Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân

Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 28

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Giữa những khe núi quanh co khúc khuỷu mà họ đang đi không xuất hiện con đường nào. Giữa những đỉnh núi đá xám xịt là những con sông xanh ngắt, dài, sâu và hẹp, và cả khung cảnh ảm đạm xanh rì của những rừng thông dài bất tận. Lá thu màu nâu đỏ và vàng càng lúc càng hiếm thấy hơn khi họ rời rừng sói để leo giữa những quả đồi đá cũ, và hình ảnh lá thu biến mất ngay khi những quả đồi ấy dẫn đến các dãy núi. Vô số thân cây màu xanh xám khổng lồ hiện ra trên đầu họ, cùng với cây vân sam, linh sam và thông. Bên dưới họ thưa thớt các cây tầng thấp, nền rừng được trải thảm lá kim màu xanh thẫm.

Đã hơn một lần lạc đường, vì vậy, mỗi khi mất phương hướng, họ chỉ cần đợi một đêm lạnh quang mây và ngước lên trời tìm ngôi sao Rồng Băng. Ngôi sao xanh trong mắt rồng luôn chỉ về hướng bắc, Osha đã nói với cậu như vậy. Nghĩ đến Osha, Bran lại băn khoăn không biết giờ này chị ấy đang ở đâu. Cậu hình dung chị được an toàn ở Cảng White cùng với Rickon và Lông Xù, được ăn lươn, cá và bánh cua nóng hổi cùng với Lãnh chúa Manderly mập ú. Hoặc có lẽ họ đang sưởi ấm tại Last Hearth trước bếp lửa của Greatjon. Còn cuộc đời Bran biến thành những chuỗi ngày lạnh giá khôn cùng trên lưng Hodor và cưỡi chiếc địu lên xuống theo độ dốc của các ngọn núi.

“Lên rồi lại xuống,” đôi lúc Meera lại thở dài trong khi họ bước đi, “xuống rồi lên. Lại lên rồi xuống. Hoàng tử Bran, tôi ghét những ngọn núi ngu ngốc này của cậu.”

“Mới hôm qua chị nói chị yêu chúng mà.”

“Ồ, đúng rồi. Cha tôi đã kể cho tôi nghe về núi non rồi, nhưng đến giờ tôi mới được thấy tận mắt. Tôi yêu chúng nhiều lắm.”

Bran nhăn mặt với chị. “Nhưng chị vừa nói chị ghét chúng.”

“Sao không thể vừa yêu vừa ghét nhỉ?” Meera với tay lên véo mũi cậu.

“Bởi vì hai điều đó đối nghịch nhau,” cậu khăng khăng. “Giống như ngày và đêm, hoặc băng và lửa ấy.”

“Nếu băng cháy được,” Jojen nói với giọng trịnh trọng vốn dĩ của mình, “thì tình yêu thương và sự căm ghét có thể song hành với nhau. Núi hay đầm lầy, không quan trọng. Mặt đất chỉ có một.”

“Chỉ có một,” chị gái cậu đồng ý, “nhưng mà quá gồ ghề.”

Những thung lũng cao hiếm khi đưa họ đi theo đúng hướng nam và bắc, vì vậy bọn họ thường đi sai hướng mất nhiều dặm, và đôi lúc buộc phải đi hai lần trên một đoạn đường. “Nếu đi theo vương lộ thì giờ chúng ta đã đến Tường Thành rồi,” Bran nhắc hai chị em Nhà Reed. Cậu muốn tìm thấy con quạ ba mắt, để học cách bay. Có tới năm mươi lần cậu nói như vậy, cho đến khi Meera bắt đầu trêu cậu bằng cách nhại lại theo cậu.

“Nếu đi theo vương lộ thì chúng ta cũng sẽ không bị đói,” cậu nói. Xuống chân đồi họ sẽ không thiếu đồ ăn thức uống. Meera là tay săn cừ khôi, và với cây đinh ba, chị bắt cá dưới suối còn giỏi hơn nữa. Bran thích quan sát chị bắt cá, ngưỡng mộ sự mau lẹ của chị khi chị phi xiên xuống nước và giật xiên lên với một con cá hồi bạc vặn vẹo dưới mũi xiên. Và họ còn có cả Mùa Hè đi săn mồi nữa. Hầu như tối nào cũng vậy, khi mặt trời lặn, con sói cũng biến mất, và trước khi bình minh lên, con sói tuyết luôn luôn trở về với con mồi nào đó, khi là một con sóc, lúc là một con thỏ rừng.

Nhưng ở đây, trên những ngọn núi, sông suối nhỏ hơn và lạnh giá hơn, việc kiếm mồi càng khó hơn. Meera vẫn bắt cá mỗi khi có thể, nhưng càng ngày càng khó hơn, và nhiều đêm, ngay cả Mùa Hè cũng không kiếm được mồi. Họ thường phải đi ngủ với mấy cái bụng đói kêu réo rắt.

