The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 12

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Họ tiếp tục đi cho tới lúc gặp một cái hồ lớn tuyệt đẹp đầy thứ nước trong vắt như thủy tinh, và ở giữa hồ, Arthur trông thấy một cánh tay mặc áo trắng đang giữ một thanh kiếm đẹp tuyệt trần.

“Hãy trông, đó là thanh kiếm mà ta đã nhắc đến,” Merlin chỉ.

Đột nhiên họ trông thấy một cô gái bước đi trên mặt hồ.

“Đó là ai vậy?” Arthur hỏi.

“Đó là Nữ Thần Hồ.” Merlin trả lời.

Ngài Thomas Malory, Cái chết của vua Arthur.

Cơn gió nổi mạnh và mây mù bị đẩy về phía tây và dần che khuất những chòm sao. Chòm Thần Long biến mất, kéo theo chòm Nữ Thần Mùa Đông và chòm Bảy Dê. Ánh sáng duy nhất và rực rỡ nhất còn lại là Con Mắt. Tuy vậy, cuối cùng nó vẫn bị che mờ. Ánh chớp nháng nơi đường chân trời, theo sau là tiếng sấm. Cơn gió chợt nổi mạnh, thổi bụi và lá khô vào mắt họ.

Con kỳ lân hý vang và gửi một tín hiệu. Ciri hiểu ngay lập tức điều nó muốn nói.

Chúng ta không được lãng phí thời gian. Hy vọng duy nhất của chúng ta là một cú nhảy nhanh. Tới đúng nơi và đúng thời điểm. Khẩn trương lên, Mắt Sao.

Ta là Nữ thần của Thế giới. Ta là Dòng Máu Cổ Xưa. Dòng máu của Lara Dorren, con gái của Shiadhal.

Ihuarraquax lại hý, giục cô khẩn trương. Kelpie đáp lại. Ciri kéo găng tay lên.

“Ta sẵn sàng rồi.”

Một tiếng gầm bên tai cô. Ánh sáng. Và rồi bóng tối.

***

Nước hồ và sự tĩnh lặng lúc xế chiều mang đi tiếng chửi rủa của Vua Đánh Cá, đang ngồi trên thuyền và giật dây câu, cố gắng giải thoát mồi câu đang bị mắc kẹt dưới đáy hồ. Tiếng mái chèo khẽ cọt kẹt.

Nimue hắng giọng một cách thiếu kiên nhẫn. Condwiramurs quay đi khỏi khung cửa sổ, rồi cúi xuống những bức tranh. Một bức thu hút sự chú ý của cô. Một cô gái với mái tóc bị thổi tung bởi gió, cưỡi một con ngựa đen đang chồm lên. Bên cạnh là một con kỳ lân trắng, cũng đang nhảy múa, dải bờm tung bay như cô gái.

“Tôi nghĩ đây là mảnh duy nhất của huyền thoại mà các nhà sử học chưa bao giờ đem ra tranh cãi,” người học viên bình luận, “mà chỉ đơn giản coi là thêu dệt và tô điểm như truyện cổ tích, hoặc một phép ẩn dụ mơ hồ nào đó. Nhưng các họa sĩ lại có vẻ khá thích thú trước phần này của câu truyện. Nhìn đi, đây là một bức tranh với Ciri và một con kỳ lân. Đây cũng là Ciri và một con kỳ lân đứng trên một vách đá nhìn ra biển, và đây giữa một khung cảnh như trong cơn phê thuốc, bên dưới hai mặt trăng.”

Nimue không nói gì.

“Nói theo cách khác,” Condwiramurs ném bức vẽ lên bàn, “ở đâu cũng là Ciri và con kỳ lân. Ciri và con kỳ lân trong mê cung các thế giới, Ciri và con kỳ lân giữa vực thẳm của thời gian…”

“Ciri và con kỳ lân,” Nimue ngắt lời, nhìn ra cái hồ bên ngoài cửa sổ, và Vua Đánh Cá đang ngồi trên thuyền. “Ciri và con kỳ lân hiện ra từ thinh không như bóng ma, lơ lửng phía trên một cái hồ nào đó…và có lẽ là cùng một cái hồ cũng nên, một nơi kết nối thời gian và không gian như một cây cầu, tuy từng lúc khác biệt, nhưng vẫn luôn là một?”

“Cái gì cơ?”

“Bóng ma.” Nimue không nhìn cô. “Những người khách đến từ chiều không gian khác, thế giới khác, địa điểm khác, thời gian khác. Những bóng ma thay đổi cuộc đời một con người. Mà cũng thay đổi cả cuộc đời của họ, số phận của họ…mà không hề hay biết. Bởi đối với họ nó chỉ đơn giản là…một địa điểm khác mà thôi. Không phải nơi đó, không phải thời điểm đó…lại lần nữa, lại lần nữa. Ai biết là đã bao lần rồi…”

“Nimue,” Condwiramurs chen vào với một nụ cười gượng gạo. “Tôi mới là người mơ ở đây kia mà. Tôi mới là chuyên gia về ảo ảnh và giải nghĩa giấc mơ. Và đột nhiên cô bắt đầu suy đoán. Như thể cô đã từng trông thấy điều mình đang nói…trong một giấc mơ vậy.”

Vua Đánh Cá, dựa theo cường độ giọng nói và chửi rủa chợt tăng cao, có vẻ như đã thất bại trong việc gỡ mồi và làm đứt dây câu. Nimue không nói gì cả, và nhìn vào những hình vẽ. Nhìn vào Ciri và con kỳ lân.

“Tôi thực sự đã từng trông thấy những điều mình nói,” cuối cùng cô lên tiếng, vô cùng điềm tĩnh. “Tôi đã từng thấy nhiều lần trong mơ. Và một lần khi đang tỉnh.”

***

Như mọi người đều biết, chuyến du hành từ Czuchów đến Malbork trong vài điều kiện nhất định có thể mất đến năm ngày. Và bởi vì những lá thư của Chỉ huy Czuchów gửi đến Winrych von Kniprode, Giáo Chủ của Giáo Hội, đã đến tay người nhận không trễ hơn ngày Pentecost, vị hiệp sĩ Heinrich von Schwelborn đã không chần chừ và khởi hành ngay sau ngày chủ nhật Exaudi Domine, để di chuyển một cách bình an và không lo bị muộn. Chậm rãi nhưng chắc chắn.Thái độ của vị hiệp sĩ khiến đoàn tùy tùng vô cùng hài lòng, bao gồm 6 cung thủ cưỡi ngựa, chỉ huy bởi Hasso Planck, con trai một thợ nướng bánh đến từ Cologne. Các cung thủ và Planck đã quen với những quý tộc hay chửi rủa, la hét, giục giã và ra lệnh cho họ phải phi như điên, và khi đằng nào thì cũng chả đến nơi kịp, lại đổ hết tội lên đầu các bộ binh tội nghiệp, nói dối theo cách không phù hợp với một hiệp sĩ, chứ chưa kể đến là một hiệp sĩ của một tổ chức tôn giáo quân sự.

Thời tiết ấm, dù hơi nhiều mây. Thỉnh thoảng lại mưa tí tách, và các khe suối ngập trong sương mù. Những ngọn đồi phủ kín cây xanh gợi cho hiệp sĩ Heinrich nhớ về quê nhà Thuringia và bà mẹ của mình, và cả sự thật là đã một tháng anh ta chưa ở cùng một người phụ nữ nào. Các cung thủ đi đằng sau đang ngâm nga một bản ballad được viết bởi Walther von der Vogelweide. Hasso Planck gật gà trên yên ngựa.

Wer guter Fraue Liebe hat

Der schamt sich aller Missetat…

Cuộc hành trình diễn ra êm xuôi và ai mà biết được, có thể nó sẽ êm xuôi như vậy cho đến hết quãng đường, nếu như không phải vì hiệp sĩ Heinrich chợt trông thấy một hồ nước lấp lánh ở bên dưới vào tầm giữa trưa. Và bởi vì ngày hôm sau sẽ là thứ sáu và tục lệ yêu cầu họ phải ăn thịt đỏ, vị hiệp sĩ ra lệnh cho người của mình phi xuống và tìm kiếm quanh đó một ngôi nhà của ngư dân.

Cái hồ rất rộng, và thậm chí có cả một hòn đảo trên đó. Không ai biết tên nó là gì, nhưng chắc gọi là Hồ Thiêng. Trên vùng đất ngoại đạo này – như thể một sự mỉa mai – gần như cái hồ nào cũng được gọi là “thiêng”.

Móng ngựa của họ giẫm lên lớp vỏ sò nằm trên bờ. Sương mù bao phủ cái hồ, nhưng có thể thấy rõ là nó không có người ở. Không có dấu hiệu nào của một con thuyền, hay lưới đánh cá, hay một sinh linh nào khác. Chúng ta sẽ phải tìm ở nơi khác thôi, Heinrich von Schwelborn nghĩ. Và nếu không được thì đành chịu. Chúng ta sẽ ăn những gì mang theo bên mình, kể cả nếu đó là thịt lợn hun khói, và ở Malbork chúng ta sẽ xưng tội, cha xứ sẽ yêu cầu hình phạt và tội lỗi sẽ được xóa bỏ.

Anh ta đang chuẩn bị ra lệnh thì nghe thấy tiếng ong ong bên tai, và Hasso Planck hét lên kinh hoàng. Von Schwelborn nhìn và sững lại. Và làm dấu thánh.

Anh ta trông thấy hai con ngựa: một trắng một đen. Dù vậy phải một lúc sau vị hiệp sĩ mới nhận ra với sự kinh hãi rằng con ngựa trắng có một cái sừng xoắn vặn trên đầu. Anh ta cũng trông thấy một cô gái đang ngồi trên con ngựa đen, mái tóc màu tro chải chuốt để che đi một bên má. Những bóng ma dường như không chạm chân xuống đất hay mặt nước – như thể chúng đang bay lơ lửng phía trên làn sương bao quanh hồ.

Con ngựa đen hý lên.

“Úi…” cô gái với mái tóc xám nổi bật nói, “Ire lokke, ire tedd! Squaess’me.”

“Hỡi đức thánh Ursula…” Hasso lầm bầm, trắng như giấy. Các cung thủ mồm há hốc, và làm dấu thánh.

Von Schwelborn cũng làm dấu thánh, và với bàn tay run rẩy rút thanh kiếm ra khỏi vỏ.

“Đức mẹ Mary, đức mẹ thánh thần!” Anh ta hét lên. “Hãy sát cánh cùng con!”

Hiệp sĩ Heinrich đã không khiến tổ tiên của mình phải hổ thẹn ngày hôm đó, bao gồm cả Dietrich von Schwelborn, người đã anh dũng chiến đấu ở Damietta, và là một trong số những người ít ỏi đã không bỏ chạy khi bọn Saracens phù phép và triệu hồi lên một con quỷ để chống lại quân thập tự chinh. Sau khi thúc ngựa và tưởng nhớ lại vị cha ông can trường của mình, Heinrich von Schwelborn xông vào những bóng ma.

“Nhân danh Giáo Hội và thánh George!”

Con kỳ lân trắng chồm lên và con ngựa đen nhảy múa. Cô gái, có thể thấy rõ, vô cùng hốt hoảng. Heinrich von Schwelborn tiếp tục phi. Ai mà biết được kết cục sẽ thế nào nếu không phải vì làn sương chợt thổi về phía anh ta và hình ảnh đoàn lữ hành kỳ quái bỗng tan chảy, vỡ tung thành một dải màu sắc như khung kính cửa sổ bị đá ném bể. Và mọi thứ biến mất. Mọi thứ. Con kỳ lân, con ngựa đen và cô gái kỳ lạ…

Con ngựa của Heinrich von Schwelborn lao xuống hồ và dừng lại, ngó nghiêng, hý một tiếng và gặm dây cương.

Hasso Planck, vật lộn để kiểm soát con ngựa của mình, chạy lại phía vị hiệp sĩ. Von Schwelborn thở hồng hộc, gần như khò khè, mắt mở to như cá chết trương.

“Thề trên xương cốt thánh Ursula, thánh Cordula và tất cả mười một ngàn trinh nữ tử vì đạo của Cologne…” Hasso Planck lắp bắp. “Cái gì vậy, ngài Heinrich? Một phép màu? Một điềm báo?”

“Bàn tay của quỷ!” Von Schwelborn hớp hơi, giờ trắng bệch và run rẩy. “Ma thuật đen!

Phép phù thủy! Bọn ngoại đạo ma quỷ chết tiệt…”

“Chúng ta nên ra khỏi đây, thưa ngài. Nhanh hết mức có thể…Pelplin cách đây không xa lắm, miễn sao là nằm trong phạm vi tiếng chuông nhà thờ…”

Hiệp sĩ Heinrich đứng nhìn lại lần cuối trên một ngọn đồi khi ra khỏi khu rừng. Cơn gió đã thổi bay làn sương và mặt hồ lấp lánh đã trở nên mờ đục, lăn tăn ở những nơi không được che chắn bởi bức tường cây.

Một con đại bàng vĩ đại lượn trên mặt hồ.

“Vùng đất ngoại đạo vô thần,” Heinrich von Schwelborn lầm bầm. “Công việc vô cùng nặng nhọc đang chờ đợi chúng ta, trước khi Giáo Hội Hiệp sĩ Sùng đạo cuối cùng xua đuổi được quỷ dữ ra khỏi cái ổ Slav này.”

