn lửa đang ngoạm lấy da thịt anh, nhưng hình ảnh ấy chỉ xuất hiện trong giây lát, trước khi bị luồng khói cuộn lên che mất. Nhưng điều tồi tệ nhất là mùi thịt cháy. Nếu đó là một mùi hôi thối khó chịu, chắc chắn cậu đã chịu đựng được, nhưng người anh em đang bị hỏa thiêu có mùi y như thịt lợn nướng khiến miệng Sam chảy nước dãi, và kinh khủng đến mức ngay khi con chim kêu “Kết thúc,” cậu phải chạy ra sau nhà và trốn dưới con hào.
Cậu đang quỳ trên bùn thì Edd U Sầu xuất hiện. “Sam, mày đào giun à? Hay mày bị bệnh?”
“Bệnh,” Sam yếu ớt nói và lấy mu bàn tay chùi miệng. “Cái mùi đó…”
“Không ngờ Bannen mùi ngon đến thế.” Giọng Edd vẫn rầu rĩ. “Tao còn định cắt một miếng thịt của nó nữa. Nếu mà có nước sốt táo, chắc chắn tao đã cắt rồi. Thịt lợn trộn sốt táo là ngon nhất.” Edd cởi quần và kéo của quý ra. “Sam, tốt nhất mày đừng chết, nếu không tao e là tao sẽ không kiềm chế nổi đâu. Chắc chắn thịt da mày sẽ nổ lép bép hơn cả Bannen, mà tao thì không cưỡng lại nổi mỡ nướng giòn đâu.” Cậu ta thở dài khi đứng tiểu, thứ nước tiểu màu vàng và bốc hơi nóng. “Sớm mai chúng ta sẽ cưỡi ngựa, lúc rạng sáng, mày biết chưa? Dù nắng hay tuyết, đều đi hết, Gấu Già nói vậy với tao.”
Nắng hay tuyết. Sam lo lắng ngẩng lên nhìn trời. “Tuyết?” cậu nói. “Chúng ta… cưỡi ngựa sao? Tất cả chúng ta à?”
“Không, vài người phải đi bộ.” Cậu ta lắc đầu. “Dywen nói chúng ta phải học cách cưỡi ngựa chết, giống Ngoại Nhân ấy. Nó bảo như thế sẽ tiết kiệm được thức ăn cho ngựa. Ngựa đã chết ăn được bao nhiêu nhỉ?” Edd thắt lại quần. “Không thể nói là tao thích ý tưởng đó được. Một khi họ biết cách cưỡi ngựa chết, rồi sẽ đến phiên tụi mình. Rất có thể tao sẽ là người đầu tiên. ‘Edd’ bọn họ sẽ nói, ‘chết’ không phải là lý do để nằm ườn ra nữa đâu, đứng dậy, cầm giáo, tối nay đến phiên canh gác của mày đấy.’ Ừm, tao không nên bi quan đến thế. Biết đâu tao lại chết trước khi họ biết cách cưỡi ngựa chết.”
Biết đâu tất cả chúng ta đều chết, và chết sớm hơn chúng ta muốn, Sam nghĩ bụng, khi cậu vụng về đứng lên.
Khi Craster biết những vị khách không mời của lão sẽ rời đi vào sớm mai, lão trở nên vô cùng tử tế. “Đến lúc rồi,” lão nói, “các ngươi không thuộc về nơi này, ta đã nói vậy với các ngươi rồi. Ta sẽ tiễn các ngươi một cách thích đáng, với một bữa tiệc. Ừm, một bữa ăn tử tế. Mấy mụ vợ của ta có thể nướng mấy con ngựa mà các ngươi giết thịt, ta sẽ đi tìm ít rượu và bánh mì.” Lão nở nụ cười. “Không gì ngon hơn bia và thịt ngựa. Nếu các ngươi không cưỡi được chúng, thì ăn thịt chúng đi, ta đã nói vậy rồi.”
Các vợ và con gái lão lôi ghế và bàn gỗ dài ra, họ nấu nướng và phục vụ. Trừ Gilly, Sam không thể phân biệt bọn họ. Già có, trẻ có, thậm chí có cả vài cô bé con, nhưng họ đều là con gái và là vợ của Craster, và bọn họ trông đều giống nhau. Khi làm việc, họ chỉ thì thầm với nhau, và không nói gì với những người đàn ông mặc đồ đen.
