Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân

Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 28

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Đủ to với ngươi chưa?” những bông tuyết rơi lốm đốm trên khuôn mặt to bè của Tormund, tan trên râu tóc ông ta.

Những gã khổng lồ lắc lư trên lưng voi ma-mút khi họ cưỡi voi thành hàng hai. Ngựa của Jon né sang một bên, nó hoảng sợ trước hình ảnh lạ thường đó, nhưng khó có thể biết con ngựa sợ đàn voi ma-mút hay sợ những gã khổng lồ kia. Ngay cả Bóng Ma cũng lùi lại một bước, đứng nhe răng trong im lặng. Con sói tuyết này rất lớn, nhưng đàn voi ma-mút còn đông và to hơn nhiều.

Tay Jon cầm cương giữ con ngựa đứng yên, để cậu đếm số gã khổng lồ chui ra từ trong đám tuyết đang rơi và làn sương mù nhẹ cuộn dọc sông Milkwater. Khi đang đếm quá số năm mươi thì Tormund nói gì đó, khiến cậu quên mất số. Hẳn phải có cả trăm con. Đàn voi cứ nối đuôi nhau xuất hiện tạo thành một hàng dài vô tận,

Trong các câu chuyện Già Nan kể, người khổng lồ có kích thước to lớn hơn con người nhiều lần, họ sống trong những tòa lâu đài khổng lồ, dùng những thanh kiếm vĩ đại để chiến đấu, và ủng của họ to đến nỗi một đứa nhỏ có thể chui vào đó để trốn. Còn những gã khổng lồ này thì khác, họ trông giống gấu hơn người, và có lông y như những con voi ma-mút mà họ cưỡi. Ngồi trên lưng voi khó mà đoán được kích thước của bọn họ, có lẽ phải cao tới mười, hoặc mười hai thước, Jon thầm nghĩ. Có khi tận mười bốn thước, nhưng chỉ khoảng chừng đó thôi. Những bộ ngực nở nang chắc hẳn là của đàn ông, cánh tay họ thõng xuống rất dài. Chân họ ngắn hơn tay, nhưng rất to, và họ không hề đi giày ủng; bàn chân họ to, bẹt, rắn chắc và đen kịt. Tuy không có cổ, nhưng cái đầu to sụ của họ vươn ra khỏi thân hình giữa các xương vai, khuôn mặt bèn bẹt và cục súc. Những đôi mắt không lớn hơn các hột cườm gần như bị lọt thỏm giữa lớp thịt chai cứng, nhưng bọn họ luôn vừa hít ngửi vừa ngó nghiêng.

Bọn họ không có da, Jon nhận thấy như vậy. Mà có lông. Lớp lông xù xì che phủ toàn bộ cơ thể họ, phần lông dưới hông rất dày, còn phần trên thưa hơn. Mùi hôi bốc ra từ cơ thể họ tạo cảm giác như ngạt thở, nhưng cũng có thể đó là mùi của đàn voi ma-mút. Và Joramun thổi Tù Và Mùa Đông, đánh thức những gã khổng lồ từ mặt đất. Cậu ngó nghiêng tìm những thanh gươm dài đến ba mét, nhưng chỉ nhìn thấy gậy tày. Phần lớn gậy tày đều là cành cây to, một vài chiếc vẫn còn nguyên các cành cây. Một số cây gậy được buộc các viên đá vào một đầu để tạo thành những chiếc vồ khổng lồ. Người xưa chưa bao giờ nói liệu tiếng tù và có khiến bọn họ ngủ không.

Một gã khổng lồ nom già hơn những gã còn lại đang tiến đến. Tấm da lông của gã màu xám điểm trắng, và con voi mà gã ta cưỡi to lớn hơn tất cả những con voi còn lại, lông của nó cũng có màu xám điểm trắng. Tormund hét lên điều gì đó khi gã cưỡi voi qua, toàn những từ khó nghe mà Jon không sao hiểu nổi. Miệng gã mở rộng để lộ bộ răng vuông vức khổng lồ, và âm thanh mà gã phát ra nửa như tiếng ợ, nửa như tiếng sôi ùng ục. Sau một giây, Jon nhận thấy gã ta đang cười. Con voi quay cái đầu đồ sộ để thoáng nhìn hai người bọn họ, một chiếc ngà vĩ đại lướt ngang đầu Jon khi con quái thú nặng nề bước qua, để lại dấu chân khổng lồ trên lớp bùn mềm và tuyết mới dọc con sông. Gã khổng lồ hét lên điều gì đó giống y chang giọng nói khó hiểu mà Tormund vừa nói.

“Vua của bọn chúng sao?” Jon hỏi.

“Người khổng lồ không có vua, giống như đàn voi ma-mút, gấu tuyết và cá voi khổng lồ ở biển xám ấy. Đó là Mag Mar Tun Doh Weg. Mag Phi Thường. Nếu thích, ngươi cứ quỳ gối trước mặt gã, gã không phiền đâu. Ta biết đầu gối của ngươi sẽ ngứa lắm, vì ngươi muốn có ông vua nào đó để quỳ xuống chào mà. Nhưng, phải trông chừng không gã lại giẫm lên người ngươi đấy. Mấy gã khổng lồ mắt kém lắm, và có thể không nhìn thấy một con quạ nhỏ đen kịt tít dưới chân đâu.”

“Ông vừa nói gì với ông ta vậy? Đấy là Cổ Ngữ à?”

“Đúng. Ta hỏi gã xem cha gã đâu, trông hai cha con gã giống nhau lắm, ngoại trừ việc cha gã có mùi đỡ hôi hơn.”

“Thế gã nói gì với ông?”

Tormun Nắm Đấm Sét nở một nụ cười hở cả hàm răng thưa. “Gã hỏi ta xem có phải con gái ta với đôi má hồng hào mịn màng đang cưỡi ngựa cạnh ta không.” Lão du mục lắc cho tuyết rơi khỏi cánh tay và quay đầu ngựa. “Có lẽ từ trước tới nay gã chưa bao giờ nhìn thấy một người đàn ông không có râu. Đi nào, phải quay về thôi. Mance sẽ giận điên lên khi không thấy ta ở vị trí.”

Jon quay ngựa và chạy theo Tormund trở về, chiếc áo khoác mới của cậu được vắt trên vai. Nó được làm bằng da cừu, bên trong có cả lông cừu, đúng như đám du mục gợi ý. Chiếc áo không bám tuyết, và đêm đến, nó rất ấm, nhưng cậu vẫn giữ chiếc áo khoác đen bên dưới yên ngựa. “Có thật là ông đã từng giết được một gã khổng lồ không?” cậu hỏi Tormund khi hai người đang cưỡi ngựa. Bóng Ma vừa chạy vừa nhảy cẫng lên bên cạnh bọn họ, để lại những vết chân trên lớp tuyết mới rơi.

