Bird Box – Lồng chim

Bird Box – Lồng chim

Tựa sách: Lồng chim (Tựa gốc: Bird Box)

Tác giả: Josh Malerman

Nhóm dịch: Bapstory.net

Hiện truyện đã được NXB mua và có bản dịch chính thức nên chúng tôi sẽ cancel bộ truyện này. Các bạn có thể tìm mua sách để ủng hộ tác giả và NXB nhé.

Malorie đứng trong bếp và suy nghĩ.

Đôi bàn tay cô hơi ướt. Cô đang run rẩy. Cô gõ ngón chân một cách đầy lo lắng xuống sàn gạch đã bị nứt. Giờ vẫn còn sớm, và mặt trời có lẽ chỉ mới nhú một vài tia sáng yếu ớt lên nền trời. Cô nhìn vào tia sáng ít ỏi ấy đang hóa những tấm màn cửa sổ nặng nề thành một bức màn đen mềm mại rồi chợt nghĩ.

Đó là sương mù.

Bọn trẻ đang nằm ngủ, phía trên chúng là một lưới thép dùng để treo một tấm màn đen phủ dài, ở cuối hành lang. Có lẽ cách đây ít phút bọn trẻ đã nghe được những bước chân của cô ngoài sân.

Bất cứ tiếng động nào của cô cũng đều được truyền đi thông qua một ống thu âm nhỏ và sẽ phát ra ngay bên cạnh giường của chúng thông qua một thiết bị phát.

Cô nhìn vào đôi tay của mình bên dưới ánh nến và nhận ra có một lớp nước lấp lánh. Cô thấy đôi tay mình ướt. Sương buổi sáng vẫn còn tươi tắn trên đôi tay cô.

Bây giờ, ở trong bếp, Malorie hít thở sâu và thổi tắt nến. Cô nhìn xung quanh căn phòng nhỏ, chú ý đến những đồ dùng đã gỉ sét và những chiếc đĩa bị mẻ. Thùng giấy các-tông được dùng làm thùng rác. Một vài cái ghế được buộc chặt vào nhau. Những bức tường bám bẩn. Vết bẩn đó là từ hoạt động vui chơi của bọn trẻ tạo nên. Cũng có những vết ố đã xuất hiện từ lâu. Chân tường ở hành lang của tòa nhà bị xỉn màu, từ màu tím tuyệt đẹp thành một màu nâu xấu xí. Nhìn kỹ thì chúng là máu. Tấm thảm trong phòng khách cũng vậy, mặc cho Malorie lau chùi cỡ nào. Không có một loại chất tẩy rửa nào trong nhà có thể làm sạch chúng. Cách đây rất lâu, Malorie ra giếng và lấy đầy một xô nước, mặc áo khoác và tổng vệ sinh toàn bộ căn nhà. Nhưng những vết bẩn đó không chịu rời đi. Tuy nhiên, với sự kiên trì đó, ít ra cũng khiến căn nhà trông sáng sủa hơn, nhưng điều đó vẫn không thể làm giảm bầu không khí đáng sợ đang ngự trị ở đây.

Một hộp đựng nến che một đốm đỏ lớn ở tiền sảnh. Ghế bành phòng khách được sắp đặt lại để che bớt hai vết bẩn trên tường mà vô tình tạo ra hình thù như những cái đầu chó sói đang chĩa thẳng vào Malorie.

Ở tầng thứ hai, ngay bên cầu thang tầng áp mái, một mớ áo khoác mốc meo đang che lại những vết cào xước có màu tím, hằn sâu vào chân tường. Cách đó khoảng mười feet là những vết màu hoen gỉ đen đúa nhất của căn nhà. Cô không sử dụng gì khu phía cuối tầng hai của căn nhà, bởi vì cô không thể có đủ dũng khí để một mình đi tới đó.