Nhưng Jojen vẫn bướng bỉnh kiên quyết tránh xa các con đường đồng bằng. “Thấy đường là thấy người đi đường,” cậu ta luôn nói vậy, “và người đi đường có mắt để nhìn, có miệng để kháo nhau chuyện về một cậu bé què, về gã khổng lồ địu cậu ta, và con sói tuyết đi bên cạnh họ nữa.” Không ai bướng bỉnh bằng Jojen, vì vậy bọn họ phải gắng sức giữa rừng hoang, mỗi ngày lại trèo lên cao hơn, và đi xa hơn một chút với phương bắc.

Có hôm trời mưa, có hôm trời lại nổi gió, và một lần bọn họ gặp mưa đá khủng khiếp đến mức Hodor sợ hãi gào rống lên. Vào những ngày trời đẹp, dường như bọn họ là những sinh vật sống duy nhất trong rừng. “Có ai sống ở đây không?” Meera Reed hỏi khi họ đi qua một mỏm đá hoa cương rộng lớn như thành Winterfell.

“Có người đấy,” Bran nói với chị. “Hầu hết người Umber đều ở phía đông của vương lộ, nhưng vào mùa hè, họ chăn cừu ở các đồng cỏ cao. Phía tây của những dãy núi dọc Vịnh Băng là người Wull, phía sau chúng ta là người Harclays sống trên đồi, còn người Knott, người Liddle, người Norrey và cả người Flint nữa đều sống ở những vùng cao như thế này.” Cụ nội cậu là người Flint ở trên núi. Có lần Già Nan nói rằng chính dòng máu của cụ đang chảy trong huyết quản của Bran và khiến cậu trở thành một thằng ngốc đến vậy khi leo lên tường trước khi bị ngã. Nhưng cụ đã mất nhiều năm trước khi cậu được sinh ra, thậm chí trước cả khi cha cậu chào đời.

“Người Wull ư?” Meera nói. “Jojen à, chẳng phải có một người Wull cưỡi ngựa cùng cha trong chiến tranh không?”

“Theon Wull.” Jojen khó nhọc thở vì phải leo núi. “Họ thường gọi ông ta là Xô.”

“Đó là huy hiệu của bọn họ,” Bran nói. “Ba cái xô màu nâu trên một cánh đồng xanh, viền sọc kẻ xám trắng. Lãnh chúa Wull đã đến thành Winterfell một lần để thể hiện lòng trung thành và diện kiến cha, và khiên của ông ta cũng có cả huy hiệu mấy cái xô ấy nữa. Dù vậy, ông ấy không phải là lãnh chúa thực thụ đâu. Ừm, kể ra ông ấy cũng là lãnh chúa, nhưng mọi người chỉ gọi ông ta là Wull, rồi có cả Knott, Norrey và Liddle nữa. Ở thành Winterfell, chúng ta gọi họ là các lãnh chúa, nhưng người dân của họ thì không gọi như vậy.”

Jojen Reed dừng lại lấy hơi. “Cậu có nghĩ là những người dân vùng núi này biết chúng ta ở đây không?”

“Họ biết chứ.” Bran đã nhìn thấy họ đứng quan sát; không phải nhìn bằng mắt của cậu, mà bằng đôi mắt sắc bén của Mùa Hè, và đôi mắt ấy hiếm khi bỏ lỡ bất kỳ hình ảnh nào. “Họ sẽ không gây khó dễ nếu chúng ta không ăn cắp dê hay ngựa của họ.”

Và quả thật họ không hề làm phiền đến mấy đứa nhỏ. Mới chỉ có một lần họ gặp người vùng núi, khi một cơn mưa lạnh buốt bất chợt ập xuống, khiến họ phải tìm nơi trú. Mùa Hè tìm nơi trú cho họ, nó tìm thấy một cái hang nông phía sau các cành cây xanh xám của một thân cây cao chót vót, nhưng khi Hodor chui vào bên dưới hang đá, Bran nhìn thấy chùm lửa sáng màu cam ở phía sau và nhận thấy trong rừng không chỉ có bọn họ. “Vào đây sưởi ấm đi,” một giọng nói vang lên. “Có đủ đá che mưa cho tất cả chúng ta.”

Ông ta mời họ ăn bánh yến mạch, xúc xích và hớp rượu từ chiếc túi da mà ông ta mang theo, nhưng ông ta không xưng tên; và cũng chẳng hỏi tên của họ. Bran đoán ông ta là người Liddle. Chiếc móc cài trên áo choàng lông sóc của ông ta màu vàng và đồng được khắc hình quả thông, người Liddle đeo biểu tượng quả thông trên nửa trắng của chiếc khiên màu xanh trắng của bọn họ.

“Từ đây đến Tường thành còn xa không?” Bran hỏi ông ta trong khi đợi mưa tạnh.

“Xa hơn đường quạ bay,” gã Liddle nói, nếu ông ta là người Liddle. “Xa hơn, với những người không có cánh.”

Bran lại bắt đầu, “Tôi cá là chúng ta đã có mặt ở đó rồi nếu…”

“… chúng ta đi theo vương lộ,” Meera nói nốt câu của cậu.

Liddle lấy dao ra và gọt một cái gậy. “Hồi còn người Stark ở thành Winterfell, một cô trinh nữ có thể đi trên vương lộ trong chiếc áo choàng mà không sợ bị hại, lữ khách thì tìm được lửa, bánh mỳ và muối ở mọi quán trọ và thành trì. Nhưng giờ đây, đêm lạnh hơn nhiều, và mọi cánh cửa đều đóng chặt. Rừng sói cũng có cướp, và những gã đàn ông bị lột da cưỡi ngựa lởn vởn trên vương lộ để hạch sách người lạ.”