“Sao ngươi lại hoài nghi về một người đàn ông phi thường như ta nhỉ? Hồi đó vào mùa đông, và ta vẫn còn là một cậu bé, cũng ngu dốt y như những đứa trẻ khác. Ta đi quá xa, ngựa thì chết giữa đường, lại còn gặp bão. Một cơn bão thực thụ, không nho nhỏ bụi bụi như thế này đâu. Ha! Lúc đó ta biết mình sẽ lạnh chết cóng trước khi bão tuyết ập đến. Rồi ta tìm thấy một người khổng lồ đang ngủ, ta liền cắt và mở bụng bà ta ra, sau đó chui vào trong bụng cho ấm. Bà ấy giữ cho ta đủ ấm, nhưng mùi hôi thối thật khủng khiếp. Điều tệ hại nhất là bà ấy tỉnh giấc khi xuân đến và chăm sóc ta như con. Bà ấy cho ta bú sữa đúng ba mùa trăng, trước khi ta có thể trốn đi. Ha ha! Dù vậy, có nhiều lúc ta nhớ mùi sữa của người khổng lồ lắm.”

“Nếu bà ấy cho ông bú sữa, thì ông không nên giết bà ấy mới phải.”

“Ta đâu có giết, nhưng ngươi đừng có kể lể này nọ về chuyện đó nhé. Tormund Nỗi Đau Người Khổng Lồ hay hơn là Tormund Em Bé Khổng Lồ, và đó là sự thật.”

“Thế ông có những cái tên khác như thế nào?” Jon hỏi. “Mance gọi ông là Người Thổi Tù Và, phải không? Vua-uống-rượu-mật-của-Ruddy-Hall, Chồng-Gấu, Cha của Quỷ Dữ nữa?” Cậu rất muốn nghe chuyện về cái tên thổi tù và, nhưng cậu không dám hỏi thẳng. Và Joramun thổi Tù Và Mùa Đông để đánh thức các gã khổng lồ. Có phải đó là nơi bọn họ đến, cùng với đàn voi ma-mút kia không? Có phải Mance Rayder tìm thấy Tù Và của Joramun và đưa cho Tormund Nắm Đấm Sét thổi không?

“Có phải con quạ nào cũng tò mò vậy không?” Tormund hỏi. “Ừm, ta sẽ kể thêm cho ngươi một chuyện nữa. Đó là một mùa đông khác, lạnh hơn cả mùa đông mà ta nằm trong bụng người khổng lồ kia, tuyết rơi đêm ngày, bông tuyết to bằng đầu ngươi chứ không nhỏ thế này đâu. Tuyết rơi nhiều đến mức toàn bộ ngôi làng ngập chìm quá nửa. Lúc đó, ta ở trong Ruddy Hall, chỉ còn duy nhất một thùng rượu mật ong để bầu bạn và không biết làm gì khác ngoài việc uống rượu. Càng uống ta càng nghĩ về người phụ nữ sống gần đó, một người phụ nữ khỏe mạnh, xinh đẹp với đôi bầu ngực to hơn tất thảy những bộ ngực mà ngươi từng thấy. Cô ta dễ cáu lắm, nhưng cũng thân thiện, và trong cái giá lạnh của mùa đông, một người đàn ông rất cần sự ấm cúng.

Càng uống ta càng nghĩ về cô ta, và càng nghĩ thì chân tay ta càng cứng ngắc, cho đến khi không thể chịu đựng nổi nữa. Thật ngu ngốc, ta quấn chặt từ đầu đến chân trong da thú, và quấn thêm một mảnh len tơ quanh mặt, rồi đi tìm cô ta. Tuyết rơi nhiều đếu mức ta ngã dúi dụi một hoặc hai lần gì đó, và gió thổi lồng lộng xuyên da thấu thịt, nhức buốt đến tận xương, nhưng cuối cùng ta cũng đến được chỗ cô ta, người ngợm quấn chặt như bị bông.

Người phụ nữ ấy nóng tính lắm, và nàng ta gây hấn ngay khi ta đặt tay lên người nàng. Ta chỉ có thể làm vậy để đưa nàng về nhà, cởi bỏ mấy bộ da lông thú của nàng, nhưng khi ta làm vậy, ôi chao, nàng ấm nóng hơn cả trong trí nhớ của ta, và chúng ta đã có khoảng thời gian thực sự tuyệt vời bên nhau. Sáng hôm sau, khi ta tỉnh giấc, tuyết đã ngừng rơi và ánh nắng đã xuất hiện, nhưng ta lại ở trong tình trạng tồi tệ. Quần áo người ngợm bị xé rách tả tơi, một nửa của quý bị cắn, và nằm trên sàn với ta là bộ da lông thú của một con gấu cái. Rồi chẳng mấy chốc người ta thi nhau kể chuyện con gấu trụi lông này được nhìn thấy trong rừng, sau lưng nó là hai con gấu con cực kỳ lạ lùng. Ha ha!” Ông ta vỗ tay vào cái đùi phúng phính thịt. “Giá như ta tìm lại được cô nàng ấy. Con gấu ấy, ngủ cùng nó ấm lắm. Chưa một người phụ nữ nào lại đánh ta khủng khiếp đến vậy, và cũng chưa cô nào sinh cho ta hai đứa con trai mạnh mẽ như thế cả.”

“Ông sẽ làm gì nếu tìm thấy con gấu ấy?” Jon vừa hỏi vừa cười. “Ông nói nó cắn đứt của quý của ông mà.”

“Chỉ cắn đứt một nửa thôi. Và một nửa còn lại của ta thì dài gấp đôi của những người khác đấy.” Tormund khịt mũi. “Nào, về phần ngươi… có thật là người ta cắt của quý của ngươi đi khi họ đưa ngươi đến Tường Thành không?”

“Không,” Jon nói trong cảm giác cực kỳ xấu hổ.

“Ta nghĩ chắc hẳn phải là vậy. Nếu không thì sao ngươi lại từ chối Ygritte chứ? Theo như ta thấy, con nhỏ đâu có động chạm gì ngươi đâu. Rất dễ thấy là cô nàng muốn ngươi lắm.”

Cực kì dễ thấy là đằng khác, Jon thầm nghĩ, và dường như một nửa bộ tộc đã thấy điều đó. Cậu ngó nhìn đám tuyết rơi để Tormund không nhìn thấy khuôn mặt cậu đang ửng đỏ. Mình là người của Đội Tuần Đêm, cậu tự nhắc nhở. Vậy tại sao cậu lại có cảm giác yêu mến một cô gái chứ?

Hầu như ngày nào trôi qua Ygritte cũng đồng hành với cậu, thậm chí cả buổi tối nữa. Mance Rayder không mù quáng trước sự hồ nghi của Rattleshirt về “con-quạ-mới-đến”, vì vậy, sau khi đưa cho Jon chiếc áo khoác bằng da cừu, ông ta gợi ý rằng có lẽ anh muốn cưỡi ngựa chung với Tormund Giantsbane. Jon vui vẻ đồng ý, ngay ngày hôm sau, Ygritte và Giáo Dài Ryk rời nhóm của Rattleshirt để đi theo nhóm của Tormund. “Người tự do cưỡi ngựa với những ai mà họ muốn,” cô gái đó nói với cậu, “và chúng tôi cũng chán ngấy Túi Xương rồi.”