Căn nhà đã từng là một kiến trúc đầy tinh tế tọa lạc tại vùng ngoại ô xinh đẹp của Detroit. Nó đã từng là nơi an toàn và luôn thích hợp cho bất cứ gia đình nào muốn sinh sống. Nếu là căn nhà của khoảng năm năm về trước, thì bất cứ một nhà môi giới bất động sản nào cũng sẽ giới thiệu nó một cách đầy tự hào. Nhưng buổi sáng hôm nay, những ô cửa sổ được che phủ bởi giấy cac-tong và các thanh gỗ. Hệ thống nước không còn hoạt động. Một cái xô lớn bằng gỗ đặt bên trên kệ bếp. Nó có một mùi hôi kinh khủng. Không có đồ chơi phù hợp dành cho trẻ con. Một vài mảnh gỗ từ một chiếc ghế được mài nhẵn để dùng làm đồ chơi cho chúng. Có những khuôn mặt nho nhỏ được vẽ trên đó. Những cái tủ thì trống không. Không có những hình vẽ nào trên tường. Dây thép được giăng xung quanh, từ cửa sau rồi vào tận những phòng ngủ ở tầng một, nơi mà những thiết bị phát tín hiệu sẽ cảnh báo cho Malorie và con của cô bất cứ âm thanh nào đến từ bên ngoài căn nhà. Ba người họ đã sống như thế. Họ không ra ngoài quá lâu. Và khi họ phải bước khỏi căn nhà, họ phải bịt mắt lại. Bọn trẻ chưa bao giờ được nhìn thấy thế giới bên ngoài căn nhà. Thậm chí là có nhìn qua cửa sổ đi nữa. Và Malorie cũng vậy trong hơn bốn năm dài.

Bốn năm.

Cô không hề muốn phải đưa ra quyết định như thế ngay lúc này. Tháng mười ở Michigan, trời rất lạnh. Một chuyến đi hai mươi dặm trên sông sẽ rất khó khăn cho bọn trẻ. Bọn chúng vẫn còn quá nhỏ. Sẽ ra sao nếu một trong hai đứa rơi xuống nước? Lúc đó, Malorie, đang bịt mắt, sẽ phải làm gì?

Một tai nạn, Malorie nghĩ. Thật kinh khủng. Sau tất cả những gì đã chịu đựng, để được sống sót. Và bây giờ phải chết vì một tai nạn sao.

Malorie nhìn chăm chú vào những tấm màn đang phủ kín căn nhà. Cô bắt đầu khóc. Cô muốn hét lên với ai đó. Cô muốn nói với bất cứ ai đang lắng nghe cô, với tất cả những cảm xúc đã đè nén từ lâu. Điều này thật bất công, cô sẽ nói như vậy. Đây là tội ác.

Cô ngoái lại, nhìn lối đi dẫn vào bếp và hành lang dẫn đến phòng ngủ của bọn trẻ. Đằng sau cái khung cửa trống hoắc đó, bọn trẻ vẫn ngủ say, bên trong tấm màn đen, giấu chúng khỏi ánh sáng và ánh nhìn từ bên ngoài. Chúng nằm im. Chúng không cho thấy dấu hiệu nào sẽ thức dậy. Nhưng chúng có thể lắng nghe cô. Thình thoảng, vì tất cả những áp lực về việc phải lắng nghe mà cô đặt lên chúng, và vì tất cả những điều quan trọng mà cô luôn thủ thỉ vào tai chúng nên Malorie tin rằng chúng có thể nghe được cả suy nghĩ của cô.

Cô muốn đợi cho trời nắng lên và ấm áp thêm để chuyến đi trên thuyền sẽ dễ dàng hơn. Lúc đó cô có thể thông báo cho bọn trẻ những gì cô muốn nói, hoặc nghe được những gì chúng phải nói. Những đề nghị của chúng có thể là những điều hữu ích. Bọn trẻ chỉ mới bốn tuổi, nhưng đã được tập luyện để lắng nghe. Bọn trẻ có thể giúp điều chỉnh hướng đi của con thuyền để cả ba người không bị mất phương hướng. Malorie sẽ không thể thực hiện chuyến đi này mà không có chúng. Cô cần đôi tai của chúng. Nhưng liệu cô cũng có thể sử dụng lời khuyên của chúng không? Những đứa trẻ mới bốn tuổi này, sẽ nói được gì đó khi được hỏi rằng lúc nào là thời gian tốt nhất để rời khỏi nhà mãi mãi không?