***

“Ngựa Nhỏ,” Ciri nói, vừa quở trách vừa mỉa mai. “Ta không muốn tỏ ra phiền hà đâu, nhưng ta đang vội một chút để quay về thế giới của mình. Bạn bè và gia đình ta đang đợi, ngươi biết mà, đúng không? Thế mà đầu tiên chúng ta hiện ra cạnh một cái hồ nào đó với mấy gã dở người mặc quần áo kẻ, rồi đụng phải một nhóm đầu bù tóc rối bẩn thỉu la hét om sòm vác dùi cui, và cuối cùng là một kẻ điên với một hình chữ thập đen trên áo choàng. Chúng đều là những thời điểm sai, địa điểm sai! Làm ơn hãy cố gắng hơn một tí. Ta cầu xin ngươi.”

Ihuarraquax hý, gật đầu và truyền suy nghĩ gì đó cho cô. Ciri không hiểu lắm. Cô bé không có thời gian để thắc mắc trước khi bên trong hộp sọ lại tràn ngập cảm giác thông suốt lạnh lẽo, tiếng ù ù bên tai và toàn thân ngứa ngáy.

Và bóng tối lại bao phủ lần nữa.

***

Nimue, cười sung sướng, kéo tay người đàn ông. Cả hai chạy xuống cái hồ, luồn lách giữa những thân phong và trăn non. Trên bờ hồ rải cát, Nimue đá đôi dép sang bên, nhấc váy và chạy chân trần xuống nước. Người đàn ông cởi giày, nhưng không xuống nước. Anh ta bỏ áo choàng và cẩn thận trải nó ra trên mặt đất.

Nimue chạy lại chỗ anh ta và vòng tay quanh cổ. Cô đứng nhón chân, và kể cả như vậy người đàn ông vẫn phải cúi xuống thật thấp để hôn. Đâu phải vô cớ mà họ gọi cô là Thumbelina, nhưng giờ khi cô đã 18 và là một học viên phép thuật, cái đặc quyền sử dụng biệt danh đó chỉ dành riêng cho những người bạn thân nhất của cô. Và một vài người đàn ông.

Người đàn ông, môi dính chặt với Nimue, luồn tay ra sau lưng cô.

Mọi chuyện xảy ra rất nhanh sau đó. Cả hai nằm trên tấm áo choàng trải dưới cát. Váy của Nimue kéo lên quá eo, đôi chân quấn quanh người đàn ông và móng tay cắm vào vai và lưng anh ta thật mạnh. Mỗi khi anh ta yêu cô – vẫn quá nôn nóng như mọi lần – cô nghiến răng, nhưng nhanh chóng bắt kịp sự phấn khích của anh ta. Người đàn ông phát ra những âm thanh lố bịch. Qua vai anh ta, Nimue ngắm nhìn những đám mây mang hình dạng phi thường chầm chậm trôi ngang bầu trời.

Thứ gì đó khẽ rung như một hồi chuông dưới nước. Nimue nghe thấy tiếng ù ù bên tai. Ma thuật, cô nghĩ, và quay đi khỏi gương mặt của người đàn ông. Đang đứng trên bờ – lơ lửng phíatrên mặt nước, là một con kỳ lân trắng. Bên cạnh nó là một con ngựa đen. Trên lưng con ngựa đen là một cô gái…

Nhưng mình biết huyền thoại này, ý nghĩ thoáng chạy qua đầu Nimue. Mình biết câu truyện cổ tích này! Khi mình là một đứa trẻ, một đứa trẻ bé xíu, khi mình được nghe câu truyện đó. Người kể truyện rong, ông già Pogwizd, đã kể cho cô nghe. Nữ witcher Ciri…với vết sẹo trên má…con ngựa đen Kelpie…Kỳ lân…vùng đất của elves…

Chuyển động của người đàn ông, mà không hề hay biết gì về hiện tượng đang xảy ra, ngày càng trở nên dồn dập, và âm thanh mà anh ta phát ra ngày càng nghe mắc cười.

“Úi!” cô gái trên lưng con ngựa đen nói. “Lại nhầm nữa rồi! Đây không phải đúng nơi, và đúng thời điểm. Và thêm nữa, tôi lại đến vào lúc không hay ho chút nào. Xin lỗi.”

Hình ảnh chợt mờ dần và vỡ vụn, như thủy tinh bị đập bể, tan thành muôn mảnh như bảy sắc cầu vồng, sáng chói và lấp lánh. Rồi tất cả biến mất.

“Không!” Nimue hét lên. “Không! Đừng biến mất! Tôi không muốn cô biến mất!”

Cô duỗi chân ra và cố giải thoát mình khỏi vòng tay của người đàn ông, nhưng không thể – anh ta khỏe và nặng hơn cô nhiều. Người đàn ông rên và rên.

“Ôi, Nimue…Ôi!”

Nimue la lên và cắn vào vai anh ta.

Họ nằm trên tấm áo choàng nhàu nhĩ, mồ hôi nhễ nhại và run rẩy. Nimue liếc về phía bờ hồ, nơi những cơn sóng đánh thành bọt trắng xóa. Nhìn bụi sậy bị đè rạp bởi gió. Nhìn khoảng không vô vọng và trống rỗng, bị để lại sau lưng huyền thoại đã biến mất.

Một giọt lệ lăn xuống mũi cô.

“Nimue…có chuyện gì sao?”

“Ừ.” Cô nằm ôm lấy anh ta, nhưng mắt vẫn dõi theo cái hồ. “Đừng nói gì cả. Hãy ôm em và đừng nói gì cả.”

Người đàn ông mỉm cười tự hào.

“Anh biết chuyện gì đã xảy ra rồi,” anh ta nói đầy ngạo nghễ, “Trái đất vừa mới rung chuyển phải không?”

Nimue mỉm cười buồn bã.

“Không chỉ trái đất,” cô đáp lại sau một hồi im lặng. “Không chỉ trái đất.”

***

Ánh sáng. Bóng tối. Địa điểm tiếp theo.

***

Nơi này âm u, ma quái và ghê rợn.

Ciri bất giác cúi gập người lại. Cô thấy sốc, cả về thể xác lẫn tinh thần. Móng ngựa của Kelpie giẫm lên thứ gì đó dẹt và nhẵn nhụi, bền bỉ và cứng rắn như đá. Sau một khoảng thời gian dài trôi giữa thinh không mềm mại, cảm giác cứng bất ngờ và khó chịu đến nỗi con ngựa hý lên và chợt chạy sang bên, móng giậm xuống lớp đá cứng theo nhịp điệu khiến răng Ciri đánh lạo xạo.

Cú sốc thứ hai là do mùi. Ciri hớp hơi và lấy tay áo che mũi và mồm. Cô cảm thấy nước mắt ứa ra.

Bay xung quanh cô là một thứ mùi chua tanh, đậm đặc và nhớp nháp. Nó nghẹn ngào và kinh tởm đến mức cô không thể nhớ đã từng ngửi thứ mùi như này trong đời bao giờ. Đó là thứ mùi của thối rữa, như một xác chết đến giai đoạn phân hủy cuối cùng, thứ mùi của tàn phá và hủy diệt, và cô có cảm giác rằng bất kỳ cái gì đang thối rữa đó cũng chẳng có mùi khá hơn là bao kể cả trong lúc còn sống.

Cô cúi gập người theo cảm giác nôn mửa mà mình không thể kiểm soát được nữa. Kelpie khụt khịt và lắc đầu. Con kỳ lân hiện ra bên cạnh họ ngồi dựa vào chân sau, nhảy lên và đá. Cú va chạm với bề mặt cứng rắn được đáp lại bằng một tiếng vang trầm đục.

Xung quanh họ, màn đêm đen ngòm và quấn chặt như một lớp sương mù. Ciri ngước lên để định vị bằng những ngôi sao, nhưng phía trên đầu cô chỉ là khoảng không trống rỗng, bên trên đường chân trời một chút là ánh đỏ của một ngọn lửa cháy đằng xa.

“Úi,” cô nói, và cảm nhận được làn không khí chanh chua và nhớp nháp trên môi. “Brrr. Nhầm nơi, nhầm thời điểm. Chắc chắn là như vậy!”

Con kỳ lân khịt mũi và lắc đầu, chiếc sừng vẽ một cung tròn ngắn.

Mặt đất dưới móng Kelpie là đá, nhưng nhẵn nhụi một cách lạ lùng, tỏa ra mùi khét và tro tàn cực mạnh. Phải mất một lúc Ciri mới nhận ra rằng mình đang nhìn vào một con đường. Cô đã chịu quá đủ cảm giác rắn chắc khó chịu này rồi. Cô hướng con ngựa sang lề đường, được đánh dấu bởi thứ gì đó chắc đã từng là những thân cây, nhưng giờ chỉ trông như mấy bộ xương xấu xí, mắc vài mảnh vải rách bươm có cảm giác như một tấm áo choàng mục nát.

Con kỳ lân hý lên một tiếng cảnh báo và gửi đi một tín hiệu. Quá trễ.

Những cái cây chết bắt đầu dốc xuống và kết thúc bằng một vách đá sâu hun hút. Ciri hét lên và thúc vào hông con ngựa. Cơ bắp của Kelpie cuộn lên và móng guốc giẫm nát thứ đang bao phủ – hoặc tạo nên – con dốc, rác rưởi, chủ yếu là một loại nồi rỗng kỳ lạ nào đó. Những cái nồi này không vỡ ra dưới móng ngựa, mà nổ tung với cảm giác mềm mại, như bàng quang một con cá. Mỗi cái đều khẽ kêu ọc ọc và tỏa ra một thứ mùi suýt thì hất Ciri ngã khỏi yên ngựa. Kelpie hý điên cuồng, hướng về phía con đường. Ciri mắc nghẹn bởi mùi hôi, bám chặt lấy bờm con ngựa.

Họ thoát được. Cảm giác rắn chắc khó chịu của con đường được chào đón bằng một hỗn hợp kỳ lạ giữa vui sướng và nhẹ nhõm.

Ciri vẫn còn rùng mình khi nhìn xuống đồi. Dưới đáy vách đá là một cái hồ đen ngòm. Bề mặt lấp lánh và phẳng lặng, như thể không chứa nước mà là nhựa thông đóng rắn. Đằng sau cái hồ, vượt qua hàng đống tro tàn và rác rưởi, bầu trời rực lên ánh lửa ở đằng xa.

Từng cột khói bốc lên nơi đường chân trời.

Con kỳ lân khịt mũi. Ciri muốn quệt nước mắt bằng tay áo, nhưng nhận ra tay áo mình bám đầy bụi. Một lớp bụi cũng đang phủ lên đùi cô, yên ngựa, cổ và bờm của Kelpie. Mùi hôi là không thể chịu nổi.

“Thật kinh tởm làm sao,” cô lầm bầm. “Kinh tởm…Đi thôi. Hãy nhanh chóng rời khỏi đây, Ngựa Nhỏ.”

Con kỳ lân vểnh tai lên.

Chỉ cô mới có thể khiến điều đó xảy ra. Làm đi.

“Ta? Một mình sao? Không có sự giúp đỡ của ngươi?”

Con kỳ lân gật cái sừng. Ciri gãi đầu, thở dài và nhắm mắt lại. Cô tập trung.

Đầu tiên, chỉ có sự hoài nghi, buông xuôi và sợ hãi. Nhưng một thứ ánh sáng mát lạnh – ánh sáng của tri thức và quyền năng – nhanh chóng tràn qua người cô. Cô không biết tri thức và quyền năng đó ở đâu ra. Nhưng cô biết mình có thể làm được. Rằng cô sẽ làm được nếu muốn.

Cô liếc nhìn cái hồ bất động, đống rác bốc khói và những thân cây xương xẩu một lần nữa.

Bầu trời rực lên ánh lửa đằng xa.

“Ta mừng là đây không phải thế giới của mình.” Cô cúi xuống và khạc một bãi. “Rất mừng!”

Con kỳ lân hý lên một tiếng đầy ẩn ý. Cô hiểu điều mà nó muốn nói.

“Kể cả nếu nó có là của ta,” cô lau mắt, mũi và mồm bằng một cái khăn tay, “thì ta hy vọng rằng nó cách xa vô tận trong thời gian. Hoặc là trong quá khứ, hoặc…”

Cô dừng lại.

“Quá khứ,” cô nói khẽ sau một lúc. “Ta tin rằng đây là quá khứ.”

***

Họ chào đón cơn mưa rào tại địa điểm tiếp theo như một phước lành. Cơn mưa khá ấm và thơm, có mùi như mùa hè, cỏ, bùn và nhanh chóng rửa trôi bụi bẩn và tro tàn từ một thế giới đã chết.

Tuy nhiên, sau một lúc, sự tẩy rửa dài đằng đẵng trở nên khó chịu. Nước chảy xuống cổ áo Ciri, ngấm vào da và khiến cô thấy lạnh. Vậy nên họ ra khỏi nơi ẩm ướt đó.

Bởi đấy vẫn chưa phải đúng nơi. Và đúng thời điểm.

***

Nơi tiếp theo rất ấm, thời tiết nóng nực vô cùng, nên Ciri, Kelpie và con kỳ lân nhanh chóng được sấy khô và nước bốc hơi khỏi người họ như ấm trà. Cái nóng giày vò từ mặt trời trên đỉnh khu rừng. Họ có thể thấy nó là một khu rừng vĩ đại, dày đặc và hoang dã.

Trong cái nóng như đổ lửa, Ciri hy vọng rằng đây có thể là rừng Brokilon, một địa điểm quen thuộc.