Mỗi tối, khi họ dựng trại, Ygritte đặt ngay túi da ngủ bên cạnh túi ngủ của cậu, dù cậu nằm cạnh hay cách xa bếp lửa. Có lần, khi tỉnh giấc, cậu thấy cô rúc vào người mình, cánh tay cô đặt ngang ngực cậu. Cậu nằm đó, lắng nghe tiếng thở của cô hồi lâu, cố gắng tảng lờ sự căng phồng lên ở ngay giữa háng. Người đi rừng thường đắp chung các tấm da để tránh cái lạnh giá, nhưng sự ấm áp không phải tất cả điều Ygritte muốn, cậu ngờ là vậy. Sau hôm đó, cậu thường lấy Bóng Ma làm tấm chắn để giữ khoảng cách với cô. Già Nan thường kể chuyện về các hiệp sĩ và các phu nhân ngủ chung giường với nhau, và vì danh dự, một thanh gươm luôn được đặt giữa hai người, nhưng cậu nghĩ, có lẽ, đây là lần đầu tiên một con sói tuyết đảm nhận vị trí của thanh gươm kia.

Ngay cả như vậy, Ygritte vẫn rất kiên trì. Mới ngày hôm kia, Jon mắc sai lầm khi ước giá như cậu có nước nóng để tắm.

“Nước lạnh tốt hơn,” cô nói ngay lập tức, “nếu như có người làm anh ấm lên. Đi thôi, vẫn còn đoạn sông chưa đóng băng đâu.”

Jon phá lên cười. “Cô sẽ làm tôi chết cóng mất.”

“Có phải con quạ nào cũng sợ lông ngỗng không vậy? Một chút băng không giết được anh đâu. Tôi sẽ nhảy xuống cùng anh để chứng minh cho anh thấy.”

“Và sau đó phải cưỡi ngựa khi quần áo ướt sũng sao?” cậu phản đối.

“Jon Snow, anh chẳng biết gì hết. Anh đâu có nhảy xuống sông khi vẫn mặc áo quần.”

“Thế thì tôi không nhảy xuống nữa,” cậu quả quyết nói, ngay trước khi nghe thấy Tormund Nắm Đấm Sét gọi cậu (thật ra ông ta đâu có gọi, nhưng cũng chẳng sao.)

Đám du mục dường như nghĩ Ygritte là một cô gái vô cùng xinh đẹp, nhờ mái tóc của cô; màu tóc đỏ rất hiếm gặp trong số bọn họ, và những ai có tóc đỏ đều được cho là đã được lửa hôn, và rất may mắn. Có thể đúng như vậy, nhưng tóc của Ygritte đúng là một mớ tóc rối xù đến mức Jon có lần đã hỏi liệu có phải cô chỉ chải đầu vào lúc sang mùa hay không.

Trong cung điện, cậu biết cô sẽ chỉ được coi như một người cực kỳ bình thường. Cô có khuôn mặt tròn đầy vẻ quê mùa, mũi tẹt và hếch, răng hơi cong, và hai mắt cách nhau quá xa. Jon nhận thấy những điểm đó ngay trong lần đầu tiên cậu gặp cô, khi con dao găm của cậu đang gí vào họng cô. Dù vậy, sau này, cậu còn nhận ra nhiều điểm khác nữa. Khi cô cười, hàm răng cong kia dường như không còn xấu xí như thường lệ nữa. Và có thể khoảng cách giữa hai mắt cô quá xa, nhưng đôi mắt ấy có màu xanh xám rất đẹp, và sắc sảo như mọi đôi mắt mà cậu biết. Giọng hát trầm, khàn khàn của cô làm lòng cậu xao động. Đôi lúc bên bếp lửa, khi cô ngồi bó gối và nhìn cậu mỉm cười, những ngọn lửa lấp lánh trên mái tóc đỏ của cô… chà, lúc ấy, cô còn lay động ít nhiều thứ khác nữa.

Nhưng cậu là người của Đội Tuần Đêm, cậu đã tuyên thệ sẽ không lấy vợ, không nắm giữ đất đai, và không sinh con đẻ cái. Cậu đã thề trước cây đước, trước các vị thần của cha cậu. Cậu không thể nào rút lại lời đã nói… không hơn gì việc cậu có thể thú nhận nguyên căn cho sự miễn cưỡng của mình với Tormund Nắm Đấm Sét.

“Ngươi không thích con bé ấy à?” Tormund hỏi cậu khi bọn họ đi qua hai mươi con voi ma-mút khác, những con voi này chở đám du mục thay vì chở người khổng lồ.

“Không phải, nhưng tôi…” Mình phải nói sao để ông ta tin đây? “Tôi vẫn còn quá trẻ để kết hôn.”

“Kết hôn?” Tormund cười lớn. “Ai nói đến việc kết hôn nào? Ở phương nam, đàn ông phải lấy hết những đàn bà ngủ cùng họ à?”

Jon thấy mặt mình đỏ lựng lên lần nữa. “Cô ấy đã lên tiếng bênh vực tôi khi mà lẽ ra Rattleshirt có thể đã giết tôi. Tôi sẽ không làm mất danh dự của cô ấy.”

“Giờ ngươi là người đàn ông tự do, và Ygritte là người đàn bà tự do. Có gì là mất danh dự khi hai ngươi nằm với nhau?”

“Biết đâu tôi lại khiến cô ấy có con.”

“À, ta mong vậy đấy. Một đứa con trai mạnh mẽ hoặc một đứa con gái đáng yêu có mái tóc lửa, thế thì có hại gì nào?”

Cậu bối rối trong giây lát. “Đứa trẻ… đứa trẻ có thể là một đứa con hoang.”

“Những đứa con hoang thì yếu đuối hơn những đứa trẻ khác sao? Hay ốm yếu hơn, và dễ thất bại hơn?”

“Không, nhưng…”

“Bản thân ngươi cũng là một đứa con hoang. Và nếu Ygritte không muốn có con, cô ta sẽ đi tìm mụ phù thủy rừng xanh nào đó và uống một cốc trà trăng.”

“Tôi sẽ không sinh một đứa con hoang đâu.”

Tormund lắc lắc cái đầu tóc tai xù xì của mình. “Ngươi thật quá ngu si. Nếu ngươi không muốn con bé thì cướp nó làm gì?”

“Cướp ư? Tôi chưa bao giờ…”

“Ngươi đã cướp nó,” Tormund nói. “Ngươi giết chết hai gã đi cùng con bé và đưa con bé đi, vậy ngươi gọi hành động đó là gì?”

“Tôi bắt cô ấy làm tù nhân.”

“Ngươi bắt con bé đầu hàng.”

“Đúng thế, nhưng… Tormund, tôi thề, tôi chưa từng đụng vào người cô ấy.”

“Ngươi có chắc là của quý của ngươi vẫn còn không đấy?” Tormund nhún vai, như thể ông ta không sao hiểu nổi sự điên rồ đó. “Ừm, giờ ngươi là người tự do, nhưng nếu ngươi không tấn công cô ta, thì tốt nhất nên tìm cho mình một con gấu cái đi. Nếu đàn ông không sử dụng của quý, nó sẽ tự teo nhỏ, cho đến khi có muốn tè cũng không tìm thấy nó đâu.”