Ngồi thụp xuống một cái ghế trong bếp, Malorie ngăn không cho mình khóc. Ngón chân trần của cô vẫn gõ trên lớp lót sàn đã nhạt màu. Một cách chậm rãi, cô nhìn những bậc thang dẫn xuống tầng hầm, nơi mà khi đó cô và một người đàn ông tên Tom đã nói chuyện về một người đàn ông tên Don. Cô nhìn bồn rửa bát, nhớ về những lần Don mang đầy những xô nước giếng vào đây, và người thì run lẩy bẩy vì phải ở ngoài trời. Chồm người ra trước, cô có thể nhìn thấy tiền sảnh, nơi mà Cheryl từng ở đó và chuẩn bị thức ăn cho lũ chim. Và ở giữa cô với cửa trước là phòng khách, im ắng và tối đen. Nơi có quá nhiều kỷ niệm của quá nhiều người để mà có thể nhớ hết.

Bốn năm, cô nghĩ và rồi cô muốn đấm một cú đấm thật mạnh xuyên qua tường.

Malorie biết bằng bốn năm rồi sẽ thành tám năm. Tám năm sẽ nhanh chóng trở thành mười hai năm. Và bọn trẻ sẽ thành người lớn. Những người lớn chưa bao giờ nhìn thấy bầu trời. Chưa bao giờ nhìn xuyên qua một ô cửa sổ. Lúc đó, tâm trí của một người có mười hai năm sống như một con bê con sẽ làm những gì? Có phải lúc đó, Malorie tự hỏi, nơi mà những đám mây trên trời trở thành hư ảo, nơi duy nhất mà bọn chúng cảm thấy như ở nhà, lại chính là nơi đằng sau tấm khăn bịt mắt màu đen ấy?

Malorie cảm thấy lo lắng, cổ họng trở nên khô rát khi hình dung về việc tự mình nuôi lớn bọn trẻ cho tới khi chúng trở thành những cô bé, cậu bé vị thành niên.

Thậm chí là cô có thể làm được điều đó? Cô có thể bảo vệ chúng thêm mười năm nữa không? Cô có thể bảo vệ chúng đến khi chúng có thể bảo vệ lại cô chứ? Và để làm gì? Cuộc sống của chúng thế này thì lý do gì mà phải bảo vệ chứ?

Mày là một người mẹ tồi, cô nghĩ.

Khi mà không có cách nào để chúng biết sự bao la của bầu trời. Không có cách này để chúng chạy nhảy tự do trong sân, trên đường phố hay những căn nhà hàng xóm đã không còn ai sinh sống mà chỉ còn lại những chiếc xe hơi đã đỗ ở đó từ rất lâu. Hoặc là cho chúng hé nhìn thật nhanh, chỉ một lần thôi, vào không gian, khi mà bầu trời trở nên tối đen và những ngôi sao tuyệt đẹp bắt đầu xuất hiện.

Mày đang số giữ chúng sống một cuộc sống không hề đáng sống.

Đôi mắt Malorie chợt nhòe đi khi cô nhìn vào tấm màn đen phủ kín căn nhà, cô khóc. Nếu có sương mù bên ngoài, và chẳng mấy chốc nó sẽ tan biến. Và nếu nó có thể giúp cô, giúp che giấu cô và bọn trẻ khi họ đi tới dòng sông, tới con thuyền thì giờ là lúc cô phải đánh thức chúng.

Cô đặt một tay bên chiếc bàn trong bếp rồi lau khô nước mắt.

Đứng dậy và rời khỏi bếp, Malorie đi qua hành lang và vào phòng ngủ của bọn trẻ

“Boy” cô hét lớn, “Girl! Thức dậy.”

Căn phòng ngủ tối đen. Một cửa sổ được che chắn bằng những cái mền để thậm chí lúc mà tia sáng mặt trời chói chang nhất cũng không thể rọi vào được. Có hai tấm nệm lớn, đặt hai phía của căn phòng. Phía trên những tấm nệm là những mái vòm màu đen. Trước đây, lưới thép được dùng để rào khu vườn nhỏ gần giếng nước ở sân nhà sau. Nhưng trong bốn năm qua, nó được dùng như một loại áo giáp bảo vệ bọn trẻ, không phải từ những gì có thể nhìn thấy chúng mà là những thứ chúng có thể nhìn thấy. Bên dưới lưới thép, Malorie nghe thấy sự động đậy và rồi cô quỳ xuống, tháo lỏng dây thép được buột chặt vào đinh đóng trên sàn gỗ của căn phòng. Cô đã rút sẵn hai tấm bịt mắt từ trong túi của mình khi hai đứa trẻ nhìn cô với ánh mắt còn ngái ngủ, đầy kinh ngac.