Chị em Nhà Reeds liếc nhìn nhau. “Những gã đàn ông bị lột da ư?” Jojen hỏi.

“Phải, là những gã con của Con Hoang. Hắn đã chết, nhưng giờ thì không. Và hắn trả nhiều bạc để mua da sói, một người nghe được như vậy, và còn trả thêm vàng cho ai đưa tin chắc chắn về việc có người đang hấp hối.” Ông ta nhìn Bran khi nói điều đó, và rồi lại nhìn Mùa Hè nằm duỗi dài bên cạnh cậu. “Về Tường thành đó,” ông ta nói tiếp, “đó không phải là nơi tôi sẽ đến. Gấu Già dẫn Đội Tuần Đêm vào những khu rừng ma ám, và chỉ có mỗi quạ của ông ta trở về nhưng lại không đem theo tin tức. Đôi cánh chim đen mang lời u ám, mẹ ta thường nói vậy, nhưng khi quạ đưa tin không đem được tin gì về, thì với ta, cảnh tượng còn u ám hơn nhiều.” Ông ta lấy gậy cời lửa. “Hồi Nhà Stark còn ở thành Winterfell, mọi thứ khác lắm. Nhưng con sói già đã chết và con sói nhỏ đã đến phương nam để tham gia cuộc chiến vương quyền, và giờ đây, chỉ còn ma ở lại với chúng ta.”

“Đàn sói sẽ quay trở lại,” Jojen trịnh trọng nói.

“Cậu nhóc, làm sao cậu biết điều đó?”

“Tôi mơ thấy.”

“Cũng có đêm ta mới thấy mẹ ta, người mà ta đã chôn cất chín năm trước,” người đàn ông đó nói, “nhưng khi ta tỉnh giấc, bà ấy cũng không quay trở lại

“Thưa ngài, có nhiều loại giấc mơ lắm.”

“Hodor,” Hodor nói.

Đêm đó, họ ở lại hang cùng nhau, vì đến tận tối mịt mưa vẫn không tạnh, và dường như chỉ có Mùa Hè là muốn ra khỏi hang. Khi lửa cháy thành than hồng, Bran để cho con sói tuyết đi. Nó không cảm thấy sự ẩm ướt như con người, và đêm tối đang vẫy gọi nó. Ánh sáng trăng màu bạc đổ lên khu rừng ướt át và biến những đỉnh núi màu xám thành màu trắng. Cú rúc lên trong đêm và lặng lẽ bay giữa các cây thông, trong khi những con dê đi dọc theo triền núi. Bran nhắm mắt và đưa mình vào giấc mơ của sói, để đến với hương vị và âm thanh của màn đêm.

Sáng hôm sau, khi họ tỉnh giấc, lửa đã tắt và Liddle đã rời đi, nhưng ông ta để lại cho họ một cái xúc xích và chục cái bánh yến mạch được gói gọn gàng trong một tấm vải màu trắng xanh. Vài chiếc bánh có nhân quả hạch và có cả nhân quả mâm xôi. Bran ăn mỗi loại một cái, nhưng vẫn không biết mình thích loại nào hơn. Rồi có ngày người Nhà Stark sẽ lại ở thành Winterfell, cậu tự nhủ, và lúc đó, cậu sẽ mời người Liddle đến và trả ơn họ gấp trăm lần cho mỗi bánh nhân quả hạch và quả mâm xôi.

Hôm đó, con đường mòn mà họ men theo dễ đi hơn một chút, và đến trưa thì mặt trời ló rạng khỏi những đám mây. Bran ngồi trong chiếc thúng trên lưng Hodor và cảm thấy rất hài lòng. Cậu ngủ lơ mơ một lần, và được ru bởi chuyển động lắc lư nhẹ nhàng theo từng sải chân của anh chàng to béo coi sóc chuồng ngựa và cả âm thanh ê a nhẹ nhàng mà anh ta vừa đi vừa ngân nga. Meera khẽ chạm vào cánh tay cậu để đánh thức cậu dậy. “Nhìn kìa,” chị nói và chỉ lên trời bằng cây đinh ba, “một con đại bàng.”

Bran ngẩng đầu lên nhìn, đôi cánh xám của nó sải rộng và giữ yên như thể nó đang trôi trong gió. Cậu ngước mắt nhìn theo khi nó bay cuộn tròn lên cao hơn, và cậu tự hỏi sẽ thế nào khi cậu được bay vút lên không trung mà không mất chút sức lực nào. Chắc hẳn sẽ thích hơn phải leo trèo thế này. Cậu cố với tay tóm lấy con đại bàng, để bỏ lại thân thể què quặt của mình và bay vút lên trời với con chim, y như cậu đã đi săn cùng Mùa Hè. Nhà chiêm mộng có thể làm thế. Mình cũng sẽ làm được như thế. Cậu cố với, và cố với, cho đến khi con đại bàng biến mất trong sải nắng vàng của buổi chiều. “Nó bay đi rồi,” cậu thất vọng nói.

