Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân

Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 28

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Sam vừa khóc nức nở vừa bước thêm một bước. Đây là bước cuối cùng, bước chân cuối cùng, mình không thể bước tiếp, mình thật sự không thể. Nhưng bàn chân vẫn bước. Một bước, rồi một bước nữa. Cậu nghĩ, đó không phải chân của mình, chắc là của người khác, ai đó đang bước đi, không phải mình.

Khi nhìn xuống, cậu thấy đôi chân ấy đang lảo đảo trong tuyết; đôi chân không hình hài và vụng về. Ủng của cậu hình như vốn có màu đen, nhưng tuyết đã phủ kín, và bây giờ, đôi ủng ấy là hai quả bóng tuyết trắng bóc, méo mó. Giống như hai cục dị tật ở chân làm bằng băng.

Tuyết rơi không ngừng. Tuyết cao quá đầu gối cậu, và một lớp băng phủ kín hai bắp chân trông như đôi xà cạp trắng. Đôi chân cậu kéo lê trong tuyết, lảo đảo. Cậu đeo thêm một cái túi rất nặng, khiến cậu giống hệt một thằng gù quái dị. Và cậu kiệt sức. Mình không thể đi tiếp. Đức Mẹ khoan dung, mình không thể.

Bước được bốn hoặc năm bước, cậu lại phải cúi xuống kéo đai đeo gươm lên. Cậu đã làm mất thanh gươm ở Nắm Đấm rồi, nhưng bao gươm thì vẫn còn. Cậu cũng từng có hai con dao; một làm bằng đá rồng Jon đưa cho và một bằng sắt để cắt thịt. Ba món đồ đó rất nặng, mà bụng cậu thì vừa to vừa tròn đến mức nếu cậu quên không kéo mạnh, thắt lưng sẽ tuột ngay xuống mắt cá chân, bất kể cậu đã buộc chặt thế nào. Một lần cậu cũng thử buộc ngay trên bụng, nhưng như thế thắt lưng lại nằm ngay sát hai nách. Grenn cười đến vỡ bụng khi nhìn thấy cảnh tượng đó, còn Edd U Sầu thì nói, “Tao biết có một gã từng đeo gươm trên một sợi xích quanh cổ y hệt như thế này. Một hôm gã sảy chân, thế là cán gươm đâm tọt vào mũi gã.”

Sam cũng đang bị sảy chân. Dưới tuyết có nhiều đá, rễ cây, và cả các hố sâu trên mặt đất đóng băng nữa. Bernarr Đen có lần bước hụt vào một cái hố như thế và vỡ mắt cá chân, đau đến mấy ngày cậu không nhớ nổi. Sau đó, tướng chỉ huy phải cho Bernarr ngồi trên ngựa.

Vừa thổn thức, Sam vừa bước tiếp một bước nữa. Giống như cậu đang ngã, hơn là đi bộ, cậu cứ ngã thôi, nhưng không đâm sầm xuống mặt đất, chỉ là ngã chúi về phía trước. Mình phải dừng lại thôi, đau lắm rồi. Mình lạnh cóng, và mệt lả, mình cần phải ngủ, chợp mắt bên bếp lửa, và ăn món gì đó không bị đông lạnh.

Nhưng nếu dừng lại, cậu sẽ chết. Cậu biết như vậy. Bọn họ − chỉ vài người còn sống sót, đều biết điều đó. Lúc trốn khỏi Nắm Đấm, bọn họ có năm mươi người, có thể còn hơn, nhưng một vài người bị lạc đâu đó trong tuyết, vài người bị thương nặng đã chảy máu đến chết… và đôi lúc, Sam nghe thấy tiếng la hét đằng sau lưng, tiếng la từ đội lính bọc hậu, và một lần, có cả tiếng hét khủng khiếp. Khi nghe thấy tiếng hét ấy, cậu chạy nhanh nhất có thể, cách xa khoảng hai mươi, ba mươi mét, đôi chân gần như đông cứng của cậu đạp dúi dụi vào tuyết. Nếu chân cậu khỏe hơn, cậu sẽ vẫn tiếp tục chạy. Bọn chúng vẫn ở sau lưng chúng ta, bọn chúng giết từng người một trong số chúng ta.

Thổn thức nức nở, Sam bước thêm bước nữa. Cậu phải chịu cái lạnh lâu đến mức cậu đã quên mất cảm giác được sưởi ấm sẽ như thế nào. Sam mặc ba chiếc quần bó chẽn, hai lớp quần ống túm bên dưới một chiếc áo dài thắt ngang lưng được làm bằng lông cừu hai lớp, và bên trên chiếc áo choàng ngoài bằng mền bông dày cộp là chiếc áo giáp sắt. Bên ngoài áo giáp, cậu mặc một áo choàng rộng, và trùm một chiếc áo khoác dày ba lớp có cúc cài đóng chặt dưới cằm cậu. Mũ trùm đầu sụp xuống quá trán cậu. Đôi găng tay hở ngón bằng lông rất nặng bao bọc hai bàn tay cậu dưới đôi găng len-và-da mỏng, một chiếc khăn quàng được buộc gọn gàng che nửa mặt dưới của cậu, và bên dưới mũ trùm đầu, cậu đội một chiếc mũ vừa vặn làm bằng lông cừu chụp kín tai. Vậy mà cái lạnh vẫn thấu da thấu thịt. Nhất là đôi chân. Thậm chí cậu còn không có cảm giác gì về chúng cả, nhưng chỉ hôm qua, đôi chân ấy đau đến mức cậu không thể đứng lên, chứ đừng nói phải bước đi. Mỗi bước đi là một lần cậu muốn hét lên. Có phải hôm qua không? Cậu cũng không nhớ nổi. Từ lúc tiếng tù và cất lên, từ lúc chạy trốn khỏi Nắm Đấm, cậu vẫn chưa được ngủ. Trừ khi cậu vừa ngủ vừa lê bước. Liệu có ai vừa đi vừa ngủ không? Sam không rõ, hoặc đã quên mất rồi.

Thổn thức, cậu bước thêm bước nữa. Tuyết xoáy tròn quanh cậu. Có lúc tuyết ào xuống từ bầu trời trắng trong, có lúc đổ xuống từ bầu trời đen kịt, và tuyết là thứ duy nhất còn lại của ngày và đêm. Tuyết phủ trên vai cậu như một chiếc áo khoác, và dày đặc trên túi đeo, khiến cái túi càng nặng và khó mang hơn. Thắt lưng cậu đau buốt, như thể bị dao đâm và con dao ấy lắc lư theo từng bước chân. Vai cậu đau đớn đến tột cùng vì chiếc áo giáp nặng. Cậu rất muốn cởi chiếc áo nặng ấy ra, nhưng không dám. Cậu cần phải cởi áo khoác và áo choàng mới gỡ bỏ được chiếc áo giáp đó, nhưng cái lạnh sẽ nuốt chửng cậu ngay.

Giá như mình khỏe hơn… Nhưng sự thật là Sam yếu ớt, và béo tròn đến nỗi chính cậu còn không kham nổi thân mình. Cảm giác như chiếc áo giáp ấy cọ sát vào vai cậu, bất chấp rất nhiều lớp vải và bông lót giữa áo giáp và da. Cậu chỉ biết khóc, và khi khóc, nước mắt đóng băng ngay trên má.