“Mẹ à?”

Thức dậy nhanh. Mẹ cần các con phải chuẩn bị thật nhanh.

“Bọn trẻ làm theo lời yêu cầu của cô một cách nhanh chóng mà không hề vùng vằn hay phàn nàn gì.

“Chúng ta sẽ đi đâu?” cô bé Girl hỏi.

Malorie cầm tấm bịt mắt trên tay và nói “Đeo cái này vào. Chúng ta sẽ đi đến dòng sông”

Cô lần lượt đeo hai tấm bịt mắt màu đen vào mắt bọn trẻ và buột chặt chúng. Bọn trẻ đã quá quen với điều này. Tại sao mới bốn tuổi mà bọn trẻ phải chịu đựng những thứ này chứ. Trái tim Malorie tan nát. Bọn chúng chỉ là trẻ con và đáng lẽ ra phải tò mò mới phải. Bọn chúng nên hỏi cô tại sao, hôm nay, chúng sẽ đến dòng sông – một con sông mà chúng chưa bao giờ được nhìn thấy trước đây.

Nhưng, thay vì hỏi, bọn trẻ chỉ làm theo những gì chúng được bảo.

Malorie vẫn chưa bịt mắt mình. Cô muốn chuẩn bị xong cho bọn trẻ trước.

“Mang theo đồ chơi giải đố của con, cô nói với bé Girl. “Và cả hai đứa, mang chăn theo”.

Cô cảm thấy một cảm giác hào hứng khó tả. Một cảm xúc dâng trào còn hơn cả một người bị mắc chứng cuồng loạn. Cô đi từ phòng này tới phòng khác, kiểm ra xem có những vật dụng nhỏ nào mà có thể sẽ cần đến hay không. Rồi bỗng nhiên, cô cảm thấy sợ hãi.

Cô cảm thấy không an toàn, như thể cả căn nhà và đất dưới chân biết mất và phơi bày cô cho cả thế giới nhìn thấy. Và trong cái khoảnh khắc đó, cô nắm chặt tấm bịt mắt. Không có thứ gì cô có thể đem theo, không có gì trong căn nhà này có thể sử dụng làm vũ phí, cô biết rằng những tấm bịt mắt chính là vũ khí bảo vệ mạnh nhất.

“Mang chăn theo!”, cô nhắc lại với bọn trẻ, vừa nói cô vừa nghe thấy hai cơ thể bé nhỏ ấy đang tự mình chuẩn bị những thứ cần thiết. Sau đó cô bước vào phòng chúng để hỗ trợ. Cậu bé Boy, trông nhỏ hơn nhiều so với tuổi – nhưng Malorie luôn tự hào vì sự kiên cường của cậu – đang lựa chọn một trong hai chiếc áo, mà cả hai đều quá rộng. Bởi vì hai chiếc áo này dành cho một người lớn, đã chết từ lâu. Malorie chọn cho cậu bé rồi nhìn mái tóc đen của cậu biến mất sau chiếc áo và lại bung lên sau khi cậu tròng xong áo qua đầu. Trong tình huống cấp bách này, cô chợt nhận ra con trai Boy của cô đã lớn.

Girl – thì có dáng dấp đúng lứa tuổi cô bé hơn – đang cố gắng tròng chiếc váy qua đầu, chiếc váy mà cô bé và Malorie đã dùng ga trải giường để may.

“Bên ngoài rất lạnh, Girl. Một chiếc váy sẽ không giúp được gì cả”

Cô bé Girl cau mày lại, mái tóc nâu của bé vẫn còn rối vì vừa mới ngủ dậy”

Con sẽ mặc thêm quần nữa, mẹ. Và chúng ta còn có chăn nữa mà”

Ngọn lửa tức giận lan tỏa trong Malorie. Cô không muốn có bất cứ sự phản đối nào. Không phải hôm nay. Dù cho Girl có nói đúng đi nữa cô cũng không cho phép cô bé cãi lại.”

Hôm nay không có váy viếc gì hết”

Thế giới bên ngoài, những khu mua sắm và nhà hàng không một bóng người, hàng ngàn những chiếc xe chưa được dùng tới, những sản phẩm bị lãng quên trên những kệ hàng hóa, tất cả chúng giờ đây đều là thứ miễn phí. Và ở bên ngoài đó, sẽ có cả những lời thì thầm đang chờ đợi họ.

