The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 12

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Họ tiếp tục đi cho tới lúc gặp một cái hồ lớn tuyệt đẹp đầy thứ nước trong vắt như thủy tinh, và ở giữa hồ, Arthur trông thấy một cánh tay mặc áo trắng đang giữ một thanh kiếm đẹp tuyệt trần.

“Hãy trông, đó là thanh kiếm mà ta đã nhắc đến,” Merlin chỉ.

Đột nhiên họ trông thấy một cô gái bước đi trên mặt hồ.

“Đó là ai vậy?” Arthur hỏi.

“Đó là Nữ Thần Hồ.” Merlin trả lời.

Ngài Thomas Malory, Cái chết của vua Arthur.

Jarre, không cần phải nói, cảm thấy vô cùng thất vọng. Sự giáo dục cậu nhận được ở Đền thờ, cộng thêm tính cách năng nổ của chính bản thân, là nguyên nhân cho lòng tin vào sự tốt đẹp, tử tế và độ lượng của con người nơi cậu. Giờ thì lòng tin đó chẳng còn lại nhiều nữa.

Cậu đã dành hai đêm vừa qua ngủ ngoài trời trên đống rơm, và giờ thì có vẻ cậu sẽ dành đêm thứ ba cũng theo cách đó. Tại mỗi ngôi làng mà cậu đã tìm kiếm nơi trú ẩn hay một mẩu vụn bánh mỳ, những cánh cổng đã đóng sập lại và câu trả lời duy nhất cậu nhận được là sự im lặng, hoặc chửi bới và đe dọa. Không cần biết cậu giải thích mình là ai hoặc đang đi đâu.

Cậu thực sự, thực sự thấy thất vọng với con người.

Trời sớm trở nên tối. Chàng trai bước từng bước nhanh nhẹn trên một con đường chạy qua vài cánh đồng. Cậu tìm kiếm một đụn rơm, thở dài và chán nản trước cái ý nghĩ phải qua một đêm nữa ngoài trời. Thật ra, tháng Ba năm nay lại ấm khác thường, nhưng rất lạnh khi đêm xuống. Và cậu thấy sợ.

Jarre ngước nhìn bầu trời, mà mỗi đêm trong vòng gần như một tuần, có thể trông thấy một ngôi sao chổi đỏ rực quét từ tây sang đông, kéo theo một cột lửa đằng sau. Cậu suy ngẫm về hiện tượng kỳ lạ, thường được nhắc đến trong nhiều lời tiên tri này, thật sự có ý nghĩa gì.

Cậu bước tiếp. Trời đang tối hơn. Con đường dẫn xuống dọc một hàng bụi cây mang những hình dạng khiếp đảm trong bóng đêm của chạng vạng. Từ dưới những bụi cây nơi bóng tối ngự trị bốc lên thứ mùi kinh tởm của cỏ thối rữa, và thứ gì đó. Thứ gì đó rất tồi tệ.

Jarre dừng lại. Cậu cố tự thuyết phục mình rằng cái thứ đang bò dọc sống lưng và hai vai không phải là nỗi sợ, mà là cái lạnh. Không có tác dụng.

Phía trước là một cây cầu nối hai bờ một con kênh, đen và sáng bóng như hắc ín mới đổ. Hai bờ kênh phủ kín sậy, liễu và những cây gỗ tro dị dạng. Những tấm ván dựng cầu mục rữa, và lỗ chỗ những miệng hố to đùng. Lan can gãy nát và ngập dưới nước. Xung quanh cây cầu, liễu mọc dày đặc. Mặc dù đêm vẫn còn lâu mới xuống hẳn, trên cánh đồng xa đằng sau con kênh đã xuất hiện từng cụm sương mù rải rác bám trên ngọn cỏ, và bóng tối phủ lên những hàng liễu. Jarre trông thấy bóng dáng một tàn tích, có lẽ là một công xưởng hoặc túp lều.

Mình phải đi qua cầu, chàng thanh niên nghĩ. Không còn đường nào khác. Mặc dù có thể cảm thấy thứ gì đó đang rình rập đầu bên kia, mình vẫn phải qua đó. Mình phải vượt qua con kênh, cũng như người thủ lĩnh huyền thoại đã làm, hay ông ta là một anh hùng nhỉ? Mình đã đọc về ai đó trong những quyển sách cũ mòn ở Đền thờ Melitele. Vượt qua con kênh và rồi…Họ nói thế nào nhỉ? Những quân bài sẽ lật ngửa? Không, quân xúc xắc sẽ được tung! Đằng sau mình là quá khứ, đằng trước mình là tương lai…

Cậu bước đến cái cầu và ngay lập tức nhận ra linh cảm của mình đã không sai. Trước khi trông thấy họ, cậu đã nghe thấy họ.

“Thấy chưa,” một trong số những người đứng chắn đường cậu gầm gừ. “Tôi đã bảo gì rồi? Một chút kiên nhẫn, và chúng ta tóm được ngay một tên.”

“Cậu nói đúng, Okultich,” một người trả lời ngọng ngịu. “Cậu nên đi làm thầy bói đi được rồi đấy. Thế nào, người lữ hành đơn độc, đưa cho chúng tôi mọi thứ cậu có, cậu định tự làm hay để chúng tôi giúp đây?”

“Nhưng tôi chẳng có gì cả!” Jarre hét với tất cả sức lực, hy vọng rằng ai đó sẽ nghe thấy và đến cứu mình. “Tôi chỉ là một người lữ hành nghèo khổ! Tôi không có xu nào trên người hết! Tôi có thể đưa các anh cái gì đây? Cây gậy này? Bộ quần áo?”

“Không chỉ như vậy,” người bị ngọng nói, và có thứ gì đó trong giọng nói của hắn ta khiến Jarre run rẩy. “Bởi cậu nên biết, kẻ lang thang nghèo khổ à, thật ra thì chúng tôi đang có nhu cầu khẩn trương tìm một đứa con gái. Trời thì sắp tối rồi, và không ai đi qua đây nữa cả, thế nên ăn mày thì không thể đòi xôi gấc. Tóm lấy hắn, các chàng trai!”

“Tôi có một con dao!” Jarre la lớn. “Tôi cảnh báo các người đấy!”

Cậu đúng thật có một con dao. Cậu đã chôm nó từ nhà bếp của đền thờ vào ngày trước hôm bỏ trốn và giấu nó trong túi đồ. Nhưng cậu không với lấy nó. Cậu tê liệt – và phát hoảng – bởi nhận ra rằng nó vô ích và không gì có thể giúp cậu được.

“Tôi có một con dao!”

“Ái chà chà,” kẻ ngọng ngịu cười khẩy, tiến lại gần. “Hắn có một con dao cơ đấy. Ai mà ngờ được nhỉ?”

Jarre không thể bỏ chạy. Nỗi sợ đã biến chân cậu thành hai cây cột đóng chặt xuống đất.

Adrenaline bóp nghẹt cổ cậu như dây thừng.

“Này!” một giọng thứ ba chợt cất lên, nghe vô cùng trẻ và quen thuộc một cách kỳ lạ. “Tôi nghĩ mình biết cậu ta! Phải, phải, tôi biết cậu ta! Để cậu ta yên, đó là bạn! Jarre? Nhận ra tôi không? Melfi đây! Này, Jarre? Cậu nhận ra tôi không?”

“Tôi…có…” Jarre vật lộn với một cảm giác ghê gớm, xấu xí và hoàn toàn xa lạ từ trước đến giờ. Chỉ đến khi cảm thấy cơn đau bên sườn, do đập vào lan can cầu, cậu mới nhận ra cảm giác đó là gì. Cảm giác khi ngất xỉu.

***

“Ngạc nhiên làm sao!” Melfi nhắc lại. “Thật tình cờ khi gặp được một người đồng hương ở Ellander. Và còn là một người bạn nữa. Phải không, Jarre?”

Jarre nuốt một miệng đầy thịt lợn, mà đoàn lữ hành kỳ lạ đã đưa cho cậu, cùng với ít củ cải nướng. Cậu không trả lời, chỉ gật đầu về phía sáu người đang ngồi quanh đống lửa.

“Cậu đang đi đâu vậy, Jarre?”

“Tới Vizima.”

“Ha! Chúng tôi cũng đang trên đường tới Vizima! Thật là trùng hợp! Cậu nói sao đây, Milton? Cậu còn nhớ Milton chứ, Jarre?”

Jarre không nhớ. Cậu thậm chí còn không chắc đã nhìn thấy Milton trước đây. Thêm nữa,

Melfi cũng hơi nói quá khi nhận cậu là bạn. Cậu ta là con trai của người thợ đóng thùng ở

Ellander. Cả hai đã từng theo học ở đền thờ, nơi Melfi thường xuyên đánh đập Jarre và gọi cậu là “đứa–con–hoang–không–cha–không–mẹ–vứt–trong–bụi–rậm”. Chuyện này kéo dài suốt một năm, mà sau đó người thợ đóng thùng đã kéo con mình ra khỏi đền thờ, bởi tin rằng nó chỉ thích hợp với việc đóng thùng. Và thế là Melfi, thay vì cống hiến mồ hôi nước mắt để học được bí thuật của đọc và viết, lại đổ máu trong công xưởng của cha mình để vót gỗ. Và sau khi Jarre đã hoàn thành việc học và trở thành thư ký cho hội đồng thành phố, con trai của người thợ đóng thùng đã theo chân cha mình – cúi chào cậu, tặng cậu quà và tuyên bố họ là bạn.

“Chúng tôi đang tới Vizima,” Melfi nói. “Tới chỗ quân đội. Cả nhóm chúng tôi. Đây là Milton và Ograbek, con trai của nông dân, nhưng đã được giải thoát khỏi nghĩa vụ của mình, cậu biết mà…”

“Tôi biết,” Jarre nhìn hai chàng thanh niên tóc vàng trông như hai anh em. “Họ cứ 10 nhà lại trưng dụng một người. Còn cậu, Melfi?”

“Với tôi,” con trai của thợ đóng thùng thở dài, “nó là thế này: lần đầu tiên hội cần cung cấp một lính mới, cha đã kéo tôi ra được. Nhưng khi thời buổi khó khăn lại đến, chúng tôi phải rút thăm lần thứ hai…chà, cậu biết đấy…”

“Tôi biết,” Jarre lại gật đầu. “Luật rút thăm để sung quân được ban bố bởi hội đồng thành phố Ellander vào ngày 16 tháng Một. Đó là điều không thể tránh khỏi khi đối mặt với mối nguy từ Nilfgaard…”

“Nghe cậu ta nói kìa Pike,” một người vai rộng, giọng khàn khàn mà hét với Jarre đầu tiên trên cầu lên tiếng. “Cứ như một hiền triết ấy.”

“Khôn lỏi. Biết tuốt.” một người khác trong đoàn đóng góp, với gương mặt tròn trịa tô điểm bởi một nụ cười ngốc nghếch.

“Câm đi, Klaproth,” Pike, cậu trai già nhất trong nhóm gầm gừ, mặt đã có một hàng ria mép vừa hẹp vừa rủ để trưng diện. “Nếu cậu ta là hiền triết, thì một người nên nghe những gì cậu ta nói. Học được gì đó chẳng bao giờ có hại. Học hành chẳng làm đau ai bao giờ. Chà, gần như chưa bao giờ. Và gần như chưa với ai.”

“Cái gì đúng là đúng,” Melfi tuyên bố. “Jarre quả thực không hề ngu. Cậu ta là một học giả và đã học đọc và viết tại Đền thờ Melitele ở Ellander, và trông coi thư viện của họ.”

“Tôi tự hỏi,” Pike nhìn Jarre qua làn khói từ đám lửa, đôi mắt lấp lánh như một con cá chó đích thực dưới ngọn đuốc của thuyền câu, “một học giả đang làm gì trên đường tới Vizima?”