Jon im lặng. Không có gì lạ khi Bảy Phụ Quốc cho rằng dân tự do không phải là con người. Họ không có luật lệ, không có danh dự, thậm chí không cả sự đứng đắn giản đơn nhất. Họ không ngừng ăn cắp của người khác, đẻ như gà, thích cưỡng đoạt hơn cưới hỏi, và khiến thế giới tràn lan những đứa con hoang. Vậy mà càng ngày cậu càng ưa Tormund Giantsbane hơn, mặc dù ông ta toàn nói khoác. Cậu cũng ưa Giáo Dài nữa. Và cả Ygritte nữa… không, mình sẽ không nghĩ gì về Ygritte.

Dù vậy, cùng với Tormund và Giáo Dài còn có rất nhiều gã du mục khác; những kẻ như Rattleshirt và gã Mít Ướt sẵn lòng rạch bụng xiên chả người ta ngay. Thêm cả Harma Đầu Chó, một người phụ nữ béo lùn, hai má giống như hai cục thịt trắng hếu, bà ta rất ghét chó và cứ đôi tuần lại giết một con để lấy đầu làm cờ hiệu mới; Styr Cụt Tai, Mangar của Therm và người của ông ta coi ông ta thánh thần hơn là một lãnh chúa; Varamyr Sixskins, một người đàn ông có đôi mắt ti hí như mắt chuột cưỡi con chiến mã là một con gấu tuyết trắng hoang dã cao tới bốn mét khi nó đứng. Bất cứ nơi đâu mà con gấu và Varamyr đi đến, luôn có ba con sói và một con mèo đi theo. Jon mới chỉ thấy cảnh đó một lần, và một lần là quá đủ; chỉ nhìn thấy ông ta thôi tóc cậu cũng đã dựng đứng lên, ngay cả lông gáy của Bóng Ma cũng vậy khi nhìn thấy con gấu và con mèo đốm trắng đen dài lêu nghêu ấy.

Và còn những người hung tợn hơn cả Varamyr, đến từ những khu rừng ma, những thung lũng bị che khuất của Frostfangs, thậm chí cả những nơi lạ lùng hơn: những người ở Frozen Shore đi xe ngựa được làm bằng xương hải mã do chó hoang kéo, những thị tộc ăn thịt người sống ở sông-băng, những kẻ trú ngụ trong hang với khuôn mặt nhuộm xanh lơ, tím và xanh lá. Jon tận mắt chứng kiến người Hornfoot chạy theo hàng bằng bàn chân trần cứng như da luộc. Cậu không nhìn thấy quái vật hay con nhện băng khổng lồ nào, nhưng theo như cậu biết, Tormund chắc hẳn phải có vài con để ăn tối.

Một nửa đám đông dân du mục đã sống cuộc đời thiếu thốn rất nhiều thứ, ví như khái niệm lờ mờ về Tường Thành, Jon cho rằng như vậy, và hầu hết bọn họ đều không nói Cổ Ngữ. Điều đó không quan trọng. Mance Rayder nói Cổ Ngữ, thậm chí hát bằng Cổ Ngữ, thổi đàn luýt khiến màn đêm ngập tràn trong thứ âm nhạc hoang dã.

Mance đã mất nhiều năm tập hợp đám đông khổng lồ này, trò chuyện với thị tộc và Magnar, giành được ngôi làng này bằng những lời đường mật, và chiếm được sự tin tưởng của ngôi làng kia bằng một bài hát, và giành được một ngôi làng khác bằng lưỡi gươm của mình, thiết lập hòa bình giữa Harma Đầu Chó và Lãnh chúa Xương, giữa những người Hornfoot và Nightrunners, giữa những người cưỡi hải mã ở Frozen Shore va thị tộc ăn thịt người ở những dòng sông băng giá, nhét cả trăm con dao găm khác nhau vào một cây giáo lớn, hướng tới trung tâm của Bảy Phụ Quốc. Ông ta không có mũ miện hay vương trượng, hay những chiếc áo khoác bằng lụa là và nhung gấm, nhưng Jon thấy rõ Mance Rayder là một vị vua đích thực.

Jon gia nhập đám man di theo lệnh của Qhorin Cụt Tay. “Cưỡi ngựa với họ, ăn với họ, chiến đấu với họ,” người đi rừng nói với cậu vào đêm trước khi ông ta chết. “Và theo dõi.” Nhưng những gì cậu theo dõi thấy cho cậu biết rất ít. Cụt Tay nghi ngờ đám du mục đã đi lên tận vùng Frostfangs hoang vu cằn cỗi để tìm vũ khí, quyền lực, hay phép thuật nào đó hòng quật đổ Tường Thành… nhưng nếu bọn họ tìm được thứ gì trong số đó, chắc chắn không ai kể lể hay chỉ cho Jon. Và Mance Rayder cũng không tin tưởng kể cho cậu nghe bất cứ kế hoạch hay chiến lược nào của ông ta. Kể từ buổi tối đầu tiên ấy, cậu hầu như không nhìn thấy ông ta, dù là nhìn thấy từ xa.

Nếu cần, mình sẽ giết ông ta. Viễn cảnh ấy không làm Jon vui vẻ; việc đó cũng không mang lại danh dự, mà còn đồng nghĩa với cái chết của cậu nữa. Nhưng cậu không thể để đám man di quật đổ Tường Thành, đe dọa Winterfell và Phương Bắc, Rills, Cảng White và Stoney Shore, thậm chí cả Neck nữa. Tám ngàn năm nay, người của gia tộc Stark đã sống chết để bảo vệ người dân của mình trước những kẻ tàn phá; và quân cướp bóc… vì vậy, dù là con hoang hay không, thì dòng máu ấy vẫn chảy trong huyết quản của cậu. Hơn nữa, Bran và Rickon vẫn còn ở Winterfell. Maester Luwin, Ser Rodrik, Già Nan, người canh chuồng chó Farlen, Mikken ở lò rèn và Gage đứng bên bếp lò… tất cả những người mà mình biết rõ và yêu thương. Nếu Jon phải giết một người đàn ông mà cậu ngưỡng mộ và có thể cứu người dân khỏi gươm đao của Rattleshirt, Harma Đầu Chó và Magnar không tai vùng Thenn, thì đó chính là việc cậu định làm.

Nhưng, cậu vẫn cầu xin các vị thần của cha đừng để cậu phải lãnh nhiệm vụ không chút hy vọng nào ấy. Đám đông di chuyển, nhưng chậm chạp bởi phải mang vác đống gia súc, con cái và những tài sản nhỏ, hơn nữa những trận tuyết rơi khiến tiến độ di chuyển của họ chậm hơn nữa. Hiện giờ hầu hết các nhóm đều đã ra khỏi chân núi, tản ra dọc bờ tây của sông Milkwater như mật ong tuôn chảy trong sớm đông lạnh giá, đi theo dòng chảy của con sông vào trung tâm của khu rừng ma.

Và đâu đó rất gần phía trước, Jon biết Nắm Đấm của Tiền Nhân hiện ra phía trên các thân cây, là nơi trú ngụ của ba trăm anh em áo đen của Đội Tuần Đêm, họ được trang bị vũ khí, ngựa và chờ đợi. Ngoài Cụt Tay, Gấu Già đã cử các biệt kích khác, và chắc chắn giờ này Jarman Buckwell hoặc Thoren Smallwood đã trở về với tin báo về cái đang tràn xuống các ngọn núi.