Cô lấy một cái áo khoác trong tủ quần áo đặt ở phòng ngủ nhỏ chỗ hành lang. Sau đó cô rời khỏi phòng, và cô biết đây sẽ là lần cuối cùng cô nhìn thấy căn phòng.

“Mẹ,” cô bé Girl nói khi gặp cô ở hành lang. “Chúng con có cần mang theo mấy cái chuông xe đạp không?”

Malorie hít thở sâu để lấy bình tĩnh.

“Không”, cô gằn giọng. “Tất cả chúng ta sẽ ở bên nhau. Trong suốt chuyến đi.”

Khi bé Girl quay trở lại phòng ngủ, Malorie nghĩ hành động vừa rồi của cô sẽ khiến chúng buồn lắm, những cái chuông xe đạp ấy là thứ ưa thích nhất của bọn trẻ. Bọn chúng đã chơi với nó trong nhiều năm. Đi loanh quanh trong phòng khách và rung chuông, đó dường như là tất cả cuộc sống của chúng. Thứ âm thanh chói tai đó đã từng khiến Malorie cực kỳ căng thẳng. Nhưng cô chưa bao giờ lấy chúng đi hoặc là giấu chúng. Thậm chí trong khoảng thời gian đầu, lúc cô là một bà mẹ luôn cáu bẩn, đau khổ thì Malorie vẫn hiểu rằng bất cứ điều gì khiến trẻ con cười khúc khích thì luôn là một điều tốt đẹp.

Thậm chí là lúc chúng dùng mấy cái chuông để khiến Victor hoảng sợ.

Ôi, bỗng nhiên cô chợt nhớ tới con chó đó. Cũng đã lâu rồi. Trong những ngày đầu cô nuôi bọn trẻ, điều tuyệt vời của cô là đi cùng Victor đến dòng sông. Victor là giống chó border collie, nó luôn ngồi bên cạnh khi cô đang ngồi trên thuyền. Victor sẽ cảnh báo nếu có con vật nào ở gần đó và đe dọa để bọn chúng bỏ đi.

“Được rồi”, cô nói, vóc dáng cân đối của cô xuất hiện ở khung cửa phòng ngủ của bọn trẻ. “Nhiêu đó đủ rồi, giờ chúng ta đi thôi”.

Đã có những lần, những buổi chiều êm ả, hoặc những buổi tối giông bão, Malorie đã nói với chúng ngày hôm nay sẽ đến. Trước đây cô đã có lần nói về dòng sông. Về một chuyến đi. Cô rất cẩn thận để không phải gọi chuyến đi này là “cuộc trốn chạy” của chúng bởi vì cô không thể khiến chúng chịu đựng về việc phải tin rằng cuộc sống hàng ngày của chúng chỉ toàn là nỗi sợ hãi và trốn chạy.

Thay vào đó, cô chỉ cảnh báo chúng về một buổi sáng nào đó, có thể cô sẽ phải đánh thức chúng – một cách khẩn trương – và yêu cầu chúng chuẩn bị rời khỏi căn nhà mãi mãi.

Cô biết chúng có thể nhận ra trạng thái lưỡng lự của cô, dễ dàng như khi chúng nghe được tiếng chân của một con nhện đang bò trên ô kính cửa sổ đã phủ màn vậy. Trong nhiều năm, cô luôn đặt trong tủ một túi da nhỏ đựng thức ăn, cô dự trữ thức ăn ở đó cho tới khi nó bị hỏng, cô luôn kiểm tra để thay thế hoặc bổ sung thức ăn vào đó. Điều đó chứng tỏ rằng, sẽ đến một ngày cô sẽ đánh thức chúng như cô sẽ nói. Mày thấy không, cô nghĩ, khi đang lo lắng kiểm ra những tấm màn, việc mày để thức ăn trong tủ đã là một bằng chứng trong kế hoạch rời đi của mày rồi.

Và bây giờ, ngày đó đã đến. Chính là sáng hôm nay, chính là lúc này. Chính là sương mù ngoài kia.

Malorie quỳ xuống trước mặt Boy và Girl. Cô kiểm tra tấm bịt mắt của chúng. Chúng đã được buộc chặt. Trong khoảng khắc đó, nhìn vào từng khuôn mặt nhỏ bé ấy, Malorie hiểu một cách rõ ràng rằng, cuối cùng, chuyến đi đã thực sự bắt đầu.