Craster ngồi trên một cái ghế, mặc áo choàng không tay làm bằng da cừu. Hai cánh tay dày ụ của lão đầy lông trắng, và một cổ tay đeo vòng vàng. Tướng chỉ huy Mormont ngồi lên chiếc ghế đầu tiên bên tay phải lão, trong khi các anh em trong đội ngồi thúc đầu gối vào nhau; khoảng chục người khác vẫn ở bên ngoài gác cổng và trông đống lửa.
Sam tìm chỗ ngồi giữa Grenn và Oss Mồ Côi, bụng cậu sôi lên ùng ục. Thịt ngựa nướng chảy mỡ xuống khi các bà vợ của Craster lật các cây xiên trên đống lửa, và mùi thịt nướng khiến miệng cậu lại thèm chảy nước dãi, nhưng điều đó lại khiến cậu nhớ đến Bannen. Dù rất đói, nhưng Sam biết mình sẽ nôn ngay khi cắn miếng đầu tiên. Làm sao bọn họ có thể ăn thịt những con ngựa trung thành tội nghiệp đã đưa bọn họ đi xa chừng ấy dặm? Khi các bà vợ của Craster đưa hành đến, cậu hào hứng cầm lấy một củ. Một bên củ hành thối đen, nhưng cậu lấy dao găm cắt đi và ăn sống nửa còn lại. Có cả bánh mỳ, nhưng chỉ có hai ổ. Khi Ulmer hỏi xin thêm, người phụ nữ chỉ lắc đầu. Đó là khi sự rối loạn nổi lên.
“Hai ổ bánh à?” Karl Chân Vẹo càu nhàu từ dưới ghế. “Đám đàn bà các cô ngu đến vậy sao? Bọn tôi cần nhiều bánh mỳ hơn thế này!”
Tướng chỉ huy Mormont lạnh lùng nhìn anh ta. “Nhận lấy những gì cậu được cho, và hãy biết cảm ơn. Cậu có muốn ra ngoài bão ăn tuyết không?”
“Chúng ta rồi sẽ đến lúc đó thôi.” Karl Chân Vẹo không nao núng trước cơn giận của Gấu Già. “Tôi sẽ sớm ăn những gì mà Craster đang cất giấu, thưa tướng chỉ huy.”
Craster nheo mắt. “Ta cho đám quạ người các ngươi như vậy là đủ rồi. Ta còn phải nuôi ăn cả đám đàn bà kia.”
Dirk cầm giáo đâm một khoanh thịt ngựa. “Phải. Vậy là ông thừa nhận ông có một tủ thức ăn bí mật nhé. Còn cách nào khác để sống sót qua mùa đông được nhỉ?”
“Ta là một người ngoan đạo…” Craster bắt đầu nói.
“Ông là lão già ti tiện,” Karl nói, “và là một tên nói dối.”
“Chân giò lợn,” Garth vùng Oldtown nói, bằng giọng cung kính. “Lần trước tụi tôi đến, có cả lợn. Tôi dám chắc lão giấu chân giò lợn ở đâu đó. Chân giò hun khói và tẩm muối, và cả thịt xông khói nữa.”
“Xúc xích,” Dirk nói. “Đen xì, dài, cứng như đá, được cất nhiều năm rồi. Tôi cá là lão có cả trăm cái treo lủng liểng trong tầng hầm nào đó.”
“Yến mạch nữa,” Ollo gợi ý. “Ngô. Lúa mạch.”
“Ngô,” quạ của Mormont kêu lên và đập cánh phần phật. “Ngô, ngô, ngô, ngô, ngô.”
“Đủ rồi,” Tướng Mormont nói át tiếng kêu khàn khàn của con quạ. “Im lặng, tất cả các ngươi. Việc này quá điên rồ.”
“Táo nữa,” Garth vùng Greenaway nói. “Vô khối thùng táo chín giòn. Ngoài kia có cây táo, tôi đã nhìn thấy.”