Họ đi chậm rãi vòng quanh bìa rừng. Ciri tìm kiếm xung quanh bất kỳ dấu hiệu nào có thể cho thấy họ đang ở đâu. Con kỳ lân khịt mũi, ngẩng đầu lên và cũng nhìn xung quanh, đánh hơi.

Nó có vẻ bồn chồn.

“Ngựa Nhỏ, ngươi có nghĩ là,” cô nói, “chúng có thể đuổi theo ta không?”

Tiếng khịt mũi của nó rất dễ hiểu và rõ ràng, thậm chí không cần phải gửi tín hiệu.

“Chúng ta vẫn chưa chạy đủ xa ư?”

Suy nghĩ mà nó truyền sang, cô không thể hiểu được. Không xa mà cũng chẳng gần? Thế nghĩa là sao? Vòng Xoắn? Vòng xoắn nào?

Cô không hiểu nó muốn nói gì. Nhưng cô hiểu sự lo lắng của nó.

Cánh đồng hoang cũng chưa phải là đúng nơi, và đúng thời điểm.

Họ nhận ra vào đêm đó, khi nhiệt độ đã hạ, và thay vì một, hai mặt trăng lại hiện ra phía trên khu rừng. Một lớn, một nhỏ.

***

Nơi tiếp theo là một bờ biển, một vách đá dựng đứng, mà từ đó họ trông thấy những cơn sóng bạc đầu xô vào những tảng đá hình thù kỳ lạ. Họ ngửi thấy mùi gió biển, chim nhạn và hải âu đầu đen kêu từng hồi, bao phủ mép đá bằng một lớp trắng xóa. Biển kéo dài đến tận đường chân trời u tối, mây mù.

Phía bên dưới, trên bờ biển lởm chởm, Ciri chợt nhận ra bộ xương một con cá khổng lồ với cái đầu bự chảng nửa chôn vùi dưới lớp sỏi. Những cái răng chìa ra từ bộ hàm trắng phải dài gần một mét, và bản thân bộ hàm có cảm giác như một người có thể cưỡi ngựa đi qua nó và dạo chơi bên trong lồng ngực mà đầu không chạm đến sống lưng.

Ciri không dám chắc rằng một con cá như vậy tồn tại ở thế giới của mình, hay thời điểm của mình.

Họ đi dọc mép vực, và lũ hải âu không hề sợ hãi chút nào, miễn cưỡng đứng tránh khỏi đường của họ. Chúng thậm chí còn mổ cả Kelpie và Ihuarraquax! Ciri biết rằng những con chim này chưa từng trông thấy ngựa hay kỳ lân bao giờ. Và cả con người cũng vậy.

Ihuarraquax khịt mũi, lắc đầu và sừng với vẻ bất an lộ rõ.

Hóa ra nó đã đúng. Thứ gì đó rách, nghe như tiếng vải bị xé vụn. Lũ hải âu kêu quang quác và bay lên, bao phủ mọi thứ trong một đám mây lông vũ trắng xóa. Bầu không khí phía trên vách đá chợt rung động và mờ đục như thủy tinh bị hắt nước. Rồi vỡ tung. Từ khe nứt và bóng tối, các kỵ sĩ hiện ra. Vạt áo choàng tung bay sau lưng mang sắc màu của bầu trời lúc hoàng hôn.

Dearg Ruadhri. Kỵ Sĩ Đỏ.

Kể cả trước khi tiếng chim kêu và tiếng ngựa hý tắt hẳn, Ciri đã thúc con ngựa chạy nước đại. Nhưng không khí cũng vỡ vụn ở những chỗ khác, và từ khe nứt, vạt áo choàng tung bay như đôi cánh, thêm nhiều kỵ sĩ hiện ra hơn. Những kẻ truy đuổi tạo thành một nửa cung tròn khép lại, ép họ ra mép vực. Ciri hét lên, rút Swallow ra khỏi vỏ.

Con kỳ lân bắn một tín hiệu xuyên qua não cô như mũi kim. Lần này thì cô hiểu. Nó đang chỉ cho cô đường thoát. Một khe hở giữa vòng tròn. Trong khi con kỳ lân chồm lên, hý một tiếng sắc lẹm và giương sừng lao vào lũ elves.

“Ngựa Nhỏ!”

Hãy tự cứu mình đi, Mắt Sao! Đừng để chúng bắt được cô!

Ciri nép sát vào bờm Kelpie.

Hai tên elves chắn đường cô. Chúng mang hai cây gậy có thòng lọng buộc ở cuối. Chúng cố tròng dây qua cổ Kelpie. Cái đầu tiên, con ngựa điệu nghệ thụp xuống để né mà không giảm tốc độ. Cái thứ hai bị cắt rời bởi một đường kiếm từ thanh gươm của Ciri. Con ngựa phi qua giữa hai tên elves như một cơn bão.

Nhưng những kẻ truy đuổi khác đã đang ở sát ngay sau, Ciri nghe thấy tiếng hét của chúng và tiếng móng ngựa rầm rập. Chuyện gì đã xảy ra với Ngựa Nhỏ? Chúng đã làm gì nó?

Cô không có thời gian để chiêm nghiệm. Con kỳ lân đã đúng, cô không thể để bản thân mình bị bắt. Cô phải trốn thoát vào không gian, ẩn náu, và cắt đuôi chúng trong mê cung của không gian và thời gian. Cô tập trung, nhận ra với sự khiếp đảm rằng trong đầu mình chẳng có gì ngoài sự trống rỗng kỳ lạ và cảm giác bối rối ngày càng rõ rệt.

Chúng đã ếm một câu thần chú lên mình, cô nghĩ. Chúng muốn lừa gạt mình bằng phép thuật. Nhưng kể cả phép thuật cũng có giới hạn nhất định. Mình không thể để chúng lại gần.

“Chạy đi, Kelpie!”

Con ngựa đen vươn cổ ra và bay như cơn gió. Ciri nép sát xuống bờm để giảm tối đa sức cản không khí.

Tiếng hét sau lưng mà phút trước còn lớn và gần đến nguy hiểm, dần phai nhạt và bị nhấn chìm giữa tiếng chim kêu hốt hoảng. Rồi hoàn toàn im lặng.

Kelpie chạy như vũ bão. Gió biển gào qua tai họ.

Tiếng hét ở xa của những kẻ truy đuổi mang theo âm điệu phẫn nộ. Chúng đã nhận ra rằng không thể bắt kịp cô. Chúng sẽ không bao giờ có thể bắt kịp con ngựa đen mà chạy không biết mệt mỏi, nhẹ nhàng và dẻo dai như báo đốm.

Ciri không ngoái ra sau. Cô biết rằng chúng vẫn đang bám đuổi. Chúng sẽ đuổi cho đến khi ngựa khò khè và đổ gục xuống đất, mồm há hốc và sùi bọt. Chỉ khi đó chúng mới dừng lại và la hét những lời chửi rủa và đe dọa đầy bất lực mà cô không còn nghe được nữa.

Kelpie bay như cơn gió.

***

Nơi mà cô đã chạy đến khô và gió quật vần vũ. Cơn gió thét gào nhanh chóng thổi bay nước mắt trên mặt cô. Cô đang ở một mình. Lại lần nữa đơn độc. Một kẻ lang thang, một khách lữ hành vĩnh cửu, một thủy thủ lạc lõng trên đại dương vô tận, giữa những hòn đảo của không gian và thời gian.

Một thủy thủ đang dần hết hy vọng.

Cơn gió thét gào, cuốn theo từng bụi cỏ khô thổi qua khe nứt trên mặt đất.

Cơn gió thổi bay nước mắt cô.

***

Bên trong đầu cô là cảm giác thông suốt mát lạnh, bên tai cô là tiếng ù ù, lầm rầm không dứt như trái tim một vỏ sò. Cổ họng cô bỏng rát. Bóng tối mềm mại.

Một nơi mới. Một thời điểm mới. Những hòn đảo của không gian và thời gian.

***

“Đêm nay,” Nimue nói, quấn mình trong tấm chăn lông, “sẽ là một đêm tốt. Tôi cảm thấy như vậy.”

Condwiramurs không bình phẩm, mặc dù đã từng nghe những lời đảm bảo tương tự nhiều lần rồi. Bởi đây không phải là đêm đầu tiên họ ngồi ngoài mái hiên, với cái hồ rực ánh hoàng hôn trước mặt, và chiếc gương cùng tấm thảm ma thuật sau lưng.

Từ cái hồ vọng lại tiếng nguyền rủa của Vua Đánh Cá, không ngại ngần trong việc bày tỏ sự khó chịu của mình đối với việc câu cá thất bại. Dựa vào tiết mục của anh ta, có thể kết luận rằng ngày hôm nay là một thất bại thảm hại.

“Thời gian,” Nimue lên tiếng, “không có bắt đầu cũng chẳng có kết thúc. Nó như thể con rắn Ouroboros ngậm chính cái đuôi của mình. Mỗi thời điểm ẩn giấu sự vĩnh cửu và sự vĩnh cửu được tạo nên từ mỗi phút giây. Vĩnh cửu là một quần đảo những khoảnh khắc. Ta có thể dong thuyền qua nó, mặc dù việc định hướng là rất khó khăn, và vô cùng nguy hiểm nếu đi lạc. Cần phải có một ngọn hải đăng chỉ đường trong bóng tối. Cần phải có một giọng nói kêu gọi qua màn sương…”

Cô dừng lại trong giây lát.

“Huyền thoại thú vị này kết thúc ra sao đây? Đối với hai ta – cô và tôi – chúng ta đều biết kết cục của nó là gì rồi. Nhưng Ouroboros vẫn đang ngậm đuôi mình. Phải, cách mà huyền thoại kết thúc vẫn còn đang tiếp diễn. Ngay tại thời khắc này. Kết cục của huyền thoại sẽ phụ thuộc vào giây phút người thủy thủ lạc lõng giữa quần đảo của khoảnh khắc trông thấy được ánh sáng từ ngọn hải đăng. Và nghe thấy tiếng gọi.”

Một câu chửi thề, tiếng quẫy nước và mái chèo lục đục có thể được nghe thấy từ cái hồ.

“Đêm nay sẽ là một đêm tốt. Đêm cuối cùng trước hạ chí. Mặt trăng đang nhỏ dần. Mặt trời đang tiến vào Nhà số 4, tiến vào cung Ma Kết. Thời điểm tốt nhất để chiêm đoán…Thời điểm tốt nhất…Tập trung vào, Condwiramurs.”

Condwiramurs, như rất nhiều lần trước đó, vâng lời và tập trung, chầm chậm tiến vào trạng thái lên đồng.

“Hãy tìm cô ấy,” Nimue nói. “Cô ấy đang ở đâu đó giữa những vì sao, giữa ánh trăng. Giữa những hòn đảo của không gian và thời gian. Cô ấy đang đơn độc. Cô ấy cần sự giúp đỡ. Hãy giúp cô ấy, Condwiramurs.”

***

Tập trung, tay đặt lên thái dương. Tiếng ù ù bên tai, như bên trong một vỏ sò. Ánh sáng. Và rồi bóng tối.

***

Cô đang ở nơi có thể trông thấy những giàn hỏa thiêu đang cháy. Những người phụ nữ bị xích vào cột hú lên hoang dại và kinh hoàng, cầu xin lòng nhân từ trong khi đám đông tụ tập bên dưới cười đùa và nhảy múa. Cô đang ở nơi một thành phố lớn đang bốc cháy, tiếng lửa gầm rú và lửa đỏ bắn lên từ những mái nhà đang sập, khói đen phủ kín bầu trời. Cô đang ở nơi hai con thằn lằn hai chân khổng lồ đang quần nhau, và máu tuôn ra từ bên dưới răng nanh và móng vuốt.

Cô đang ở nơi hàng trăm những cối xay gió trắng giống hệt vươn lên bầu trời bằng những cánh quạt mảnh mai. Cô đang ở nơi hàng ngàn con rắn rú rít và quằn quại trên đá tảng, tiếng vảy cọ xát kêu lạo xạo.

Cô đang ở nơi chỉ có bóng tối, và trong bóng tối là những tiếng thì thầm khiếp đảm.

Còn nhiều nơi hơn nữa. Nhưng chẳng nơi nào là đúng cả.

***

Việc di chuyển từ nơi này sang nơi khác đã trở nên dễ dàng đến mức cô bắt đầu thử nghiệm. Một trong số những nơi mà cô không thấy sợ là cánh đồng hoang ấm áp nằm cạnh bìa rừng nơi treo hai mặt trăng. Hồi tưởng lại cảnh tượng những mặt trăng đó và lặp đi lặp lại trong đầu điều mình muốn, Ciri tập trung, và lao vào cõi hư vô.

Cô thành công vào lần thử thứ hai.

Giờ đã được tiếp thêm can đảm, cô quyết định thử nghiệm một việc còn liều lĩnh hơn. Rõ ràng là ngoài không gian, cô còn có thể đi xuyên qua thời gian. Vysogota đã từng nói về chuyện này, cũng như đám elves, và kỳ lân. Cô đã từng làm được – dù cho là vô tình – trước đây một lần rồi! Khi cô bị thương ở mặt và đã trốn thoát khỏi những kẻ truy đuổi vào thời gian, nhảy đến bốn ngày sau, và rồi Vysogota đã không thể hiểu được bốn ngày đó đi đâu mất. Ông ta không hiểu được…

Có lẽ đây là cơ hội của cô? Một cú nhảy vào thời gian?

Cô quyết định thử. Cái thành phố bốc cháy chẳng hạn, nó đâu thể cứ cháy mãi như thế, đúng không? Và nếu cô có thể nhảy đến thời điểm trước đám cháy thì sao? Hay là sau đám cháy?