Mormont sẽ không chạy, Jon thầm nghĩ. Ông ấy quá già và đã đi quá xa. Ông ấy sẽ đánh, bất kể số lượng nào. Sẽ sớm đến một ngày cậu nghe thấy tiếng tù và chiến, và nhìn một đoàn người cưỡi ngựa rầm rập lao về phía họ, áo khoác đen bay phần phật và tay lăm lăm gươm đao. Ba trăm người khó lòng mong giết hết số người nhiều hơn gấp cả trăm lần, nhưng Jon nghĩ họ không cần phải làm vậy. Ông ấy không cần phải giết chết cả ngàn người, chỉ cần một người là đủ. Mance là sợi dây duy nhất kết nối họ lại.

Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành đã gắng hết sức, nhưng đám du mục vẫn vô tổ chức một cách tuyệt vọng, và đó là điểm yếu của bọn họ. Đâu đó bên trong đoàn quân giống như con rắn dài cả mấy chục dặm là các chiến binh giỏi như các anh em trong Đội Tuần Đêm, nhưng một phần ba trong số họ tụ tập ở cuối đội, trong đội quân tiên phong của Harma Đầu Chó và đội quân tập hậu với những gã khổng lồ, bò rừng và quân hỏa tiễn. Một phần ba số khác cưỡi ngựa với Mance gần khu trung tâm, xe trượt tuyết và xe chó kéo chứa vô khối thức ăn dự phòng của cả đoàn, đó là số thức ăn còn lại từ vụ thu hoạch hè gần nhất. Số còn lại chia thành các nhóm nhỏ theo Rattleshirt, Jarl, Tormund Giantsbane và gã Mít Ướt, với nhiệm vụ cưỡi ngựa mở đường, cướp bóc, đánh chém, không ngừng phi ngựa nước kiệu quanh đoàn để giữ đoàn di chuyển theo trật tự.

Đáng nói hơn là chỉ có một trong số một trăm tên man di cưỡi ngựa. Gấu Già sẽ xuyên thủng đám người này như một cây rìu chém ngọt vào bát cháo yến mạch. Và khi xảy ra chuyện, Mance phải phi ngựa cùng với đạo quân trung tâm để thu hút mối đe dọa. Nếu ông ta thất thủ trong trận chiến không thể tránh khỏi sau đó, Jon nghĩ Tường Thành sẽ an toàn thêm một trăm năm nữa. Nhưng nếu ông ta không thất thủ…

Cậu nắm chặt bàn tay thuận cầm gươm. Thanh Móng Dài được treo vào yên ngựa của cậu, chuôi gươm được chạm khắc hình đầu sói và chuôi da mềm của thanh gươm lớn ở ngay trong tầm với của cậu.

Tuyết rơi dày đặc đúng lúc bọn họ bắt kịp đội của Tormund, chỉ vài giờ sau đó. Bóng Ma chạy theo họ và chui vào rừng khi đánh hơi thấy con mồi. Con sói tuyết sẽ trở về khi bọn họ dựng trại nghỉ đêm, muộn nhất là tới bình minh. Dù đi săn mồi xa tận đâu, Bóng Ma luôn trở về… và dường như Ygritte cũng vậy.

“Vậy là,” cô gái nói khi nhìn thấy cậu, “Jon Snow, giờ thì anh đã tin chúng tôi chưa? Anh có nhìn thấy người khổng lồ cưỡi voi ma-mút không?”

“Ha!” Tormund hét lên, trước khi Jon kịp trả lời. “Con quạ đang yêu đấy! Hắn định cưới một con đấy!”

“Một cô nàng khổng lồ à?” Giáo Dài cười phá lên.

“Không, một con voi ma-mút ấy!” Tormund rống lên. “Ha ha!”

Ygritte cưỡi ngựa bên cạnh Jon khi cậu kìm cương ngựa để đi thong dong. Cô nói cô hơn cậu ba tuổi, mặc dù thấp hơn vài phân; và bất kể bao nhiêu tuổi, thì cô cũng là cô gái bé nhỏ cứng rắn. Rắn Đá gọi cô là “nữ hiệp” khi bọn họ bắt cô trong Đèo Skirling. Cô chưa lấy chồng và vũ khí ưa thích của cô là một cây cung ngắn làm bằng sừng và gỗ, nhưng “nữ hiệp” là danh hiệu rất phù hợp với cô. Cô khiến cậu nhớ đến em gái Arya, mặc dù Arya ít tuổi hơn và có lẽ mảnh khảnh hơn. Khó có thể biết Ygritte đầy đặn hay gầy guộc, vì cô mặc rất nhiều lớp da và lông thú.

“Mọi người có biết bài hát ‘Người khổng lồ cuối cùng’ không?” Không đợi câu trả lời, Ygritte nói, “Cần phải có giọng trầm hơn mới hát đúng nhạc được.” Sau đó cô hát, “Tôi là người khổng lồ cuối cùng, người của tôi đã biến mất khỏi trái đất.”

Tormund Giantsbane nghe thấy và cười. “Những người khổng lồ vĩ đại cuối cùng thống trị toàn thế giới ngày tôi sinh ra.” ông ta rống lên.

Ryk Giáo Dài cũng hát theo, “Những chú ếch con đánh cắp khu rừng của tôi, dòng sông của tôi, ngọn đồi của tôi.”

“Và chúng xây tường thành to lớn qua thung lũng của tôi, đánh sạch cá từ dòng suối.” Ygritte và Tormund hát đáp lại bằng giọng cực to.

Các con trai Toregg và Dormund của Tormund cũng tham gia vào bài hát bằng giọng trầm, sau đó, cô con gái Munda và những người còn lại cũng hòa theo. Những người khác thì đập giáo vào những tấm khiên bằng da cho đến khi cả đoàn cùng vừa cưỡi ngựa vừa hát.

“Trong đại sảnh đá,

chúng nhóm những ngọn lửa lớn lên,

trong đại sảnh đá,

chúng rèn những ngọn giáo sắc bén.

Trong khi tôi độc bước qua những ngọn núi,

không có người bạn đồng hành nào ngoài nước mắt.

Chúng đem chó săn đuổi tôi ban ngày,

Chúng đem đuốc tìm kiếm tôi ban đêm.

Những người đàn ông nhỏ bé

không bao giờ có thể cao lớn thêm,

Khi người khổng lồ vẫn bước đi trong ánh sáng.

Oooooh, tôi là người khổng lồ CUỐI CÙNG,

Thuộc lòng những lời bài hát.

Khi tôi từ trần, lời ca cũng sẽ mờ dần,

Và sự im lặng kéo dài mãi mãi.”

Khi bài hát kết thúc, nước mắt lăn dài trên má Ygritte.

“Sao cô lại khóc?” Jon hỏi. “Chỉ là một bài hát thôi mà. Và tôi vừa mới nhìn thấy có hàng trăm người khổng lồ.”

“Ôi, hàng trăm,” cô tức giận nói. “Jon Snow, anh chẳng biết gì hết. Kìa – JON!”