“Những thứ quả khô. Cải bắp. Quả thông.”
“Ngô. Ngô. Ngô.”
“Thịt cừu tẩm muối. Có cả trại nuôi cừu. Lão có vô khối thùng thịt cừu, mọi người dư biết là lão có mà.”
Lúc đó Craster có vẻ muốn nhổ nước bọt vào tất cả bọn họ. Tướng Mormont đứng bật dậy. “Im lặng. Ta không muốn nghe thêm gì về chuyện này nữa.”
“Lão già, thế thì nhét bánh mỳ vào tai lão đi.” Karl Chân Vẹo đẩy bàn đứng lên. “Hay là lão đã nuốt gọn mẩu bánh chết tiệt ấy rồi?”
Sam thấy mặt Gấu Già đỏ phừng phừng. “Ngươi quên ta là ai rồi sao? Ngồi xuống, ăn và giữ im lặng. Đó là mệnh lệnh.”
Không ai nói gì. Không ai cử động. Tất cả mọi con mắt đều hướng về tướng chỉ huy và tên lính biệt kích to béo bị tật bẩm sinh ở chân, khi hai người trừng trừng nhìn nhau ngang mặt bàn. Dường như Sam thấy Karl chịu thua trước, và chuẩn bị ngồi xuống, mặc dù mặt mũi vẫn sưng sỉa…
…nhưng Craster đứng lên, tay cầm rìu. Chiếc rìu sắt to lớn, đen đúa mà Mormont tặng hắn như một món quà của khách ghé thăm. “Không,” lão gầm lên. “Ngươi không được ngồi. Không ai gọi ta là kẻ ti tiện được ngủ dưới mái nhà của ta, cũng không được ăn tại bàn ăn của ta. Thằng què, cút ngay. Ngươi, cả ngươi, cả ngươi nữa.” Lão dí lưỡi dìu về phía Dirk, Garth, và Garth bên cạnh. “Các người cút ngay đi, cút mà ngủ trong giá lạnh với bụng đói đi, nếu không…”
“Đồ con hoang chết tiệt!” Sam nghe thấy một trong hai Garth chửi thề. Cậu không nhìn rõ là ai.
“Kẻ nào dám gọi ta là con hoang?” Craster gầm lên, tay trái lão gạt sạch đĩa bát, thịt và rượu trên bàn, rìu được chuyển sang cầm bằng tay phải.
“Tất cả mọi người đều biết cả,” Karl trả lời.
Craster di chuyển nhanh hơn Sam nghĩ, lão nhảy phắt qua mặt bàn, tay lăm lăm cầm rìu. Một người phụ nữ hét lên, Garth vùng Greenaway và Oss Mồ Côi lôi dao ra, Karl trượt chân ra sau và ngã lên Ser Byam bị thương nằm trên sàn. Mới giây trước Craster đuổi theo anh ta và mồm miệng phun phì rủa xả, nhưng chỉ một giây sau, máu lão phun tóe ra. Dirk túm tóc, giật mạnh đầu lão ra sau và chỉ bằng một vết cắt dài, rạch đứt họng lão từ tai này sang tai kia. Sau đó anh ta thô bạo xô lão xuống, và lão du mục ngã nhào ra trước, mặt lão đâm sầm vào người Ser Byam. Byam rú lên đau đớn khi Craster nằm chìm trong biển máu, cái rìu trượt khỏi tay lão. Hai bà vợ của Craster kêu gào thảm thiết, bà vợ thứ ba chửi rủa, và bà vợ thứ tư đâm nhào đến Donnel Ngọt Ngào và cố cào cấu móc mắt anh ta. Anh ta hất bà ta ngã xuống sàn. Tướng chỉ huy đứng cạnh xác chết của Craster, mặt ông sầm lại vì tức giận. “Các vị thần sẽ nguyền rủa chúng ta,” ông hét lên. “Không tội ác nào đáng kinh tởm bằng việc một người khách lại giết chết chủ nhà. Tất cả luật lệ cho thấy, chúng ta…”
“Lão già, ngoài Tường Thành không có luật lệ nào hết. Lão đừng quên!” Dirk tóm lấy cánh tay một người vợ của Craster và dí mũi dao găm dưới cằm bà ta. “Mụ, chỉ cho bọn ta biết nơi lão giấu đồ ăn, nếu không mụ sẽ chịu chung số phận với lão.”