“Các con nghe đây”, cô nói với chúng, hai tay đặt vào cằm hai đứa để giữ chúng nhìn thẳng vào cô. “Hôm nay chúng ta sẽ chèo thuyền dọc theo dòng sông. Có thể đây là một chuyến đi rất dài. Nhưng điều quan trọng là cả hai đứa luôn phải nghe theo từng lời của mẹ. Hai đứa hiểu rõ chứ?”

“Dạ”

“Dạ”

“Bây giờ trời rất lạnh. Hai đứa có chăn. Hai đứa có khăn bịt mắt. Nhiêu đó là quá đủ. Hai đứa hiểu rõ chứ?”

“Dạ”

“Dạ”

“Dù cho bất cứ điều gì xảy ra cả hai đứa đều không được phép tháo khăn bịt mắt ra. Nếu không nghe lời, mẹ sẽ phải làm đau hai đứa. Hai đứa hiểu rõ chứ?”

“Dạ”

“Dạ”

“Mẹ cần đôi tai của hai đứa. Mẹ cần cả hai phải luôn chú ý lắng nghe. Khi đi trên sông, các con cần lắng nghe cả bên dưới dòng sông và trong khu rừng. Nếu nghe âm thanh của bất cứ con vật nào trong rừng, nói ngay với mẹ. Nếu có bất cứ tiếng động nào trong nước, nói ngay với mẹ. Hiểu chứ?”

“Dạ”

“Dạ”

“Tuyệt đối không được thắc mắc bất cứ điều gì không liên quan tới con sông. Con sẽ ngồi trước”, cô nói và vỗ vào cậu bé Boy. Sau đó cô vỗ vào bé Girl. “Và con sẽ ngồi đằng sau. Khi nào chúng ta đến thuyền, mẹ sẽ sắp xếp chỗ ngồi cho hai đứa.

Mẹ sẽ ngồi giữa, và chèo. Mẹ không muốn hai đứa nói chuyện qua lại với nhau khi ở trên thuyền trừ khi nghe được âm thanh gì đó trong khu rừng. Hoặc trên dòng sông. Hiểu chứ?”

“Dạ”

“Dạ”

“Chúng ta sẽ không dừng lại dù bất cứ lý do gì. Sẽ đi cho tới khi nào đến nơi cần đến. Mẹ sẽ cho hai đứa biết đó là khi nào. Nếu đói, hãy ăn đồ ăn trong cái túi da nhỏ này.”

Malorie đặt cái túi da nhỏ lên mu bàn tay từng đứa.

“Không được ngủ. Tuyệt đối không được ngủ. Hôm nay là ngày mẹ cần đôi tai hai đứa hơn bất kỳ lúc nào trong đời”.

“Chúng ta có mang theo ống nói không mẹ?” Girl hỏi.

“Không”.

Malorie trả lời trong khi nhìn lần lượt hai khuôn mặt nhỏ đang phải bịt mắt.

“Khi chúng ta rời căn nhà này, chúng ta sẽ nắm tay nhau và đi bộ dọc theo con đường dẫn ra giếng. Sau đó chúng ta sẽ đi xuyên qua khoảng rừng trống nhỏ trong rừng nằm đằng sau ngôi nhà. Lối đi dẫn tới con sông cực kỳ rậm rạp. Chúng ta có thể phải thả tay ra để đi từng bước một, và khi đó, mẹ muốn hai đứa phải nắm chặt áo khoác của mẹ và đứa này phải nắm áo khoác đứa kia. Hiếu chứ?

“Dạ”

“Dạ”

Có phải bọn chúng đang sợ hãi không?

Nghe mẹ đây. Chúng ta sẽ đến một nơi mà cả hai đứa đều chưa bao giờ đến. Chúng ta sẽ đi xa ngôi nhà này hơn cả những lần chúng ta đã từng đi. Có những thứ ngoài đó sẽ làm đau hai đứa, sẽ làm đau mẹ, nếu các con không nghe lời mẹ, ngay lúc này, vào buổi sáng hôm nay.”

Hai đứa nhỏ đều im lặng

“Hai đứa hiểu ý mẹ chứ?”

“Dạ”

“Dạ”

Malorie đã tập luyện cho chúng rất kỹ càng.