Jon quay lưng khi nghe tiếng vỗ cánh bất ngờ. Những chiếc lông màu xám-xanh che kín mắt cậu, khi những móng vuốt sắc nhọn quào cấu vào mặt cậu. Cơn đau buốt đột nhiên xuyên thấu khi hai cánh của con chim đập liên hồi vào đầu cậu. Cậu nhìn thấy cái mỏ, nhưng không đủ thời gian để đưa tay lên gạt ra hoặc với lấy vũ khí. Jon lảo đảo ngửa ra sau, chân tuột khỏi bàn đạp ngựa, còn con ngựa của cậu trở nên hoảng loạn, và rồi cậu ngã nhào xuống. Nhưng con đại bàng vẫn bấu chặt, móng vuốt cào xé mặt cậu trong khi nó vỗ cánh, kêu và mổ liên hồi. Thế giới quanh cậu bỗng biến thành một mớ hỗn độn của lông chim, ngựa, máu, và mặt đất như đâm nhào vào cậu.

Sau đó cậu chỉ biết mình nếm được vị bùn đất và máu trong miệng, Ygritte quỳ xuống che cho cậu, tay lăm lăm con dao găm bằng xương. Cậu vẫn nghe thấy tiếng vỗ cánh, mặc dù không nhìn thấy con đại bàng nữa. Một nửa mắt cậu chỉ thấy một màu đen kịt. “Ôi! Mắt của tôi,” cậu nói trong cơn hoảng loạn và đưa một tay lên mặt.

“Jon Snow, chỉ là máu thôi. Nó chỉ cào được một mắt, và xé một ít da của anh lên thôi.”

Mặt cậu run lên. Tormund đứng gào thét bên trên họ, cậu nhìn bằng mắt phải trong khi chùi máu ở mắt trái. Sau đó là tiếng vó ngựa, tiếng la hét, và tiếng xương khô đập vào nhau kêu lách cách.

“Túi Xương,” Tormund rống lên, “đuổi con quạ khốn kiếp của ông đi!”

“Đó là con quạ khốn kiếp của ông!” Rattleshirt chỉ vào Jon. “Chảy máu trong bùn lầy không khác gì một con chó xảo trá!” Con đại bàng bay đến vỗ cánh phần phật, đậu trên chiếc đầu lâu của gã khổng lồ vốn là mũ đội của ông ta. “Ta đến đây vì hắn.”

“Thế thì đến mà đưa hắn đi,” Tormund nói, “nhưng tốt nhất là nên cầm sẵn gươm trong tay, vì đến đây ông sẽ phải chạm trán với ta. Rồi ta sẽ luộc xương của ông lên, và lấy đầu lâu của ông làm bô để tè. Ha ha!”

“Ta mà đâm và hất tung ông lên không trung, ông sẽ co rúm lại như con mèo con thôi. Đứng sang một bên đi, nếu không Mance sẽ nghe được chuyện này đấy.”

Ygritte đứng lên. “Sao cơ, có phải Mance muốn anh ấy không?”

“Ta đã nói rồi, phải không? Kéo nó đứng dậy trên hai chân đen kịt của nó.”

Tormund cau mày ngó xuống nhìn Jon. “Tốt nhất là nên đi ngay, nếu Mance đang muốn gặp ngươi.”

Ygritte đỡ cậu dậy. “Anh ấy chảy máu đầm đìa y như lợn bị chọc tiết ấy. Hãy nhìn xem Orell đã làm gì với khuôn mặt điển trai của anh ấy này.”

Một con chim có biết hận thù không? Jon đã giết gã man di Orell, nhưng phần nào đó của gã vẫn vảng vất bên trong con đại bàng. Đôi mắt vàng của nó nhìn cậu bằng sự ác tâm lạnh lùng.

“Tôi sẽ đi,” cậu nói. Máu vẫn chảy ròng ròng xuống mắt phải, và má cậu đau đến tột cùng. Khi đưa tay lên sờ má, đôi găng tay đen của cậu đỏ au. “Giúp tôi bắt con ngựa.” Cậu không cần con ngựa nhiều như cần Bóng Ma lúc này, nhưng cậu không nhìn thấy con sói đâu. Giờ này chắc nó đang ở cách xa hàng trăm dặm và giật họng của một con nai sừng tấm nào đó.

Con ngựa né khi cậu đến gần, rõ ràng nó đang hoảng sợ trước khuôn mặt đầy máu của cậu, nhưng Jon nói vài từ khiến nó bình tĩnh lại và cuối cùng, cậu đến đủ gần để cầm dây cương. Khi nhảy lên yên ngựa, đầu cậu quay mòng mòng. Mình cần phải chăm sóc vết thương, cậu thầm nghĩ, nhưng không phải lúc này. Cứ để Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành nhìn xem con chim đại bàng của ông ta đã làm gì với mình. Bàn tay phải của cậu mở ra rồi nắm lại, cậu với tay tìm Móng Dài và đeo qua vai trước khi thúc ngựa quay lại nơi Lãnh chúa Xương và đội của ông ta đang đứng đợi. Ygritte cũng đang đợi, cô ngồi sẵn trên lưng ngựa, vẻ mặt cực kỳ khó chịu. “Tôi cũng đi cùng.”

“Không.” Các mảnh xương trên áo giáp che ngực của Rattleshir va vào nhau kêu lóc cóc. “Ta được cử đi gọi con-quạ-mới-đến, không thêm ai khác hết.”

“Một người phụ nữ tự do đi đến bất cứ đâu cô ấy muốn,” Ygritte nói.

Gió thổi làm tuyết bay vào mắt Jon. Cậu cảm thấy máu đang đóng băng trên mặt. “Chúng ta có đi không, hay đứng tán chuyện?”

“Đi,” Lãnh chúa Xương nói.

Chuyến đi thật kinh khủng. Họ cưỡi ngựa hai dặm xuôi theo đám đông trong tuyết xoáy, sau đó đi xuyên rừng và phi ngựa dọc sông Milkwater từ đó, họ đi theo đường vòng về phía đông. Vó ngựa làm vỡ vụn lớp băng mỏng che phủ các khúc sông cạn, cho đến khi họ phi tới mực nước sâu hơn. Dường như tuyết rơi nhanh hơn ở bờ sông phía đông, và dòng chảy cũng sâu hơn. Gió cũng buốt hơn. Và đêm đang xuống.

Nhưng trong màn tuyết đang rơi, hình dáng của ngọn núi trắng vĩ đại bên trên các thân cây hiện ra rõ mồn một. Nắm Đấm Tiền Nhân. Jon nghe tiếng kêu rít của con đại bàng trên trời. Một con quạ đậu trên cây thông ngó xuống và kêu lên khi cậu phi ngựa ngang qua. Liệu Gấu Già đã tấn công chưa? Thay vì tiếng gươm đao đập vào nhau và tiếng búng tên trong trận chiến, Jon chỉ nghe thấy tiếng răng rắc nho nhỏ của những lớp băng mỏng bên dưới vó ngựa của mình.

Họ lặng lẽ phi ngựa quanh sườn núi phía nam, đây là hướng tiếp cận dễ nhất. Ở chân núi, chính là nơi Jon nhìn thấy một con ngựa đã chết, nằm sõng soài, một nửa thân nó bị chôn trong tuyết. Ruột của nó bung ra khỏi bụng giống như những con rắn băng, và một chân của nó đã biến mất. Là do những con sói, đó là ý nghĩ đầu tiên vụt lên trong đầu Jon, nhưng cậu đã nhầm. Sói luôn luôn ăn hết thịt con mồi.