“Thả bà ta ra.” Mormont tiến một bước. “Ta sẽ chặt đầu ngươi vì tội này…”
Garth vùng Greenaway chặn lối đi của ông, còn Ollo Lòng Thòng kéo mạnh người ông lại. Cả hai bọn họ đều lăm lăm cầm dao. “Giữ mồm giữ miệng lão,” Ollo cảnh báo. Nhưng tướng chỉ huy tóm tay hắn để tước dao. Ollo chỉ có một tay, nhưng hắn rất nhanh nhẹn. Hắn vặn mình thoát khỏi tay ông, đâm mạnh con dao vào bụng Mormont, và rút ra, toàn một màu đỏ. Và rồi cả thế giới biến thành cơn hỗn loạn điên cuồng.
Mãi sau, rất lâu sau, Sam thấy mình ngồi bắt chéo chân trên sàn, đầu Mormont gối trên đùi cậu. Cậu không biết làm cách nào ông ấy và cậu ở chỗ đó được, cậu cũng không nhớ gì hết về chuyện xảy ra sau khi Gấu Già bị đâm dao vào bụng. Cậu nhớ Garth vùng Greenaway đã giết chết Garth vùng Oldtown, nhưng không nhớ vì cơ nguyên gì. Rolley vùng Sisterton ngã từ trên gác xuống và bị gãy cổ sau khi trèo lên thang để cưỡng hiếp các bà vợ của Craster. Grenn…
Grenn quát tháo và tát cậu, rồi cậu ta chạy đi với Khổng Lồ, Edd U Sầu và mấy người khác. Craster vẫn nằm sõng soài ngang người Ser Byam, nhưng người hiệp sĩ bị thương kia không còn rên rỉ nữa. Bốn người mặc đồ đen ngồi trên ghế ăn các khoanh thịt ngựa nướng trong khi Ollo đang giao cấu với một người phụ nữ đang khóc lóc trên bàn.
“Tarly.” Khi Gấu Già cố nói, máu rỉ ra từ miệng xuống râu của ông. “Tarly, đi đi. Đi đi.”
“Thưa ngài, đi đâu?” Giọng cậu dứt khoát và không còn sức sống. Tôi không sợ. Đó là một cảm giác lạ lùng với cậu. “Không còn nơi nào để đi cả.”
“Tường Thành. Tìm về Tường Thành. Ngay lập tức.”
“Ngay lập tức,” con quạ kêu lên. “Ngay lập tức, ngay lập tức.” Con quạ bước đi từ cánh tay đến ngực người đàn ông già kia, và nhổ một sợi râu của ông.
“Cậu phải nói. Phải nói với họ.”
“Thưa ngài, nói gì với họ?” Sam lịch sự hỏi.
“Tất cả. Đỉnh Nắm Đấm. Đám dân du mục. Đá vỏ chai. Việc này. Tất cả.” Lúc này hơi thở của ông rất ngắn, giọng ông chỉ còn là một lời thì thào. “Nói với con trai ta. Jorah. Nói với nó, hãy khoác áo đen. Ước nguyện của ta. Ước nguyện lúc lâm chung.”
“Ước nguyện?” Con quạ ngẩng đầu lên, đôi mắt đen tròn của nó ánh lên. “Ngô?” con chim hỏi.
“Không có ngô,” Mormont yếu ớt nói. “Nói với Jorah. Tha thứ cho nó. Con trai của ta. Làm ơn. Đi đi.”
“Nơi ấy xa quá,” Sam nói. “Thưa ngài, tôi sẽ không bao giờ đến được Tường Thành.” Cậu mệt lắm. Cậu chỉ muốn ngủ, ngủ, ngủ và không bao giờ tỉnh giấc, cậu biết, nếu ở lại đây, Dirk, Ollo Lòng Thòng hoặc Karl Chân Vẹo sẽ sớm nổi giận với cậu và làm thỏa mong ước được ngủ mãi mãi ấy của cậu. “Tôi sẽ ở lại với ngài. Ngài thấy không, tôi không sợ nữa. Không sợ ngài, hay… bất cứ gì khác.”