“Chúng ta sẽ nhìn thấy những con đại bàng khác,” Meera nói. “Chúng sống ở đây mà.”

“Tôi nghĩ là vậy.”

“Hodor,” Hodor nói.

“Hodor,” Bran đồng ý.

Jojen đá một quả thông. “Tôi nghĩ là Hodor thích lắm khi cậu nói tên anh ta.”

“Hodor không phải là tên thật của anh ấy đâu,” Bran giải thích. “Chỉ là một từ mà anh ấy nói thôi. Tên thật của anh ấy là Walder, Già Nan nói với tôi như vậy. Bà ấy là bà của bà anh ấy, hay đại loại là thế.” Nhắc đến Già Nan khiến cậu buồn. “Mấy người có nghĩ là đám người Đảo Iron giết bà ấy rồi không?” Bọn họ không tìm thấy xác bà ở Winterfell. Bây giờ nghĩ lại, cậu không nhớ mình có nhìn thấy xác người phụ nữ nào không. “Bà chẳng bao giờ làm hại ai, kể cả Theon. Bà chỉ kể chuyện. Theon không nên hại một người như bà. Phải không?”

“Có những người hại người khác chỉ bởi bọn họ có thể làm vậy,” Jojen nói.

“Và Theon không phải là người gây ra cuộc tàn sát ở thành Winterfell.” Meera nói. “Quá nhiều người chết là người Đảo Iron.” Chị chuyển cây đinh ba sang tay kia. “Bran à, cậu hãy nhớ những câu chuyện của Già Nan nhé. Hãy nhớ cách bà kể chuyện, nhớ giọng nói của bà. Chừng nào cậu còn nhớ, chừng đó một phần của bà vẫn sẽ luôn luôn sống mãi bên cậu.”

“Tôi sẽ nhớ,” cậu hứa. Họ trèo núi mà không nói gì suốt một hồi lâu, họ đi theo một con đường mòn quanh co trên đường yên ngựa cao chót vót giữa hai đỉnh núi đá. Những cây thông gầy khẳng khiu bám vào các sườn núi. Xa xa phía trước, Bran nhìn thấy ánh sáng băng loé lên từ một con suối lọt thỏm giữa sườn núi. Cậu thấy mình lắng nghe tiếng thở của Jojen và tiếng lá thông kêu lạo xạo bên dưới chân Hodor. “Hai người có biết câu chuyện nào không?” cậu bất chợt hỏi chị em Nhà Reed.

Meera cười. “Ồ, một vài chuyện thôi.”

“Vài chuyện thôi,” em trai chị đồng tình.

“Hodor,” Hodor ngâm nga nói.

“Chị kể một chuyện đi,” Bran nói. “Trong lúc chúng ta đi ấy. Hodor thích chuyện về các hiệp sĩ lắm. Tôi cũng thích nữa.”

“Ở Neck không có hiệp sĩ nào hết,” Jojen nói.

“Trên mặt nước ấy,” chị gái cậu sửa lại cho đúng. “Nhưng các đầm lầy thì đầy ứ xác chết.”

“Đúng vậy,” Jojen nói. “Người Andal và người Đảo Iron, Frey và rất nhiều những gã ngốc khác, tất cả những chiến binh kiêu ngạo tham gia chiến đấu để xâm chiếm Greywater. Nhưng không ai trở thành hiệp sĩ hết. Họ phi ngựa đến Neck, và không quay trở lại. Dù sớm hay muộn, bọn họ cũng sa vào các vũng lầy và bị lún xuống do sức nặng của chừng ấy sắt thép trên người, và bọn họ bị chết chìm ở đó trong bộ áo giáp sắt của mình.”

Ý nghĩ về các hiệp sĩ bị chết chìm dưới nước khiến Bran rùng mình. Nhưng cậu không thấy khó chịu; cậu thích những cơn rùng mình.

“Có một hiệp sĩ đấy,” Meera nói, “vào năm xảy ra mùa xuân giả ấy. Hiệp sĩ Cây Vui Vẻ, họ gọi ngài ấy như vậy. Chắc ngài ấy là người đầm lầy ẩn dật.”

“Hoặc không phải.” Khuôn mặt Jojen lốm đốm các bóng cây xanh. “Hoàng tử Bran đã nghe chuyện đó cả trăm lần rồi, em chắc chắn là vậy.”

“Không,” Bran nói. “Tôi chưa được nghe. Và nếu tôi có nghe rồi thì cũng không sao. Có lúc Già Nan kể cho chúng tôi nghe những chuyện mà bà kể từ trước rồi, nhưng chúng tôi không bao giờ buồn vì điều đó, nếu đó là một chuyện hay. Bà nói rằng các câu chuyện cũ cũng giống như những người bạn cũ. Thi thoảng chúng ta phải ghé thăm bạn cũ chứ.”