“Như các cậu,” Jarre trả lời. “Tôi sẽ gia nhập quân đội.”

“Tại sao một gã biết tuốt chết tiệt lại muốn gia nhập quân đội? Các thánh đường không cần phải cung cấp người. Và thằng ngu nào cũng biết là hội đồng thành phố có thể bảo vệ thư ký của họ và giúp anh ta khỏi bị sung quân. Vậy thì là gì đây, ngài thư ký?”

“Tôi sẽ gia nhập như một người tình nguyện,” Jarre đáp lại. “Tôi muốn nhập ngũ vì lựa chọn của bản thân, không phải do ép buộc. Một phần vì lý do cá nhân, nhưng chủ yếu là vì tinh thần yêu nước.”

Cả nhóm phá lên cười như sấm nổ.

“Nhìn này các cậu,” Pike nói sau khi đã hớp hơi, “trong con người ta đôi khi tồn tại sự xung khắc làm sao. Hai bản chất. Ở đây chúng ta có một chàng trai trẻ, dường như được giáo dục cẩn thận và từng trải và chắc chắn không phải một thằng đần bẩm sinh. Cậu ta chắc chắn phải biết chiến sự đang diễn ra thế nào, ai đang đánh ai và ai sắp sửa thua ai thảm bại. Và cậu ta, như các cậu đã nghe, muốn tự nguyện gia nhập vì lý do cá nhân và tinh thần yêu nước, nhưng là gia nhập bên thua trận.”

Không ai bình luận. Kể cả Jarre.

“Tinh thần yêu nước như vậy,” cuối cùng Pike cất lời, “thường là dấu hiệu của những tâm trí yếu ớt. Nhưng còn cả lý do cá nhân được nhắc đến ở đây. Tôi vô cùng tò mò muốn biết chúng là cái gì vậy.”

“Chúng là lý do cá nhân…” Jarre ngắt lời cậu ta, “…đến nỗi tôi sẽ không nói đến chúng. Nhất là khi chính cậu cũng chẳng vội vã nhắc đến lý do của mình.”

“Giờ thì nghe đây,” Pike nói sau một hồi. “Nếu có thằng khốn nào nói chuyện với tôi kiểu đó, hắn sẽ nhận ngay một đấm vào mặt. Nhưng nếu hắn là một học giả…tôi sẽ tha cho hắn…chỉ một lần. Và nói rằng: Tôi cũng sẽ gia nhập. Và cũng là tự nguyện.”

“Để, như mấy kẻ yếu ớt, gia nhập bên thua trận?” Jarre ngạc nhiên trước sự xấc láo chợt tuôn từ đâu đó ra của mình. “Trấn lột khách hành hương qua cầu trên đường ra trận?”

“Cậu ta,” Melfi khục khặc, cướp lời Pike, “vẫn còn giận chúng ta về vụ mai phục đó. Bỏ đi, Jarre, đó chỉ là một trò đùa thôi! Một trò chơi khăm vô hại. Phải không, Pike?”

“Phải.” Pike ngáp và ngậm miệng lại to đến nỗi phát ra tiếng. “Chỉ là một trò đùa vô hại. Cuộc đời thật buồn thảm, như bò bị dẫn đến lò mổ. Người ta sẽ làm mọi thứ để được vui, cậu không nghĩ thế sao, thư ký?”

“Tôi cho là vậy. Trên lý thuyết.”

“Thế là được rồi,” Pike không rời đôi mắt lấp lánh khỏi cậu. “Bằng không cậu sẽ phải đến Vizima một mình.”

Jarre im lặng. Pike duỗi người.

“Tôi đã nói điều muốn nói. Chà, các cậu, vui thế là đủ rồi, đã tới lúc đi ngủ. Nếu muốn tối mai tới được Vizima, chúng ta nên xuất phát lúc rạng sáng.”

***

Buổi đêm rất lạnh, và Jarre không thể ngủ được bất chấp sự mệt mỏi của mình. Cậu cuộn tròn lại thành quả bóng bên dưới tấm áo choàng, đầu gối gần chạm đến cằm. Khi cuối cùng thiếp đi, cậu ngủ rất tệ, bị những giấc mơ liên tục đánh thức. Cậu không thể nhớ nổi chúng. Ngoại trừ hai. Trong giấc mơ đầu tiên, witcher Geralt xứ Rivia đang ngồi dưới những chỏm băng dài chìa ra từ một tảng đá, bất động, bao phủ bởi tuyết và nhanh chóng bị chôn vùi bởi cơn bão. Trong giấc mơ còn lại, Ciri đang phi nước đại trên lưng một con ngựa đen, ôm chặt lấy bờm, chạy dọc một hàng trăn dị dạng cố gắng túm lấy cô bé bằng những cành cây xoắn vặn.

À, và ngay trước bình minh cậu mơ thấy Triss Merigold. Sau lần cô lưu lại ở đền thờ một năm về trước, chàng trai đã có vài giấc mơ về nữ pháp sư. Những giấc mơ khiến Jarre làm những điều cậu cảm thấy rất xấu hổ khi thức dậy.

Lần này, dĩ nhiên là không có chuyện gì xấu hổ xảy ra cả. Trời quá lạnh.

***

Cả 7 người khởi hành vào lúc bình minh, ngay khi mặt trời vừa ló dạng. Milton và Ograbek, hai cậu con trai nông dân bị sung quân, khơi dậy tinh thần bằng một bài ca người lính:

Nơi đây người lính tới, khiên giáp trụ sáng ngời.

Chạy mau đi cô gái, anh ta muốn hôn cô.

Và kể cả nếu không, ai muốn cản anh lại?

Bởi lưỡi kiếm sắc bén, bảo vệ chính chúng ta.

Pike, Okultich, Klaproth và Melfi bám dính lấy nhau như rận trên kẻ ăn mày và kể những câu truyện đùa ngớ ngẩn, mà theo họ thì cực kỳ hài hước.

“…và thế là gã Nilfgaard hỏi: ‘Mùi gì thối thế nhỉ?’ Và gã elf trả lời: ‘Cứt’. Haa, haa, haa!”

“Ha, ha, ha, ha! Và cậu có biết truyện này không? Một gã Nilfgaard, một tên elf và một người lùn đi cùng nhau…”

Ngày trôi qua dần, và họ càng lúc càng bắt gặp nhiều những kẻ lang thang, xe hàng của nông dân, đại diện hoàng gia và từng toán lính nhỏ hành quân trên xa lộ. Vài xe chất đầy thực phẩm. Băng của Pike theo đuôi chúng với mũi gần như dí xuống đất giống que chỉ, lượm lặt bất kỳ cái gì rơi vãi – đây một quả cà rốt, kia một củ khoai tây, đó một củ cải, đôi lúc thậm chí là một củ hành. Một số họ sáng suốt đem cất để dành một ngày mưa, số khác họ đem ra ngấu nghiến mà không thèm gián đoạn câu truyện đùa.

“…và gã Nilfgaard kêu: Á! Rồi ị ra quần! Ha, ha, ha, ha!”

“Haa, haa, haa! Ôi thần linh ơi, tôi không chịu nổi…ị ra quần…Haa, haa, haa!”

Jarre đang trông đợi một thời cơ hoặc lý do để tách ra khỏi họ. Cậu không ưa Pike, cậu không ưa Okultich. Cậu không ưa ánh mắt của Pike và Okultich mỗi khi có một xe hàng của lái buôn hay nông dân mà có phụ nữ ngồi trên chạy qua. Cậu không ưa kiểu cách mỉa mai của Pike mỗi khi cậu ta nhắc đến lý do tình nguyện gia nhập quân đội của cậu vào thời điểm mà rõ ràng và không thể chối cãi rằng họ sẽ thua trận.

Không khí có mùi như đất mới cày. Và khói. Họ trông thấy những mái nhà trong thung lũng, nằm giữa những ô ruộng quen thuộc, vườn cây và ao cá lấp lánh như gương. Đôi lúc từ xa vẳng lại tiếng chó sủa, bò rống hay gà gáy.

“Có thể thấy những ngôi làng này rất giàu có.” Pike ngọng ngịu, liếm môi. “Nhỏ nhưng gọn gàng.”

“Halfling sống và trồng trọt trong thung lũng này,” Okultich nhanh chóng giải thích. “Mọi thứ về chúng đều mang vẻ hoa mỹ và đẹp đẽ. Một quốc gia ti tiện, bọn lùn đó.”

“Lũ không–phải–người đáng nguyền rủa.” Klaproth thều thào. “Bọn quỷ lùn khốn khiếp! Chúng trồng trọt ở đây, trong khi nghèo đói và khốn khó đổ lên những con người đích thực bởi vì những sinh vật như chúng. Kể cả chiến tranh cũng không gây hại lên chúng.”

“Trong lúc này thôi.” Pike kéo miệng thành một nụ cười xấu xí. “Hãy ghi nhớ ngôi làng này, các chàng trai. Hãy nhớ nó thật kỹ. Nếu có bao giờ quay lại đây, tôi không muốn đi lạc đâu.”

Jarre ngoảnh mặt đi. Cậu vờ rằng mình không nghe thấy. Rằng tất cả những gì cậu thấy chỉ là con đường ở trước mặt.

Họ bước tiếp. Milton và Ograbek, con trai nông dân bị sung quân, hát một bài ca mới. Kém phần lính tráng hơn. Có lẽ là hơi bi quan. Mà đặc biệt sau câu nói của Pike lúc trước, có thể coi là điềm gở.

Im và nghĩ những gì ta nói,

Ta sẽ nói về chết hôm nay,

Bởi dù cho ngươi trẻ hay già,

Ngươi sẽ không thể thoát khỏi nó,

Luôn cảnh giác về món nợ phải trả,

Không nhân từ dưới lưỡi hái trong tay.

***

“Lão ta,” Okultich khẽ nói, “chắc chắn mang tiền trên người. Nếu không thì cứ việc cắt bi tôi.”

Cá nhân mà Okultich vừa mới đánh cược một cách ghê tởm đó là một thương nhân đơn độc đang đi trên đường, từng bước chân nhanh nhẹn bên cạnh chiếc xe hàng được kéo bởi một con lừa.

“Có tiền hay không,” Pike ngọng ngịu, “thì con lừa đó ắt cũng đáng giá chút đỉnh. Khẩn trương lên nào, các chàng trai.”

“Melfi,” Jarre túm lấy tay áo con trai thợ đóng thùng. “Mở mắt ra đi. Cậu không thấy họ đang mưu tính chuyện gì đây sao?”

“Ôi, họ chỉ nói đùa thôi, Jarre.” Melfi vùng ra. “Chỉ là đùa thôi…”

Chiếc xe – rõ ngay từ cái nhìn ban đầu – cũng là một cửa hàng di động, và có thể được dựng lên chỉ trong vài phút. Toàn bộ công trình được phủ một tấm vải bạt có thể dùng làm biển hiệu quảng cáo những món đồ được rao bán – bùa hộ mạng, mề đay, rễ cây và thảo dược làm thuốc, thần dược, bùa yêu và thuốc bôi, dung dịch tẩy rửa, máy dò kim loại và đủ thể loại mồi câu dành cho cá, vịt và các thiếu nữ.

Người thương nhân, một ông già gầy còm, đưa mắt ngó nghiêng xung quanh và trông thấy họ, nguyền rủa và giục con lừa chạy nhanh hơn. Nhưng con lừa, giống mọi con lừa khác, chẳng thèm thay đổi tốc độ tí nào.

“Lão đang mặc một bộ quần áo khá ổn đó chứ,” Okultich khẽ khàng đánh giá. “Và tôi đảm bảo chúng ta sẽ tìm được gì đó trên xe.”