“Cậu nên sợ,” một giọng phụ nữ vang lên.
Ba người vợ của Craster đang đứng bên trên họ. Hai người hốc hác, và cậu không biết họ, nhưng Gilly đứng giữa họ, được buộc chặt trong áo da và ẵm theo một bọc lông trắng và nâu, chắc chắn cái bọc đó đựng con trai cô. “Chúng tôi không được nói chuyện với vợ của Craster,” Sam nói với họ. “Chúng tôi có lệnh.”
“Giờ thì hết rồi,” người phụ nữ bên phải nói.
“Những tên quạ người xấu xa nhất đang ở dưới hầm ăn ngấu ăn nghiến,” người phụ nữ đứng bên trái nói, “hoặc đang ở trên gác với những đứa con gái trẻ. Nhưng chúng sẽ sớm quay lại. Tốt nhất cậu nên đi trước khi chúng trở lại. Ngựa chạy hết rồi, nhưng Dyah đã bắt được hai con.”
“Anh nói anh sẽ giúp tôi,” Gilly nhắc cho nó nhớ.
“Tôi nói là Jon có thể giúp cô. Jon dũng cảm lắm, và cậu ấy chiến đấu rất giỏi, nhưng chắc cậu ấy chết rồi. Tôi hèn nhát. Và béo ú. Nhìn tôi béo thế nào đi. Hơn nữa, ngài Mormont đang bị thương. Cô không thấy sao? Tôi không thể bỏ tướng chỉ huy.”
“Cậu bé,” người phụ nữ lớn tuổi nói, “gã quạ người già ấy sẽ chết trước cậu. Nhìn đi.”
Đầu Mormont vẫn trên đùi cậu, nhưng đôi mắt ông mở trừng trừng và môi không còn cử động nữa. Con quạ ngẩng đầu lên kêu, rồi nhìn Sam. “Ngô?”
“Không có ngô. Ngài ấy không có ngô.” Sam vuốt mắt Gấu Già và cố nghĩ đến một lời cầu nguyện, nhưng cậu chỉ có thể nghĩ được, “Đức Mẹ khoan dung. Đức Mẹ khoan dung. Đức Mẹ khoan dung.”
“Đức Mẹ của cậu không thể giúp gì cậu đâu,” người phụ nữ lớn tuổi đứng bên trái nói. “Ông ta cũng không giúp gì cho cậu được. Cậu lấy gươm, áo khoác lông thú và ngựa của ông ta, nếu cậu tìm thấy con ngựa ấy. Và cậu phải đi.”
“Con bé không nói dối đâu,” người phụ nữ đứng bên phải nói. “Nó là con gái ta, và ta đã dạy dỗ từ bé để nó không nói dối. Cậu nói cậu sẽ giúp nó. Cậu nhỏ, hãy làm như Ferny nói. Đưa con bé đi và nhanh lên.”
“Nhanh,” con quạ nói. “Nhanh, nhanh, nhanh.”
“Đi đâu?” Sam hỏi, lòng rối trí vô cùng. “Tôi nên đưa cô ấy đi đâu?”
“Đâu đó ấm áp,” cả hai người phụ nữ lớn tuổi cùng nói.
Gilly đang khóc. “Tôi và đứa bé. Tôi sẽ làm vợ anh, như tôi làm vợ của Craster. Làm ơn đi, Ser quạ người. Nó là con trai, đúng như Nella đoán. Nếu anh không đưa nó đi, chúng sẽ đưa nó đi.”
“Chúng?” Sam nói, và con quạ lại ngẩng cái đầu đen của nó lên và lặp lại, “Chúng chúng chúng.”
“Các anh của thằng bé,” người phụ nữ đứng bên phải nói. “Các con trai của Craster. Cậu nhóc, cái lạnh tuyết trắng đang đến ngoài kia. Tận trong xương tủy tôi cũng cảm nhận được. Đống xương tủy già cỗi của tôi không nói dối đâu. Những đứa con trai ấy sắp đến đây rồi.”