“Đúng vậy.” Meera bước đi với khiên đeo trên lưng, thi thoảng chị lại lấy cái xiên ếch ra đẩy các cành cây chắn lối đi. Khi Bran bắt đầu nghĩ rằng chị sẽ không kể câu chuyện gì hết, thì chị nói, “Ngày xưa, có một cậu bé hay tò mò sống ở vùng Neck. Cậu bé nhỏ thó như tất cả những người đầm lầy ẩn dật khác, nhưng cậu rất dũng cảm, mạnh mẽ và thông minh. Cậu bé lớn lên đã biết săn bắn, câu cá và trèo cây, và cậu cũng học tất cả các phép thuật của tộc người chúng tôi.”

Bran chắc chắn cậu chưa bao giờ được nghe chuyện này. “Cậu bé ấy có những giấc mơ xanh như Jojen không?”

“Không,” Meera nói, “nhưng cậu ấy có thể thở dưới bùn và chạy trên lá, biến đất thành nước và nước thành đất chỉ bằng cách rì rầm câu gì đó. Cậu ấy có thể nói chuyện với cây cối, khiến các toà lâu đài hiện ra và biến mất.”

“Giá như tôi cũng làm vậy được,” Bran nói đầy vẻ u buồn. “Khi nào thì cậu ấy gặp vị Hiệp Sĩ Cây Vui Vẻ?”

Meera nhăn mặt với cậu. “Sớm thôi, nếu một vị hoàng tử nào đó giữ im lặng.”

“Tôi chỉ hỏi thôi mà.”

“Cậu ấy biết hết mọi phép thuật của người đầm lầy ẩn dật,” chị kể tiếp, “nhưng vẫn muốn biết nhiều phép thuật hơn nữa. Cậu biết đấy, người bộ tộc tôi hiếm khi nào đi xa khỏi nhà. Chúng tôi là bộ tộc ít người, và nhiều người thấy lối sống của chúng tôi có vẻ kỳ cục, vì vậy, các tộc người đông hơn không phải lúc nào cũng đối xử tử tế với chúng tôi. Nhưng cậu bé này táo bạo hơn tất thảy chúng tôi, và một ngày nọ, khi trở thành một người đàn ông trưởng thành, anh ấy quyết định rời làng và đến Đảo Mặt.”

“Làm gì có ai đến Đảo Mặt,” Bran phản đối. “Đó là nơi Người Xanh sống mà.”

“Anh ấy muốn tìm Người Xanh mà. Vậy là anh ta mặc một chiếc áo có khâu vảy bạc giống như của tôi đây này, mang theo một tấm khiên bằng da một cây đinh ba, giống như của tôi ấy, và chèo một con thuyền nhỏ làm bằng da xuôi theo dòng Green Fork.”

Bran nhắm mắt hình dung ra người đàn ông đó cùng với con thuyền da nhỏ. Trong tâm trí cậu, người đầm lầy ẩn dật trông giống Jojen, nhưng anh ta nhiều tuổi hơn, khoẻ hơn và ăn mặc giống Meera.

“Anh ta đi bên dưới Song Thành vào ban đêm để người Nhà Frey không thể tấn công mình, và khi đến sông Trident, anh ta leo ra khỏi sông, đội thuyền lên đầu và đi bộ. Anh ta đi mất nhiều ngày lắm, nhưng cuối cùng cũng đến được Mắt Thần, rồi anh ta đặt thuyền xuống hồ và lại xuôi chèo đến Đảo Mặt.”

“Anh ta có gặp Người Xanh không?”

“Có,” Meera nói, “nhưng đó là chuyện khác, và không phải là chuyện để tôi kể lúc này. Hoàng tử của tôi thích nghe chuyện hiệp sĩ cơ.”

“Chuyện Người Xanh cũng hay mà.”

“Đúng vậy,” chị đồng ý, nhưng không nói thêm gì về họ. “Suốt mùa đông đó, người đầm lầy ẩn dật ở trên hòn đảo, nhưng khi xuân đến, anh ta nghe thấy tiếng gọi của thế giới rộng lớn, và anh biết đó là lúc anh phải ra đi. Con thuyền bằng da của anh vẫn đậu ở nơi anh đã để lúc trước, và anh nói lời tạm biệt và xuôi chèo ra bờ biển. Anh chèo, cứ chèo mãi, cho đến khi anh nhìn thấy các toà tháp của một toà lâu đài hiện lên bên cạnh hồ. Càng đến gần bờ, các toà tháp càng cao hơn, cho đến khi anh nhận thấy có lẽ đó là toà lâu đài lớn nhất trên thế giới.”

“Harrenhal!” Bran biết ngay lập tức. “Là Harrenhal đấy!”

Meera mỉm cười. “Thật sao? Bên dưới những bức tường lâu đài, anh nhìn thấy các túp lều đủ màu sắc, cờ trận sáng màu bay trong gió, các hiệp sĩ mặc áo giáp và các bản kim loại sáng loáng trên giáp ngựa. Anh ngửi thấy mùi thịt nướng, nghe thấy tiếng cười và tiếng kèn của sứ giả. Lúc đó sắp diễn ra một trận đấu thương quan trọng, và các nhà vô địch trên khắp lãnh thổ đều đến thi tài. Nhà vua cũng có mặt ở đó, cùng với hoàng tử rồng của ngài ấy. Gia tộc Bạch Đao đã có mặt từ trước để chào đón một huynh đệ mới gia nhập đội của họ. Lãnh chúa Bão và Lãnh chúa Hoa Hồng cũng có mặt. Con sư tử vĩ đại của toà lâu đài đá có mối bất hòa với nhà vua và bỏ đi nơi khác, nhưng rất nhiều người mang cờ trận và hiệp sĩ của ông ta vẫn tham dự cuộc đấu. Người đầm lầy ẩn dật chưa bao giờ nhìn thấy khung cảnh hào nhoáng ấy, và anh biết có thể anh sẽ không bao giờ được nhìn thấy cảnh ấy thêm lần nào nữa. Một phần trong anh không muốn gì hơn là được tham gia cùng với đám đông.”