Cô hạ cánh gần như vào giữa trung tâm ngọn lửa, làm cháy xém lông mày và lông mi của mình và khơi lên cơn hoảng loạn kinh hãi đối với các nạn nhân đang tìm đường trốn chạy khỏi thành phố bốc hỏa.

Cô chạy trốn tới cánh đồng quen thuộc. Có lẽ không nên liều như vậy, cô nghĩ, có quỷ mới biết chuyện gì có thể xảy ra. Mình nhảy giữa các địa điểm tốt hơn, vậy có lẽ cứ bám lấy các địa điểm thôi. Hãy thử những nơi quen thuộc, những nơi mình còn nhớ rõ. Và những nơi mình được an toàn.

Cô bắt đầu bằng Đền thờ Melitele, mường tượng ra cánh cổng, những tòa nhà, sân vườn và công xưởng, ký túc xá của học viên, và căn phòng nơi Yennefer đã từng sống. Cô tập trung, tay đặt lên thái dương, triệu hồi lại hình ảnh gương mặt Nenneke, Eurneid, Katye và Iola đệ Nhị.

Không có gì xảy ra cả. Cô thấy mình ở giữa một đầm lầy bao quanh là sương mù và muỗi, âm vang tiếng rùa huýt sáo và cóc nhái ếch ộp.

Cô lại thử – mà cũng chẳng khá hơn – với Kaer Morhen, Quần đảo Skellige, và ngân hàng ở Gors Velen nơi Fabio Sachs đang làm việc. Cô không dám thử Cintra, vì biết rằng thành phố đang bị Nilfgaard chiếm đóng. Thay vào đó cô thử Vizima, thành phố nơi mình và Yennefer đã từng đi mua sắm.

***

Aarhenius Krantz, hiền triết, nhà hóa học và chiêm tinh học ngọ nguậy trên cái ghế gỗ với một mắt dán vào một cái kính viễn vọng. Ngôi sao chổi kích cỡ vĩ đại mà có thể được trông thấy trên bầu trời trong vòng gần như là một tuần nay, thực sự xứng đáng để quan sát và nghiên cứu. Aarhenius Krantz biết rằng một ngôi sao chổi như vậy, với cái đuôi đỏ rực, thường là điềm báo chiến tranh, tai họa và thảm sát. Nhưng để nói thật thì ngôi sao chổi đến có phần hơi muộn so với lời tiên tri của mình, bởi cuộc chiến với Nilfgaard đã đang diễn ra rồi, và tai họa và thảm sát có thể được dễ dàng dự đoán chuẩn xác, bởi chẳng có ngày nào trôi qua mà không có chúng cả. Tuy nhiên, Aarhenius Krantz, người khá thông thạo sự di chuyển của những vì tinh tú, lại đang trông đợi có thể tính toán được xem trong bao nhiêu năm, hay bao nhiêu thế kỷ nữa, ngôi sao chổi sẽ xuất hiện lại. Dự báo một cuộc chiến khác, mà, ai biết được, có thể sẽ được chuẩn bị chu đáo hơn là cuộc chiến hiện tại này.

Nhà chiêm tinh học đứng dậy, mát xa lưng và đi giải quyết nỗi buồn. Từ trên sân thượng, qua hàng lan can lùn. Ông ta luôn đái thẳng từ trên sân thượng vào một chậu hoa nhài, không thèm quan tâm đến lời quở trách của người giúp việc. Đơn giản là vì quãng đường đến nhà vệ sinh quá xa. Tốn thời gian đi lại có thể khiến ông ta đánh mất vài quan sát quý báu, mà không một học giả nào có thể chịu được.

Ông ta đứng cạnh lan can và cởi khóa quần, ngắm nhìn ánh sáng của Vizima phản chiếu trên mặt hồ. Ông ta thở ra một hơi và ngước mắt lên trời.

Những vì sao, ông ta nghĩ, và chòm sao. Chòm Nữ Thần Mùa Đông, chòm Bảy Dê, chòm Bình Hoa. Dựa theo vài giả thiết, chúng không chỉ là những đốm sáng lấp lánh, mà là những thế giới. Những thế giới khác. Những thế giới cách biệt khỏi chúng ta bởi không gian và thời gian… ta thật sự tin rằng, một ngày nào đó những chuyến du hành sẽ đưa chúng ta đến những nơi ấy, đến những thời điểm khác và vũ trụ khác. Phải, chắc chắn là một ngày nào đó. Một con đường sẽ được tìm ra. Nhưng nó sẽ đòi hỏi lối suy nghĩ hoàn toàn mới, những ý tưởng nguyên bản xé tan tư duy cứng nhắc và bảo thủ của ngày hôm nay…

Ah, ông ta hy vọng, giá như mà nó có thể đạt được…Chỉ cần một người được truyền cảm hứng. Chỉ cần một cơ hội độc nhất vô nhị…

Thứ gì đó lóe sáng đằng sau sân thượng, bóng đêm vỡ tan như ánh sao, và một con ngựa hiện ra từ đó. Cùng một kỵ sĩ trên lưng. Một cô gái.

“Chào buổi tối,” cô lịch sự cất lời. “Tôi xin lỗi nếu đây không phải là thời điểm tốt đẹp. Nơi này là đâu? Và ngày tháng là gì?”

Aarhenius Krantz nuốt khan, há mồm và lầm bầm.

“Địa điểm,” cô gái kiên nhẫn nhắc lại. “Và thời gian.”

“Ờ…à…umm…”

Con ngựa khịt mũi. Cô gái thở dài.

“Chà, chắc lại đến nhầm chỗ rồi. Nhầm nơi, nhầm thời điểm. Nhưng hãy trả lời tôi, ông bạn! Bằng ít nhất là một từ hoàn chỉnh. Bởi không lẽ nào tôi lại đang ở trong một thế giới mà con người đã quên mất cách nói năng mạch lạc!”

“Ờ…”

“Một từ thôi.”

“Umm…”

“Vậy thì biến đi, lão già ngớ ngẩn.” Cô gái nói.

Rồi biến mất. Cùng với con ngựa.

Aarhenius Krantz ngậm mồm lại. Ông ta đứng đó một lúc, nhìn những ngôi sao, cái hồ và ánh sáng đằng xa của Vizima phản chiếu lên đó. Rồi ông ta cài cúc quần và quay lại làm việc.

Ngôi sao chổi vụt qua bầu trời. Một người nên quan sát nó, không để đôi mắt bị lạc mất nó. Dõi theo cho đến khi nó biến mất vào vực thẳm của vũ trụ. Đó là một cơ hội, và một học giả không thể bỏ lỡ một cơ hội như vậy.

***

Có lẽ mình nên thử theo hướng khác, cô nghĩ, ngắm nhìn hai mặt trăng phía trên cánh đồng,giờ là hai vành lưỡi liềm, một nhỏ, một lớn và ít khuyết hơn. Có lẽ không nên tưởng tượng ra địa điểm hay gương mặt, cô nghĩ, mà là khao khát…Ước muốn mãnh liệt điều gì đó, thật mạnh, từ trong tâm khảm…

Thử thì có hại gì đâu cơ chứ?

Geralt. Mình muốn tới bên Geralt. Mình rất muốn tới bên Geralt.

***

“Ôi không!” Cô kêu lên. “Giờ thì mình đang ở chỗ quái nào thế này?”

Kelpie xác nhận rằng mình cũng nghĩ tương tự bằng một tiếng hý, xì hơi qua mũi và cào cào móng guốc bám tuyết.

Cơn bão huýt sáo và rên rỉ, khiến họ mù lòa. Những bông tuyết sắc lẹm đốt má và tay cô. Cái lạnh tràn vào tận xương tủy, gặm nhấm các khớp như hàm sói. Ciri rùng mình, so vai lại và giấu cổ vào phần cổ áo gần như chẳng có là bao của mình.

Từ bên trái lẫn bên phải trồi lên những đỉnh núi hùng vĩ, đe dọa, xám xịt và trơn bóng, đỉnh núi biến mất đâu đó phía trên màn sương và cơn bão. Một dòng sông chảy xiết, dày đặc băng trôi chạy bên dưới thung lũng. Xung quanh chỉ toàn một màu trắng. Và cái lạnh.

Sức mạnh thế đó, Ciri nghĩ, cảm thấy bên trong mũi mình bắt đầu đóng băng. Quyền năng thế đó. Một Nữ thần của Thế Giới cao siêu làm sao. Mình muốn tới chỗ Geralt, và lại nhảy vào giữa nơi đồng không mông quạnh khỉ gió, giữa mùa đông và bão tuyết.

“Đi nào Kelpie, nhanh lên, không mi sẽ chết cóng bây giờ!” Cô nắm dây cương bằng những ngón tay tê liệt. “Nhanh nào, nhanh nào! Ta biết đây không phải là đúng nơi, ta sẽ đưa chúng ta ra khỏi đây, chúng ta sẽ sớm quay lại cánh đồng hoang ấm áp. Nhưng ta phải tập trung, và như thế sẽ mất chút thời gian. Vậy nên di chuyển đi! Nhanh nào!”

Kelpie xì ra một hơi từ lỗ mũi.

Cơn gió thổi mạnh. Tuyết bám lên mặt cô, chảy ra trên lông mi cô. Cơn bão tuyết thét gào.

***

“Nhìn kìa!” Angouleme cố át đi tiếng của cơn bão. “Nhìn kìa! Có dấu chân. Có người đã đi đường này!”

“Cô nói gì thế?” Geralt cởi chiếc khăn đã choàng quanh đầu để bảo vệ đôi tai. “Cô nói gì thế, Angouleme?”

“Dấu chân! Móng guốc!”

“Một con ngựa, ở đây?” Cahir cũng phải hét. Cơn bão thổi mạnh hơn, và có vẻ như dòng Sansretour cũng gầm lớn hơn nữa. “Làm sao một con ngựa có thể ở đây chứ?”

“Tự đi mà nhìn xem!”

“Đúng vậy,” con ma cà rồng bình phẩm, thành viên duy nhất của đoàn lữ hành không cho thấy dấu hiệu nào là đang chết cóng, bởi lẽ rõ ràng là ông ta cũng miễn nhiễm với nhiệt

độ thấp cũng như cao. “Móng guốc. Nhưng nó có phải là của một con ngựa không?”

“Không thể nào là một con ngựa.” Cahir mát xa hai bên má và mũi. “Không phải giữa nơi đồng không mông quạnh này. Dấu vết chắc hẳn là của một loài thú hoang nào đó. Khả năng cao là một con dê.”

“Dê cái đầu anh ý!” Angouleme hét trả. “Khi tôi bảo ngựa, thì ý của tôi là một con ngựa!”

Milva, như mọi khi, thích hành động hơn là lời nói. Cô nhảy khỏi yên ngựa và cúi xuống, kéo mũ trùm đầu ra sau.

“Con nhãi nói đúng đó, chắc chắn là một con ngựa.” Cô kết luận sau một hồi. “Tôi nghĩ thậm chí còn được đi giày là đằng khác, nhưng khó để nói được, cơn bão đã che mất dấu vết rồi. Nó hướng ra đằng kia, vào khe suối đó.”

“Ha!” Angouleme xoa tay vào nhau. “Tôi biết mà! Có người sống quanh đây! Hãy lần theo dấu vết đó và chúng ta có thể tìm được một căn chòi ấm cúng. Có lẽ là lửa cũng nên? Có lẽ họ sẽ chào đón ta?”

“Có lẽ là bằng một mũi tên từ một cây nỏ,” Cahir mỉa mai thêm vào.

“Sẽ hợp lý hơn nếu tiếp tục bám theo kế hoạch và con sông,” Regis quyết định bằng chất giọng toàn năng nhất có thể. “Và chúng ta sẽ không đụng phải nguy cơ bị lạc. Và dọc bờ sông Sansretour rải rác nhiều trạm buôn bán mà chúng ta có thể trú ngụ.”

“Anh nghĩ sao, Geralt?”

Witcher im lặng, mắt dõi vào cơn bão đang vần vũ.

“Chúng ta bám theo dấu vết.” Cuối cùng anh nói.

“Tôi không nghĩ…” con ma cà rồng bắt đầu, nhưng Geralt không để ông ta nói hết.

“Chúng ta bám theo dấu vết! Đi nào.” Anh ra lệnh.

Họ thúc ngựa, nhưng không đi được quá xa. Họ chỉ vào khe suối được khoảng một phần tư dặm.

“Chúng kết thúc rồi.” Angouleme nói, nhìn xuống lớp tuyết trắng xóa. “Con ngựa đã biến mất như một gánh xiếc elves.”

“Giờ thì sao đây, witcher?” Cahir quay đầu lại. “Dấu vết đã dừng. Chúng đã bị che lấp bởi cơn bão.”

“Không phải,” Milva nói. “Cơn bão không với tới nơi này, trong hẻm núi.”

“Vậy thì chuyện gì đã xảy ra với con ngựa?”

Nữ cung thủ nhún vai và co lại trên yên.

“Con ngựa đã đi đâu?” Cahir không bỏ cuộc. “Nó bay mất à? Hay bốc hơi? Hay là chúng ta đã tưởng tượng ra nó? Geralt? Anh nói sao?”

Cơn bão tru tréo phía trên khe suối, thổi từng cuộn tuyết xoay tròn.

“Tại sao,” con ma cà rồng hỏi, dò xét witcher thật cẩn thận, “anh lại yêu cầu chúng tôi bám theo dấu vết đó, Geralt?”