“Được rồi, các cậu.” Pike nói. “Nhanh lên nào! Chúng ta sẽ xử lý nhanh gọn trong khi vẫn còn ít nhân chứng trên đường.”

Jarre, sững sờ trước sự dũng cảm của mình, chạy lên trước trong vài bước chân thoăn thoắt và quay lại, đứng chắn giữa họ và người thương nhân.

“Không,” cậu nói, vật lộn để ép câu từ ra khỏi họng. “Tôi sẽ không cho phép…”

Pike từ tốn mở áo khoác và trưng ra một con dao dài dắt ở thắt lưng, sắc như dao cạo.

“Tránh ra khỏi đường, thư ký,” cậu ta đe dọa. “Nếu còn quý cái cổ họng của mình. Tôi đã tưởng là cậu có thể hòa hợp vào đoàn lữ hành này, nhưng không. Ngôi đền đó có vẻ như đã biến cậu thành một kẻ thánh thiện quá mức. Người cậu sặc mùi hương trầm. Vậy nên tránh ra khỏi đường, bằng không…”

“Có chuyện gì ở đây thế hả? Này?”

Hai người lạ mặt hiện ra từ đằng sau những thân cây liễu to lớn và tán rộng đứng hai bên đường và là đặc điểm nổi bật nhất của thung lũng Ismena.

Cả hai đều có bộ ria mép đánh sáp và uốn ngược lên trên, quần rộng sặc sỡ, áo khoác da ngắn trang trí với ruy băng và mũ bê rê nhung to vĩ đại, mềm, cắm lông chim. Ngoại trừ thanh đao và con dao treo trên dải thắt lưng to bản, hai người đàn ông còn đeo sau lưng hai thanh đại kiếm, có lẽ phải dài đến hai thước, với tay cầm dài gần một mét và thanh chắn uốn cong.

Hai người lính có vẻ như xuất hiện từ trong bụi cây sau khi đã giải quyết xong nhu cầu cá nhân. Mặc dù không ai làm một cử động nào về phía tay cầm những thanh kiếm kinh khủng của họ, nhưng Pike và Okultich vẫn ngay lập tức trở nên ngoan ngoãn, và Klaproth to lớn cũng rụt lại như một tấm da dê xì hơi.

“Chúng tôi…chúng tôi không làm gì cả…” Pike lắp bắp. “Không gì cả, chúng tôi chỉ…”

“Đùa vui thôi!” Melfi ré lên.

“Chưa có ai bị làm sao cả,” người thương nhân già cả bất ngờ lên tiếng. “Chưa có ai!”

“Chúng tôi,” Jarre nhanh chóng thêm vào, “đang trên đường tới Vizima để đầu quân. Có lẽ các quý ngài đây cũng đang đi cùng hướng?”

“Đúng là như vậy.” một người khịt mũi, ngay lập tức hiểu được chuyện gì đang xảy ra. “Chúng ta cũng đang trên đường tới Vizima. Những ai muốn đều có thể đi cùng. Như thế sẽ an toàn hơn.”

“An toàn hơn, ta xin thề.” Người còn lại thêm vào đầy ẩn ý, liếc Pike từ trên xuống dưới. “Ta cũng cần phải thêm vào rằng cách đây không lâu chúng ta đã bắt gặp một toán tuần tra gần khu vực ngoại ô Vizima. Họ đang bực bội vì phải đi tuần thay vì được ngồi đâu đó ấm áp. Họ rất sẵn lòng treo cổ bất kỳ tên cướp nào gặp trên đường.”

“Và thật tốt,” Pike đã lấy lại được bình tĩnh, và mỉm cười với hàm răng hở, “thưa các ngài, rằng có luật pháp và trừng trị dành cho bọn tội phạm, đó là quy luật tự nhiên. Chúng ta cùng đến Vizima nào, tới quân đội, vì nghĩa vụ kêu gọi.”

Người lính nhìn cậu ta thật lâu và với vẻ khinh bỉ, rồi nhún vai, chỉnh lại thanh đại kiếm sau lưng và quay lại con đường. Bạn đồng hành của ông ta, Jarre, người thương nhân và con lừa cùng chiếc xe hàng nối gót theo sau, và ở cuối, cách xa một đoạn, là đám bát nháo của Pike.

“Cảm ơn các ngài hiệp sĩ.” Người thương nhân lên tiếng sau một lúc. “Và cảm ơn cậu, chàng trai.”

“Không có gì đâu.” Người lính phẩy tay. “Chúng ta quen rồi.”

“Quân đội đang thu hút rất nhiều loại người.” Bạn đồng hành của ông ta nhìn qua vai. “Lệnh truyền xuống một ngôi làng hay thị trấn nhỏ rằng cứ mỗi 500 mẫu đất thì phải cung cấp một người, và đôi lúc họ mượn cớ đó để tống khứ những thể loại cặn bã rác rưởi nhất. Thế là con đường tràn ngập lũ côn đồ như cái đám đằng kia. Chà, trong quân ngũ, ngọn roi của các hạ sĩ sẽ dạy chúng biết điều. Ai cũng đều học cách vâng lời sau khi bị bắt chạy dọc một dãy hành lang rải cọc vài lần.”

“Tôi,” Jarre nhanh chóng thêm vào, “tình nguyện gia nhập, chứ không phải bị ép buộc.”

“Rất đáng khen, rất đáng khen.” Người lính liếc cậu và vuốt hàng ria mép đánh sáp. “Và ta thấy là cậu được nhào nặn từ loại đất sét khác hẳn so với bọn tạp chủng kia. Sao cậu lại đi cùng chúng?”

“Định mệnh đã đem chúng tôi lại với nhau.”

“Ta đã từng thấy nhiều cuộc gặp như vậy,” người lính từng trải nói nghiêm túc, “mà cũng được chính định mệnh dẫn luôn đến giá treo cổ. Hãy rút ra bài học từ đó, chàng trai.”

“Tôi sẽ.”

***

Trước khi vầng mặt trời bị mây che khuất đứng ở vị trí thiên đỉnh, họ đã ra tới đường chính. Nơi đây một quãng giải lao không thể tránh khỏi đang đợi họ. Cũng như một nhóm khách lữ hành lớn đang phải đứng chờ – bởi con đường dày đặc quân lính đang hành quân.

“Về phía nam,” một người lính bình phẩm với vẻ hiểu biết. “Ra tiền tuyến. Tới Maribor và Mayena.”

“Nhìn cờ của họ kìa.” Người còn lại hất đầu.

“Quân Redania.” Jarre nói. “Đại bàng bạc trên nền đỏ.”

“Thông minh lắm.” Người lính vỗ lưng chàng trai. “Phải, đó là quân đội Redania đã được hoàng hậu Hedwig cử tới. Cuối cùng thì các vương quốc đã lại đoàn kết – Temeria, Redania, Aedirn và Kaedwen. Giờ chúng ta đều là đồng minh, cùng hướng tới một mục đích.”

“Có hơi muộn,” Pike cất tiếng mỉa mai đằng sau lưng. Người lính quay lại, nhưng không nói gì.

“Hãy cùng ngồi xuống nào,” Melfi đề nghị, “Nghỉ ngơi một lát. Quân đoàn đó dài như vô tận vậy. Sẽ phải cả thế kỷ trước khi con đường trở lại thoáng đãng.”

“Hãy cùng ngồi xuống,” người thương nhân đồng tình, “trên ngọn đồi đằng kia. Tầm nhìn sẽ được tốt hơn.”

Đoàn kỵ binh Redania chạy qua và theo sau họ là các cung thủ, bụi bay mù trời. Đằng sau nữa là một hàng kỵ binh nặng cưỡi ngựa thong thả.

“Và họ,” Melfi chỉ về phía đoàn kỵ sĩ giáp trụ, “đang đi dưới màu cờ khác. Cờ của họ màu đen, lấm tấm thứ gì đó màu trắng.”

“Cậu bò từ cái hố nào ra thế hả?” người lính lắc đầu. “Không biết cả quân kỳ vua của mình hay sao? Đó là hoa huệ trắng, đồ ngu…”

“Huệ trắng trên nền đen,” Jarre nhanh chóng giải thích, muốn chứng tỏ rằng mình không bò ra từ cái hố nào cả, “Quốc huy cũ của vương quốc Temeria là một con sư tử. Nhưng các công tước của Temeria lại sử dụng một hình ảnh khác. Họ thêm vào ba bông huệ. Bởi hoa huệ có ý nghĩa biểu trưng cho người kế vị ngai vàng, đứa con trai của hoàng gia, người thừa hưởng quyền trượng và vương miện…”

“Mẹ cái thằng biết tuốt,” Klaproth sủa.

“Câm mồm vào đi, đầu đất.” Người lính đe nẹt. “Còn cậu, chàng trai, nói tiếp đi. Chuyện này thú vị đây.”

“Khi hoàng tử Goidemar, con trai của vua Gardik, chiến đấu chống lại cuộc nổi loạn của con quỷ cái Falka, quân đội Temeria, dưới quân kỳ của ngài, dưới biểu tượng bông huệ trắng, đã giành được vô số thắng lợi mang tính quyết định. Và khi Goidemar kế vị ngai vàng từ cha của mình, ngài đã biến ba bông huệ trên nền đen thành quốc huy để tưởng nhớ những chiến thắng đó và cuộc giải thoát thần kỳ vợ và con của mình khỏi bàn tay kẻ thù. Sau này vua Cedric đã ra sắc lệnh đặc biệt thay đổi quốc huy thành hình tấm khiên với huệ trắng trên nền đen. Và quốc huy của Temeria đã trở thành như vậy cho đến bây giờ. Mà các ngài có thể dễ dàng tự xác nhận, bởi các giáo binh Temeria đang đi qua đường chính ngay bây giờ.”

“Cậu giải thích rất hay, anh bạn trẻ.” Người thương nhân nói.

“Không phải tôi,” Jarre thở dài, “mà là John xứ Attre, một học giả nghiên cứu biểu tượng.”

“Và tôi thấy cậu cũng đâu đến nỗi tệ.”

“Một lính mới hoàn hảo,” Pike khẽ thêm vào. “Để bị đập chết dưới quân kỳ huệ trắng đó, vì đức vua và Temeria.”

Họ nghe thấy tiếng hát. Hùng hổ, âm vang như sóng biển, như cơn bão đang gầm gừ tiến lại. Theo sau quân Temeria là những người lính khác trong đội hình khăng khít và gọn gàng. Các kỵ sĩ xám xịt, gần như không màu, mà không có lá cờ hay quân kỳ nào bay trên đầu cả. Một cây gậy với một khúc gỗ buộc ngang treo đuôi ngựa và đóng đinh ba cái sọ người được mang bên cạnh người chỉ huy ở đầu đoàn quân.

“Quân Đoàn Tự Do.” Người lính đầu tiên kín đáo ám chỉ đoàn kỵ binh xám. “Lính đánh thuê.”

“Thậm chí cả những con mắt không chuyên cũng thấy được là họ dạn dày kinh nghiệm,” Melfi trầm trồ. “Và họ bước thật đều, như thể đang diễu hành…”

“Quân Đoàn Tự Do,” người lính nhắc lại. “Hãy nhìn cho kỹ đi, hỡi bọn nông dân và nhãi nhép. Đó là những người lính thực thụ. Họ đã từng tham chiến rồi. Chính họ, quân đoàn lính đánh thuê của Adam Pangratt, Lorenzo Molla, Frontino và Julia Abatemarco, đã lật ngược thế cờ ở Mayena. Nhờ có họ mà vòng vây của Nilfgaard đã bị phá tan. Nhờ có họ mà những pháo đài đó đã được giải phóng.”