Thổn thức, cậu bước tiếp một bước nữa. Lớp băng mỏng vỡ vụn dưới chân khiến cậu nhận biết được mình vẫn đang bước đi. Bên trái và bên phải cậu, và giữa những thân cây tĩnh lặng, đuốc sáng giống như vầng hào quang màu cam nhạt trong tuyết đang rơi không ngừng. Khi ngẩng đầu lên, cậu nhìn thấy những cây đuốc đang lặng lẽ trườn trong khu rừng, nhấp nhô và lắc lư. Vòng tròn lửa của Gấu Già, cậu nhớ lại, và ông ấy thật đáng thương. Cậu bước đi như thể đang rượt đuổi những ngọn đuốc trước mặt, nhưng mấy ngọn đuốc ấy cũng có chân, những đôi chân dài hơn và khỏe hơn chân cậu, vì vậy, chẳng bao giờ cậu bắt được chúng.

Hôm qua, cậu van nài xin được là một trong những người cầm đuốc, ngay cả khi việc đó có nghĩa cậu phải đi bên ngoài đội, với bóng tối ngay phía sau ót. Cậu cần lửa, thậm chí cậu còn mơ thấy lửa. Nếu có lửa, mình sẽ không bị lạnh. Nhưng ai đó nhắc cho cậu nhớ rằng, ban đầu cậu cũng được cầm đuốc, nhưng rồi lại làm rơi đuốc xuống tuyết và làm tắt lửa. Sam không nhớ mình đã làm rơi ngọn đuốc nào chưa, nhưng cậu nghĩ chắc là có. Cậu yếu lắm, không thể giơ tay lên cao lâu được. Có phải Edd nhắc cho cậu nhớ về ngọn đuốc, hay là Grenn? Cậu cũng không nhớ nổi. Béo, yếu ớt, vô dụng, và lúc này, đến cả trí thông minh của mình cũng đóng băng rồi. Cậu vừa nghĩ vừa bước thêm bước nữa.

Cậu đã quàng khăn quanh mũi và miệng, nhưng khăn bị ướt vì nước mũi cậu vẫn chảy ra, và cậu lo sợ chỗ ướt ấy sẽ đóng băng ngay trên mặt mình. Đến thở cũng khó nhọc, thời tiết lạnh đến mức khi hít vào cũng làm cậu đau, “Đức Mẹ khoan dung,” cậu nói khẽ bằng giọng khàn khàn bên dưới chiếc mặt nạ bị đóng băng. “Đức Mẹ khoan dung, Đức Mẹ khoan dung, Đức Mẹ khoan dung, Đức Mẹ khoan dung.” Với mỗi lời cầu nguyện, nó lại bước thêm một bước, kéo lê chân trong tuyết. “Đức Mẹ khoan dung, Đức Mẹ khoan dung, Đức Mẹ khoan dung.”

Mẹ đẻ của cậu đang ở cách xa cả nghìn dặm ở phương nam, đang được an toàn với các chị em gái và em trai Dickon trong tháp phòng ngự ở Horn. Mẹ không nghe thấy tiếng mình gọi đâu, cả Đức Mẹ cũng vậy. Đức Mẹ khoan dung lắm, các tu sỹ đều đồng ý như vậy, nhưng Thất Diện Thần không có quyền năng gì bên ngoài Tường Thành. Đây là nơi trị vì của các vị thần vô danh của cây cối, của chó sói, và của tuyết. “Xin ban phước lành,” cậu thì thầm với bất kể cái gì có thể đang lắng nghe lời nguyện cầu của cậu, có thể là các vị cựu thần, hoặc tân thần, kể cả quỷ dữ, “ôi, xin ban phước lành cho con, xin ban phước lành cho con.”

Maslyn đã gào thét để xin sự khoan dung. Tại sao cậu lại đột nhiên nhớ ra điều đó? Cậu chẳng muốn nhớ gì hết. Gã đó đã ngã lại tít phía sau, làm rơi kiếm, gào thét xin đầu hàng, thậm chí gã còn giật phăng đôi găng tay đen dày cộp ra và ném ra trước mặt như thể đó là đôi găng sắt. Gã vẫn kêu gào thêm mười lăm phút trước khi con quái thú túm cổ tung gã lên không trung và gần như giật đầu gã lìa khỏi cổ. Cái chết không khoan dung với bất kỳ ai trong số bọn họ, và Ngoại Nhân… không, mình không được nghĩ về điều đó, đừng nghĩ, đừng nhớ gì hết, cứ bước đi thôi, cứ bước đi thôi, bước đi thôi.

Thổn thức, cậu bước thêm bước nữa.

Rễ cây bên dưới lớp băng mỏng vướng vào ngón chân khiến Sam bị vấp, ì ạch ngã xuống trong tư thế quỳ một chân, cậu cắn phải lưỡi đau tê tái. Cậu nếm được vị mặn của máu trong miệng, máu nóng hơn bất cứ thứ gì mà cậu nếm được kể từ khi trốn khỏi Nắm Đấm. Đây là sự kết thúc, cậu thầm nghĩ. Ngã xuống rồi, dường như cậu không còn sức để đứng lên nữa. Cậu mò mẫm tìm một cành cây và bấu chặt vào đó, cố kéo thân mình đứng dậy, nhưng đôi chân cứng đờ không ủng hộ. Chiếc áo giáp nặng quá, còn cậu thì quá béo, quá yếu, quá mệt.

“Con lợn kia, đứng lên,” có người gầm lên khi đi ngang qua, nhưng Sam không quan tâm. Mình sẽ nằm trong tuyết và nhắm mắt lại. Chết ở đây cũng không đến mức tệ lắm. Cậu không thể bị lạnh hơn nữa, và một lúc sau đó, khi cậu không thể cảm nhận cơn đau ở vùng thắt lưng hoặc cơn đau khủng khiếp trên vai, cậu cũng sẽ không còn cảm giác ở đôi chân nữa. Mình không phải là người đầu tiên chết, bọn họ không thể nói vậy được. Hàng trăm người đã chết ở Nắm Đấm, bọn họ chết xung quanh cậu, và sau đó, còn nhiều người nữa chết, cậu đã nhìn thấy họ chết. Rùng mình, Sam bỏ tay bấu cành cây và để người rơi phịch xuống tuyết. Lạnh và ẩm ướt, cậu biết vậy, nhưng cậu gần như không cảm nhận được cảm giác ấy qua từng ấy lớp áo quần. Cậu ngẩng mặt lên nhìn bầu trời trắng nhờn nhợt khi các bông tuyết rơi trên bụng, trên ngực và trên mí mắt. Tuyết sẽ phủ lên người mình như một tấm chăn dày màu trắng. Nằm dưới tuyết sẽ ấm thôi, và nếu bọn họ nói về mình, bọn họ sẽ phải nói mình đã chết đúng với bổn phận của Đội Tuần Đêm. Mình đã chết như vậy. Đã như vậy. Mình đã làm tròn bổn phận. Sẽ không ai có thể nói mình chối bỏ nghĩa vụ. Mình béo, yếu, hèn nhát, nhưng mình đã làm đúng bổn phận được giao.

Coi sóc đàn quạ là trách nhiệm của cậu. Đó là lý do khiến bọn họ đưa cậu đi theo. Cậu không muốn đi, cậu đã nói vậy với bọn họ rằng cậu chỉ là một thằng hèn. Nhưng Maester Aemon đã già, và mù nữa, vì vậy, bọn họ phải cử Sam trông nom đàn quạ. Khi cắm trại ở Nắm Đấm, tướng chỉ huy đã ra lệnh cho cậu.