“Được rồi”, cô nói, giọng nói để lộ một dấu hiệu của sự lo lắng tột độ. “Chúng ta sẽ đi. Chúng ta sẽ đi ngay bây giờ. Chúng ra sẽ đi”

Cô ấn mạnh đầu hai đứa nhỏ vào trán mình. Sau đó có nắm tay từng đứa. Họ đi băng nhanh vào bếp. Tại đây. Malorie, đang run sợ, lau khô nước mắt và lấy tấm bịt mắt của mình ra. Cô buộc chặt chúng qua đầu và mái tóc dài đen nhánh của mình. Cô dừng lại, bàn tay cô đặt trên nắm cửa, cánh cửa dẫn đến lối đi tới giếng mà không biết bao lần cô đã tới đó để mang về từng xô nước.

Cô sẽ rời khỏi từ phía sau căn nhà. Sự thật là lúc này cô cảm thấy một khó khăn mà có lẽ cô sẽ không bao giờ vượt qua được.

Khi cô mở cửa, một luồng gió mạnh xông vào cô và Malorie bước tới, tâm trí cô trở nên mông lung với nỗi sợ hãi và viễn cảnh quá đáng sợ đến nỗi cô không thể nói một cách bình thường với bọn trẻ được nữa. Cô lắp bắp và gần như là hét lên.

“Nắm tay mẹ. Cả hai đứa”

Boy nắm tay trái của Malorie và Girl thì nhét gọn những ngón tay bé xíu của mình vào lòng bàn tay của Malorie.

Với đôi mắt bị bịt kín, bọn họ bước từng bước rời khỏi nhà.

Giếng nước cách nhà khoảng mười tám mét. Một vài miếng gỗ nhỏ – đã từng là một phần của những khung tranh – được dùng để định hình lối đi, được đặt ở đó để chỉ đường. Cả hai đứa trẻ đều đã từng chạm vào mấy thanh gỗ đó bằng mũi giày rất nhiều lần. Đã có lần Malorie nói với chúng rằng nước trong giếng là thứ thuốc duy nhất mỗi khi chúng đau bệnh. Vì thế, Malorie biết, bọn trẻ luôn luôn trân trọng cái giếng, và chúng chưa bao giờ phàn nàn về việc đi lấy nước với cô.

Bây giờ đã tới giếng, mặt đất gập ghềnh dưới chân. Họ cảm thấy đất mềm và hơi lạ lẫm.

“Khoảng rừng trống đây rồi”, Malorie nói với bọn trẻ.

Cô dẫn bọn trẻ đi qua khoảng rừng đó một cách cẩn thận. Lối đi thứ hai dẫn đến bờ sông cách giếng tầm chín mét. Lối vào của chỗ đi này hẹp và chạy ngoằn ngoèo trong khu rừng. Con sông cách chừng dưới chín mươi mét tính từ chỗ này. Lúc này, Malorie tạm thời thả tay bọn trẻ để cô có thể chạm cây cối xung quanh và xác định đúng lối đi dẫn tới sông.

“Giữ chặt áo khoác của mẹ!”

Cô sờ dọc từng nhánh cây cho đến khi cảm nhận thấy một mảnh vải, đã được buộc trên một cái cây ở đầu lối đi dẫn tới sông. Cô đã tự mình buộc nó ở đây cách đây cũng hơn ba năm.

Boy nắm chặt cái túi áo cô và cô nhận thấy Girl đang nắm túi áo của thằng bé. Malorie gọi tên chúng khi cô bước đi và liên tục yêu cầu chúng phải luôn giữ chặt lấy nhau. Những nhánh cây chọc vào mặt cô. Cô vẫn đi mà không hề bật khóc.

Chẳng mấy chốc, họ vấp phải vật mà Malorie đã cắm xuống đất để đánh dấu. Một mảnh chân gãy của cái ghế trong bếp, đứng chắn trung tâm lối đi, cô đã để nó ở đó để khi cô vấp phải và ngã xuống, thì cô biết rằng mình đã đi đúng hướng.