“Tôi không biết,” anh thú nhận sau một lúc. “Tôi…tôi đã cảm thấy gì đó. Thứ gì đó chạm đến mình. Không cần bận tâm. Ông nói đúng, Regis. Hãy quay trở lại dòng Sansretour và bám theo con sông. Không đi trệch đường nữa. Dựa theo những gì Reynart đã nói, mùa đông và thời tiết xấu thực sự đang đợi chúng ta đằng sau đèo Malheur. Khi tới đó chúng ta cần phải đầy đủ sức lực. Đừng có đứng đực ra như thế, quay lại nào.”

“Mà không cần làm rõ chuyện gì đã xảy ra với con ngựa kỳ lạ đó sao?”

“Có gì để mà làm rõ?” Witcher nói cay đắng. “Dấu vết đã bị che lấp, và chỉ có thế thôi. Hoặc có thể đấy thực sự là một con dê?”

Milva nhìn anh với vẻ kỳ lạ, nhưng không nói gì.

Khi họ quay trở lại bờ sông, dấu vết bí hiểm cũng đã không còn ở đó nữa, bởi lớp tuyết ẩm đã phủ lên chúng. Băng trôi dày đặc, xoay tròn giữa dòng nước xám như thiếc của Sansretour.

“Tôi muốn nói cái này,” Angouleme lên tiếng. “Nhưng mọi người phải hứa không được cười đấy nhé.”

Họ quay lại nhìn cô gái. Trong chiếc mũ bông trùm tai, má và mũi hồng hào vì lạnh, khoác một cái áo da cừu khổng lồ, cô trông thực sự mắc cười, như một con kobold nhỏ xíu mập mạp.

“Tôi muốn nói gì đó về dấu vết kia. Hồi tôi còn ở trong băng của Sơn Ca, họ nói rằng khi mùa đông tới, Vua Núi, thủ lĩnh của những con quỷ băng, sẽ cưỡi trên một con ngựa ma thuật đi qua đèo. Gặp phải hắn là đối mặt với cái chết. Ông nói sao, Geralt? Có thể nào…”

“Mọi thứ,” anh ngắt lời cô. “Mọi thứ đều có thể. Tiếp tục nào, mọi người. Phía trước chúng ta là đèo Malheur.”

Tuyết cắt qua mặt, cơn gió thổi và giữa những vách đá vọng lại tiếng la của quỷ băng.

***

Chỉ có điều là cánh đồng cô đã hạ cánh xuống không phải là cánh đồng mà cô biết, Ciri nhận ra ngay tức thì. Cô thậm chí không cần phải đợi đêm xuống. Cô chắc chắn rằng mình sẽ không nhìn thấy hai mặt trăng.

Khu rừng bên cạnh cũng hoang dại và khó tiếp cận như khu rừng kia, nhưng có thể nhận ra vài sự khác biệt. Chẳng hạn, ở đây có nhiều bạch dương và ít giẽ gai hơn. Cô chưa thấy hay nghe được tiếng con chim nào ở kia, trong khi có rất nhiều chim ở đây. Giữa những đụn thạch thảo chỉ có cát khô, nơi trước đây từng là một lớp thảm rêu xanh mướt. Thậm chí đến châu chấu nhảy dưới chân Kelpie cũng khác. Quen thuộc theo cách nào đó. Và rồi…

Tim cô bắt đầu đập nhanh hơn. Cô trông thấy một con đường, cỏ mọc um tùm và bị bỏ hoang. Dẫn vào trong rừng.

Ciri nhìn xung quanh thật cẩn thận và đảm bảo rằng con đường kỳ lạ không đi xa thêm nữa, rằng nó kết thúc tại đây. Rằng nó không dẫn vào trong rừng, mà từ trong rừng dẫn ra hoặc đi xuyên qua nó. Không cân nhắc lâu, cô thúc vào hông con ngựa và đi xuyên qua hàng cây. Mình sẽ đi về phía nam, cô nghĩ. Nếu không bắt gặp bất kỳ cái gì về phía nam, mình sẽ quay lại và hướng ra đằng sau cánh đồng.

Cô bước chậm rãi bên dưới những tán cây, chăm chú để ý, cố không bỏ qua chi tiết nào quan trọng. Bởi vì lẽ đó mà cô đã không bỏ sót một ông già đang đứng nhòm từ đằng sau một cây sồi.

Ông già rất lùn, nhưng không còng lưng, mặc một chiếc áo vải lanh và quần từ cùng loại vật liệu. Đôi chân đi một đôi dép to và trông rất mắc cười. Một tay ông ta cầm một cây gậy u bướu và tay kia một cái giỏ mây. Ciri không thể trông thấy mặt ông ta rõ ràng, bởi nó ẩn đằng sau chiếc mũ rơm tơi tả và lụp xụp, mà từ bên dưới chìa ra một cái mũi rám nắng và bộ râu xám rối bời.

“Đừng sợ,” cô nói. “Tôi sẽ không làm hại ông.”

Ông già râu xám chuyển từ chân này sang chân kia và bỏ mũ ra. Ông ta có một gương mặt tròn trịa lấm tấm đốm gan, hồng hào và không nhăn nheo cho lắm, lông mày rậm, và một cái cằm nhỏ. Mái tóc xám dài được buộc lại thành túm quanh cổ, nhưng đỉnh đầu hoàn toàn trọc, sáng bóng và vàng như bí ngô.

Cô trông thấy ông ta nhìn chuôi thanh kiếm đang thò ra sau lưng mình.

“Đừng sợ.” Cô nhắc lại.

“Ho, ho!” ông ta nói, hơi lầm bầm. “Ho, ho, cô gái trẻ. Già Rừng không sợ. Ông ta không phải loại hay sợ, ôi không đâu.”

Ông ta mỉm cười. Hàm răng lớn và nhô ra trước bởi quai hàm bị thu lại. Chính bởi vì vậy mà ông ta mới lầm bầm.

“Già Rừng không sợ khách lang thang,” ông ta nhắc lại. “Hay thậm chí là kẻ cướp đi chăng nữa. Già Rừng nghèo, ông ta nghèo lắm. Già Rừng hiền, ông ta không làm phiền ai cả. Này!”

Ông ta lại mỉm cười. Khi cười dường như chỉ toàn răng là răng.

“Còn cô, cô gái trẻ, cô không sợ Già Rừng sao?”

Ciri khịt mũi.

“Tôi không sợ, tưởng tượng mà xem. Tôi cũng không phải loại sợ sệt.”

“Này, này, này! Cô nói gì cũng được!”

Ông ta bước một bước về phía cô, tay chống lên gậy. Kelpie khịt mũi. Ciri kéo dây cương.

“Nó không thích người lạ,” cô cảnh báo. “Và nó hay cắn.”

“Này, này! Già Rừng biết chứ. Con ngựa hư đốn! Cô từ đâu đến vậy, cô gái? Và cô đang đi đâu?”

“Đó là một câu truyện dài. Con đường này dẫn tới nơi nào?”

“Cô không biết sao, cô gái?”

“Đừng trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi, nếu ông không phiền. Con đường đó sẽ dẫn tôi tới đâu? Vả lại, nơi này là nơi nào? Và…thời gian là gì?”

Ông già lại nhe răng ra, trông như một con hải ly.

“Này, này!” ông ta lầm bầm. “Cô hỏi thời gian là gì ư? A, có vẻ như cô đã du hành từ một nơi xa, rất xa đến chỗ Già Rừng, cô gái!”

“Từ rất xa, đúng như vậy,” cô thờ ơ gật đầu. “Từ những…”

“Nơi khác và thời điểm khác,” ông ta nói nốt. “Già biết. Già đoán được.”

“Cái gì?” Cô hỏi, cảm thấy phấn khích. “Sao ông đoán được? Ông biết điều gì sao?”

“Già Rừng biết nhiều.”

“Nói đi!”

“Cô chắc đói rồi phải không?” ông ta nhe răng ra. “Khát? Mệt? Nếu cô muốn, Già Rừng sẽ đem cô về chòi, cho cô ăn, cho cô uống. Để cô nghỉ.”

Trong một khoảng thời gian dài Ciri đã không có tâm trí để mà nghĩ đến nghỉ ngơi hay ăn uống. Giờ thì lời nói của ông già kỳ lạ lại khiến bụng cô réo rắt, và lưỡi xoắn vào nhau. Ông già nhìn cô từ dưới vành mũ.

“Già Rừng,” ông ta lầm bầm, “có thịt để trong chòi. Có nước suối. Và có rơm cho ngựa, con ngựa xấu muốn cắn Già tốt bụng! Này! Trong chòi của Già Rừng có mọi thứ. Và chúng ta có thể bàn luận về những nơi khác và thời điểm khác…Nó không xa tí nào, ôi không đâu. Liệu cô gái có chấp nhận lời mời không? Liệu cô có từ chối Già Rừng tội nghiệp không?”

Ciri nuốt khan.

“Dẫn đường đi.”

Già Rừng quay lại và lóc cóc đi xuống một con đường gần như chả nhìn nổi nằm khuất giữa bụi cây, đo khoảng cách bằng từng bước sải của cây gậy. Ciri bám theo ông ta, cúi thấp đầu để cành cây không hất mình khỏi yên ngựa và nắm chắc dây cương để ngăn Kelpie gặm cái mũ rơm của ông già.

Bất chấp lời tuyên bố của ông ta, căn chòi không hề gần chút nào. Khi cuối cùng họ tới nơi thì mặt trời đã gần ở thiên đỉnh.

Căn chòi của Già Rừng hóa ra là một cái lán được chống bằng vài cây cột, và mái nhà rõ ràng là thường xuyên được chắp vá bằng bất kỳ vật liệu nào có trong tay. Tường của căn chòi được phủ thứ gì đó trông giống như da lợn. Trước cửa chòi là một công trình bằng gỗ tựa như giá treo cổ, một cái bàn thấp và một gốc cây chặt cụt có cắm một cây rìu trên đó. Đằng sau chòi là một lò lửa đắp bằng đá và đất sét đang đặt một cái nồi lớn đen sì trên đó.

“Đây là nhà của Già Rừng,” ông già tự hào chỉ bằng cây gậy. “Già Rừng sống ở đây. Ông ta ngủ ở đây. Ông ta nấu nướng ở đây. Đó là nếu ông ta có cái gì để nấu. Rất khó, rất khó để tìm được thức ăn trong rừng. Quý cô lang thang có thích cháo lúa mạch không?”

“Cô ấy thích,” Ciri lại nuốt ực. “Cô ấy thích mọi thứ.”

“Với một ít thịt? Với một ít mỡ?”

“Mhm.”

“Và có vẻ như,” Già bắn về phía cô một ánh mắt dò xét, “quý cô đã không được nếm vị thịt và mỡ thường xuyên dạo gần đây, ôi không. Cô trông gầy quá, gầy quá. Da bọc xương! Này, này! Và cái gì thế? Đằng sau lưng cô?”

Ciri quay lại, bị lừa bởi mánh khóe cũ rích và sơ đẳng nhất trong lịch sử.

Một nhát đập từ cây gậy u bướu táng thẳng vào thái dương cô. Phản xạ chỉ giúp cô nhấc được tay lên, và bàn tay phần nào giảm nhẹ lực từ cú đánh có thể đập nát hộp sọ cô như vỏ trứng. Nhưng dù sao thì Ciri vẫn nằm dưới đất, choáng váng, hoảng loạn và hoàn toàn mất phương hướng.

Lão già mỉm cười và nhảy tới, lại đánh cô bằng cây gậy. Ciri lại lần nữa che chắn được đầu bằng bàn tay, với kết quả là cả hai tay buông thõng. Tay trái chắc chắn đã bị gãy. Lão già nhảy sang bên và vung, đánh trúng bụng cô. Ciri gào lên và cuộn lại một chỗ. Lão quăng mình vào cô như một con diều hâu, dí đầu cô xuống và đè nghiến cô bằng đầu gối. Ciri căng mình, đá ra sau và trượt mục tiêu, rồi tung ra một cú đánh thật lực bằng cùi chỏ, lần này thì trúng. Lão già rống lên giận dữ và đấm vào sau gáy cô, mạnh đến nỗi cô chúi đầu xuống cát. Lão nắm lấy tóc cô và ấn mũi và miệng cô xuống. Cô thấy mình nghẹt thở. Lão già quỳ lên người cô, vẫn đang ép cô xuống, giật cây kiếm sau lưng cô ra và ném đi chỗ khác. Rồi lão bắt đầu cởi quần. Ciri rú lên, sặc sụa và nhổ cát phì phì. Lão ép cô chặt hơn, tay nắm tóc cô. Lão xé quần của cô bằng một cú giật mạnh.

“Này, này,” lão lầm bầm, khò khè. “Ngày hôm nay Già bắt được một cái mông ngon nghẻ làm sao. Đã lâu quá rồi.”

Ciri cảm thấy cái chạm từ bàn tay ghê tởm của lão và lại hét lên qua một mồm đầy cát và lá thông.

“Cứ trật tự và nằm yên đi, quý cô.” Nước dãi của lão nhỏ xuống mông cô. “Già Rừng không còn trẻ như hồi trước nữa…Nhưng chớ lo, ông ta vẫn biết phải làm gì. Này, này, và rồi Già sẽ ăn thịt cô! Ăn ngon lành luôn…”

Lão già ngừng giữa câu, rống lên và la oai oái.

Cảm thấy nắm tay của lão đã nới lỏng, Ciri đạp, vặn mình và bật dậy như lò xo. Và trông thấy chuyện gì đã xảy ra.