“Cậu không phải chiến binh. Cả ta và cậu đều biết điều đó, nhóc ạ. Nếu chúng ta bị tấn công, cậu đừng cố chứng tỏ gì hết, cậu chỉ cần làm đúng việc được giao. Gửi quạ báo tin. Và đừng có chạy quanh hỏi xem phải viết thư thế nào. Cậu phải tự viết, và gửi một con về Hắc Thành và một con về Tháp Đêm.” Gấu Già chỉ thẳng ngón tay được đeo găng vào mặt Sam. “Ta không quan tâm liệu cậu có sợ đến mức tè ra quần không, ta cũng không quan tâm liệu có cả ngàn tên man di ào tới đòi lấy máu của cậu không, ta chỉ cần cậu thả quạ đưa tin, nếu không, dù xuống bảy tầng địa ngục ta vẫn bắt được cậu và bắt cậu phải hối hận vì đã không thả quạ báo tin.” Và lúc đó, con quạ của Mormont ngẩng đầu lên cao và kêu, “hối hận, hối hận, hối hận.”

Sam ân hận lắm; vì cậu đã không dũng cảm hơn, không mạnh mẽ hơn, không giỏi dùng gươm đao, vì cậu không phải là đứa con trai giỏi hơn của cha và là người anh giỏi hơn của Dickon cùng mấy đứa em gái. Cậu cũng ân hận khi phải chết, nhưng vô khối người giỏi hơn cậu đã chết ở Nắm Đấm, họ giỏi và có tài, họ không phải là thằng nhóc béo múp hèn nhát như cậu. Nhưng, ít nhất cậu cũng sẽ không bị Gấu Già săn đuổi khi xuống đến địa ngục. Mình đã gửi quạ đi. Ít nhất mình cũng đã làm đúng việc đó. Cậu đã viết sẵn thư nói là bị tấn công ở Nắm Đấm, ngắn gọn và đơn giản sau đó, cậu cất thư an toàn vào trong bao, hy vọng cậu không bao giờ phải gửi bức thư đó đi.

Khi tiếng tù và vang lên, Sam đang ngủ. Ban đầu cậu tưởng cậu mơ nghe thấy tiếng tù và, nhưng khi mở mắt, tuyết đang rơi và các anh em mặc áo đen đang vồ lấy nào cung, nào giáo và chạy về phía tường bao. Chỉ có mỗi Chett đứng gần đó, đó là đứa phục vụ cũ của Maester Aemon, mặt nó đầy u cục và cổ nó cũng có một khối u lớn. Sam chưa bao giờ nhìn thấy nhiều nỗi sợ hãi trên mặt của người khác như nỗi sợ hãi khủng khiếp của Chett khi tiếng tù và thứ ba kêu rền giữa các rừng cây. “Giúp tao thả chim ra,” cậu van vỉ, nhưng tên đó đã quay lưng và chạy biến mất, tay cầm một con dao găm. Hắn phải chăm sóc đàn chó, Sam chợt nhớ. Có lẽ tướng chỉ huy cũng giao nhiệm vụ cho hắn.

Các ngón tay cậu cứng đờ và lóng ngóng bên trong găng tay, cậu run lẩy bẩy vì sợ và vì lạnh, nhưng cậu cũng tìm thấy bao da đựng thư và lôi bức thư đã viết sẵn ra. Đàn quạ la hét inh ỏi, và khi cậu mở chuồng quạ của Hắc Thành, một con quạ bay thẳng vào mặt cậu. Hai con khác bay mất trước khi Sam bắt được một con, và khi bắt được, con chim ấy mổ liên hồi qua lớp găng tay của cậu, làm tay tứa máu. Vậy mà Sam vẫn nắm chặt con chim đủ lâu để buộc cuộn thư nhỏ vào chân nó. Lúc đó, tù và không kêu nữa, nhưng Nắm Đấm rung lên khi mệnh lệnh được đưa ra và tiếng sắt thép kêu leng keng. “Bay đi!” Sam kêu lên khi tung con quạ vào không trung.

Đàn quạ của Tháp Đêm cũng đang la hét inh ỏi và đập cánh điên loạn đến mức cậu sợ phải mở cửa chuồng, nhưng cậu vẫn buộc mình phải mở. Lần này cậu bắt được ngay con chim đầu tiên định bay đi. Một giây sau, con quạ bay vút giữa trời tuyết đang rơi và mang theo tin dữ.

Nhiệm vụ đã hoàn thành, cậu mặc quần áo trong khi tay chân run sợ, đội mũ, mặc áo choàng, áo khoác có mũ trùm đầu, cài khóa đai đeo gươm, cài thật chặt để không bị rơi. Sau đó, cậu tìm túi và nhồi nhét toàn bộ đồ đạc vào trong đó, quần ống túm và vớ khô, mũi tên và mũi giáo mà Jon đã đưa cho cậu cùng cái tù và cũ, giấy da, mực, bút lông, tấm bản đồ mà cậu đã vẽ, và một cái xúc xích tỏi cứng như đá cậu cất từ lúc ở Tường Thành. Cậu buộc chặt túi, vắt qua vai và đưa lên lưng. Tướng chỉ huy nói mình không phải chạy ra tường bao, cậu nhớ lại, nhưng ngài ấy cũng không nói mình phải chạy ra chỗ ngài ấy. Sam hít thở sâu và nhận thấy cậu không biết phải làm gì tiếp.

Cậu nhớ đã quay người tới lui, mất phương hướng, nỗi sợ hãi căng phồng lên trong lồng ngực, như mọi khi. Chó sủa, ngựa rống, tuyết bóp nghẹt mọi âm thanh và khiến âm thanh có cảm giác ở rất xa. Sam không nhìn thấy gì quá ba mét, thậm chí cả những ngọn đuốc đang cháy dọc theo Tường Thành đá thấp bao quanh đỉnh núi. Liệu đuốc có cháy hết không? Điều đó quá đáng sợ, đến mức cậu không dám nghĩ đến. Tù và vang ba hồi dài, ba hồi dài nghĩa là Ngoại Nhân đến. Những hình nhân trắng toát của rừng xanh, những cái bóng lạnh giá, những con quỷ trong các câu chuyện vẫn thường khiến cậu run rẩy khi nghe đến, bọn chúng cưỡi những con ngựa băng khổng lồ, khát máu…

Tay chân lóng ngóng, cậu rút gươm ra và nặng nhọc bước đi trong tuyết, tay cầm gươm. Một con chó chạy qua, sủa inh ỏi, và cậu nhìn thấy một số người của Tháp Đêm, họ to lớn, có râu, tay cầm rìu dài và giáo dài tới hơn hai mét. Cậu thấy an toàn hơn khi có họ bên cạnh, vì vậy cậu đi theo họ đến tường thành. Khi cậu nhìn thấy đuốc vẫn cháy trên đỉnh thành đá, cơn rùng mình vì nhẹ nhõm len trong người cậu.