“Dũng cảm và can trường, đám lính đánh thuê đó,” người còn lại thêm vào. “Bất khuất như đá tảng trong chiến trận. Nhưng Quân Đoàn Tự Do chiến đấu vì tiền, có thể nhận ra dễ dàng từ bài hát của họ.”

Đoàn quân từ từ tiến tới, bài ca vang lên mạnh mẽ và hào sảng, nhưng u ám và đắng cay đến lạ lùng.

Không quyền trượng hay ngai vàng nào trói buộc ta

Không vua chúa nào trói buộc ta

Bởi ta phụng sự đồng vàng

Sáng chói dưới ánh mặt trời!

Lời thề của ngươi chẳng là gì cả

Chúng ta không hôn quân kỳ hay tay ngươi

Chúng ta thề chung thủy với đồng vàng

Sáng chói dưới ánh mặt trời!

“Eh, được phụng sự cho họ,” Melfi lại thở dài. “Được chiến đấu cùng những người như họ…được biết đến vinh quang và chiến lợi phẩm…”

“Mắt tôi có đang đánh lừa tôi không?” Okultich ngước đầu lên. “Phía đầu trung đoàn thứ hai…là một người phụ nữ? Những người lính đánh thuê này chiến đấu dưới quyền một người phụ nữ hay sao?”

“Cô ấy là một người phụ nữ,” người lính xác nhận. “Nhưng không phải một người phụ nữ thông thường. Đó là Julia Abatemarco, biệt danh Mèo Con Xinh Xắn. Một chiến binh dũng mãnh! Dù cho chỉ có 500 người, nhưng dưới quyền chỉ huy của cô ấy các lính đánh thuê đã nghiền nát 3000 quân Áo Đen và elves trước cổng thành Mayena.”

“Tôi nghe nói,” Pike nói bằng một giọng khiêm nhường, nhưng cay nghiệt một cách kinh tởm, “rằng chiến thắng lừng danh đó là vô nghĩa, rằng số vàng dùng để thuê họ đã bị phí hoài một cách không cần thiết. Quân Nilfgaard đã tổ chức lại và dạy cho người của ta một bài học ra trò. Và bao vây Mayena một lần nữa. Và có khi đã chiếm được nó rồi cũng nên? Và có khi chúng đang tiến về hướng này? Có khi chúng sẽ tới được đây chỉ trong vài ngày nữa? Có thể bọn lính đánh thuê thối nát đó đã bị Nilfgaard mua chuộc từ lâu? Và có thể…”

“Và có thể,” người lính giận dữ ngắt lời, “cậu muốn ăn một vả vào cái mồm dối trá đó, thằng khốn! Coi chừng đấy, vì tội bôi nhọ quân đội chúng ta sẽ bị trừng phạt bằng thòng lọng! Vậy nên ngậm mồm vào đi, trong khi ta vẫn còn đang bình tĩnh!”

“Oooh!” Klaproth mập mạp kêu lên, mồm há hốc. “Ooh, nhìn kìa! Nhìn mấy tay lùn tịt đó kìa!”

Giữa tiếng thùng thùng của trống trận, rền rĩ của kèn túi và réo rắt của sáo tiêu, một đội hình bộ binh trang bị giáo, rìu và chùy gai hành quân dọc con đường. Đội mũ chóp nhọn, khoác lông thú và áo lưới thép là những người lính nhỏ con hơn bình thường rất nhiều.

“Người lùn từ dãy núi,” người lính đầu tiên giải thích. “Một trong các trung đoàn Quân Tình Nguyện Mahakam.”

“Tôi tưởng là,” Okultich lên tiếng, “bọn lùn chiến đấu chống lại chúng ta. Rằng lũ nòng nọc bẩn thỉu đó đã phản bội chúng ta vì bọn Áo Đen…”

“Cậu tưởng?” Người lính nhìn cậu ta với vẻ thương hại. “Ta tự hỏi là bằng cái gì đây? Nếu có nuốt phải một con gián trong bát súp thì cậu cũng sẽ có nhiều trí khôn trong bụng hơn là trên đầu, đồ ngu. Những người đang đi dưới đó là một trong các trung đoàn bộ binh được cử đến để hỗ trợ chúng ta bởi Brouver Hogg, thống đốc của Mahakam. Đa số họ cũng đã trải qua chiến trận, và hứng chịu tổn thất nặng nề, do vậy phải rút lui về Vizima để hội quân.”

“Người lùn rất dũng cảm,” Melfi xác nhận. “Tôi đã từng gặp một người, trong một quán trọ ở Ellander vào đêm Saovine, và ông ta tặng tôi một cái bạt tai mà vẫn còn ù cho đến tận Yule.”

“Trung đoàn người lùn đi ở cuối cùng rồi,” người lính lấy tay che mắt. “Con đường sẽ sớm được giải phóng thôi. Đi nào, sắp trưa rồi.”

***

“Quá nhiều quân lính di chuyển về phía nam,” người thương nhân bình phẩm. “Sẽ có một trận chiến vĩ đại, và tai ương vĩ đại. Hàng ngàn người sẽ chết bởi thanh kiếm và ngọn lửa. Các ngài có trông thấy ngôi sao chổi trên bầu trời hằng đêm mà kéo theo một dải đuôi màu đỏ đằng sau không? Khi một ngôi sao chổi đuôi trắng xuất hiện, nó dự báo bệnh dịch, thổ tả và phong hàn. Một ngôi sao chổi đuôi xanh dự báo thiên tai, lụt lội, giông tố và mưa dài. Một ngôi sao chổi đuôi đỏ là sao chổi của máu và lửa, và sắt sẽ được sinh ra từ lửa. Tai ương sẽ ập xuống đầu mọi người, cái chết và đổ máu. Những gì đã được tiên đoán trong lời tiên tri cổ – xác sẽ chất cao như núi, sói sẽ tru trên mặt đất hoang tàn, và con người khóc tìm đồng loại…Ôi, thương thay cho chúng ta!”

“Sao lại chúng ta?” người lính lạnh lùng ngắt lời. “Ngôi sao chổi bay rất cao, ắt người ta cũng trông thấy được nó từ Nilfgaard. Chưa kể đến thung lũng Ina, nơi Menno Coehoorn đang cắm trại. Bọn Áo Đen cũng nhìn lên trời và thấy được sao chổi. Vậy thì sao lại không tin rằng tai ương sẽ ập xuống đầu chúng chứ không phải chúng ta?”

“Đúng đó!” người còn lại ủng hộ. “Thương thay cho lũ Áo Đen.”

“Các ngài giải thích rất hay.”

“Chắc chắn rồi.”

***

Họ băng qua khu rừng bao quanh Vizima và tới những đồng cỏ. Nơi đây nuôi hàng đàn ngựa dùng để cưỡi và kéo xe. Giờ đang là tháng Ba, cỏ mọc thưa thớt, nhưng trên đồng vẫn có những xe hàng chất rơm đầy đủ.

“Thấy không?” Okultich liếm môi. “Những con ngựa tuyệt đẹp! Và không ai đứng canh cả!

Cứ việc chọn và…”

“Im mồm đi,” Pike gầm gừ qua kẽ răng, mỉm cười với hai người lính. “Anh chàng này luôn muốn được tham gia đội kỵ binh, thưa các ngài. Do vậy cậu ta thích nhìn ngựa.”

“Tham gia đội kỵ binh?” người lính phì cười. “Thằng bé tưởng tượng mới phong phú làm sao! Loại như cậu chỉ có đem đi dọn chuồng ngựa hay xúc phân mà thôi!”

Họ tiếp tục đi và sớm đến một bến đò nằm cạnh những hồ nước và kênh mương. Và đột nhiên qua những ngọn cây trăn, họ có thể trông thấy những mái ngói đỏ của lâu đài Vizima.

“Chúng ta gần tới nơi rồi,” người thương nhân nói. “Mọi người có ngửi thấy không?”

“Ugghh!” Melfi nhăn mặt. “Mùi gì khiếp quá vậy?”

“Có lẽ là những người lính chết đói trong khi đợi đức vua trả công,” Pike lầm bầm sau lưng họ, đảm bảo để hai người lính không nghe được.

“Muốn chảy cả nước mắt nhỉ?” một người cười. “Phải, hàng ngàn quân lính đã trú đông ở đây, và lính thì phải ăn, và ăn thì phải ỉa. Tự nhiên là như vậy và không thể thay đổi được! Và cái gì ỉa ra sẽ được đổ xuống hố, mà không được lấp lại. Mùa đông thì cứt bị đóng băng nên ta còn chịu được, nhưng khi xuân đến…Ugh!”

“Và ngày càng thêm nhiều lính mới đến cộng thêm vào đống cũ.” Người còn lại nhổ một bãi. “Nghe thấy tiếng vo ve không? Ruồi đấy. Có cả đàn ở đây! Cố mà che mặt lại, nếu không chúng bay hết vào mắt và mồm, bọn khốn đó. Và đi thật nhanh. Càng nhanh càng tốt.”

***

Họ bỏ lại mấy cái hố đằng sau, nhưng không vứt đi được mùi thối. Trái lại là đằng khác, Jarre dám cược cái đầu của mình rằng càng đến gần thành phố, mùi bốc lên sẽ càng ghê hơn. Và đa dạng hơn. Khu trại quân đội bao quanh lâu đài bốc mùi. Cái bệnh viện dã chiến to đùng bốc mùi. Vùng ngoại ô đông đúc và bận rộn bốc mùi, con đê bốc mùi, cổng thành bốc mùi, quảng trường nhỏ và con phố bốc mùi, bức tường bao quanh tòa lâu đài vĩ đại vươn lên phía trên thành phố bốc mùi. May mắn thay, lỗ mũi nhanh chóng trở nên quen dần và họ sớm không còn phân biệt được giữa phân, thịt ôi, nước đái mèo hay lại một bếp ăn ngoài trời khác.

Ruồi bâu khắp nơi. Chúng vo ve đến phát bực, bay vào mắt, mũi hay miệng. Chúng không thể bị đuổi đi. Dễ hơn là đập chết luôn trên mặt. Hay nhai trong mồm.

Khi vừa bước ra khỏi bóng tối của cổng thành, họ ngay lập tức được chào đón bởi một bức tranh tường vĩ đại miêu tả một hiệp sĩ đang chỉ ngón tay vào mình. Dòng chữ bên dưới to tổ bố: CÒN BẠN THÌ SAO? ĐÃ NHẬP NGŨ CHƯA?

“Rồi, rồi,” người lính lầm bầm. “Đáng tiếc thay.”

Còn rất nhiều những bức tranh tương tự. Có thể nói rằng tường nào cũng có tranh. Đa số là vị hiệp sĩ chỉ ngón tay, nhưng thi thoảng cũng có một Đất Mẹ nghiêm trang với mái tóc xám bồng bềnh, đằng sau lưng là những ngôi làng bốc cháy và trẻ em bị xiên trên cọc Nilfgaard. Một mô típ quen thuộc khác là elves ngậm những con dao đẫm máu trong mồm.

Jarre chợt nhìn quanh và nhận ra rằng họ đang ở một mình: cậu, hai người lính và lão thương nhân. Không thấy tăm hơi Pike, Okultich, đám nông dân bị sung quân hay Melfi đâu cả.

“Phải, phải,” người lính xác nhận suy đoán của Jarre. “Đồng đội của cậu đã bỏ chạy ngay cơ hội đầu tiên. Bọn ranh con, lẻn đi ngay đầu góc phố. Nhưng cậu biết ta sẽ nói gì không, chàng trai? Hãy mừng là con đường của các cậu đã chia ngả. Và cầu rằng sẽ không bao giờ tái hợp.”

“Tôi thấy tiếc cho Melfi.” Jarre lầm bầm. “Cậu ta không phải người xấu.”