Kelpie, lén lút lại gần, đã ngậm lấy túm tóc của Già Rừng và nhấc bổng lão lên khỏi mặt đất. Lão già hú hét, giãy dụa, quờ quạng chân tay, cuối cùng thoát ra được và để lại một chỏm tóc dài trong mồm con ngựa. Lão cố nhặt lấy cây gậy của mình, nhưng Ciri đã nhanh chân đá bay đi. Cô đang định tặng cho lão một đá nữa vào nơi mà lão đáng nhận, nhưng chuyển động bị cản trở bởi cái quần đang bị tụt đến quá nửa. Già Rừng tận dụng khoảng thời gian cô cần để kéo nó lên bằng một tay. Lão nhảy tới gốc cây cụt trong vài bước chân và giật cây rìu ra khỏi đó, xua Kelpie đi bằng một nhát vung. Lão rống lên, nhe hàm răng kinh khủng ra và nhấc cao cây rìu, tấn công Ciri.

“Già sẽ phang cô, cô gái à!” Lão rú lên man rợ. “Kể cả nếu Già có phải chặt cô ra thành từng khúc trước. Đối với Già thì cô nguyên vẹn hay thành từng mảnh cũng không quan trọng.”

Cô nghĩ rằng mình có thể đối phó với lão dễ dàng. Sau cùng thì lão chỉ là một tên biến thái già nua.

Cô nhầm to.

Bất chấp đôi dép to vĩ đại, lão nhảy nhót như một con thỏ, và vung cây rìu với kỹ năng của một đồ tể. Sau khi lưỡi rìu đen ngòm và sắc cạnh đã lướt qua người Ciri vài lần, cô nhận ra rằng thứ duy nhất cứu được mình là bỏ chạy.

Nhưng thứ cứu được cô lại là sự tình cờ. Bước lùi lại, chân cô đá phải thanh kiếm của mình.

Cô nhặt nó lên trong nháy mắt.

“Buông cây rìu xuống,” cô thở hồng hộc, rút Swallow ra khỏi vỏ với một tiếng rít. “Buông cây rìu xuống, lão già khốn kiếp. Và rồi, ai mà biết được, có thể tôi sẽ tha mạng cho ông. Và không chặt ông ra thành từng mảnh.”

Lão già dừng lại. Lão cũng đang thở dốc và khò khè, và râu bám đầy nước miếng trông thật kinh tởm. Nhưng lão không bỏ vũ khí xuống. Cô trông thấy cơn thịnh nộ hoang dại trong mắt lão.

“Tốt thôi!” Cô vung Swallow. “Vào đây nào!”

Trong một lúc lão nhìn cô, như thể không hiểu, rồi nhe răng ra, rống lên và xông tới. Ciri đã đùa giỡn đủ rồi. Cô né bằng một cú xoay nửa người nhanh và chém một nhát từ dưới lên qua cả hai cánh tay đang giơ cao của lão, phía trên cùi chỏ. Già Rừng đánh rơi cây rìu, nhưng ngay lập tức lại nhảy vào cô. Ciri nhảy sang bên và cứa đứt cổ lão. Vì lòng nhân từ hơn là cần thiết, bởi đằng nào lão cũng sẽ sớm chảy máu đến chết từ hai vết cắt động mạch trên cánh tay.

Lão già nằm đó, chiến đấu kiên cường đến khó tin để níu giữ mạng sống của mình, vẫn

đang quằn quại như một con giun bất chấp đốt sống cổ mở toang hoác. Ciri đứng bên trên. Những hạt cát cuối cùng vẫn còn lạo xạo trong mồm. Cô nhổ chúng ra xuống lưng lão. Lão chết trước khi chúng kịp rơi xuống.

***

Công trình kỳ lạ nằm trước cái chòi mà trông như giá treo cổ được trang bị móc sắt và dây chằng. Cái bàn và gốc cây cụt trơn tuột, bám đầy dầu mỡ và bốc mùi. Như một lò mổ.

Trong bếp, Ciri tìm thấy một nồi cháo lúa mạch mà lão già đã hứa với cô lúc trước, bơi trong mỡ, đầy thịt vụn và nấm. Cô rất đói, nhưng thứ gì đó mách bảo cô không nên ăn. Cô chỉ uống chút nước từ cái vại và cắn một miếng tí xíu từ một quả táo nhỏ nhăn nheo.

Có vài bậc thang dẫn xuống một tầng hầm sâu và mát lạnh. Dưới hầm có vài nồi mỡ lợn. Và thứ gì đó treo trên trần nhà. Một miếng thịt.

Cô chạy ra khỏi hầm, lảo đảo trên bậc thang như thể quỷ dữ đang đuổi sau lưng. Rồi vấp phải mấy bụi tầm ma, bật dậy, và bước tới căn chòi, cả hai tay ôm lấy một cây cột nhà. Dù cho gần như chẳng có gì trong bụng, cô vẫn nôn liên tục trong một khoảng thời gian dài.

Miếng thịt treo dưới hầm là của một đứa trẻ.

***

Được dẫn đường bởi mùi hôi nồng nặc, cô tìm thấy một cái hố ngập nước một nửa trong rừng, nơi Già Rừng vứt bỏ tất cả những gì không ăn được. Nhìn vào đống hộp sọ, xương sườn và xương chậu nằm lổn ngổn, Ciri nhận ra với sự kinh hoàng rằng mình còn sống chỉ bởi bản tính dâm tiện của lão già, chỉ bởi vì lão cảm thấy muốn vui vẻ một chút. Nếu như cơn đói của lão mạnh mẽ hơn ham muốn tình dục ghê tởm, lão đã bổ một rìu vào đầu cô, chứ không dùng cây gậy. Lão sẽ treo cô lên đống móc sắt, mổ bụng và lột da cô, xẻ thịt cô trên cái bàn, chặt cô ra thành khúc trên gốc cây cụt…

Mặc dù chân còn run rẩy yếu ớt và tay trái sưng phù và đau điếng, cô vẫn lôi cái xác tới cái hố và ném xuống đống bầy nhầy bên dưới, giữa xương cốt các nạn nhân của lão. Cô quay lại, che lối vào căn hầm, và khoảng sân cùng toàn bộ ngôi nhà bằng cành cây khô. Rồi châm lửa từ cả bốn phía.

Cô chỉ rời đi sau khi mọi thứ đã bắt lửa hoàn toàn, và ngọn lửa đỏ gầm lên cuồng nộ và thỏa mãn. Khi cô chắc rằng không có cơn mưa bất chợt nào có thể ngăn cản việc thiêu hủy mọi dấu vết của nơi này.

***

Bàn tay cô không quá tệ. Đúng là nó sưng, và đau khủng khiếp, nhưng có lẽ là không cái xương nào bị gãy.

Khi chiều tà lại gần, quả thật chỉ có một mặt trăng xuất hiện. Nhưng thật kỳ lạ, theo cách nào đó, Ciri không thích cái ý tưởng rằng đây là thế giới của mình.

Hay phải ở lại nơi này lâu hơn cần thiết.

***

“Đêm nay sẽ là một đêm tốt,” Nimue lầm bầm. “Tôi cảm thấy vậy.”

Condwiramurs thở dài.

Đường chân trời rực ánh vàng và đỏ. Một dải màu tương tự cũng vắt ngang mặt hồ.

Họ ngồi trên ghế dựa ngoài mái hiên, sau lưng là chiếc gương khung gỗ mun và một tấm thảm thêu miêu tả một tòa lâu đài nằm chênh vênh trên vách đá, ảnh phản chiếu in trên mặt một hồ nước.

Đã bao nhiêu đêm rồi, Condwiramurs nghĩ, chúng ta phải ngồi trong ánh chạng vạng? Mà không có kết quả? Chỉ nói chuyện suông?

Trời trở lạnh. Nữ pháp sư và nữ học viên khoác áo lông lên người. Từ cái hồ họ có thể nghe được tiếng mái chèo cọt kẹt trên thuyền của Vua Đánh Cá, nhưng không thể trông thấy nó – con thuyền đã bị hoàng hôn che mờ.

“Tôi thường xuyên mơ,” Condwiramurs quay trở lại cuộc trò chuyện dang dở lúc trước, “thấy mình đứng giữa một vùng đất hoang tàn giá lạnh, nơi không có gì ngoài màu trắng của tuyết và những núi băng cao ngất ngưởng, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Và một sự im lặng, sự im lặng bất bình thường. Sự im lặng của cái chết.”

Nimue gật gù, như thể ám chỉ rằng mình hiểu thế nghĩa là gì. Nhưng không bình luận.

“Đột nhiên,” người học viên tiếp tục, “đột nhiên tôi cảm giác như nghe được tiếng gì đó. Cảm giác như lớp băng dưới chân đang rung chuyển. Tôi quỳ xuống, gạt tuyết sang một bên. Băng trong suốt như thủy tinh, như mặt hồ trên núi, có thể nhìn được những hòn sỏi và đàn cá tung tăng dưới đáy qua bề mặt dày hai thước. Trong mơ tôi cũng thấy được, dù cho lớp băng dày cả chục hay có lẽ cả trăm thước. Nó không ngăn được tôi trông thấy…và nghe thấy…tiếng gọi của những con người bị mắc kẹt. Dưới đáy, sâu bên dưới lớp băng…là cả một thế giới bị chôn vùi.”

Nimue cũng không bình luận lần này.

“Dĩ nhiên là tôi biết nguồn gốc giấc mơ đó từ đâu ra,” người học viên tiếp tục. “Lời tiên tri của Ithlinne, Mùa Đông Trắng, Thời đại của Cơn Bão và Con Sói. Thế giới chết trong làn tuyết rơi, để rồi, như lời tiên tri, được tái sinh nhiều thế kỷ sau. Được thanh tẩy và tốt đẹp hơn muôn phần.”

“Tôi cực kỳ tin rằng,” Nimue khẽ lên tiếng, “thế giới sẽ được sinh ra một lần nữa. Còn về chuyện tốt đẹp hơn hay không thì chưa chắc.”

“Sao cơ?”

“Cô nghe rồi đấy.”

“Tôi nghe có nhầm không? Nimue, Mùa Đông Trắng đã được tiên đoán vài ngàn lần rồi. Mỗi khi thời tiết trở nên quá khắc nghiệt người ta lại nói đây chính là nó. Giờ thì đến cả trẻ con cũng không tin rằng bất kỳ mùa đông nào có thể gây nguy hiểm đến cho thế giới được nữa.”

“Thì trẻ con không tin. Nhưng tôi, tưởng tượng mà xem, lại có tin.”

“Dựa trên những dữ kiện nào?” Condwiramurs hỏi với chút mỉa mai. “Hay chỉ là niềm tin thần bí vào sự chuẩn xác trong các tiên đoán của người elves?”

Nimue không nói gì trong một lúc lâu, rứt vài sợi lông áo khoác trên mình.

“Trái đất,” cuối cùng cô bắt đầu bằng giọng như đang giảng bài, “có dạng hình cầu và quay quanh mặt trời. Cô có đồng ý không? Hay có lẽ cô thuộc vào các giáo phái kiểu mới đang cố chứng minh một điều hoàn toàn khác.”

“Không. Tôi chấp nhận thuyết nhật tâm và tôi đồng ý với giả thiết về dạng hình cầu của trái đất.”

“Tuyệt vời. Vậy cô chắc chắn sẽ đồng ý với sự thật rằng trục thẳng đứng của trái đất bị nghiêng một góc, và quỹ đạo quay quanh mặt trời của nó không hoàn toàn là đường tròn, mà theo dạng elip, đúng chứ?”

“Tôi có biết. Nhưng tôi không phải một nhà thiên văn học, nên…”

“Cô không cần phải là một nhà thiên văn học, chỉ cần suy nghĩ logic thông thường là đủ rồi. Trái đất quay quanh mặt trời theo quỹ đạo elip, vậy nên trong vòng quay của nó đôi lúc mặt trời gần, đôi lúc lại ở xa. Trái đất càng xa mặt trời thì càng lạnh, đó là logic. Và góc nghiêng của trục trái đất càng giảm thì càng có ít ánh sáng chiếu tới bán cầu bắc hơn.”

“Đó cũng là logic.”

“Cả hai yếu tố này, ý tôi là quỹ đạo elip và góc nghiêng của trục trái đất, đều có thể thay đổi. Và theo như quan sát, theo từng chu kỳ. Đường elip có thể dài hoặc ngắn hơn, và trục trái đất có thể nghiêng nhiều hoặc ít hơn. Những điều kiện khí hậu khắc nghiệt nói riêng, đều là do tác động đồng thời của hai hiện tượng này: đường elip kéo dài tối đa và trục trái đất chỉ nghiêng một góc không đáng kể so với phương thẳng đứng. Trái đất quay quanh mặt trời nhận được rất ít ánh sáng và nhiệt độ ở hai cực.”

“Dĩ nhiên rồi.”

“Ít ánh sáng ở bán cầu bắc có nghĩa tuyết sẽ lưu lại lâu hơn. Tuyết trắng và lấp lánh phản chiếu lại ánh mặt trời, nhiệt độ giảm xuống thấp hơn. Tuyết nằm lại lâu hơn là vì thế, nó không tan chảy hoặc chỉ tan chảy trong một khoảng thời gian ngắn. Tuyết càng lâu và càng nhiều, bề mặt trắng và lấp lánh phản chiếu lại ánh mặt trời càng phủ rộng…”

“Tôi hiểu.”