Bran quá biết cảm giác đó thế nào. Hồi cậu còn nhỏ, cậu chỉ mơ được làm một hiệp sĩ. Nhưng đó là trước khi cậu bị ngã và què cả hai chân.

“Con gái của tòa lâu đài lớn là nữ hoàng của tình yêu và sắc đẹp khi cuộc đấu thương bắt đầu. Năm nhà quán quân đã thề bảo vệ vương miện của nàng; gồm bốn anh em của nàng ở Harrenhal, người bác nổi tiếng của nàng, một hiệp sĩ áo trắng trong đội Ngự Lâm Quân.”

“Nàng ấy có đẹp không?”

“Có chứ,” Meera nói và nhảy qua một phiến đá, “nhưng còn có nhiều phu nhân khác cũng đẹp nữa. Một phu nhân là vợ của hoàng tử rồng, và nàng đem theo cả chục phu nhân khác đi cùng. Các hiệp sĩ đều khẩn nài họ ủng hộ mình.”

“Đây không phải là một trong những câu chuyện tình yêu đấy chứ?” Bran nghi ngờ hỏi. “Hodor không thích mấy chuyện đó lắm đâu.”

“Hodor,” Hodor đồng ý nói.

“Anh ấy thích chuyện nào có các hiệp sĩ đánh nhau với quái vật cơ.”

“Bran à, đôi lúc các hiệp sĩ chính là quái vật. Người đầm lầy ẩn dật nhỏ bé đi bộ băng qua cánh đồng, thưởng thức ngày xuân ấm áp và không hề làm hại đến ai khi anh bị ba cận vệ bắt. Ba người bọn họ không quá 15 tuổi, nhưng dù vậy họ vẫn to lớn hơn anh. Đó là thế giới của họ, trong mắt họ là như vậy, và anh không có quyền xuất hiện ở thế giới ấy. Họ tóm lấy cây giáo của anh và đánh anh ngã xuống đất, chửi rủa anh là kẻ ăn thịt ếch.”

“Họ có phải là người Nhà Walder không?” Nghe có vẻ hành động đó rất giống hành động của Walder Frey Nhỏ.

“Không ai xưng danh cả, nhưng anh nhớ thật kĩ khuôn mặt họ để sau này trả thù. Mỗi lần anh định đứng lên, bọn họ lại xô anh ngã xuống, và đá anh đến mức anh phải cuộn tròn người trên mặt đất. Nhưng rồi họ nghe thấy một tiếng tru lên.

Các người đang đánh người của cha ta đấy, một con sói xám tru lên.”

“Một con sói bốn chân hay hai chân?”

“Hai,” Meera nói. “Con sói xám cầm một thanh gươm đấu thương lao vào đám cận vệ và khiến họ phải tản ra. Người đầm lầy ẩn dật người ngợm tím bầm và máu me khắp mình, vì vậy con sói xám kia đưa anh trở lại hang để lau sạch các vết thương và lấy vải lanh buộc lại. Ở đó, anh gặp một đàn sói anh chị em của con sói kia: con sói hoang đầu đàn, bên cạnh là một con sói hiền lành, và con sói nhỏ nhất trong đàn.

Tối hôm đó, Harrenhal tổ chức tiệc, để đánh dấu buổi khai mạc cuộc đấu thương, và con sói xám khăng khăng đòi anh phải tham dự. Anh thuộc dòng dõi quý tộc, và có quyền ngồi trên băng ghế như những người khác. Từ chối con sói đó không dễ chút nào, vậy nên anh đồng ý để con sói nhỏ nhất tìm cho anh một bộ trang phục phù hợp để đi dự tiệc của nhà vua, và anh đi tới tòa lâu đài vĩ đại đó.

Ở lâu đài của Harren, anh ăn uống với đàn sói, cùng nhiều người tuyên thệ trung thành theo họ, nai sừng tấm, gấu và người cá. Hoàng tử rồng hát một bài hát buồn đến nỗi con sói xám kia sụt sịt khóc, nhưng khi cậu em út trêu cô nàng là đồ mít ướt, thì cô nàng lại đổ rượu lên đầu cậu ta. Một người anh em mặc áo đen đứng lên phát biểu và đề nghị các hiệp sĩ gia nhập Đội Tuần Đêm. Người đầm lầy ẩn dật nhìn thấy một cô trinh nữ có đôi mắt tím biết cười đang khiêu vũ với một thanh gươm trắng, một con rắn đỏ, lãnh chúa của quái vật sư tử đầu chim, và cuối cùng là với con sói hiền lành… nhưng đó là sau khi con sói hoang đã đứng lên nói thay lời cậu em còn đang quá ngượng ngùng đến mức không dám rời khỏi ghế ngồi.