“Mỗi người tự chọn lấy vận mệnh cho riêng mình. Đi cùng chúng ta nào. Chúng ta sẽ chỉ cậu nơi đăng ký.”

Họ tiến vào một quảng trường đặt một bệ đá ở giữa, và trên đó là một cái gông. Xung quanh cái gông, người dân thành phố và binh lính thèm khát được giải trí bu đông nghẹt. Kẻ tù tội bị ném bùn vào mặt, khóc lóc và khạc nhổ. Đám đông cười rần rần.

“Này!” Người lính đầu tiên la lên. “Nhìn xem họ đã gông cổ ai lại kìa. Đó là Fuson! Tôi tự hỏi là vì tội gì đây?”

“Trồng cây,” một gã to béo khoác da sói và mũ lông nhanh chóng giải thích.

“Vì cái gì cơ?”

“Trồng cây,” người đàn ông ục ịch nhắc lại thật to. “Vì dám trồng cây.”

“Ha! Tôi cứ tưởng là ông nói nhầm, xin thứ lỗi.” Người lính cười. “Thật là nhảm nhí, tôi đã quen Fuson nhiều năm rồi. Anh ta là thợ đóng giày, con trai của một người thợ đóng giày và cháu trai của một người thợ đóng giày. Cả đời anh ta chưa từng gieo hay cấy hay gặt cái gì cả. Ông lôi ra cái đống nhảm nhí về trồng cây kia ở đâu vậy, thưa ngài?”

“Đó chính là lời của đại diện hoàng gia!” người đàn ông đáp lại với vẻ bực tức. “Họ nói rằng tên phạm nhân sẽ bị gông cổ cho đến sáng mai, vì nghe theo mệnh lệnh của Nilfgaard, hắn đã trồng vài loại thảo dược kỳ dị nào đó…Chắc là thuốc độc…Đợi đã, tôi nhớ rồi…À! Đó là defeatism!”

“Đúng, đúng!” Người thương nhân la lên. “Tôi có nghe người ta nói về nó. Gián điệp Nilfgaard và bọn elves đang muốn lây lan dịch bệnh, đầu độc giếng nước, suối và sông bằng nhiều loại độc dược khác nhau như lepra, độc cần và defeatism!”

“Phải,” người đàn ông khoác da sói gật gù. “Ngày hôm qua họ đã treo cổ hai tên elf. Chắc là vì tội đầu độc.”

***

“Đằng sau góc phố đó…” người lính chỉ, “…là quán rượu nơi ủy ban tiếp nhận đang ngồi. Có một tấm bạt to trải phía trước với hình huệ trắng Temeria thêu trên đó, mà dĩ nhiên là cậu biết rồi. Cậu sẽ tìm được nó dễ thôi. Hãy tự chăm sóc bản thân mình. Nếu thần linh ban phước, chúng ta sẽ gặp lại nhau vào thời điểm tốt đẹp hơn. Tạm biệt cả ông nữa, ngài thương nhân.”

Người thương nhân hắng giọng.

“Các quý ngài,” ông ta nói, lục lọi đống rương hòm, “hãy để tôi bày tỏ lòng biết ơn của mình…vì sự trợ giúp…”

“Không cần khách khí, ông bạn.” Người lính mỉm cười. “Chúng tôi giúp được là giúp, có thế thôi…”

“Có lẽ một lọ dầu bôi trị đau thắt lưng?” Người thương nhân lôi cái gì đó ra từ dưới đáy hòm. “Có lẽ một loại thuốc trị bách bệnh cho viêm phế quản, gút, liệt và gầu? Hay một chút nhựa thơm cho vết ong đốt, rắn cắn và ma cà rồng? Hay một tấm mề đay để bảo vệ bản thân các ngài khỏi những ánh mắt ác hiểm?”

“Và ông có thứ gì,” người lính thứ hai hỏi, “chữa tác hại do đồ ăn hỏng không?”

“Tôi có đây!” người thương nhân đáp lại. “Đây, loại thuốc giải hữu hiệu nhất được bào chế từ rễ cây và thảo dược ma thuật. Ba giọt sau mỗi bữa ăn là đủ. Xin hãy nhận lấy, các quý ngài.”

“Cảm ơn. Tạm biệt ông. Và cậu nữa, chàng trai.”

“Những con người trung thực và tử tế.” Người thương nhân nói sau khi cả hai người lính đã biến mất vào đám đông. “Không phải ngày nào cũng tìm được. Hay cả cậu cũng vậy, chàng trai! Tôi có thể tặng cậu cái gì đây? Bùa chống sét? Sỏi dê? Đá rùa, đặc biệt hiệu nghiệm khi chống lại thần chú? Aha! Tôi thậm chí còn có một cái răng của người treo cổ và một mẩu phân quỷ…”

Jarre rời mắt khỏi một nhóm người đang thô bạo tẩy rửa một dòng chữ trên tường một ngôi nhà ghi – QUÁ ĐỦ VỚI CUỘC CHIẾN CHÓ MÁ RỒI!

“Không cần,” cậu nói. “Đến lúc tôi phải…”

“Ha!” người thương nhân kêu lên và rút ra một tấm mề đay bằng đồng có dạng một trái tim. “Thứ này rất phù hợp cho một chàng trai trẻ đây. Nó quả thực đặc biệt, tôi chỉ có một cái duy nhất. Đây là một tấm bùa. Nó khiến cho người đeo không bao giờ quên được tình yêu của mình, kể cả nếu thời gian và nhiều dặm đường chia cách họ. Nhìn này, bên trong là một mẩu giấy, mà dùng loại mực đỏ ma thuật mà tôi có, cậu có thể viết tên người cậu yêu lên đây và cô ấy sẽ không bao giờ quên hay phản bội cậu. Cậu nghĩ sao?”

“Hmm…” Jarre đỏ mặt. “Tôi không biết…”

Người thương nhân nhúng bút vào lọ mực. “Tôi nên viết tên gì đây?”

“Ciri. Ý tôi là Cirilla.”

“Xong. Của cậu đây.”

“Jarre! Quỷ thần thiên địa ơi! Cậu đang làm gì ở đây thế này?”

Jarre giật mình quay lại. Mình đã hy vọng, cậu nghĩ, rằng sẽ bỏ lại được quá khứ sau lưng, rằng mọi thứ sẽ bắt đầu lại từ đầu. Và có vẻ như mình liên tục đụng phải người quen cũ.

“Ông Dennis Cranmer…”

Một người lùn trong chiếc áo khoác nặng nề, giáp ngực, giáp tay và một chiếc mũ lông cáo đính một cái đuôi liếc nhìn chàng trai, rồi đến người thương nhân, rồi quay lại chàng trai.

“Cậu đang làm gì ở đây hả Jarre?” ông lại cao giọng hỏi, lông mày và chòm râu đung đưa.

Trong một lúc chàng trai cân nhắc việc nói dối và nhờ người thương nhân tốt bụng xác nhận hộ. Cậu ngay lập tức từ bỏ ý định này. Dennis Cranmer, người đã từng phục vụ trong đội cận vệ của công tước Ellander, tận hưởng tiếng tăm là một người lùn rất khó bị gạt. Và cậu biết là chẳng đáng để thử.

“Tôi muốn nhập ngũ.”

Cậu biết ngay câu hỏi kế tiếp sẽ là gì.

“Nenneke đã cho phép cậu chưa?”

Cậu không trả lời.

“Cậu bỏ trốn,” Dennis Cranmer vuốt râu. “Cậu đã bỏ trốn khỏi đền thờ. Và Nenneke cùng các nữ tư tế giờ đây chắc đang vò đầu bứt tóc…”

“Tôi đã để lại một lá thư,” Jarre lầm bầm. “Ông Cranmer, tôi không thể…tôi phải…một người không thể cứ ngồi yên trong khi kẻ thù đang ở trước ngưỡng cửa…trong thời khắc lâm nguy của quê nhà…và…Ciri…Mẹ Nenneke đã cấm tôi. Mẹ đã cử ba phần tư các cô gái ở đền thờ đến cho quân đội, nhưng lại không để tôi đi. Nhưng tôi phải…”

“Vậy là cậu bỏ trốn.” Người lùn nhíu mày. “Thề trên một trăm con quỷ, tôi nên trói cậu vào một cái que và gửi cậu về lại Ellander mới phải. Tôi nên ra lệnh nhốt cậu vào một cái hang cho đến khi các nữ tư tế tới đón cậu về! Tôi nên…”

Ông thở ra giận dữ.

“Cậu ăn lần cuối là khi nào, Jarre? Lần cuối cậu có đồ ăn nóng sốt đổ vào họng là khi nào?”

“Nóng sốt à? Ba…không, bốn ngày trước.”

“Đi theo tôi.”

***

“Ăn từ từ thôi, con trai.” Zoltan Chivay, một trong số đồng đội của Dennis Cranmer, bảo cậu. “Đừng nhanh như thế, nuốt mà chưa nhai là có hại cho sức khỏe. Cậu vội làm gì? Tin tôi đi, không ai sẽ cướp mất cái đĩa đâu.”

Jarre không dám chắc lắm. Một trận ẩu đả đang diễn ra ngay giữa căn phòng chính của quán trọ Gấu Xù. Hai người lùn mập mạp, to như cái bếp lò, đang nện nhau mạnh tới nỗi nghe thùm thụp, giữa tiếng hò reo của các đồng đội đến từ trung đoàn Quân Tình Nguyện và sự tán thưởng của các ả gái điếm trong vùng. Sàn nhà rung rinh, đồ đạc và xoong nồi rơi tá lả, máu chảy ra từ hai cái mũi dập nát bắn như mưa. Jarre sợ rằng một trong hai đấu thủ sẽ sớm lăn qua bàn và hất đổ cái đĩa thịt lợn, bát đậu hầm bốc khói vĩ đại và cái cốc gốm nung. Cậu nhanh chóng nuốt nốt miếng thịt mỡ đang cắn dở, bởi kinh nghiệm vài ngày qua đã dạy cậu rằng bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy đến.

“Tôi thật sự không hiểu, Dennis.” Một người lùn khác, tên Sheldon Skaggs, thậm chí còn không thèm ngoảnh lại khi một đấu thủ suýt thì quạng trúng ông ta bằng một cú móc phải. “Nếu thằng nhóc này là một thầy tu thì làm sao đăng ký được? Các tư tế không được phép đổ máu.”

“Cậu ta là một học viên ở đền thờ, không phải một tư tế.”

“Tôi chả bao giờ hiểu được ba cái mê tín hành xác đó của con người. Chà, nhưng xỉa xói đức tin của kẻ khác thì cũng không phải. Kết luận ở đây là chàng trai này, dù được nuôi dạy trong một đền thờ, cũng không phản đối gì việc đổ máu. Đặc biệt là máu Nilfgaard. Nhỉ, thế nào, cậu nhóc?”

“Để nó ăn đi, Skaggs.”

“Tôi rất sẵn lòng trả lời…” Jarre nuốt một miệng đầy thịt lợn và lại tống thêm một nắm đậu vào mồm. “Nó như thế này: ông có thể đổ máu trong một cuộc chiến chính nghĩa. Để bảo vệ một lý tưởng cao cả hơn. Đó là lý do vì sao tôi gia nhập…đất mẹ đang kêu gọi…”

“Các anh có thể tự thấy…” Sheldon Skaggs quét mắt qua các đồng đội, “…rằng có bao nhiêu sự thật trong lời tuyên bố rằng con người là một giống loài tương tự và gần gũi với chúng ta, rằng tất cả chúng ta đều có chung một nguồn gốc. Bằng chứng tốt nhất là đây, đang ngồi trước chúng ta này, ngấu nghiến đậu hầm. Nói cách khác: ta cũng có thể tìm được một lố những thành phần ngu ngốc tương tự trong số các thanh niên người lùn.”