Các anh em mặc đồ đen tay cầm gươm và giáo, nhìn tuyết rơi và chờ đợi. Ser Mallador Locke cưỡi ngựa đi ngang qua, ông đội mũ lốm đốm tuyết. Sam đứng tít phía sau lưng những người khác và tìm Grenn, hay Edd U Sầu. Nếu con phải chết, xin hãy cho con chết bên cạnh bạn bè con, cậu nhớ mình đã nghĩ như thế. Nhưng tất cả những người đứng quanh nó đều là người lạ, họ là người của Tháp Đêm dưới sự chỉ huy của một lính biệt kích tên là Blane.

“Bọn chúng đến rồi,” cậu nghe thấy một người nói.

“Lắp tên,” Blane nói, và hai mươi mũi tên màu đen được rút ra khỏi ống tên và lắp vào chừng ấy cung tên.

“Thánh thần ơi, chúng có mấy trăm tên cơ,” một giọng nói khẽ vang lên.

“Kéo,” Blane nói, và “giữ.” Sam không nhìn thấy gì và cũng không muốn nhìn. Người của Đội Tuần Đêm đứng phía sau các ngọn đuốc, chờ đợi, trong khi tên được kéo căng đến tận mang tai, khi cái gì đó chui ra từ sườn núi tối om, trơn trượt trong tuyết. “Giữ tên,” Blane lại nói, “Giữ, giữ tên.” Và, “Bắn.”

Các mũi tên kêu xào xạo khi bay vút đi.

Tiếng reo hò rời rạc vang lên dọc tường bao, nhưng nhanh chóng chấm dứt. “Thưa lãnh chúa, bọn chúng không dừng lại,” một người nói với Blane, và một người khác hét lên, “Còn nữa! Nhìn kìa, chúng chui ra từ các thân cây,” và người khác nói, “Thánh thần ơi, bọn chúng đang bò. Chúng gần tới nơi rồi, gần tới chỗ chúng ta rồi!” Lúc đó, Sam bị đẩy ra sau, cậu run rẩy như chiếc lá cuối cùng còn sót lại trên cây khi gió thổi, run vì lạnh và vì sợ. Buổi tối hôm đó lạnh lắm. Thậm chí lạnh hơn cả lúc này. Tuyết mang lại cảm giác gần như ấm áp. Giờ mình thấy khỏe hơn rồi. Mình chỉ cần nghỉ một chút thôi. Biết đâu nghỉ một chút rồi mình sẽ khỏe lại để đi tiếp. Một chút thôi.

Một con ngựa bước đi ngang qua chỗ đầu cậu, con ngựa xám, lông lá bờm xờm phủ trắng tuyết và móng phủ một lớp băng mỏng. Sam nhìn nó bước đến, và bước đi. Một con ngựa khác xuất hiện trong tuyết đang rơi, và một người mặc đồ đen ngồi trên yên ngựa. Khi ông ta nhìn thấy Sam nằm chắn ngang lối đi, ông ta chửi thề và cho ngựa đi vòng. Giá như mình có ngựa, cậu nghĩ. Nếu có ngựa, mình sẽ đi tiếp. Mình sẽ ngồi trên yên, và tranh thủ ngủ một lúc. Hầu hết ngựa đã bị chết ở Nắm Đấm, những con còn lại phải chở thực phẩm, đuốc, và những người bị thương. Sam không bị thương. Cậu chỉ béo và yếu, và là kẻ hèn nhát vĩ đại của Bảy Phụ Quốc.

Cậu đúng là đồ hèn. Lãnh chúa Randyll, cha cậu, vẫn luôn nói vậy, và cha nói đúng lắm. Sam là người thừa kế, nhưng cậu không xứng đáng với vị trí ấy, vì thế, cha cậu phải gửi cậu đến Tường Thành. Em trai Dickon của cậu sẽ thừa kế đất đai, lâu đài của Nhà Tarly, và cả thanh kiếm Tai Ương mà các lãnh chúa của Horn đã kiêu hãnh trị vì suốt nhiều thế kỉ qua. Cậu tự hỏi liệu Dickon có rơi chút ít nước mắt cho người anh trai bị chết trong tuyết ở đâu đó mãi tận cùng trái đất này không. Tại sao mình phải khóc nhỉ? Một kẻ hèn nhát không đáng được khóc thương. Cậu nghe thấy cha nói với mẹ như vậy, đến cả trăm lần. Gấu Già cũng biết rõ điều đó.

“Mũi tên lửa,” tối đó tướng chỉ huy nói ở Nắm Đấm, khi cậu đột nhiên xuất hiện dưới chân ngựa của ngài, “cho chúng nếm mùi lửa.” Đúng lúc đó ngài nhận thấy Sam đang run lẩy bẩy. “Tarly! Ra khỏi đây ngay! Chỗ của cậu là ở cùng đàn quạ!”

“Tôi… tôi… tôi gửi tin đi rồi.”

“Tốt.” Trên vai Mormont, con quạ của ngài kêu, “Tốt, tốt.”

Tướng chỉ huy rất to lớn với chừng ấy áo lông thú và áo giáp sắt. Phía sau chiếc mặt nạ sắt đen sì, đôi mắt ngài sôi sục. “Quay về chuồng quạ ngay. Nếu ta cần gửi tin, ta không muốn phải đi tìm ngươi. Phải đảm bảo đàn quạ luôn sẵn sàng đưa tin.” Ngài không đợi cậu đáp lời và quay ngựa chạy nước kiệu quanh tường bao, hét lớn, “Lửa! Cho chúng biết mùi lửa.”

Sam không cần phải được bảo tới lần thứ hai. Cậu quay lại chuồng quạ, nhanh hết mức có thể. Mình phải viết sẵn thư, cậu thầm nghĩ, để gửi quạ đi ngay khi cần. Cậu mất nhiều thời gian hơn bình thường để thắp ngọn lửa nhỏ, để làm tan lọ mực đã đóng băng. Cậu ngồi bên ngọn lửa, cùng với bút lông và giấy da, và viết thư báo tin.

Bị tấn công lúc tuyết rơi và trời lạnh cóng, nhưng chúng tôi chặn đứng chúng bằng mũi tên lửa, cậu viết vậy khi nghe Thoren Smallwood hét lên ra lệnh, “Lắp tên, kéo… bắn.” Các mũi tên bay nhẹ và ngọt. “Cháy, chết đi, lũ khốn, chết đi,” Dywen ngân nga và khúc khích cười. Các anh em trong đội hò reo và chửi rủa. Tất cả đều an toàn, cậu viết. Chúng tôi vẫn giữ được Nắm Đấm. Sam hy vọng các cung thủ kia giỏi hơn cậu nhiều.

Cậu đặt bức thư đó sang bên cạnh và tìm một mẩu giấy da chưa viết khác. Vẫn chiến đấu ở Nắm Đấm, tuyết đang rơi dày, cậu viết khi nghe có người hét, “Bọn chúng vẫn đang đến.” Chưa rõ kết quả. “Giáo,” người khác nói. Có lẽ là Ser Mallador, nhưng Sam cũng không biết rõ. Quái thú tấn công chúng tôi trên đỉnh Nắm Đấm, khi tuyết rơi, cậu viết, nhưng chúng tôi bắn tên bằng lửa đuổi chúng đi. Cậu quay đầu ra sau. Trong màn tuyết rơi, cậu chỉ nhìn thấy ngọn lửa khổng lồ đang phập phồng cháy ở chính giữa doanh trại, những người cưỡi ngựa hớt hải phi quanh chùm lửa. Đội dự bị, cậu biết rõ, họ sẵn sàng cưỡi ngựa xông vào bất kể kẻ địch nào đang xông phá vòng vây. Họ cầm đuốc thay vì cầm gươm, và đuốc đang cháy hừng hực.