Giữa khung cảnh vui vẻ này, người đầm lầy ẩn dật nhỏ bé tìm kiếm ba gã cận vệ đã tấn công mình. Một người là Hiệp Sĩ Dĩa, một là Hiệp Sĩ Nhím, và người còn lại là một hiệp sĩ có huy hiệu hình hai tòa tháp trên áo, và người đầm lầy ẩn dật biết quá rõ biểu tượng đó là gì.

“Nhà Frey,” Bran nói. “Nhà Frey của vùng Crossing.”

“Từ ngày đó, và đến giờ vẫn vậy,” chị đồng ý với cậu. “Con sói xám cũng nhìn thấy bọn họ, và chỉ cho các anh em của mình thấy. ‘Tôi sẽ tìm cho anh một con ngựa, và cả áo giáp nữa,’ con sói nhỏ nhất đề nghị. Người đầm lầy ẩn dật nhỏ bé cảm ơn con sói nhưng không nói gì thêm. Trái tim anh đã tan nát. Người đầm lầy ẩn dật nhỏ bé hơn tất thảy mọi người, nhưng anh cũng có lòng kiêu hãnh như bọn họ. Anh không phải hiệp sĩ, và người bộ tộc anh cũng vậy. Mặc dù rất muốn trả thù, nhưng anh sợ mình chỉ gây thêm rắc rối và khiến bộ tộc thêm xấu hổ. Con sói hiền lành mời người đầm lầy ẩn dật nhỏ bé ngủ lại lều của nó, nhưng trước khi ngủ, anh quỳ xuống bờ sông và nhìn ngang mặt nước đến nơi tọa lạc của Đảo Mặt, nói lời cầu nguyện với các cựu thần ở phương bắc và vùng Neck…”

“Cậu chưa bao giờ nghe cha cậu kể chuyện này sao?” Jojen hỏi.

“Già Nan mới là người kể các câu chuyện. Meera, chị kể tiếp đi, đừng dừng lại thế.”

Chắc chắn Hodor cũng nhận thấy như thế. “Hodor,” anh nói và lại nói tiếp, “Hodor hodor hodor hodor hodor.”

“Ừm,” Meera nói, “nếu cậu muốn nghe đoạn cuối…”

“Có chứ. Chị kể đi.”

“Cuộc đấu thương được lên kế hoạch diễn ra trong năm ngày,” chị nói. “Còn có thêm cả một cuộc hỗn chiến gồm bảy bên nữa, một cuộc thi bắn cung, thi ném rìu, đua ngựa và thi hát…”

“Đừng kể những cuộc thi ấy.” Bran mất kiên nhẫn trong cái thúng trên lưng Hodor. “Chị kể về cuộc đấu thương ấy.”

“Tuân lệnh hoàng tử. Con gái của tòa lâu đài kia là nữ hoàng của tình yêu và sắc đẹp, với bốn người anh em và một ông cậu bảo vệ mình, nhưng cả bốn người con trai của Harrenhal đều thất bại trong ngày đầu tiên. Những người chiến thắng được coi là quán quân, cho đến khi họ bị đánh bại. Vậy là, vào cuối ngày đầu tiên, Hiệp Sĩ Nhím giành được vị trí quán quân, và đến buổi sáng ngày thứ hai, Hiệp Sĩ Dĩa và hiệp sĩ đeo huy hiệu hai tòa tháp cũng giành ngôi quán quân. Nhưng vào lúc chiều muộn ngày thứ hai, khi bóng tối sắp bao trùm, một vị hiệp sĩ bí ẩn xuất hiện trong danh sách các quán quân.”

Bran gật đầu vẻ từng trải. Các hiệp sĩ bí ẩn thường xuất hiện tại các cuộc đấu thương, họ đội mũ giấu mặt và hoặc cầm khiên, hoặc mang theo một thứ vũ khí lạ. Đôi lúc, họ là những quán quân nổi tiếng cải trang. Hiệp Sĩ Rồng cũng từng thắng cuộc đấu thương với tên là Hiệp Sĩ Nước Mắt, để anh ta có thể phong cho em gái của anh ta làm nữ hoàng của tình yêu và sắc đẹp thay thế vị trí người tình của nhà vua. Barristan Dũng Cảm cũng đã hai lần mặc áo giáp hiệp sĩ bí ẩn, và lần đầu tiên mặc áo giáp ấy, cậu ta mới có 10 tuổi. Tôi cá rằng đó là người đầm lầy ẩn dật bé nhỏ.”

“Cũng không ai biết rõ,” Meera nói, ‘‘nhưng vị hiệp sĩ bí ẩn ấy có vóc người nhỏ bé, và anh ấy mặc một chiếc áo giáp không vừa vặn chút nào. Biểu tượng trên khiên của anh ấy là cây trái tim của các cựu thần, một thân cây trắng với khuôn mặt đỏ đang mỉm cười.”