“Đặc biệt là sau trận Mayena,” Zoltan Chivay nói lạnh lùng. “Luôn có thêm hàng tấn tình nguyện viên gia nhập sau mỗi trận chiến thắng lợi. Cơn lũ sẽ dừng lại ngay khi tin tức truyền đi rằng đội quân của Menno Coehoorn đang tiến lên sông Ina, chỉ để lại sau lưng đất và nước.”

“Miễn sao là cơn lũ theo hướng ngược lại không bắt đầu,” Cranmer lầm bầm. “Theo cách nào đó tôi không tin tưởng tình nguyện viên cho lắm. Thật thú vị là cứ mỗi hai kẻ đào ngũ thì lại có một kẻ là tình nguyện viên.”

“Làm sao ông có thể…” Jarre suýt nghẹn. “Làm sao ông có thể nói những điều như vậy kia chứ? Tôi gia nhập vì lý tưởng…để chiến đấu trong một cuộc chiến chính nghĩa…vì quê hương…”

Một trong số hai người lùn đang đánh lộn đổ xuống sàn cái rầm, mà đối với chàng trai, dường như làm rung chuyển cả ngôi nhà, khiến bụi từ các khe nứt trên sàn bay lên cả thước. Lần này, người lùn gục ngã, thay vì bật dậy và bụp lại đối thủ, nằm im, chân tay co giật như một con bọ cánh cứng khổng lồ bị lật ngửa.

Dennis Cranmer đứng dậy.

“Vấn đề đã được giải quyết!” ông tuyên bố, nhìn xung quanh quán trọ. “Vị trí chỉ huy bị bỏ trống sau cái chết anh dũng của Elka na Foster, người đã hy sinh trên chiến trường Mayena, đã được lấp đầy bởi…tên cậu là gì nhỉ, anh bạn? Bởi vì tôi quên rồi.”

“Blasco Grant!” Người chiến thắng nhổ một cái răng xuống sàn.

“Blasco Grant đã được bổ nhiệm vào vị trí này. Còn ai có vấn đề gì với việc thăng chức không? Không có à? Tốt lắm. Chủ quán! Bia!”

“Chúng ta đang nói tới đâu rồi nhỉ…?”

“Một cuộc chiến chính nghĩa.” Zoltan Chivay bắt đầu đếm, từng ngón tay gập lại. “Tình nguyện viên. Đào ngũ…”

“À, cái đó,” Dennis chen vào. “Tôi biết là mình đang muốn giải thích gì đó về tình nguyện viên và đào ngũ rồi mà. Còn nhớ quân đoàn Cintra cũ của Vissegerd không? Bọn con hoang đó hóa ra còn không thèm đổi lại cờ. Tôi biết được từ các lính đánh thuê trong Quân Đoàn Tự Do, từ đội của Julia “Mèo Con Xinh Xắn”. Đội của Julia đã chạm trán bọn Cintra ở Mayena. Chúng đứng ngay hàng tiên phong của quân Nilfgaard, dưới cùng lá cờ sư tử…”

“Đất Mẹ đã kêu gọi chúng,” Skaggs nói u ám. “Và Nữ hoàng Ciri.”

“Trật tự đi.” Dennis rít lên.

“Đúng vậy,” người lùn thứ tư, Yarpen Zigrin, im lặng từ nãy đến giờ chợt lên tiếng. “Trật tự đi. Và không phải vì sợ nghe lén đâu, mà vì đừng có nói về những điều mà anh chẳng biết gì cả.”

“Trong khi anh, Zigrin,” Skaggs giơ cằm ra, “thì chắc là biết đấy nhỉ?”

“Tôi biết. Và tôi sẽ chỉ nói một điều: không một ai, dù cho có là Emhyr var Emreis hay bọn pháp sư phản loạn trên Thanedd, hay thậm chí cả quỷ dữ đi chăng nữa, có thể bắt đứa trẻ đó làm được bất kỳ cái gì. Chúng không thể bẻ gãy được nó. Tôi biết là như vậy. Bởi vì tôi biết con bé. Cuộc hôn nhân với Emhyr chỉ là một trò lừa. Một trò lừa mà bao kẻ đần độn tin vào…Đứa trẻ đó, tôi nói cho mà nghe, có một định mệnh khác. Hoàn toàn khác.”

“Anh nói,” Skaggs lầm bầm, “cứ như thể là thực sự biết nó vậy, Zigrin.”

“Bỏ đi,” Zoltan Chivay bất ngờ quát. “Anh ta nói đúng về định mệnh đó. Tôi tin vào nó. Tôi cũng có lý do để tin.”

“Eh.” Sheldon Skaggs phất tay. “Tốn hơi làm gì kia chứ. Cirilla, Emhyr, định mệnh… Chúng đều là những vấn đề xa tít đâu đâu. Trong khi một vấn đề gần hơn, các quý ngài, chính là Menno Coehoorn và Quân Chính Quy.”

“Phải,” Zoltan Chivay thở dài. “Có điều gì đó mách bảo tôi một trận chiến khổng lồ sẽ không bỏ qua chúng ta đâu. Có lẽ sẽ là trận chiến lớn nhất mà lịch sử từng được chứng kiến.”

“Rất nhiều vấn đề.” Dennis Cranmer lầm bầm. “Quả thật rất nhiều vấn đề sẽ được định đoạt…”

“Và chấm dứt còn nhiều hơn.”

“Mọi thứ,” Jarre ợ một tiếng, lấy tay che miệng với vẻ ngượng ngùng. “Mọi thứ rồi sẽ kết thúc.”

Những người lùn nhìn cậu trong một lúc, im lặng.

“Tôi không nghĩ là mình hiểu cậu, chàng trai.” Zoltan Chivay cuối cùng cất lời. “Cậu có thể giải thích được không?”

“Tại hội đồng công tước ở Ellander, tôi nghe rằng…” Jarre ấp úng. “Họ nói chiến thắng này sẽ rất quan trọng, bởi vì…bởi vì nó là cuộc chiến cuối cùng để kết thúc mọi cuộc chiến.”

Sheldon Skaggs sặc nước và phun bia vào bộ râu. Zoltan Chivay rống lên cười.

“Các ông không tin thế sao?”

Giờ là đến lượt Dennis Cranmer khụt khịt. Yarpen Zigrin giữ gương mặt nghiêm túc, nhìn chàng trai thật chăm chú và với vẻ lo lắng.

“Nhìn đằng kia đi, con trai.” Cuối cùng ông lên tiếng, cực kỳ nghiêm trang. “Evangelina Parr đang ngồi ở quầy. Cô ta, buộc phải thừa nhận, khá là to con. Thậm chí khổng lồ là đằng khác. Nhưng không nghi ngờ gì là bất chấp kích cỡ, cô ta không phải là một ả điếm để kết thúc mọi ả điếm.”

***

Rẽ vào một con hẻm chật hẹp và vắng tanh, Dennis Cranmer dừng lại.

“Tôi có lời khen ngợi cậu, Jarre.” Ông nói. “Cậu biết vì sao không?”

“Không.”

“Đừng giả vờ. Cậu không cần giả vờ trước mặt tôi. Rất đáng khen là cậu thậm chí còn không chớp mắt khi Cirilla bị đem ra bàn tán. Thậm chí còn đáng khen hơn là cậu đã không mở mồm ra…Này, này, đừng làm mặt ngộ. Tôi biết rất nhiều những chuyện diễn ra đằng sau bức tường đền thờ của Nenneke, rất nhiều, cậu có thể tin tôi. Và nếu như vậy vẫn còn là quá ít, thì hãy biết rằng tôi đã nghe thấy cái tên người thương nhân viết lên tấm mề đay đó cho cậu.”

“Cứ giữ như thế.” Người lùn tế nhị giả vờ rằng không để ý thấy sắc đỏ bừng lên trên gương mặt chàng trai. “Cứ giữ như thế, Jarre. Và không chỉ riêng trong trường hợp của Ciri…Cậu đang nhìn cái gì thế?”

Trên một bức tường của một nhà kho hiện ra cuối hẻm là một câu khẩu hiệu xiêu vẹo, đã bị tróc sơn ghi LÀM TÌNH CHỨ KHÔNG PHẢI CHIẾN TRANH. Ngay bên dưới có người đã viết một dòng chữ bé hơn nhiều ghi VÀ NHỚ ĐI ỈA MỖI BUỔI SÁNG.

“Nhìn chỗ khác mau, đồ ngốc.” Dennis Cranmer sủa. “Chỉ cần nhìn một bức tranh tường như vậy là đủ để khiến cậu gặp rắc rối, và nếu thốt ra câu gì đó không đúng lúc đúng chỗ, họ sẽ trói cậu vào cột và quật cho mềm xương. Ở đây các phiên tòa diễn ra rất nhanh! Cực kỳ nhanh!”

“Tôi đã trông thấy người thợ đóng giày bị gông cổ.” Jarre lầm bầm. “Ông ta bị buộc tội trồng defeatism.”

“Defeatism của ông ta,” người lùn nói nghiêm túc, giật tay áo chàng trai, “có lẽ dựa nhiều hơn vào sự thật rằng khi đem con trai mình đến cho quân đội ông ta đã khóc, thay vì hô hào những câu khẩu hiệu yêu nước. Với những loại reo rắc nghiêm trọng hơn họ trừng phạt theo kiểu khác. Lại đây, tôi sẽ chỉ cho cậu.”

Họ bước vào một quảng trường nhỏ. Jarre lùi lại một bước, che mồm và mũi bằng tay áo. Khoảng một tá xác chết đang bị treo trên một đài hành hình bằng đá lớn. Một vài trong số đó – dựa vào vẻ ngoài và mùi hôi – đã được treo một thời gian lâu rồi.

“Tay này,” Dennis vừa nói vừa đuổi ruồi, “đã viết vài câu bậy bạ trên tường và hàng rào. Gã đó nói rằng chiến tranh là vấn đề của các lãnh chúa và những nông dân Nilfgaard bị sung quân không phải là kẻ thù của anh ta. Và người kia kể một câu truyện đùa khi đang say như sau: “Một cây giáo là gì? Đó là món vũ khí của quý tộc, một que củi với hai người nông dân cắm ở hai đầu.” Và ở đó, phía cuối hàng, cậu có thấy người phụ nữ đó không? Bà ta là chủ một nhà chứa dành cho quân đội, và có một tấm biển hiệu ghi – “Hãy phang hôm nay, các chiến binh! Bởi ngày mai có thể sẽ không được nữa.”

“Chỉ vì như vậy…”

“Thêm vào đó, một trong số các cô gái hóa ra bị bệnh lậu. Và điều đó sẽ đi kèm một cáo buộc âm mưu phá hoại sức chiến đấu của quân đội.”

“Tôi hiểu rồi, ông Cranmer.” Jarre đứng thẳng dậy trong một tư thế mà cậu cho rằng ra dáng một người lính. “Nhưng đừng lo về tôi. Tôi không…”

“Cậu vẫn chưa hiểu cái mẹ gì cả và đừng có ngắt lời tôi, bởi vì tôi vẫn chưa nói xong. Người bị treo cuối cùng đó, mà mùi đang bốc lên tận thiên đàng, chỉ bị buộc tội đáp lại lời của một tên mật thám như sau: “Ngài nói đúng, thưa ngài, phải như vậy và không còn cách nào khác, như thể hai cộng hai bằng bốn!” Giờ thì nói tôi nghe cậu đã hiểu chưa.”

“Tôi hiểu.” Jarre cảnh giác nhìn xung quanh. “Tôi sẽ cẩn thận. Nhưng…ông Cranmer…mọi chuyện thực sự đang diễn ra như nào?”

Người lùn cũng nhìn xung quanh.