Quái thú vây xung quanh chúng tôi, cậu viết, khi nghe tiếng la hét từ đội quân phía bắc. Chúng ập tới từ cả hướng bắc và hướng nam. Giáo mác và gươm đao không ngăn được bọn chúng, chỉ có lửa mới ngăn được.

“Bắn, bắn, bắn,” một giọng nói gào lên trong đêm, và một giọng khác hét, “To khủng khiếp,” và giọng thứ ba nói, “Khổng lồ!” và giọng thứ tư quả quyết, “Gấu, gấu.”

Một con ngựa hí vang, đàn chó săn tru tréo, và ngoài đó nhiều tiếng la hét đến mức Sam không biết đâu là giọng nói của con người. Cậu viết nhanh hơn, hết bức này đến bức khác. Đám man di đã chết, và một gã khổng lồ, hoặc một con gấu, đang tấn công chúng tôi, khắp tứ phía. Cậu nghe tiếng gươm đao đập vào gỗ, hành động đó chỉ mang một ý nghĩa. Quái thú đã tràn qua tường bao. Đánh nhau bên trong doanh trại. Mười hai người cưỡi ngựa phi vội qua cậu về phía tường bao hướng đông, tay mỗi người đều cầm đuốc đang cháy đỏ rực. Tướng chỉ huy Mormont dùng lửa để chống lại bọn chúng. Chúng tôi thắng rồi. Đang thắng. Đang chiếm ưu thế. Chúng tôi đang tìm đường rút quân về Tường Thành. Chúng tôi đang bị mắc kẹt ở Nắm Đấm, bị bao vây tứ phía.

Một người của Tháp Đêm từ bóng tối ngã nhào xuống chân Sam, mặt mũi anh ta sửng sốt. Anh ta bò vào gần ngọn lửa trước khi chết. Thất trận, Sam viết, thất trận rồi. Chúng tôi thua cuộc.

Tại sao cậu phải nhớ đến trận chiến ở Nắm Đấm? Cậu không muốn nhớ. Không muốn nhớ trận chiến đó. Cậu cố bắt mình nhớ đến mẹ, đến em gái Talla, hoặc cô bé Gilly ở lâu đài của Craster. Có người lắc vai cậu. “Đứng lên,” một người nói. “Sam, không được ngủ ở đây. Đứng lên đi tiếp đi.”

Tôi không ngủ, tôi đang nhớ lại. “Tránh ra,” cậu nói, ngôn từ đóng băng trong giá lạnh. “Tôi khỏe. Tôi muốn nghỉ.”

“Đứng lên,” giọng Grenn gay gắt và khàn khàn. Anh cúi xuống ngó Sam, bộ quần áo đen của anh cứng đờ vì tuyết. “Không được nghỉ, Gấu già nói rồi. Mày chết đấy.”

“Grenn.” Cậu cười. “Không đâu, thật đấy, nằm đây tao thích lắm. Mày cứ đi đi. Tao sẽ bắt kịp sau khi tao nằm nghỉ một chút.”

“Không được.” Tuyết phủ trắng bộ ria màu nâu rậm rạp của Grenn khiến anh trông già lắm. “Mày sẽ chết cóng, không thì Ngoại Nhân cũng giết mày thôi. Sam, đứng lên!”

Đêm trước khi rời Tường Thành, Sam còn nhớ Pyp đã trêu Grenn, vừa cười vừa nói Grenn là sự lựa chọn thú vị để đi rừng, vì anh ta ngu ngốc đến mức không sợ gì hết. Grenn kịch liệt phủ nhận điều đó cho đến khi anh ta nhận ra ý nghĩa của lời trêu đùa ấy. Anh ta to bè, cổ to và khỏe mạnh – Ser Alliser Thorne gọi anh ta là “Bò Rừng,” ông ta cũng gọi Sam là “Ngài Lợn Con” và gọi Jon là “Lãnh chúa Snow” – nhưng ông ta luôn đối xử tốt với Sam. Đó là nhờ có Jon. Nếu không phải vì Jon, sẽ không ai trong bọn họ ưa mình. Và giờ thì Jon đã đi xa, đâu đó ở tận Đèo Skirling với Qhorin Cụt Tay, có khi đã bỏ mạng ở đó rồi. Sam đã khóc, nhưng nước mắt chưa kịp rơi đã đóng băng trên mặt cậu, trong khi lúc này cậu gần như không mở nổi mắt ra.

Một người cao ráo cầm đuốc đứng bên cạnh bọn họ, và trong một khoảnh khắc tuyệt vời, Sam cảm nhận được hơi ấm trên mặt. “Kệ nó,” người đó nói với Grenn. “Nếu không đi được, thì coi như xong đời. Grenn, tiết kiệm sức cho mình đi.”

“Nó sẽ đứng lên được,” Grenn nói. “Nó chỉ cần một bàn tay kéo lên thôi.”

Người đó đi tiếp, và đem theo cả hơi ấm tốt lành kia. Grenn cố kéo Sam đứng lên. “Đau,” cậu càu nhàu. “Thôi đi. Grenn, mày làm tay tao đau. Thôi đi.”

“Mày nặng quá.” Grenn kẹp chặt hai bàn tay vào hai nách Sam, làu bàu và lôi mạnh cậu lên. Nhưng ngay khi anh ta thả tay ra, thằng nhóc béo mập lại ngã ngồi xuống tuyết. Grenn đấm cậu, mạnh đến mức làm vỡ vụn lớp băng đóng quanh giày cậu và băng vỡ bắn tung tóe. “Đứng lên!” Anh ta lại đấm cậu. “Đứng lên ngay. Mày phải đi.”

Sam ngã dúi sang bên đường, cuộn tròn thành một quả bóng chặt khít để bảo vệ cơ thể trước những cú đá. Cậu gần như không cảm nhận được những cú đòn ấy qua từng ấy lớp lông thú, len và áo giáp, nhưng dù vậy, cậu vẫn thấy đau. Mình cứ tưởng Grenn là bạn mình. Mày không được đá bạn mày chứ. Tại sao tụi nó không để mình nằm đây chứ? Tao chỉ cần nghỉ, vậy thôi, nghỉ và ngủ một lát, và có thể là chết một lát.

“Nếu mày cầm đuốc, tao sẽ vác thằng béo.”

Đột nhiên, cậu được nhấc phốc lên giữa không khí lạnh giá, xa khỏi lớp tuyết mềm mại; cậu đang trôi. Có một cánh tay dưới đầu gối cậu, và một cánh tay khác dưới lưng cậu. Sam ngẩng đầu lên và chớp mắt. Một khuôn mặt hiện ra sát mặt cậu, khuôn mặt cục súc to bè, mũi tẹt, mắt đen nhỏ ti hí và bộ ria nâu xấu xí. Cậu nhìn thấy khuôn mặt ấy trước đây, nhưng phải mất một giây cậu mới nhớ ra. Paul. Paul Nhỏ.

Hơi nóng từ đuốc làm băng tan chảy xuống mắt cậu. “Mày vác nổi nó không?” cậu nghe thấy Grenn hỏi.

“Có lần tao còn vác một con bê nặng hơn nó. Tao vác con bê đến chỗ con bò mẹ để nó bú.”