“Có thể anh ấy đến từ Đảo Mặt,” Bran nói. “Anh ấy có màu xanh không?” Trong những câu chuyện của Già Nan, lính bảo vệ thường có da màu xanh sậm và có cả lông lá thay vì tóc. Thậm chí có lúc họ còn có thêm cả gạc nữa, nhưng Bran không biết vị hiệp sĩ bí ẩn ấy sẽ đội mũ sắt thế nào nếu anh ta có gạc trên đầu. “Tôi cá là các vị thần cử anh ấy đến.”

“Có lẽ vậy. Vị hiệp sĩ bí ẩn hạ giáo trước nhà vua và cưỡi ngựa xuống vị trí cuối cùng trong hàng ngũ, nơi mà năm nhà quán quân đang đứng. Cậu thừa biết ba vị hiệp sĩ mà anh ta phải đương đầu là ai rồi.”

“Hiệp Sĩ Nhím, Hiệp Sĩ Dĩa và Hiệp sĩ đeo huy hiệu Song Thành.” Bran đã nghe quá nhiều câu chuyện, đến mức cậu dư sức biết điều đó. “Đó là người đầm lầy ẩn dật nhỏ bé, tôi nói với chị rồi mà.”

“Dù là ai đi nữa, thì các cựu thánh thần cũng trao sức mạnh vào cánh tay anh ấy. Hiệp Sĩ Nhím bị hạ gục trước nhất, rồi đến Hiệp Sĩ Dĩa và Hiệp Sĩ Song Thành. Ba người đó không được yêu mến, vì vậy đám đông hò reo mừng rỡ với Hiệp Sĩ Cây Vui Vẻ − nhà vô địch mới được gọi như vậy. Khi các đối thủ bị đánh bại của anh tìm đến chuộc ngựa và áo giáp, Hiệp Sĩ Cây Vui vẻ nói bằng giọng trầm vang vang qua mũ, ‘Hãy dạy cho cận vệ của các ngươi biết đến sự tôn kính, đó chính là khoản tiền chuộc.’ Sau khi các hiệp sĩ bị đánh bại nghiêm khắc trừng phạt cận vệ của mình, ngựa và áo giáp của họ được trả lại. Vậy là lời cầu nguyện của người đầm lầy ẩn dật đã được đền đáp… bởi Người Xanh, hoặc các cựu thần, hoặc con cháu của rừng xanh, không một ai biết được?”

Một câu chuyện hay. Bran ngẫm nghĩ. “Chuyện gì xảy ra sau đó? Hiệp Sĩ Cây Vui Vẻ có thắng trận đấu thương và kết hôn với công chúa không?”

“Không,” Meera nói. “Đêm đó, trong lâu đài to lớn, Lãnh chúa Bão và Lãnh chúa Đầu Lâu và Nụ Hôn đều thề sẽ lột mặt nạ của anh, và chính nhà vua cũng hối thúc lính đương đầu với anh, nhà vua cũng tuyên bố rằng khuôn mặt ẩn sau chiếc mũ kia không phải là bằng hữu của ngài. Nhưng sáng hôm sau, khi sứ giả thổi kèn và nhà vua an toạ, chỉ có hai nhà quán quân xuất hiện. Hiệp Sĩ Cây Vui Vẻ đã biến mất. Nhà vua giận lắm, ngài cử Hoàng Tử Rồng truy tìm anh, nhưng họ chỉ tìm thấy chiếc khiên được tô vẽ của anh được treo lủng lẳng trên thân cây. Cuối cùng, Hoàng Tử Rồng chính là người chiến thắng trong cuộc đấu thương.”

“Ồ.” Bran nghĩ một lúc về câu chuyện. “Chuyện hay lắm. Nhưng lẽ ra nên để ba hiệp sĩ đánh anh ấy bị trừng trị, thay vì là cận vệ của họ. Sau đó người đầm lầy ẩn dật bé nhỏ nên giết hết cả ba người đó. Việc chuộc lại đồ thật ngớ ngẩn. Và lẽ ra vị hiệp sĩ bí ẩn kia phải thắng trong cuộc đấu thương, phải đánh bại mọi đối thủ, và phong cho con sói xám kia làm nữ hoàng của tình yêu và sắc đẹp.”

“Con sói xám ấy đúng là nữ hoàng mà,” Meera nói, “nhưng đó là một câu chuyện buồn thảm hơn.”

“Bran à, cậu chắc là cậu chưa từng nghe chuyện này chứ?” Jojen hỏi. “Cha cậu chưa bao giờ kể cho cậu nghe sao?”

Bran lắc đầu. Lúc đó, trời mỗi lúc một tối hơn, những cái bóng dài trườn xuống các sườn núi, những ngón tay đen kịt của chúng bám lấy những cây thông. Nếu người đầm lầy ẩn dật nhỏ bé có thể đến Đảo Mặt, thì biết đâu mình cũng đến đó được. Tất cả các câu chuyện ngày xửa ngày xưa đều nói rằng Người Xanh có quyền năng ma thuật. Biết đâu họ sẽ giúp cậu đi lại được như xưa, có khi còn biến cậu thành hiệp sĩ thì sao. Họ đã biến người đầm lầy ẩn dật bé nhỏ thành hiệp sĩ, dù chỉ là một ngày, cậu thầm nghĩ. Một ngày cũng là đủ.

About The Author

Ngo David

Power is Power