“Sự thật,” ông nói khẽ khàng, “là Quân Chính Quy của Nguyên soái Menno Coehoorn đang tiến về phương Bắc cùng một lực lượng gần 100 ngàn người. Sự thật là nếu không phải vì cuộc nổi loạn ở Verden, chúng đã tới được đây rồi. Sự thật là sẽ tốt hơn nếu có một cuộc hòa giải. Sự thật là Temeria và Redania không có đủ lực lượng để chặn đứng Coehoorn. Ít ra thì không phải trước phòng tuyến sông Pontar.”

“Sông Pontar nằm về phía bắc nơi này.” Jarre thì thầm.

“Đó chính xác là điều tôi muốn nói. Nhưng hãy nhớ đấy: đừng có hé mỏ cho bất kỳ ai.”

“Tôi sẽ cảnh giác. Tôi có cần phải làm vậy khi đã ở trong đơn vị rồi không? Liệu tôi có gặp phải mật thám không?”

“Trong một đơn vị chiến đấu? Gần tiền tuyến? Ôi không đâu! Bọn mật thám ở rất xa đằng sau tiền tuyến, bởi chúng sợ chính bản thân mình sẽ phải lên đó. Vả lại, nếu bất kỳ người lính nào phàn nàn, kêu ca hay nguyền rủa đều bị đem đi treo cổ thì sẽ chẳng còn ai để mà đánh nhau nữa. Nhưng cái mồm của cậu, Jarre, trong trường hợp của Ciri, thì phải kín như bưng. Giờ thì đi cùng tôi, tôi sẽ dẫn cậu đến ủy ban tiếp nhận.”

“Ông sẽ nói tốt cho tôi chứ hả?” Jarre nhìn người lùn với vẻ hy vọng. “Hả? Ông Cranmer?”

“Đồ đầu đất! Đây là quân đội! Nếu tôi tiến cử và cố gắng che chở cho cậu thì sẽ giống như là thêu chữ “ẻo lả” sau lưng áo cậu bằng chỉ vàng vậy. Cậu sẽ rất khó khăn khi ở trong đơn vị, chàng trai à.”

“Thế nếu như,” Jarre chớp mắt, “tôi gia nhập đơn vị của ông…”

“Đừng có mà nghĩ về việc đó.”

“Bởi vì chỉ có chỗ cho người lùn trong đó, phải không?” chàng trai nói cay đắng. “Và không dành cho tôi?”

“Đúng.”

Không dành cho cậu, Dennis Cranmer nghĩ. Không dành cho cậu, Jarre. Bởi vì tôi vẫn còn vài món nợ chưa trả với Nenneke. Đó là lý do vì sao tôi muốn cậu lành lặn trở về. Và trung đoàn Quân Tình Nguyện Mahakam, bao gồm toàn người lùn, một giống loài xa lạ và thấp kém, sẽ luôn bị giao cho những nhiệm vụ tồi tệ nhất, được cử tới những nơi nguy hiểm nhất. Những nơi mà ta không quay về được. Những nơi mà ta không gửi con người đến.

“Vậy làm sao để đảm bảo,” Jarre tiếp tục với vẻ ủ ê, “là tôi sẽ được đặt vào một đơn vị tốt?”

“Và theo cậu, đơn vị nào xếp hạng nhất đến nỗi đáng công sức để cố gắng chen vào?”

Jarre quay người lại khi nghe thấy tiếng hát hào sảng như sóng xô bờ, như cơn bão đang gầm gừ tiến lại. Lớn, mạnh mẽ, kiêu hùng, cứng rắn như thép. Cậu đã từng nghe tiếng hát đó.

Ba hàng lính đánh thuê dẫn ngựa đi dọc con phố hẹp dẫn ra từ lâu đài. Phía trên đầu, cưỡi một con ngựa xám, gần một cây gậy trang trí sọ người, là vị chỉ huy, một người đàn ông tóc xám với sống mũi chim ưng và một bím tóc buộc thả xuống áo giáp.

“Adam ‘Adieu’ Pangratt,” Dennis Cranmer lầm bầm.

Tiếng hát của những người lính đánh thuê vang vọng. Tương phản với tiếng móng ngựa gõ lên đá lát nền, nó lấp đầy con phố hẹp cho đến tận nóc những ngôi nhà, và vươn lên bầu trời xanh phía trên thành phố.

Không người tình hay vợ khóc thương

Khi thời điểm đến để ngậm hạt cát đẫm máu

Vì chúng ta nhanh chân ra trận

Vì đồng vàng đỏ rực tựa mặt trời!

“Ông hỏi đơn vị nào ư,” Jarre nói, không thể rời mắt khỏi đoàn kỵ binh. “Như thế này này! Tôi muốn phục vụ trong một đơn vị như thế này…”

“Đơn vị nào cũng có bài ca riêng.” Người lùn phá vỡ sự im lặng. “Nhưng binh lính vẫn luôn phải đổ máu của chính mình. Dù cho có người khóc vì anh ta hay không. Trong chiến tranh, con trai à, cậu hát và hành quân như một, cậu đứng trong hàng ngũ như một. Nhưng khi trận chiến tới, mỗi người sẽ nhận lấy kết cục của riêng mình. Dù ở trong Quân Đoàn Tự Do của “Adieu” Pangratt, hay trong bộ binh, hay trong đoàn tiếp viện…Dù trong bộ giáp sáng chói với ngù lông kiêu hãnh, hay một chiếc áo da cừu bám đầy bọ chét…dù trên con chiến mã nhanh nhẹn, hay đằng sau tấm khiên méo mó…mỗi người đều phải đối mặt với định mệnh của riêng mình. Chà, chúng ta tới văn phòng ủy ban rồi, cậu thấy tấm biển trước cửa kia không? Hãy tới đó nếu vẫn muốn làm một người lính. Chúc may mắn, Jarre. Tôi sẽ gặp lại cậu khi mọi chuyện kết thúc.”

Đôi mắt của người lùn dõi theo chàng trai cho đến khi cậu biến mất đằng sau cánh cửa quán trọ của ủy ban tiếp nhận.

“Hoặc có thể chúng ta sẽ không gặp lại nữa.” Ông lặng lẽ thêm vào. “Ai mà biết được số phận của mỗi con người.”

***

“Cậu cưỡi ngựa được không? Bắn cung hay nỏ được không?”

“Không, thưa ngài ủy viên. Nhưng tôi có thể viết thư pháp, cả chữ rune cổ nữa…Tôi biết Cổ Ngữ…”

“Cậu biết cầm kiếm không? Cậu được huấn luyện dùng giáo chưa?”

“…Tôi đã đọc Lịch sử Chiến tranh. Tác phẩm của Nguyên soái Pelligram…Và Roderick de Novembre…”

“Hay có lẽ cậu biết nấu ăn?”

“Không, tôi không…nhưng tôi biết đếm…”

Ngài ủy viên đảo mắt và khua tay.

“Lại thêm học giả. Còn bao nhiêu người nữa đây? Viết cho cậu ta giấy luân chuyển đến BBMR. Cậu sẽ phục vụ trong BBMR, chàng trai à. Cầm lấy tờ giấy và đi xuống đầu phía nam của thành phố, tới cổng Maribor, bên cạnh cái hồ.”

“Nhưng…”

“Cậu khắc tìm được nó. Người kế tiếp!”

***

“Này, Jarre! Này! Đợi đã!”

“Melfi?”

“Còn ai vào đây nữa?” Con trai thợ đóng thùng lảo đảo, chống tay lên tường. “Là tôi đây, he he!”

“Cậu làm sao thế hả?”

“Làm sao à? He, he! Chẳng sao cả! Chúng tôi đã uống một ít! Chúng tôi uống vì sự thất bại của Nilfgaard! Ugh, Jarre, tôi mừng là gặp được cậu, bởi tôi tưởng đã lạc cậu đâu mất rồi…đám còn lại…”

Jarre lùi lại một bước như thể bị ăn tát. Bởi hơi thở của con trai người thợ đóng thùng không chỉ bốc mùi bia rẻ tiền và vodka hạng ba, mà còn cả mùi hành tây, tỏi và có thần linh mới biết là còn gì khác nữa. Cực kỳ nồng.

“Và,” Jarre hỏi với vẻ khinh khỉnh, “những ông bạn chí cốt của cậu đâu rồi?”

“Cậu hỏi về Pike à?” Melfi nhăn mặt. “Cứ để quỷ dữ bắt hắn đi! Cậu biết không, Jarre, tôi nghĩ hắn là người xấu.”

“Hoan hô. Cậu nhìn thấu hắn nhanh đấy.”

“Vậy cậu thấy đó,” Melfi tiếp tục, không nhận ra sự mỉa mai trong giọng nói của Jarre, “Tôi đâu có dễ mắc lừa! Cậu biết tại sao hắn lại tới Vizima không? Cậu nghĩ hắn muốn gia nhập quân đội sao? Cậu nhầm rồi! Cậu sẽ không tin nổi hắn định làm gì đâu.”

“Tôi tin được.”

“Hắn cần ngựa và quân phục.” Melfi kết luận một cách tự hào. “Hắn muốn ăn trộm chúng ở đây, bởi hắn có ý định làm một tên cướp giả trang là quân nhân.”

“Cứ để hắn kết thúc đời mình trên giá treo cổ.”

“Càng nhanh càng tốt!” Con trai thợ đóng thùng hơi loạng choạng, dừng lại cạnh bức tường và cởi quần ra. “Tôi chỉ thấy tiếc cho Ograbek và Milton, hai thằng ngố làng đó để mình bị lừa bởi Pike và rồi cũng sẽ lên giá treo cổ cùng hắn. Chà, kệ mẹ chúng thôi, bọn nhà quê chết tiệt! Và cậu thế nào rồi, Jarre?”

“Tôi làm sao?”

“Sĩ quan tuyển dụng đã phân công cậu đến chỗ nào chưa?” Melfi hỏi trong khi đái vào bức tường đã tróc sơn. “Tôi đã được cử đến cổng Maribor. Phía nam thành phố. Cậu đang đi đâu?”

“Cũng về hướng đó.”

“Ha!” Con trai thợ đóng thùng nhún nhẩy vài cái, rùng mình, rồi kéo khóa quần. “Vậy là chúng ta sẽ chiến đấu cùng nhau?”

“Tôi không nghĩ vậy.” Jarre nói với vẻ bề trên. “Tôi đã được phân công đến đơn vị chuẩn theo năng lực của mình. BBMR.”

“Dĩ nhiên rồi,” Melfi nấc cụt và lại ợ ra một hơi kinh tởm. “Cậu là một học giả! Chắc chắn họ phải phân công cho cậu nhiệm vụ nào đó quan trọng rồi chứ. Chà, biết làm sao được. Nhưng trong lúc này, chúng ta sẽ đi cùng nhau thêm một chút nữa. Sau cùng thì ta đều đang hướng về phía nam thành phố mà.”

“Có vẻ như vậy.”

“Thế nào?”

“Đi thôi.”

***

“Tôi không nghĩ là ở đây,” Jarre đánh giá, mắt nhìn những cái lều nằm quanh một khoảng sân, nơi bụi bay tá lả dưới chân một nhóm người đang tập trận với mấy cây gậy dài ngoằng trên vai. Chàng trai để ý thấy mỗi người đều có một bó cỏ buộc vào chân phải và một bó rơm buộc vào chân trái.

“Tôi nghĩ chúng ta đến nhầm chỗ rồi, Melfi.”

“Rơm! Cỏ!” Tiếng rống của người trung sĩ đang chỉ huy đoàn người vọng lại. “Rơm! Cỏ! Đi đều vào, con mẹ nó!”

“Một lá cờ đang bay trên nóc lều!” Melfi nói. “Cậu tự nhìn đi, Jarre. Cùng những bông huệ mà cậu đã nói trên đường đó. Chẳng phải một lá cờ sao? Đúng rồi. Chẳng phải là quân đội sao? Đúng rồi. Thế có nghĩa là ở đây. Chúng ta đã tới đúng nơi.”