Đầu Sam nhấp nhô lên xuống theo từng bước chân của Paul Nhỏ. “Dừng lại,” cậu nói khẽ, “đặt tao xuống, tao không phải trẻ con. Tao là người của Đội Tuần Đêm.” Cậu thổn thức. “Cứ để tao chết.”

“Sam, im đi,” Grenn nói. “Tiết kiệm sức. Nghĩ về các em mày đi. Hay Maester Aemon. Hay món ăn mày thích. Hát cũng được.”

“Hát to à?”

“Nhẩm trong đầu thôi.”

Sam biết cả trăm bài hát, nhưng khi cố nghĩ đến một bài, cậu không nghĩ ra nổi bài nào. Đầu óc cậu trống rống. Cậu lại khóc và nói, “Grenn, tao không biết bài nào đâu. Trước tao biết, nhưng giờ thì không.”

“Có, mày biết đấy,” Grenn nói. “Bài ‘Con gấu và chợ phiên hầu gái’ mà ai cũng biết ấy. Có một con gấu, một con gấu, một con gấu! Gấu đen nâu và đầy lông lá!”

“Không, không phải bài đó,” Sam nài nỉ. Con gấu trèo lên Nắm Đấm không có sợi lông nào bên ngoài lớp thịt thối rữa. Cậu không muốn nghĩ đến gấu. “Không bài nào hết. Grenn, làm ơn đi.”

“Thế thì nghĩ về đàn quạ của mày vậy.”

“Có phải của tao đâu.” Đó là quạ của tướng chỉ huy, là quạ của Đội Tuần đêm. “Quạ của Hắc Thành và Tháp Đêm.”

Paul Nhỏ cau mày. “Chett nói tao sẽ được con quạ của Gấu Già, con quạ biết nói ấy. Ta đã cất thức ăn cho nó và đủ thứ.” Anh ta lắc đầu. “Nhưng tao quên không mang. Tao vẫn để ở chỗ giấu.” Anh ta nặng nề bước đi, theo mỗi bước đi, hơi thở màu trắng nhạt tỏa ra từ miệng rồi đột ngột nói, “Cho tao một con quạ của mày nhé? Một con thôi. Tao sẽ không bao giờ để Lark ăn thịt nó.”

“Bay hết rồi,” Sam nói. “Tao xin lỗi.” Rất xin lỗi. “Đang bay về Tường Thành rồi.” Cậu thả hết quạ ra khi nghe tiếng tù và vang lên lần nữa để triệu tập Đội Tuần lên ngựa. Hai tiếng tù và ngắn và một tiếng dài, nghĩa là gọi lên ngựa. Nhưng không có lý do gì để lên ngựa, trừ khi phải rời khỏi Nắm Đấm, và điều đó nghĩa là thua trận. Nỗi sợ hãi trong cậu khủng khiếp đến mức Sam chỉ có thể mở cửa chuồng chim. Chỉ đến khi cậu nhìn con quạ cuối cùng vỗ cánh bay đi trong cơn bão tuyết, cậu mới nhận ra rằng cậu quên không gửi bức thư nào đi cả.

“Không,” cậu thét lên, “ôi, không, không, không.” Tuyết rơi, tù và vang lên; ahoooooooo ahooooooo ahoooooooooooooo, tù và gọi, lên ngựa, lên ngựa, lên ngựa. Sam nhìn thấy hai con quạ đậu trên một phiến đá và chạy đuổi theo, nhưng hai con chim vỗ cánh bay luôn vào màn tuyết đang rơi về hai hướng khác nhau. Cậu đuổi theo một con, thở hổn hển, hơi thở chui ra đằng mũi thành cuộn mây trắng dày cộp, ngã dúi dụi và cậu thấy mình chỉ cách tường bao khoảng ba mét.

Sau đó… cậu vẫn nhớ những người chết ngã nhào qua Tường Thành đá, tên vẫn cắm xuyên trên mặt và cắm thấu cổ họng họ. Có người vẫn mặc áo giáp, có người gần như trần truồng… phần lớn là đám du mục, nhưng có một vài người mặc áo choàng đen đã bạc màu. Cậu nhớ một người của Tháp Đêm ấn giáo xuyên bụng và đâm qua lưng con quái thú, nhưng con quái thú rút ngay cán giáo ra và thò hai bàn tay đen kịt của nó ra vặn cổ người chiến binh kia cho đến khi máu phun ra từ mồm anh ta. Đó là khi cậu tè ra quần lần đầu tiên.

Cậu không nhớ mình đã chạy, nhưng chắc chắn là vậy, vì lúc sau cậu biết mình đã đến gần ngọn lửa trong doanh trại, cùng với Ser Ottyn Wythers và một vài cung thủ. Ser Ottyn đang quỳ trên tuyết, đăm đăm nhìn sự hỗn độn quanh họ, cho đến khi một con ngựa không người cưỡi chạy ngang qua và đá vào mặt ngài. Các cung thủ không chú ý đến ngài. Họ đang bắn tên vào những cái bóng trong bóng tối. Sam nhìn thấy một con quái thú bị trúng tên, nhìn thấy lửa nhấn chìm nó, nhưng sau lưng nó có hàng chục con khác, và một hình hài nhờ nhờ, to lớn chắc chắn phải là một con gấu, và chẳng mấy chốc, các cung thủ không còn tên để bắn nữa.

Và Sam thấy mình đang ngồi trên ngựa. Không phải ngựa của cậu, cậu cũng không nhớ mình đã trèo lên ngựa. Có lẽ đó là con ngựa đã đạp vào mặt Ser Ottyn. Tù và vẫn kêu, vì vậy cậu thúc và quay đầu ngựa về phía phát ra âm thanh ấy.

Giữa chiến địa, sự hỗn loạn và tuyết rơi, cậu thấy Edd U Sầu đang ngồi trên ngựa, tay cầm cờ hiệu gắn trên ngọn giáo. “Sam,” Edd nói khi nhìn thấy cậu, “mày đánh thức tao được không? Tao đang gặp ác mộng.”

Lúc đó nhiều người trèo lên ngựa hơn. Tù và gọi họ quay trở lại. Ahooo ahooo ahoooooooooooo. “Thưa ngài, bọn chúng đã trèo qua tường bao phía tây,” Thoren Smallwood hét lên với Gấu Già, khi anh phải vất vả kiềm chế con ngựa. “Tôi sẽ cử đội dự bị…”

“KHÔNG!” Mormont phải lấy hết sức bình sinh hét lên để tiếng của ngài được nghe thấy giữa tiếng tù và inh ỏi. “Gọi quân rút lui, chúng ta phải tìm đường thoát.” Ngài đứng trên bàn đạp ngựa, chiếc áo khoác đen bay phần phật trong gió, ánh lửa nhảy nhót trên áo giáp của ngài. “Đội xung kích!” ông gầm lên. “Lập đội mũi nhọn, chúng ta sẽ cưỡi ngựa. Xuống sườn núi phía nam, rồi nhắm hướng đông!”

“Thưa ngài, bọn chúng đang nhung nhúc trèo lên sườn núi phía nam!”