Thêm nhiều con ngựa nữa nằm rải rác trên dốc núi, chân bị xoắn một cách kỳ cục, những đôi mắt đui mù nhìn đăm đăm vào cái chết. Đám man di bâu vào chúng như những con ruồi, thi nhau giật lấy yên ngựa, dây cương, và lấy rìu đá cắt nhỏ thịt ngựa.

“Lên đi,” Rattleshirt nói với Jon. “Mance ở trên đỉnh núi.”

Bên ngoài tường bao, họ xuống ngựa và lách qua con đèo khúc khuỷu giữa các tảng đá. Xác một con ngựa nâu có bộ lông bờm xờm ngã nhào trên các cây cọc nhọn mà Gấu Già cho cắm bên trong mọi lối vào. Con ngựa đang cố chui ra, thay vì chui vào. Không có dấu hiệu của người cưỡi ngựa.

Bên trong còn nhiều xác ngựa hơn, và khủng khiếp hơn. Jon chưa bao giờ nhìn thấy tuyết màu hồng. Gió giật từng cơn quanh cậu, kéo giật chiếc áo khoác nặng bằng da cừu cậu đang mặc. Đàn quạ bay từ con ngựa chết này sang con ngựa chết khác. Đó là quạ hoang, hay quạ của quân ta? Jon không thể biết được. Cậu tự hỏi giờ này Sam tội nghiệp đang ở đâu. Và cậu ấy đã ra sao.

Một lớp máu đóng băng lạo xạo bên dưới gót giày của cậu. Đám man di đang lột tất cả những mẩu sắt, mẩu da trên mình ngựa, thậm chí bọn họ còn cạy cả móng ngựa. Một vài người đang kiểm tra số tài sản vừa được lấy để tìm vũ khí và thức ăn. Jon đi ngang qua một trong số những con chó của Chet, hay đúng hơn chỉ là một chút gì còn lại của con chó ấy, nó đang nằm trong vũng máu đông được một nửa.

Một vài túp lều vẫn được giữ nguyên ở tít phía xa của doanh trại, và đó chính là nơi họ tìm thấy Mance Rayder. Bên dưới chiếc áo khoác bằng len đen bị rách lỗ chỗ và chiếc áo lụa đỏ, ông ta mặc áo giáp đen và quần bằng da bờm xờm, đầu đội một chiếc mũ làm bằng đồng-và-sắt có thêm hình cánh quạ. Jarl đang đứng cùng ông ta, và cả Harma Đầu chó; Styr và Varamyr Sixskins cùng với mấy con sói và con mèo của ông ta nữa.

Cái nhìn của Mance cho Jon đầy sát khí và cực kì lạnh nhạt. “Mặt ngươi sao vậy?”

Ygritte nói, “Orell định móc mắt anh ấy.”

“Ta hỏi hắn. Hắn đứt lưỡi rồi sao? Có lẽ nên vậy, để hắn không thể tiếp tục nói dối chúng ta nữa.”

Styr the Magnar rút một con dao dài ra. “Thằng nhóc sẽ nhìn rõ hơn với một mắt đấy.”

“Jon, ngươi có muốn giữ con mắt của ngươi không?” Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành hỏi. “Nếu có, hãy nói cho ta biết bọn chúng có bao nhiêu ngươi. Và lần này, hãy nói thật, thằng con hoang của Winterfell kia.”

Cổ họng Jon khô rát. “Thưa lãnh chúa… sao…”

“Ta không phải lãnh chúa của ngươi,” Mance nói. “Và sự thắc mắc của ngươi đã rất rõ ràng. Anh em của ngươi đã thiệt mạng. Câu hỏi là bọn chúng có bao nhiêu người?”

Mặt Jon run bần bật, tuyết vẫn cứ rơi, và suy nghĩ quả là khó. Ngươi không được chùn bước, dù bị tra hỏi ra sao, Qhorin đã nói vậy với cậu. Ngôn từ ứ nghẹn trong cổ họng, nhưng cậu buộc mình phải nói, “Chúng tôi có ba trăm người.”

“Chúng tôi?” Mance gay gắt hỏi.

“Họ. Họ có ba trăm người.” Dù bị tra hỏi ra sao, Cụt Tay đã nói vậy. Vậy thì tại sao mình lại cảm thấy mình hèn nhát đến vậy? “Hai trăm người từ Hắc Thành, và một trăm người từ Tháp Đêm.”

“Nhưng có một con số khác thật hơn con số mà ngươi vừa nói.” Mance nhìn Harma Đầu Chó. “Chúng ta tìm thấy bao nhiêu ngựa?”

“Hơn một trăm,” người phụ nữ béo mập nói, “ít hơn hai trăm. Phía đông có nhiều ngựa chết hơn, khó mà biết được có bao nhiêu vì còn rất nhiều con đã bị vùi trong tuyết.” Phía sau bà ta là người mang cờ hiệu, gã cầm một cây sào với cái đầu chó mới bị giết trên đỉnh sào, máu vẫn còn nhỏ giọt.

“Jon Snow, ngươi đừng bao giờ lừa dối ta,” Mance nói.

“Tôi… tôi biết điều đó.” Mình còn có thể nói gì khác hơn?

Ông vua của đám du mục quan sát nét mặt cậu. “Ở đây ai có quyền ra lệnh? Và hãy nói thật với ta. Có phải là Rykker không? Hay Smallwood? Không thể là Wythers, gã ta quá yếu đuối. Lều này là của ai?”

Mình đã nói quá nhiều. “Ngài không tìm thấy thi thể ông ấy sao?”

Harma khịt mũi, thái độ khinh bỉ của bà ta thể hiện rất rõ. “Những con quạ đen này ngu dốt quá.”

“Lần sau nếu ngươi còn trả lời câu hỏi của ta bằng một câu hỏi, ta sẽ cho Lãnh chúa Xương xử ngươi ngay lập tức,” Mance Rayder nói với Jon. Ông ta bước đến gần hơn. “Ai là ngườicầm đầu?”

Một bước nữa đi, Jon nghĩ bụng. Một bước chân nữa. Cậu đưa tay gần đến chuôi gươm Móng Dài. Nếu mình giữ mồm giữ miệng…

“Cứ cầm lấy thanh gươm khốn kiếp ấy đi và ta sẽ chặt phăng cái đầu khốn kiếp của ngươi trước khi ngươi rút được gươm ra khỏi bao,” Mance nói. “Con quạ kia, ta đang mất hết kiên nhẫn với ngươi rồi đấy.”

“Nói đi,” Ygritte hối thúc. “Dù là ai thì ông ta cũng chết rồi.”

Cậu cau mày làm máu đông trên má nứt ra. Thật khó khăn, Jon tuyệt vọng. Làm sao có thể đóng vai gián điệp nếu mình không biến thành người của bọn họ? Qhorin đã không chỉ cho cậu biết điều đó. Nhưng bước đi thứ hai luôn luôn dễ hơn bước đi đầu tiên. “Gấu Già.”

“Gã già ấy sao?” Giọng của Harma cho thấy bà ta không tin. “Ông ta tự đến sao? Thế thì ai chỉ huy Hắc Thành?”