“Tuyết rơi, rơi và rơi mãi. Các khối không khí nóng cùng với dòng biển từ phía nam di cư lên sẽ tích tụ lại trên vùng phương bắc lạnh giá, khiến cho tuyết rơi nhiều hơn. Sự chênh lệch nhiệt độ càng cao, tuyết rơi càng nhiều. Và trời càng lạnh. Chênh lệch nhiệt độ và mật độ không khí lại càng tăng…”

“Tôi hiểu.”

“Lớp tuyết phủ trở nên nặng đủ để đóng lại thành băng. Một tảng băng. Mà ở trên, như chúng ta đã biết, tuyết vẫn tiếp tục rơi, ép chặt nó xuống hơn nữa. Tảng băng lớn dần, nó không chỉ ngày càng dày lên, mà còn rộng ra, bao phủ càng nhiều diện tích. Bề mặt trắng mở rộng…”

“Phản chiếu lại ánh mặt trời,” Condwiramurs gật đầu. “Trở nên lạnh hơn, lạnh hơn và lạnh hơn nữa. Mùa Đông Trắng như trong lời tiên tri của Ithlinne. Nhưng liệu một thảm họa có xảy ra không? Có nguy cơ băng nằm ở phía bắc vĩnh viễn và đột nhiên tràn xuống phía nam không, nghiền nát và bao phủ mọi thứ? Lớp băng ở vùng cực sẽ lan nhanh thế nào? Vài cm một năm?”

“Như cô chắc hẳn đã biết,” Nimue nói, mắt nhìn cái hồ, “bến cảng duy nhất nằm trong Vịnh Praxeda mà không bị đóng băng là Pont Vanis.”

“Đúng. Tôi biết.”

“Hãy mở rộng tri thức của mình: một trăm năm trước không có cảng nào trong Vịnh bị đóng băng cả. Một trăm năm trước – có rất nhiều tài liệu ghi lại – dưa chuột và bí ngô thường được trồng ở Talgar, và hoa hướng dương cùng đậu lupin được thu hoạch ở Caingorn. Giờ chúng không còn được trồng nữa, vì không thể sinh sống nổi, đơn giản là ở đó quá lạnh. Và cô có biết là đã từng có những vườn nho ở Kaedwen chưa? Rượu từ những vườn nho đó có lẽ không phải là tốt nhất, bởi theo các tài liệu còn sót lại thì chúng rất rẻ. Nhưng các thi sĩ trong vùng vẫn ca ngợi chúng. Ngày hôm nay không còn dây nho nào sót lại ở Kaedwen cả. Bởi vì mùa đông ở thời này, khác với hồi trước, kéo theo băng giá và băng giá giết dây nho. Nó không chỉ kìm hãm sự phát triển, mà đơn giản là giết. Triệt tiêu.”

“Tôi hiểu.”

“Phải,” Nimue trầm ngâm. “Còn gì để thêm vào nữa đây? Có lẽ là đang có tuyết rơi ở Talgar vào giữa tháng Mười Một và dạt xuống phía nam với tốc độ hơn 50 dặm một ngày. Có lẽ là cuối tháng Mười Hai và đầu tháng Một đã có bão tuyết ở Alba, nơi mà một trăm năm trước chưa ai từng trông thấy tuyết bao giờ cả. Và mọi đứa trẻ đều biết rằng tuyết tan và hồ rã băng vào tháng Tư trong vùng của chúng ta, đúng không? Và mọi đứa trẻ đều tự hỏi rằng tại sao tháng đó lại được gọi là tháng Tư – Khởi Đầu. Nó có làm cô ngạc nhiên không?”

“Không hẳn,” Condwiramurs thừa nhận. “Đằng nào thì ở Vicovaro quê tôi họ không nói là tháng Tư, mà là tháng Chồi Giả. Hay trong ngôn ngữ của người elves: Birke. Nhưng tôi hiểu ý cô là gì. Tên tháng đó xuất phát từ thời xa xưa khi mà mọi thứ thật sự đâm chồi nảy lộc vào tháng Tư…”

“Thời xa xưa đó cách đây chỉ khoảng một trăm, một trăm hai mươi năm về trước thôi. Đó gần như là ngày hôm qua rồi, cô gái. Ithlinne đã hoàn toàn đúng. Lời tiên tri của bà ấy đang thành hiện thực. Thế giới sẽ chết dưới một lớp băng. Nền văn minh sẽ tiêu vong do lỗi của Kẻ Hủy Diệt, người đã có thể, đã có cơ hội, mở một con đường dẫn đến hy vọng. Nhưng từ huyền thoại chúng ta đã biết là cô ấy không mở.”

“Vì những lý do mà huyền thoại không giải thích. Hay giải thích với sự trợ giúp của những quy tắc đạo đức ngây thơ và mơ hồ.”

“Đúng vậy. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Và Mùa Đông Trắng là sự thật. Nền văn minh của phương bắc sẽ bị tuyệt chủng. Nó sẽ biến mất dưới lớp băng giá vĩnh cửu. Nhưng không cần phải hoảng loạn, còn lâu nữa nó mới xảy ra.”

Mặt trời đã khuất hoàn toàn và ánh sáng lóa mắt biến mất khỏi mặt hồ. Giờ là một dải sáng dịu hơn, mềm hơn nằm trên nước. Mặt trăng nhô lên phía trên Inis Vitre, sáng như đồng tiền bị chia nửa.

“Bao lâu?” Condwiramurs hỏi. “Theo cô thì bao lâu nữa nó sẽ xảy ra? Ý tôi là, chúng ta có bao nhiêu thời gian?”

“Khá nhiều.”

“Bao nhiêu, Nimue?”

“Khoảng cỡ 3000 năm.”

Trên hồ, Vua Đánh Cá quăng mái chèo lên thuyền và chửi rủa. Condwiramurs thở dài.

“Cô đã trấn an tôi được một chút.” Cô nói sau một lúc. “Nhưng chỉ là một chút thôi.”

***

Địa điểm tiếp theo là nơi bẩn thỉu nhất mà Ciri từng được thấy. Nó phải nằm ở vị trí số một trong bảng danh sách.

Nó là một bến cảng. Cô trông thấy tàu bè qua lại, trông thấy một rừng cột buồm, trông thấy mái buồm nặng nề buông thõng trong làn không khí tĩnh mịch. Khói, từng cụm khói bốc mùi lởn vởn xung quanh.

Khói cũng bốc lên từ đằng sau những căn chòi xiêu vẹo nằm cạnh con kênh. Tiếng khóc của một đứa trẻ vọng lại từ đó.

Kelpie khịt mũi, chợt ngửa đầu lên và lùi lại, chân giậm lên lớp đá lát nền. Ciri liếc xuống và để ý thấy vài con chuột chết. Chúng nằm khắp nơi. Những con chuột chết cuộn lại trong đau đớn với những bàn chân nhợt nhạt.

Có gì đó không ổn ở đây, cô nghĩ, cảm thấy nỗi kinh hoàng bao trùm lên mình. Có gì đó không ổn ở đây. Chạy ra khỏi đây. Chạy ra khỏi đây nhanh nhất có thể.

Một người đàn ông mặc chiếc áo hở toang hoác đang ngồi bên dưới vài tấm lưới và dây chằng, đầu ngả xuống vai. Cách đó vài bước chân là một người khác. Họ không có vẻ như đang ngủ. Họ thậm chí còn không nhúc nhích khi móng guốc của Kelpie kêu lọc cọc ngay bên cạnh. Ciri cúi xuống, bước qua dưới hàng giẻ rách treo trên dây phơi và bốc lên mùi chua nồng nặc.

Có một hình thập tự được sơn trắng trên một cánh cửa lều. Một dải khói đen bay lên đằng sau mái nhà. Đứa trẻ con vẫn khóc, tiếng ai đó hét ở phía xa, ai đó gần hơn ho sặc sụa và khò khè. Một con chó cất tiếng hú.

Ciri cảm thấy bàn tay ngứa ngáy. Cô nhìn xuống.

Tay cô lấm tấm đầy những con bọ chét đen thui.

Cô hét lên. Run bần bật vì kinh tởm và hoảng loạn, cô bắt đầu phủi khắp người, tay quờ quạng như điên. Kelpie được báo động, phi nước đại lên trước, và Ciri suýt thì lộn xuống. Ép chặt hai bên sườn con ngựa bằng đùi, cô lùa tay qua tóc, rũ áo khoác và sơ mi. Kelpie phi vào một con hẻm ngập khói. Ciri la lên kinh hoàng.

Cô đang đi qua địa ngục, qua một cơn ác mộng kinh khủng nhất trong những cơn ác mộng. Giữa những ngôi nhà đánh dấu thập tự trắng. Giữa những chồng giẻ rách bốc khói. Giữa những xác chết nằm rải rác hay được chất thành đống, người này chồng lên người kia. Và giữa những người sống, xơ xác, những bóng ma nửa khỏa thân hốc hác vì đau đớn, quằn quại giữa đống bùn lầy, la hét thứ ngôn ngữ cô không hiểu được, chìa những cánh tay xương xẩu và mưng mủ về phía cô…

Chạy! Chạy khỏi đây!

Kể cả trong hư vô, giữa quần đảo của không gian, Ciri vẫn còn ngửi thấy mùi khói trong mũi.

***

Nơi tiếp theo cũng là một bến cảng. Cũng có một cầu tàu ở đây, với con kênh nhộn nhịp bánh răng, tàu hạ thủy và các phương tiện khác, và phía trên chúng là một rừng cột buồm. Nhưng đây, tại nơi này, phía trên những cột buồm, hải âu kêu từng hồi vui tai, và nó bốc thứ mùi hôi bình thường, quen thuộc: gỗ ướt, hắc ín, nước biển, và ba loại cá cơ bản nhất: tươi, thối và khô.

Hai người đàn ông đang tranh cãi trên một con thuyền, người này át tiếng người kia. Cô hiểu mọi thứ họ nói. Đó là về giá cá trích.

Cách đấy không xa là một quán rượu. Mùi mốc và bia, và âm thanh những giọng nói, tiếng leng keng và cười đùa ợ ra từ cánh cửa rộng mở. Ai đó đang nghêu ngao một bài hát tục tĩu, chỉ có mỗi một đoạn lặp đi lặp lại:

Luned, v’ard t’elaine arse

Aen a meath ail aen sparse!

Cô biết mình đang ở đâu. Trước cả khi cô đọc được dòng chữ in trên đuôi một con tàu:

Evall Muire. Và cảng xuất bến của nó. Baccalá. Cô biết mình đang ở đâu.

Nilfgaard.

Cô lặng lẽ rời đi trước khi có người kịp chú ý đến mình.

Nhưng trước khi cô kịp lặn vào cõi hư vô, một con bọ chét, con cuối cùng trong số những con đã bám lên người cô tại địa điểm trước đó, đã sống sót qua chuyến du hành giữa không gian và thời gian bên trong nếp gấp chiếc áo khoác, bật một cú nhảy vĩ đại lên cầu tàu.

Cùng buổi chiều hôm đó con bọ chét yên vị làm tổ trên bộ lông xơ xác của một con chuột, một con chuột đực già, một cựu binh đã sống sót qua nhiều trận chiến cùng những con chuột khác, minh chứng bởi một bên tai bị gặm đứt đến sát hộp sọ. Cùng buổi chiều hôm đó con bọ chét và con chuột bước lên một chuyến tàu. Và sáng hôm sau con tàu khởi hành. Một con tàu cũ kỹ, hoang sơ và vô cùng bẩn thỉu.

Tên của con tàu là Catriona. Cái tên này đã đi vào lịch sử. Nhưng chưa ai vào thời điểm đó ý thức được điều này.

***

Nơi tiếp theo – khó để mà tin được – là một khung cảnh thơ mộng đến kinh ngạc. Một quán rượu mái lợp bám đầy thường xuân, và đậu ngọt đứng giữa những bụi đường quỳ cạnh một dòng sông êm đềm, lười biếng chảy qua hai hàng liễu rủ, trăn và sồi, ngay cạnh một cây cầu đá nối hai bờ theo một đường cong duyên dáng. Một tấm biển khắc chữ mạ vàng đung đưa trước hiên nhà. Dòng chữ hoàn toàn xa lạ với Ciri. Nhưng có một bức tranh một con mèo vẽ rất đẹp, vậy nên cô đoán tên nó là quán Mèo Đen.

Mùi thức ăn tỏa ra từ quán đơn giản là hấp dẫn. Ciri không lưỡng lự lâu. Cô chỉnh lại thanh kiếm sau lưng và bước vào.

Bên trong vắng tanh. Chỉ có một cái bàn là có người ngồi, ba người trông có vẻ như nông dân. Họ thậm chí còn không thèm nhìn cô. Ciri ngồi trong góc và dựa lưng vào tường.

Chủ quán, một người phụ nữ mập mạp trong chiếc tạp dề sạch bong và mũ nhọn lại gần và hỏi gì đó. Giọng bà ta nghe như chuông ngân nhưng du dương. Ciri chỉ một ngón tay vào mồm, vỗ lên bụng, rồi cắt một cái khuy áo bằng bạc ra và đặt lên bàn. Trông thấy ánh nhìn kỳ lạ, cô định cắt thêm một khuy nữa, nhưng người phụ nữ bảo cô dừng lại bằng một cử chỉ và một tiếng rít, nhưng nghe khá vui tai.

Giá trị của cái khuy hóa ra bằng một bát súp rau bự chảng, một nồi đậu và thịt hun khói, bánh mỳ cùng một cốc rượu vang pha loãng. Ciri nghĩ mình chắc sẽ phát khóc khi ăn thìa đầu tiên. Nhưng cô tự chủ. Cô ăn chậm. Tận hưởng mùi vị.