“Các sườn núi còn lại quá dốc,” Mormont nói. “Chúng ta phải…”

Con chiến mã của ngài kêu thét, lồng lên và suýt hất ngài ngã xuống khi con gấu lảo đảo bước đi trong tuyết. Sam lại tè ra quần. Chắc mình không còn nước tiểu để mà tè nữa. Con gấu đã chết, nhờn nhợt và thối rữa, lông và da nó không còn, một nửa tay phải của nó bị cháy xém đến tận xương, vậy mà nó vẫn bước đi được. Chỉ có đôi mắt của nó là còn sống. Mắt màu xanh sáng, y như Jon nói. Chúng sáng như những ngôi sao đã bị đông giá. Thoren Smallwood tấn công, thanh gươm dài của anh rực sáng màu vàng cam và màu đỏ vì ánh sáng của bếp lửa. Nhát gươm của anh suýt chặt phăng đầu của con gấu. Và rồi, con gấu giật phăng đầu anh.

“ĐI!” Tướng chỉ huy thét lên và phi ngựa.

Họ phi ngựa chạy nước kiệu cho đến khi tới được tường bao. Sam lúc nào cũng sợ hãi đến nỗi trước giờ cậu không dám phi ngựa nhảy qua rào, nhưng khi tường bao xuất hiện trước mặt, cậu biết cậu không còn lựa chọn nào khác. Cậu thúc ngựa, nhắm nghiền mắt và thút thít khóc, và con ngựa đưa cậu vượt qua tường, không hiểu sao, đúng là không hiểu sao, con ngựa đã đưa cậu qua tường.

Người cưỡi ngựa bên tay phải cậu bị ngã nhào lên một mớ bòng bong nào gươm, nào giáo, nào da, và thét lên, và rồi, quái thú ập lên người anh ta và đội mũi nhọn siết chặt hàng ngũ. Họ lao xuống sườn núi, gấp rút, vội vã, qua những đôi bàn tay đen, những đôi mắt xanh đang rực cháy và tuyết đang rơi. Ngựa bị sẩy chân ngã lăn ra, người ngã nhào từ trên yên ngựa xuống, đuốc quay tròn trong không trung, rìu và gươm chém mạnh vào người chết, và Samwell Tarly khóc thổn thức, tuyệt vọng bấu chặt lấy con ngựa bằng sức lực mà cậu không hề biết mình có.

Cậu ở giữa đội mũi nhọn đang phi ngựa đi cùng với các anh em bên phải, bên trái, trước, và sau cậu. Một con chó chạy theo bọn họ được một quãng đường, rồi sau đó nhảy vọt xuống sườn núi đầy tuyết, chui vào và chui ra khỏi đoàn ngựa, nhưng nó không đuổi theo kịp. Đám quái thú vẫn tiến tới, chúng cũng lao xuống. Ngay cả khi bị ngã, chúng cũng bấu chặt lấy gươm bàn đạp ngựa và chân của những con ngựa đang phi qua. Sam nhìn thấy một con lấy móng vuốt tay phải cào toạc bụng một con ngựa, còn tay trái túm chặt lấy yên ngựa.

Đột nhiên xung quanh họ toàn là cây cối, và Sam đang phi qua một con suối đã đóng băng, tiếng kêu gào của cuộc tàn sát mỗi lúc một nhỏ hơn. Nó ngoảnh đầu nhìn lại, lòng dạ nhẹ nhõm… cho đến khi một người mặc đồ đen nhảy vọt ra khỏi bụi cây và kéo nó ngã nhào khỏi yên ngựa. Sam không biết đó là ai; anh ta nhảy vọt lên ngựa và phi nước kiệu đi. Khi cậu cố chạy theo con ngựa, chân cậu vấp phải rễ cây, ngã đập mặt xuống đất, và cậu nằm đó khóc như một đứa trẻ cho đến khi Edd U Sầu tìm thấy.

Đó là ký ức rõ nét cuối cùng mà cậu nhớ được ở Nắm Đấm của Tiền Nhân. Sau đó, nhiều giờ sau đó, cậu đứng run rẩy giữa những người còn sống sót, một nửa cưỡi ngựa và một nửa đi bộ. Lúc đó, bọn họ đã cách Nắm Đấm nhiều dặm, mặc dù Sam không nhớ rõ khoảng bao nhiêu. Dywen có năm con ngựa thồ hàng chất đầy thực phẩm, dầu và đuốc, và có ba con đi được xa đến chừng này. Gấu Già ra lệnh phân chia lại số hàng đó, phòng trường hợp ngựa kiệt sức không đi được thì sự tổn thất cũng không phải là tai họa lớn lắm. Ngài nhường ngựa của những người còn khỏe cho người bị thương, tổ chức đội đi bộ và thắp đuốc bảo vệ đội bên sườn và đội bọc hậu. Mình chỉ cần đi bộ, Sam tự nhủ, khi cậu bước những bước đầu tiên tiến về nhà. Nhưng mới được một giờ, cậu phải gắng hết sức mới lê từng bước được…

Cậu thấy lúc này tất cả bọn họ đều phải lê bước. Cậu nhớ có lần Pyp nói Paul Nhỏ là người khỏe nhất trong Đội Tuần Đêm. Hẳn phải là thế, thì nó mới vác được mình. Nhưng dù vậy, tuyết rơi mỗi lúc một dày, mặt đất càng nguy hiểm, và sải chân của Paul dần ngắn hơn. Thêm nhiều ngựa đi qua bọn họ, những người bị thương nhìn Sam với ánh mắt thờ ơ. Có cả một vài người cầm đuốc đi qua. “Mấy người đang bị tụt lại đấy,” một người nói. Người kia đồng ý. “Paul à, không ai đợi mày đâu. Cứ để con lợn ấy cho lũ người chết kia đi.”

“Nó hứa cho tao một con quạ,” Paul Nhỏ nói, mặc dù thực lòng Sam cũng chưa hứa hẹn gì. Có phải quạ của tao đâu mà cho. “Tao thích có con quạ biết nói ấy, và nó sẽ ăn ngô trong tay tao.”

“Đại ngu,” người cầm đuốc nói. Rồi anh ta đi mất.

Một lúc sau, Grenn đột ngột dừng lại. “Chỉ còn lại chúng ta,” anh nói giọng khản đặc. “Tao không thấy ngọn đuốc nào khác. Đó là đội bọc hậu à?”

Paul Nhỏ không trả lời. Gã làu bàu và quỳ gối xuống. Hai cánh tay gã run lên khi gã khẽ đặt Sam xuống tuyết. “Tao không vác mày được nữa. Tao muốn, nhưng tao không thể.” Gã rùng mình.

Gió rì rào qua các thân cây, thổi các bông tuyết vào mặt tụi nó. Cái lạnh căm căm khiến Sam cảm giác mình trần trụi. Cậu tìm kiếm những ngọn đuốc khác, nhưng đuốc biến đâu hết rồi, tất cả đều đã biến mất. Chỉ còn duy nhất ngọn đuốc mà Grenn cầm, ngọn lửa trên đầu đuốc giống như mẩu lụa màu cam nhạt. Cậu có thể nhìn xuyên mẩu lụa ấy để thấy bóng tối phía xa. Ngọn đuốc sẽ sớm tắt, cậu thầm nghĩ, và chỉ còn chúng ta, không có đồ ăn, không có bạn bè, không có lửa.

Nhưng cậu đã nhầm. Bọn họ không chỉ có một mình.