“Bowen Marsh.” Lần này Jon đáp lại ngay tức khắc. Ngươi không được chùn bước, bất kể bị tra hỏi thế nào.

Mance cười lớn. “Nếu như vậy thì chúng ta thắng chắc rồi. Bowen chỉ biết đếm gươm thôi, hắn không biết dùng gươm đâu.”

“Gấu Già ra lệnh như vậy,” Jon nói. “Nơi này cao và kiên cố, và ông ấy khiến nó kiên cố hơn. Ông ấy đào hố, cắm cọc nhọn, tích trữ đồ ăn và nước. Ông ấy chuẩn bị sẵn sàng cho…”

“… cho ta sao?” Mance Rayder nói nốt câu. “Phải, đúng vậy. Nếu ta ngu ngốc đến mức tấn công ngọn núi này, chắc hẳn ta sẽ mất năm người cho mỗi con quạ đen ta giết mà vẫn thấy mình may mắn.” Miệng ông ta trở nên cứng ngắc. “Nhưng khi tử thần đến, thì tường bao, cọc chông và gươm đao cũng chẳng có ý nghĩa gì. Jon Snow, ngươi không thể chiến đấu với tử thần. Không một ai hiểu rõ điều đó bằng ta.” Ông ta ngẩng mặt lên nhìn bầu trời đang tối dần và nói, “Đám quạ đó có lẽ đã giúp ta nhiều hơn bọn chúng nghĩ. Ta tự hỏi tại sao bọn ta không hề bị tấn công. Nhưng chúng ta vẫn phải đi cả trăm dặm nữa, trời mỗi ngày một lạnh hơn. Varamyr, cho chó đánh hơi tìm cho kĩ, ta không để bọn chúng khiến chúng ta bất cẩn đâu. Lãnh chúa Xương, tăng gấp đôi số quân đi tuần tra, đảm bảo tất cả mọi người đều có đuốc và đá lửa. Styr, Jarl, hai người cưỡi ngựa đi ngay khi trời rạng.”

“Mance,” Rattleshirt nói, “Tôi muốn tự mình lấy ít xương của con quạ kia.”

Ygritte bước ra đứng trước mặt Jon. “Ông không thể giết một người nói dối để bảo vệ những người đã từng là anh em của anh ta.”

“Bọn chúng vẫn là anh em của nó,” Styr nói.

“Không còn nữa,” Ygritte khăng khăng nói. “Anh ấy không giết tôi theo lệnh của bọn chúng. Và anh ấy đã giết Cụt Tay, chúng ta đều đã nhìn thấy.”

Hơi thở của Jon mờ mờ trong không khí. Nếu mình nói dối, ông ta sẽ biết ngay. Anh nhìn thẳng vào mắt Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành, bàn tay anh mở ra rồi nắm lại. “Thưa bệ hạ, tôi mặc chiếc áo khoác mà ngài ban.”

“Chiếc áo khoác bằng da cừu!” Ygritte nói. “Và đã rất nhiều đêm chúng tôi cùng nhau hân hoan bên dưới chiếc áo khoác ấy!”

Jarl cười lớn, ngay cả Harma Đầu Chó cũng cười. “Jon Snow, thật sao?” Mance Rayder ôn tồn hỏi. “Cô ta và ngươi sao?”

Ra khỏi Tường Thành rất dễ sa ngã. Jon không tài nào phân biệt nổi danh dự và nỗi tủi hổ, hay cái đúng và cái sai. Cha hãy tha lỗi cho con. “Phải,” cậu nói.

Mance gật đầu. “Tốt lắm, vậy sáng mai, ngươi sẽ đi với Jark và Styr. Cả hai ngươi. Ta khó lòng tách hai trái tim cùng nhịp đập được.”

“Đi đâu thưa ngài?” Jon hỏi.

“Đến Tường Thành. Đã đến lúc ngươi chứng minh sự trung thành của ngươi thay vì chỉ nói suông, Jon Snow ạ.”

Magnar không bằng lòng. “Tôi cần gì ở một con quạ chứ?”

“Hắn biết rõ Đội Tuần Đêm và Tường Thành,” Mance nói, “và hắn biết rõ Hắc Thành hơn bất kỳ lính biệt kích nào. Ngươi sẽ thấy hắn hữu dụng, nếu không thì ngươi đúng là đồ ngu.”

Styrl cau có. “Tim hắn có khi vẫn còn màu đen.”

“Thì hãy cắt phăng nó đi.” Mance quay sang Rattleshirt. “Lãnh chúa Xương, bằng mọi giá phải để đoàn tiếp tục di chuyển. Chúng ta sẽ thắng nếu đến được Tường Thành trước Mormont.”

“Đoàn sẽ vẫn di chuyển.” Giọng Rattleshirt khàn khàn và giận dữ.

Mance gật đầu và bước đi, Harma và Sixskins đi bên cạnh ông ta.

Mấy con sói và con mèo của Varamyr đi theo phía sau. Jon và Ygritte ở lại với Jart, Rattleshirt và Magnar. Hai gã man di già hơn nhìn Jon với cơn giận được che giấu một cách kém cỏi y như cơn giận của Jarl và nói, “Hai ngươi nghe đây, chúng ta sẽ khởi hành khi trời rạng. Nhớ mang theo thức ăn, không có thời gian để săn bắn đâu. Con quạ kia, xem lại mặt ngươi đi. Toàn là máu.”

“Được,” Jon nói.

“Con nhóc, tốt nhất đừng có nói dối,” Rattleshirt nói với Ygritte, đôi mắt ông ta sáng lên phía sau cái đầu lâu của gã khổng lồ.

Jon rút thanh gươm Móng Dài ra. “Tránh xa chúng tôi ra, trừ khi các người muốn lĩnh đòn mà Qhorin đã lĩnh.”

“Thằng nhóc, ở đây ngươi không có sói giúp đâu.” Rattleshirt đưa tay lấy gươm.

“Ông có chắc không?” Ygritte cười to.

Trên đỉnh những tảng đá của tường bao, Bóng Ma khom người xuống với đám lông cứng trắng muốt. Con sói không phát ra tiếng kêu nào, nhưng đôi mắt đỏ đen của nó nói lên tất cả. Lãnh chúa Xương chầm chậm rụt tay khỏi thanh gươm, lùi lại một bước, và đi ra, miệng chửi thề.

Bóng Ma khẽ bước bên cạnh hai con ngựa khi Jon và Ygritte đi xuống đỉnh Nắm Đấm. Chỉ đến khi bọn họ đi được nửa đường dọc sông Milkwater Jon mới thấy đủ an toàn để nói, “Tôi chưa bao giờ đề nghị cô nói dối vì tôi.”

“Tôi chưa bao giờ nói dối,” cô nói. “Tôi không nói dối.”

“Cô đã nói rằng…”

“… rằng chúng ta làm tình với nhau rất nhiều đêm bên dưới chiếc áo khoác của anh. Dù vậy, tôi không bao giờ nói nếu chúng ta chưa bắt đầu.” Cô nở một nụ cười bẽn lẽn. “Jon Snow, tối nay anh nên tìm một chỗ ngủ khác cho Bóng Ma. Như Mance nói ấy. Hành động có thật hơn là lời nói.”

About The Author

Ngo David

Power is Power