“Có thể là cậu. Nhưng chắc chắn không phải là tôi.”

“Ah, có một sĩ quan hay ai đó đang đứng cạnh hàng rào. Tới hỏi ông ta đi.”

Rồi sau đó mọi chuyện diễn ra thật nhanh.

“Lính mới hả?” Người trung sĩ hét. “Đưa giấy tờ đây! Các cậu còn đứng đực ra đó làm cái mẹ gì! Bước! Bên trái, chứ không phải bên phải! Bước, bước! Đừng có đứng đó! Bên trái! Quay đều, bên phải! Bước nhanh! Quay đều! Nghe và nhớ đây. Điều đầu tiên, đến chỗ sĩ quan quân nhu! Lấy dụng cụ! Áo thép, ủng, giáo, mũ trụ và kiếm, nhanh con mẹ nó lên! Rồi đến sân tập! Chuẩn bị hành quân vào lúc hoàng hôn! Bước nhanh!”

“Khoan đã,” Jarre lưỡng lự nhìn xung quanh. “Bởi tôi nghĩ mình phải ở đơn vị khác…”

“CÁI GÌ?”

“Tôi xin lỗi, thưa ngài sĩ quan.” Jarre đỏ mặt. “Tôi chỉ không muốn bị nhầm lẫn…bởi ngài ủy viên rõ ràng nói là…ông ấy rõ ràng nói là đến đơn vị BBMR, nên tôi…”

“Cậu đến đúng nơi rồi đấy, chàng trai.” Người trung sĩ khịt mũi, có phần hơi ngạc nhiên khi được gọi là “sĩ quan”. “Đây là đơn vị của cậu. Chào mừng đến với Bộ Binh Mạt Rệp.”

***

“Tại sao,” Rocco Hildebrandt thắc mắc, “chúng tôi lại phải nộp tiền cho ngài, thưa ngài lính? Chúng tôi đóng thuế suốt rồi mà.”

“Có nghe con tôm này nói không,” Pike nhe răng ra cười với đồng bọn trên những con ngựa ăn cắp. “Hắn nói đã đóng thuế rồi. Và chúng nghĩ vậy là xong hả. Cứ như thể con gà tây còn mơ mộng về ngày chủ nhật. Trong khi thứ bảy đã bị chặt đầu rồi.”

Okultich, Klaproth, Milton và Ograbek phá lên cười. Câu đùa đích thực là hay. Và cuộc vui sắp sửa bắt đầu còn hay hơn nữa.

Rocco trông thấy những đôi mắt ghê tởm, nhớp nháp của bọn cướp và quay đầu lại. Trên ngưỡng cửa căn chòi là Incarvilia Hildebrandt, vợ ông ta cùng hai con gái, Aloe và Yasmin.

Pike và đồng bọn nhìn hai cô gái halfling, mỉm cười đê tiện. Phải, không nghi ngờ gì, chuyến này sẽ vui lắm đây.

Từ một bụi cây phía bên kia đường là cháu gái của Hildebrandt hiện ra, Impatientia Vanderbeck, còn hay được gọi là Impi. Cô bé quả thật rất đẹp. Nụ cười của lũ cướp trông còn ghê tởm hơn.

“Nhanh nào,” Pike giục người halfling. “Mang tiền và thức ăn ra cho chúng ta và lũ ngựa, rồi dắt bò ra khỏi chuồng. Chúng ta không muốn bị kẹt ở đây khi đêm xuống. Chúng ta muốn đến thăm những ngôi làng kế bên ngày hôm nay.”

“Tại sao chúng tôi lại phải đưa cho các người của cải?” Giọng của Rocco Hildebrandt hơi run rẩy, nhưng vẫn quyết liệt và âm vang. “Các người nói đó là cho quân đội, để bảo vệ chúng tôi. Và ai, tôi xin hỏi, sẽ bảo vệ chúng tôi khỏi cái đói? Chúng tôi đã nộp thuế mùa đông và đóng góp cho quân đội rồi, và thuế cá nhân của mỗi người và thuế đất, thuế xe hàng, thuế động vật và có quỷ mới biết còn gì nữa! Nếu như vậy vẫn còn chưa đủ, thì bốn người halfling từ làng chài này, bao gồm cả con trai tôi, đã nhập ngũ! Và anh rể tôi không phải ai khác ngoài Milo Vanderbeck, còn được gọi là Rusty, một bác sĩ phẫu thuật dã chiến và một nhân vật quan trọng đối với quân đội. Chúng tôi đã hoàn thành mọi yêu cầu rồi…Vậy chúng tôi còn phải trả thêm cái gì đây? Và tại sao?”

Pike tiếp tục dõi mắt theo vợ của người halfling, Incarvilia Hildebrandt của gia tộc Biberveldt. Và hai cô con gái mũm mĩm, Aloe và Yasmin. Cả Impi Vanderbeck xinh xắn, trông như một con búp bê trong chiếc váy xanh lục. Sam Hofmeier và ông ngoại cậu, già Holofernes. Bà ngoại Petunia, đang hăng hái xới đất bằng một cái cuốc. Cùng những người halfling khác trong làng, chủ yếu là phụ nữ và trẻ con, mắt nhìn lo lắng từ đằng sau khung cửa và hàng rào.

“Ngươi hỏi vì sao ư?” Pike rít lên, cúi xuống và nhìn vào mắt người halfling sợ sệt. “Ta sẽ nói cho ngươi vì sao. Bởi vì ngươi là một tên halfling ghẻ lở, một kẻ xa lạ, và bất cứ ai cướp của các ngươi, lũ man rợ ghê tởm, đều khiến thần linh vui sướng. Bất cứ ai đánh đập các ngươi, bọn không–phải–người đáng nguyền rủa, đều là đang thực thi một sứ mệnh cao cả và ái quốc. Và cũng bởi vì ta không thể đợi để được thấy cái tổ chuột này bị thiêu rụi và lũ điếm của ngươi chạy loăng quăng. Bởi vì chúng ta là năm con người trong khi các ngươi là một lũ hèn lùn tịt. Giờ thì ngươi biết vì sao chưa?”

“Giờ thì ta biết rồi,” Rocco Hildebrandt nói chậm. “Hãy biến đi, lũ người to xác. Biến mau, bọn vô công rồi nghề. Chúng ta sẽ không cho các ngươi cái gì cả.”

Pike ngồi thẳng dậy, và với lấy thanh đoản kiếm treo bên yên ngựa.

“Xông vào!” Hắn hét lên. “Giết chúng!”

Với một chuyển động nhanh đến nỗi mắt thường không nhìn nổi, Rocco Hildebrandt thụp xuống chiếc xe đẩy, lôi ra một cái nỏ giấu bên dưới mấy tấm thảm và bắn một mũi tên thẳng vào mồm kẻ tấn công mình. Incarvilia Hildebrandt, sinh ra là một người nhà Biberveldt, vung tay thật mạnh và ném một cái liềm cứa một nhát gọn ghẽ cổ họng Milton. Gã con nông dân nôn ra máu và đổ ra sau trên mông ngựa, chân đung đưa mắc cười. Ograbek hét lên một tiếng, đổ gục xuống đất với con dao của già Holofernes cắm ngập đến chuôi trên bụng. Klaproth to con định đập ông già bằng chùy, nhưng bay khỏi yên ngựa, hú hét hoang dại, ăn một cái xiên ném bởi Impi Vanderbeck thẳng vào mắt phải. Okultich quay đầu con ngựa và cố bỏ chạy, nhưng bà ngoại Petunia nhảy lên và đâm cái cuốc vào đùi hắn. Okultich rú lên và ngã xuống, chân hắn mắc phải bàn đạp, và con ngựa hoảng loạn kéo lê hắn qua những cây cọc nhọn của hàng rào. Tên cướp hú hét trong khi bà ngoại Petunia – cùng với cái cào – và Impi – cùng với con dao cong dùng để xén cây – lao theo hắn như hai con sói cái. Già Holofernes sì mũi một tiếng thật to.

Toàn bộ sự việc – từ tiếng hét của Pike cho đến già Holofernes sì mũi – diễn ra cùng với khoảng thời gian cần để nói hết câu – “Halfling cực kỳ nhanh nhẹn và có thể ném chuẩn xác đủ loại dụng cụ.”

Rocco ngồi xuống bậc thang trước căn chòi. Vợ ông ta, Incarvilia Hildebrandt, ngồi xuống bên cạnh. Con gái họ, Aloe và Yasmin, chạy tới giúp Sam Hofmeier kết liễu những kẻ bị thương và lột đồ của chúng.

Impi quay lại trong chiếc váy xanh với tay áo dính máu đến cùi chỏ. Bà ngoại Petunia cũng quay về, chân bước chậm, thở hồng hộc, ậm ực và tựa vào cây cào máu me.

Ôi, bà ngoại của chúng ta già mất rồi. Rocco nghĩ.

“Chúng ta nên chôn lũ cướp ở đâu đây, ông Rocco?” Sam Hofmeier hỏi.

Rocco Hildebrandt quàng tay quanh vợ và ngước nhìn bầu trời.

“Trong rừng phong,” ông ta nói. “Bên cạnh những kẻ đã đến trước đó.”

Cuộc phiêu lưu kỳ thú của ngài Malcolm Guthrie xứ Braemore đã thu hút rất nhiều sự chú ý trong những trang báo mới nhất, kể cả tờ “Thời Báo Hàng Ngày London” cũng đã dành vài dòng cho nó trong mục “Truyện Kỳ Lạ”. Tuy nhiên, bởi vì có rất ít bạn đọc theo dõi các tờ báo nằm về phía nam Tweed, và nếu có đi chăng nữa, thì cũng phải là những tờ báo nghiêm túc hơn là “Thời Báo Hàng Ngày London”, hãy để chúng tôi thuật lại cho các bạn câu truyện. Vào ngày mùng 10 tháng Ba năm ngoái, ngài Malcolm Guthrie đã đi câu cá ở hồ Loch Glascarnoch. Trong khi ở đó ngài Guthrie đã bắt gặp một thiếu nữ với một vết sẹo xấu xí trên mặt, cưỡi một con ngựa đen đi cùng một con kỳ lân trắng, hiện ra từ trong làn sương và bóng tối. Cô gái đã nói chuyện với ngài Guthrie bị sững sờ bằng một ngôn ngữ mà ngài Guthrie đã miêu tả, và chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn: “có lẽ là tiếng Pháp, hoặc một ngôn ngữ đến từ một lục địa nào đó.” Bởi vì ngài Guthrie không nói tiếng Pháp hay một ngôn ngữ đến từ một lục địa nào khác, một cuộc trò chuyện đã không thành. Cô gái cùng bạn đồng hành đã biến mất, xin dẫn lời ngài Guthrie một lần nữa: “như một giấc mơ vàng.”

Lời bình luận của biên tập viên: Giấc mơ của ngài Guthrie không nghi ngờ gì là cũng vàng như màu rượu whiskey mà ngài Guthrie thường hay uống, mà như chúng tôi đã biết từ một nguồn tin cậy, thường xuyên và theo số lượng lớn đến nỗi có thể lý giải được việc trông thấy kỳ lân trắng, chuột trắng hay bất kỳ loại quái vật nào đó từ cái hồ. Nhưng câu hỏi mà chúng tôi muốn hỏi ngài Guthrie là – Ông đang làm gì khi câu cá trên bờ hồ Loch Glascarnoch bốn ngày sau khi lệnh cấm câu cá được ban ra?

– Nguyệt san Inverness, số ra ngày 18 tháng Ba, 1906.

About The Author

Ngo David

Power is Power