Tuyết từ các cành thấp của một thân cây to lớn rơi xuống với một tiếng tõm nhớp nháp và nhè nhẹ. Grenn quay phắt người lại và dúi mạnh đuốc ra trước. “Ai?” Một cái đầu ngựa chui ra khỏi bóng tối. Sam thấy nhẹ lòng được một giây, cho đến khi cậu nhìn thấy con ngựa. Sương muối phủ lên mình ngựa óng ánh như mồ hôi bị đóng băng, và một bộ lòng đen kịt cứng đờ thò ra khỏi cái bụng bị rách toạc của nó. Trên lưng ngựa là một người nhợt nhạt như băng. Cổ họng Sam rít lên tiếng thút thít. Cậu sợ đến mức có thể vãi tè ra quần lần nữa, nhưng cái lạnh đang len vào trong cơ thể cậu, lạnh buốt đến mức bàng quang cứng đờ. Ngoại Nhân nhẹ nhàng trườn xuống khỏi yên ngựa và đứng thẳng trên tuyết. Nó mảnh mai như một thanh gươm, và trắng như sữa. Áo giáp của nó khẽ lay động khi nó di chuyển, và chân nó không làm vỡ lớp băng mỏng của làn tuyết vừa rơi xuống.

Paul Nhỏ rút cây rìu cán dài được buộc chéo sau lưng anh ta. “Sao mày lại làm đau con ngựa? Đó là ngựa của Mawney.”

Sam mò mẫm tìm chuôi gươm, nhưng bao gươm trống không. Cậu làm mất gươm ở Nắm Đấm rồi, cậu đã nhớ ra quá muộn rồi.

“Cút đi!” Grenn bước một bước tới, dúi đuốc trước mặt con quái thú. “Cút, nếu không mày chết!” Anh ta hẩy lửa vào mặt chúng.

Gươm của Ngoại Nhân lóe lên chùm sáng xanh nhạt. Thanh gươm hướng về phía Grenn, chém nhanh như chớp. Khi thanh gươm băng màu xanh đó chà vào lửa, một tiếng rít vút qua tai Sam sắc nhọn như mũi kim. Đầu ngọn đuốc đổ nhào xuống bên cạnh và biến mất bên dưới tuyết, lửa tắt lịm ngay lập tức. Và Grenn chỉ còn cầm một thanh củi ngắn củn. Cậu ném thanh củi vào Ngoại Nhân, và chửi thề, khi Paul Nhỏ cầm rìu lên tấn công.

Nỗi sợ hãi bao trùm lên Sam khủng khiếp hơn bao giờ hết, và Samwell Tarly đã biết hết tất cả mọi nỗi sợ hãi. “Đức Mẹ khoan dung,” cậu khóc, và trong cơn kinh hoảng, cậu quên hết cả các vị thần tổ tiên. “Đức Cha bảo vệ con, ôi…” Các ngón tay cậu lần tìm được con dao găm và nắm chặt dao trong tay.

Lũ quái thú là những con vật chậm chạp, vụng về, còn Ngoại Nhân lướt nhẹ như tuyết trong gió. Nó trườn khỏi rìu của Paul, áo giáp của nó lay động, và thanh gươm bằng pha lê của nó xoắn lại, quay tròn và nhanh chóng xuyên vào giữa các vòng tròn sắt trên áo giáp của Paul, xuyên thấu lớp áo da, len, xương và da thịt của anh ta. Thanh gươm ấy thọc mạnh ra tít sau lưng anh ta và Sam nghe thấy Paul thốt lên, “ối” khi làm rơi rìu. Bị gươm xiên qua người, máu anh ta bám quanh thanh gươm, và người đàn ông to lớn cố đưa tay ra túm lấy kẻ đã giết mình và anh ta gần như đã túm được kẻ đó trước khi ngã xuống. Sức nặng của anh ta giật mạnh thanh gươm nhờn nhợt lạ lùng khỏi tay nắm của Ngoại Nhân.

Làm ngay. Hãy nín khóc và chiến đấu, thằng béo kia. Chiến đấu đi, đồ hèn. Cậu nghe tiếng của cha, của Allister Thorne, của em trai Dickon và thằng nhỏ Rast. Hèn, hèn, hèn. Cậu khúc khích cười đầy vẻ cuồng loạn, tự hỏi liệu bọn họ có coi cậu là một con quái thú không, một con quái thú trắng ởn, béo tròn, to sụ lúc nào cũng tự ngáng vào đôi chân đã chết của mình. Sam, làm ngay. Có phải là Jon không? Jon chết rồi. Mày làm được, làm được mà, hãy làm đi. Và rồi cậu loạng quạng tiến tới, nhã ngào ra trước thay vì chạy tới, thực sự là vậy, mắt cậu nhắm tịt, hai tay cầm chặt dao và tống mạnh con dao ra trước. Cậu nghe thấy một tiếng vỡ, giống như tiếng băng vỡ, và rồi một tiếng rít chói tai, sắc nhọn đến mức cậu lảo đảo lùi lại, hai tay ôm chặt lấy đôi tai đã được chụp kín mũ, ngã ngồi phịch xuống đất.

Khi cậu mở mắt ra, áo giáp của Ngoại Nhân đang chảy ròng ròng xuống chân khi máu màu xanh nhạt kêu xì và bốc hơi quanh thanh gươm đá vỏ chai trong cổ họng nó. Hai bàn tay trắng-như-xương của nó đưa lên để rút con dao ra, nhưng khi các ngón tay chạm vào đá vỏ chai, chúng bốc khói ngay lập tức.

Sam lăn nghiêng người, mắt mở to khi Ngoại Nhân co lại thành một vũng nước nhỏ và tan ra. Trong hai mươi nhịp tim, thịt nó biến mất, bay đi theo màn sương mù trắng. Bên dưới thịt nó là xương trắng như kính mờ, nhợt nhạt và bóng, và chúng cũng tan chảy. Cuối cùng, chỉ còn lại mỗi con dao găm đá vỏ chai dính đầy hơi nước như thể con dao có sự sống và đang toát mồ hôi. Grenn cúi xuống nhặt con dao lên nhưng phải ném nó xuống ngay lập tức. “Má ơi, lạnh điếng.”

“Đá vỏ chai.” Sam chật vật đứng lên. “Gọi là đá vỏ chai. Đá vỏ chai. Đá vỏ chai.” Cậu khúc khích cười, rồi khóc, gập đôi người lại để thốt lên sự dũng cảm của cậu trong tuyết.

Grenn kéo Sam đứng lên, kiểm tra nhịp đập của Paul Nhỏ và vuốt mắt cho anh ta, sau đó hắn lại vồ lấy con dao. Lần này hắn đã có thể cầm được dao.

“Mày cầm đi,” Sam nói. “Mày không hèn như tao.”

“Hèn mà mày giết được một Ngoại Nhân.” Grenn chỉ con dao ra trước. “Nhìn kìa, giữa các thân cây ấy. Ánh sáng hồng. Sam, bình minh rồi. Bình minh. Đó hẳn là hướng đông. Nếu đi hướng đó, chúng ta có thể bắt kịp Mormont.”

“Nếu mày nói vậy.” Sam đá chân trái vào một thân cây để cho tuyết rơi xuống. Thì mày nói đúng. “Tao sẽ cố.” Mặt mũi nhăn nhó, cậu bước một bước. “Tao sẽ cố hết sức.” Và cậu bước thêm bước nữa.

 

About The Author

Ngo David

Power is Power