Người chủ quán lại tới, ngâm nga câu hỏi, và áp má lên hai bàn tay úp vào nhau. Liệu cô có qua đêm ở đây không?

“Tôi không biết,” Ciri nói. “Có thể. Dù sao thì cũng cảm ơn bà.”

Người phụ nữ mỉm cười và đi vào bếp.

Ciri nới lỏng thắt lưng và dựa lưng vào tường. Cô không biết nên làm gì tiếp. Nơi này – đặc biệt là khi so sánh với những nơi trước đó – khá là dễ chịu, và khuyến khích cô ở lại lâu hơn. Tuy nhiên, cô biết rằng lòng tin có thể nguy hiểm, và thiếu cảnh giác dẫn đến chết người.

Một con mèo đen, trông hệt như con vẽ trên biển, hiện ra từ thinh không và cạ mình vào chân cô, lưng uốn cong. Ciri vuốt nó, và con mèo nhẹ nhàng dụi tay cô, ngồi xuống và bắt đầu liếm lông trên ngực. Ciri nhìn vào hư vô, mắt dần trượt đi nơi khác…

Cô trông thấy Jarre đang ngồi cạnh đống lửa trong một vòng tròn những thanh niên xấu xí.

Họ đều đang nốc ừng ực từ những cái bình bé xíu chứa một chất lỏng màu đỏ.

“Jarre?”

“Phải làm như vậy.” chàng trai nói, nhìn vào ngọn lửa. “Tôi đã đọc trong Lịch sử Chiến tranh của Nguyên soái Pelligram. Ta phải làm vậy khi tổ quốc kêu gọi.”

“Cậu phải làm cái gì? Đổ máu?”

“Đúng. Chính xác. Tổ quốc đang kêu gọi. Và một phần vì lý do cá nhân.”

“Ciri, đừng ngủ gật trên yên ngựa,” Yennefer nói. “Chúng ta gần đến nơi rồi.”

Những cây thập tự trắng sơn trên tất cả cánh cửa những căn nhà của thị trấn họ đang đến thăm. Khói dày đặc, bốc mùi từ những giàn hỏa thiêu đang đốt xác người. Yennefer dường như không để ý.

“Ta phải làm đẹp.”

Một chiếc gương nhỏ trôi ra trước mặt cô, phía trên tai con ngựa. Một cái lược nhảy múa trong không khí , luồn qua những lọn tóc đen dài. Yennefer đang dùng phép thuật, cô không dùng tay, bởi vì…

Bởi vì tay cô là một đống máu tụ hổ lốn.

“Mẹ ơi! Chúng đã làm gì mẹ?”

“Đứng thẳng lên, cô bé.” Giọng của Coen. “Làm chủ cơn đau của mình, đứng dậy và trèo lên cái lược! Nếu không nỗi sợ sẽ thâu tóm em. Em muốn sống cả đời trong sợ hãi à?”

Đôi mắt vàng của anh sáng không tự nhiên. Anh ngáp. Hàm răng nhọn sáng trắng. Đó không phải Coen. Đó là con mèo. Con mèo đen…

Một hàng lính trải dài nhiều dặm đang hành quân. Một rừng giáo và cờ bay lất phất và gợn sóng phía trên đầu. Jarre cũng hành quân, cậu đội một chiếc mũ tròn, và cây giáo trên vai dài đến nỗi cậu phải nắm chặt nó bằng cả hai tay, nếu không nó sẽ làm cậu mất thăng bằng. Tiếng trống gầm gừ, và bài ca của người lính âm vang, trầm đục. Quạ lượn phía trên đầu đoàn quân. Một bầy quạ…

Một cái hồ. Trên bờ hồ sóng sùi bọt trắng xóa, cuốn theo sậy mục nát. Một hòn đảo nằm giữa hồ. Một tòa tháp. Tường canh lởm chởm, mái hiên nhô ra dày đặc. Phía trên tòa tháp, giữa sắc xanh đậm của bầu trời, mặt trăng tỏa sáng, sáng như đồng tiền bị chia nửa. Hai người phụ nữ quấn áo lông đang ngồi ngoài mái hiên. Một người đàn ông trên thuyền…

Một chiếc gương và một tấm thảm.

Ciri giật mình ngẩng lên. Eredin Bréacc Glas đang ngồi đối diện, phía bên kia chiếc bàn.

“Cô không thể không biết,” hắn nói, nhe ra hàm răng đều đặn trong một nụ cười, “rằng mình chỉ đang trì hoãn điều bất khả kháng thôi chứ. Cô thuộc về chúng tôi và chúng tôi sẽ bắt được cô.”

“Không bao giờ!”

“Cô sẽ quay về với chúng tôi. Cô sẽ lang thang một hồi giữa không gian và thời gian, và rồi cô sẽ tới Vòng Xoắn và chúng tôi sẽ tóm được cô ở đó. Cô sẽ không kịp quay lại thế giới của mình. Đằng nào thì cũng quá muộn rồi. Chẳng còn gì để cô quay về nữa. Những người cô biết đã chết từ lâu. Mộ họ đã xanh cỏ và nứt nẻ. Tên họ đã bị lãng quên. Cả tên cô cũng vậy.”

“Anh nói dối! Tôi không tin anh!”

“Niềm tin của cô là vấn đề của riêng cô. Tôi nhắc lại, cô sẽ sớm đến Vòng Xoắn, và tôi sẽ đợi cô ở đó. Cô vẫn thầm ham muốn điều đó, phải không, me elaine luned?”

“Anh đang ảo tưởng rồi!”

“Người Aen Elle chúng tôi có thể cảm nhận được những điều như vậy. Cô bị hấp dẫn bởi tôi, cô ham muốn tôi và sợ hãi trước ham muốn đó. Cô ham muốn tôi và vẫn còn ham muốn tôi, Zireael. Tôi. Bàn tay tôi. Cái chạm của tôi…”

Cảm thấy một cái chạm, cô nhảy dựng lên, đánh đổ cốc rượu, mà may thay là đã uống hết. Cô với lấy thanh kiếm, nhưng bình tĩnh lại tức thì. Cô đang ở trong quán Mèo Đen, cô chắc đã ngủ gật trên bàn. Bàn tay đã chạm vào tóc cô là của người chủ quán mập mạp. Ciri không ưa kiểu đụng chạm như vậy, nhưng lòng tốt và sự tử tế đơn giản là toát ra từ người phụ nữ này, mà cô không thể đáp lại bằng thô lỗ. Cô để bàn tay vuốt ve mái tóc mình, và lắng nghe câu từ du dương với một nụ cười. Cô rất mệt.

“Tôi phải đi.” Cuối cùng cô lên tiếng.

Người phụ nữ mỉm cười, lại cất lời du dương. Bằng cách nào, Ciri nghĩ, mà dù trong mọi thế giới, mọi nơi và mọi thời điểm, dù trong mọi ngôn ngữ, từ này luôn luôn dễ hiểu? Và luôn quen thuộc?

“Phải. Tôi phải tới bên mẹ tôi. Mẹ tôi đang đợi.”

Người chủ quán dẫn cô ra sân. Trước khi lên yên ngựa, người chủ quán chợt ôm Ciri thật chặt, áp đầu cô vào ngực mình.

“Tạm biệt. Cảm ơn vì đã giúp tôi. Đi nào, Kelpie.”

Cô tiến thẳng ra cây cầu bắc qua dòng sông êm đềm. Khi tiếng móng của con ngựa vang trên nền đá, cô quay lại. Người phụ nữ vẫn đứng ngoài sân.

Tập trung, tay đặt lên thái dương. Tiếng ù ù bên tai, như bên trong một vỏ sò. Ánh sáng. Và rồi bóng tối.

Bonne chance, ma fille!” Thérèse Lapin, chủ quán rượu Au Chat Noir ở Pont–sur–Yonne gọi với theo cô trên con đường xa lộ chạy từ Melun đến Auxerre. “Chúc thượng lộ bình an!”

***

Tập trung, tay đặt lên thái dương. Tiếng ù ù bên tai, như bên trong một vỏ sò. Ánh sáng. Và rồi bóng tối.

Một nơi. Một cái hồ. Một hòn đảo. Ánh trăng sáng như đồng tiền bị chia nửa, vắt một dải màu lung linh qua mặt nước. Trên dải màu là một con thuyền, trên nó là một người đàn ông mang cần câu…

Trên mái hiên của tòa tháp…Hai người phụ nữ?

***

Condwiramurs không thể kìm nổi và hét lên kinh ngạc, ngay lập tức lấy tay che miệng. Vua Đánh Cá đánh rơi cái mỏ neo nghe bõm một tiếng, nguyền rủa, rồi há hốc mồm. Nimue thậm chí không thèm nhúc nhích.

Mặt hồ bị xẻ nửa bởi một dải ánh trăng, rung động và gợn sóng như thể bị gió tạt. Màn đêm phía trên nứt nẻ, như khung cửa kính bị rạn. Một con ngựa đen hiện ra từ vết nứt. Với một kỵ sĩ trên lưng.

Nimue bình thản chìa tay ra, niệm một câu thần chú. Tấm thảm sau lưng đột nhiên bắt lửa, bùng lên hàng vạn đốm sáng đủ màu sắc nhỏ xíu. Những đốm sáng phản chiếu lên bề mặt ôvan của chiếc gương, nhảy múa, vo ve như bầy ong vỡ tổ và chợt tuôn ra như một dải cầu vồng ma mị, chiếu sáng mặt hồ như tia nắng đầu tiên của bình minh.

Con ngựa đen chồm lên và hý một tiếng the thé. Nimue giang tay ra và hét một câu thần chú. Condwiramurs trông thấy một hình ảnh dần định hình trong không khí, ngày càng tập trung lại. Hình ảnh biến thành một cánh cổng. Một cánh cổng mà đằng sau đó…

Một cao nguyên đầy xác tàu. Một tòa lâu đài nằm chênh vênh trên vách đá, bóng phản chiếu trên mặt hồ đen ngòm…

“Đường này!” Nimue hét lên. “Đây là con đường mà cô phải đi! Ciri, con gái của Pavetta! Hãy bước vào cánh cổng, bước lên con đường dẫn tới cuộc gặp với định mệnh. Hãy để vòng xoay của thời gian khép lại! Hãy để con rắn Ouroboros tự cắn đuôi mình!”

“Đừng lang thang vô định nữa! Khẩn trương, khẩn trương đến giúp bạn bè của cô! Đây là con đường, hỡi nữ witcher.”

Con ngựa lại hý, chân cào vào không khí lần nữa. Cô gái trên yên ngựa quay đầu lại, nhìn vào họ, rồi lại nhìn cánh cổng hiện ra từ tấm thảm và chiếc gương. Cô vén tóc sang bên, và Condwiramurs trông thấy vết sẹo xấu xí trên má.

“Hãy tin tôi, Ciri!” Nimue hét. “Bởi cô biết tôi! Cô đã từng trông thấy tôi một lần rồi!”

“Tôi nhớ,” họ nghe thấy. “Tôi tin cô. Cảm ơn.”

Họ trông thấy con ngựa phi tới trước và chạy từng bước chân nhẹ nhàng vào trong ánh sáng của cánh cổng. Trước khi hình ảnh mờ đi và tan biến, họ trông thấy cô gái với mái tóc màu tro quay lại về phía mình và vẫy tay.

Rồi mọi thứ biến mất. Mặt hồ trở về tĩnh lặng, dải ánh trăng lại trở nên mượt mà.

Nó tĩnh lặng tới nỗi họ có thể nghe thấy tiếng thở khò khè của Vua Đánh Cá.

Kìm lại nước mắt, Condwiramurs ôm Nimue thật chặt. Cô cảm nhận được cả thân hình nữ pháp sư bé nhỏ đang run rẩy. Họ ôm nhau một lúc lâu. Không nói lời nào. Rồi cả hai cùng nhìn về nơi mà Cánh cổng Thế giới đã đóng lại.

“Chúc may mắn!” họ đồng thanh kêu lên. “Chúc may mắn, nữ witcher!”

Không xa chiến trường nơi xảy ra trận chiến kinh hoàng mà hầu hết toàn bộ quân lực phương Bắc chạm trán với gần như toàn bộ sức mạnh của Nilfgaard, có hai ngôi làng chài – Mông Cũ và Brenna. Tuy nhiên, vì Brenna đã bị thiêu rụi tại thời điểm đó cho nên ban đầu người ta thường hay gọi đây là “Trận Mông Cũ”. Mặc dù vậy, đến ngày hôm nay nó lại được biết đến là “Trận Brenna” vì hai lý do – Đầu tiên, Brenna giờ đây đã được khôi phục và là một thị trấn thịnh vượng, trong khi Mông Cũ đã bị những người sống ở đó bỏ hoang từ lâu và giờ đã mọc đầy cỏ dại và tầm ma. Thứ hai, cái tên gốc, trong ngữ cảnh của cuộc xung đột bi thảm và hùng tráng đó, nghe rất kỳ quặc, như thể gần 30 ngàn sinh mạng bất hạnh đã mất trong cuộc chiến đó là chưa đủ, mà mông của họ lại còn cũ nữa.

Vậy nên, trong lịch sử văn chương, quân đội đã gọi nó là “Trận Brenna”. Và đấy là không chỉ trong những văn bản của chúng ta, mà còn cả trong những văn bản của Nilfgaard, những người mà có nhiều nguồn hơn chúng ta trong vấn đề này.

Mục sư Jarre của Ellander, Biên niên sử Temeria.

About The Author

Ngo David

Power is Power