Cô đã phát hiện ra con thuyền gỗ cách đây bốn năm, đã neo ở đó chỉ cách nhà của cô chừng năm căn nhà. Nó đã ở đó hơn một tháng kể từ lần cuối cùng cô kiểm tra, nhưng giờ thì cô tin nó vẫn ở đó. Nhưng những chuyện tồi tệ có thể đến bất cứ lúc nào. Sẽ thế nào nếu có một ai đó lấy nó đi trước cô? Một người phụ nữ nào đó, giống như cô, sống trong căn nhà cũng cách con thuyền gỗ năm căn nhà – nhưng ở hướng ngược lại, người cũng phải gom đủ can đảm trong suốt bốn năm trời để có thể rời đi. Một người phụ nữ cũng từng ngã nhào trên bờ sông trơn trợt, cùng cảm thấy một điềm cứu rỗi khi vô tình chạm vào mũi con thuyền đang neo ở đây.

Không khí lạnh buốt khiến khuôn mặt Malorie đau rát. Nhưng bọn trẻ thì không hề phàn nàn một lời nào.

Tuổi thơ của chúng không phải thế này, Malorie thầm nghĩ, trong khi đang dẫn chúng tới dòng sông.

Sau đó cô nghe thấy nó. Trước khi đến được cầu cảng, cô nghe được tiếng mặt nước vỗ mạnh vào mạn thuyền. Cô dừng lại và kiểm tra tấm bịt mắt của bọn trẻ, rồi thắt chặt tấm bịt mắt của hai đứa. Cô dẫn chúng đứng lên trên những ván gỗ ở cầu cảng.

Đúng rồi, cô nghĩ, nó vẫn ở đây. Giống như những chiếc xe hơi vẫn đỗ bên ngoài nhà, nơi con đường phía trước sân. Giống như những căn nhà vẫn cứ trống hoắc và im lìm.

Ra khỏi khu rừng không khí càng lạnh hơn. Tiếng nước sông vỗ nhẹ tưởng chừng như đem lại một cảm giác bình yên thế nhưng nó lại mang đến một sự sợ hãi. Quỳ xuống nơi cô tin rằng con thuyền có lẽ đang ở đó, cô thả tay bọn trẻ để cảm nhận một vật nhọn bằng thép. Những ngón tay của cô tìm thấy đoạn dây thừng đã buộc ở đó ngay từ đầu.

“Boy”, cô nói trong khi đang kéo mũi thuyền lạnh như băng ấy về phía cầu cảng. “Đằng trước. Ngồi vào đằng trước”. Cô giúp đỡ thằng bé. Khi thằng bé đã ngồi vững trong thuyền, cô áp hai tay vào mặt nó, nhìn thẳng vào nó và nói một lần nữa, “Lắng nghe. Chú ý dưới nước”.

Cô nói bé Girl hãy ở yên trên cầu cảng khi cô đang mò mẫm tháo sợi dây khỏi mũi thuyền. Sau đó cô cẩn thận leo vào chỗ giữa con thuyền. Cô đứng khom người giúp bé Girl ngồi lên thuyền. Con thuyền tròng trành cực mạnh nên bất giác Malorie nắm tay cô bé quá mạnh. Nhưng Girl không hề khóc. Có nhiều lá cây, mấy thanh gỗ, nhánh cây và nước ở đáy thuyền. Cô mò mẫm cẩn thận mấy thứ nằm ở đó để tìm hai mái chèo mà cô đã để để sẵn ở đó phía bên phải con thuyền. Mái chèo lạnh cóng. Ẩm ướt và có mùi mốc. Cô đặt chúng vào hai rãnh thép bên hông thuyền. Khi đã cảm thấy nó chắc chắc, cô dùng một mái chèo để đẩy con thuyền ra xa khỏi cầu cảng. Và rồi…

Bọn họ đã ở trên dòng sông.

Mặt nước sông yên tĩnh. Nhưng có những âm thanh đang chực chờ ở đó. Những chuyển động trong khu rừng.

Malorie nghĩ về sương mù. Cô hi vọng nó sẽ che chở cho cuộc trốn chạy của ba mẹ con cô

Nhưng rồi sương mù sẽ tan.

“Các con”, Malorie vừa thở mạnh vừa nói, “lắng nghe”

Cuối cùng, sau bốn năm ròng rã chờ đợi, tập luyện và có đủ sự can đảm để rời đi, cô bắt đầu chèo con thuyền xa khỏi cầu cảng, khỏi bờ sông và khỏi căn nhà đã bảo vệ cô và bọn trẻ chỉ trong ngần ấy năm mà cứ tưởng như là cả cuộc đời.

About The Author

Ngo David

Power is Power

Leave a reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *