The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 12

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Họ tiếp tục đi cho tới lúc gặp một cái hồ lớn tuyệt đẹp đầy thứ nước trong vắt như thủy tinh, và ở giữa hồ, Arthur trông thấy một cánh tay mặc áo trắng đang giữ một thanh kiếm đẹp tuyệt trần.

“Hãy trông, đó là thanh kiếm mà ta đã nhắc đến,” Merlin chỉ.

Đột nhiên họ trông thấy một cô gái bước đi trên mặt hồ.

“Đó là ai vậy?” Arthur hỏi.

“Đó là Nữ Thần Hồ.” Merlin trả lời.

Ngài Thomas Malory, Cái chết của vua Arthur.

Một cơn gió gợn sóng lăn tăn trên cái vạc dầu sôi chính là mặt hồ, làm phân tán làn sương sớm mỏng. Cái mái chèo kêu cót két và lục cục theo nhịp, bắn lên những giọt nước lấp lánh.

Condwiramurs đặt tay lên lan can. Con thuyền di chuyển chậm và nước dâng lên rồi hạ xuống bên dưới ngón tay cô.

“Ối, ối,” cô nói, có gắng ra vẻ mỉa mai nhất có thể. “Chúng ta đi mới nhanh làm sao! Cứ như đang bay trên những cơn sóng vậy. Đầu tôi muốn quay mòng quá!”

Người chèo thuyền, một người đàn ông lùn và mập mạp, giận dữ lầm bầm cái gì đó nghe không rõ, thậm chí còn không thèm ngước mái tóc xoăn dài trông không khác một bộ lông cừu lên. Người học viên cảm thấy đã quá đủ với mấy trò lầm bầm, hậm hực và càu nhàu mà người đàn ông thường xuyên dùng để trả lời mình.

“Cẩn thận,” cô nói với vẻ khó khăn, cố giữ hòa khí. “Chèo nhanh vậy anh có thể làm lật thuyền đấy.”

Lần này người đàn ông ngẩng mặt lên, nước da sậm như cháy nắng. Anh ta lại thì thào gì đó, ho và hất cái cằm lún phún râu về phía một sợi dây được buộc vào đuôi thuyền và đầu kia chìm dưới nước. Dường như cảm thấy lời giải thích thế là đủ, anh ta tiếp tục chèo thuyền. Với cùng một tốc độ như trước. Mái chèo lên. Tạm ngừng. Mái chèo xuống. Ngừng thật lâu. Kéo. Và thậm chí còn ngừng lâu hơn nữa.

“Ah,” Condwiramurs vừa nói vừa nhìn bầu trời. “Tôi hiểu. Cái mồi anh kéo sau thuyền phải di chuyển với tốc độ vừa phải và chìm đủ sâu. Việc đánh cá là quan trọng nhất. Không màng đến thứ gì khác.”

Câu nói hiển nhiên tới mức người đàn ông còn không buồn lầm bầm.

“Được thôi,” Condwiramurs tiếp tục màn độc thoại, “ai thèm quan tâm là tôi đã phải đi suốt cả đêm kia chứ? Rằng tôi đang chết đói? Rằng mông tôi ê ẩm và ngứa ngáy vì cái ghế đã cứng lại còn ướt này? Rằng tôi phải đi tè? Không, đánh cá là quan trọng nhất. Và đằng nào thì nó cũng vô dụng. Chẳng có thứ gì lại đi đớp một cái mồi trôi giữa dòng và chìm còn chưa đến một sải dưới mặt nước.”

Người đàn ông ngước đầu lên và bắn sang cô một ánh mắt xấu xí. Condwiramurs nhe răng ra thành một nụ cười xảo quyệt. Người đàn ông tiếp tục chèo chầm chậm. Anh ta đang giận dữ.

Cô lại ngồi xuống băng ghế ở đuôi tàu và bắt chéo chân. Để khe hở trên chiếc váy lộ rõ nhất có thể.

Người đàn ông hậm hực và kéo mái chèo bằng bàn tay chai sần, vờ như không thấy gì ngoại trừ cái dây tời. Dĩ nhiên là tốc độ của con thuyền chẳng tăng lên được tí nào. Người học viên thở dài thua cuộc và quay lại nhìn ngắm bầu trời.

Mái chèo kêu cọt kẹt, từng giọt nước lấp lánh bắn lên cao.

Từ trong màn sương đang nhanh chóng tan đi hiện ra đường viền của một hòn đảo. Và vươn lên bên trên nó là một tòa tháp đen ngòm. Người đàn ông ngồi quay lưng lại phía hòn đảo nhận ra rằng họ đã gần tới nơi. Từ tốn, anh ta đặt mái chèo vào trong thuyền, đứng dậy và bắt đầu kéo sợi dây đang chìm dưới nước. Condwiramurs vẫn đang ngồi bắt chéo chân, huýt sáo và nhìn ngắm bầu trời.

Người đàn ông cuộn dây chầm chậm và bắt đầu quan sát cái mồi – một cái thìa bằng đồng sáng bóng buộc kèm một cái lưỡi câu chĩa ba và một dải len đỏ.

“Ôi, chẳng bắt được gì cả,” Condwiramurs nói ngọt ngào, “Tiếc quá. Tôi tự hỏi vì sao anh lại kém may mắn thế nhỉ? Có thể là vì con thuyền đi nhanh quá chăng?”

Người đàn ông nhìn cô bằng một ánh mắt không hề thân thiện. Anh ta ngồi xuống, ho, khạc qua mạn thuyền, nắm lấy mái chèo trong bàn tay sần sùi và uốn lưng. Mái chèo bắn nước và con thuyền phi qua mặt hồ như tên bắn, nước sủi bọt và dậy sóng ở đuôi thuyền. Khoảng cách giữa họ và bờ vào cỡ khoảng một phần tư tầm tên bắn và họ băng qua chỉ với hai lần kéo. Con thuyền đâm vào bờ cát mạnh đến nỗi Condwiramurs bay khỏi ghế.

Người đàn ông lầm bầm, ho và khạc nhổ. Người học viên biết câu đó dịch sang ngôn ngữ của những con người văn minh sẽ là “Biến khỏi thuyền của ta đi, đồ phù thủy khó ưa!” Cô cũng biết rằng không thể trông đợi vào cánh tay của anh ta để đỡ mình xuống thuyền. Cô cởi giày ra, nhấc váy lên một độ cao đủ khiêu khích và trèo xuống đất. Cô nén lại một tiếng chửi khi vỏ sò bên bờ hồ cắm vào lòng bàn chân đau điếng.

“Cảm ơn,” cô nói qua hàm răng nghiến chặt, “vì chuyến đi.”

Không cần đợi một câu lầm bầm nữa và không thèm nhìn lại, cô đi chân trần hướng về phía những bậc thang đá. Mọi khổ cực và đau đớn biến mất không dấu vết, bị xóa nhòa bởi sự phấn khích tăng dần. Cô đang ở đây, trên đảo Inis Vitre, trên hồ Loc Blest. Một nơi trong huyền thoại mà chỉ số ít những người được chọn mới có thể đến thăm.

Làn sương sớm đã tan gần hết, vầng mặt trời đỏ chói bắt đầu tỏa sáng mạnh mẽ trên thiên đàng. Bên trên mặt nước, từng đàn hải âu lượn vòng quanh tòa tháp phía cuối những bậc thang dẫn từ bờ hồ tới một mái hiên, đang dựa vào một bức tượng chimera ngồi xổm và mỉm cười, là Nimue.

Nữ Thần Hồ.

***

Cô trông nhỏ nhắn và mảnh mai, cao không quá một mét rưỡi. Condwiramurs nghe người ta đồn rằng khi còn nhỏ cô được gọi là “Thumbelina”, giờ thì biệt danh đó trông có vẻ khá phù hợp. Nhưng người học viên chắc chắn rằng đã ít nhất nửa thế kỷ không ai dám gọi nữ pháp sư bé nhỏ như vậy.

“Tôi là Condwiramurs Tilly,” cô tự giới thiệu và cúi chào, có hơi xấu hổ vì vẫn đang cầm giày trên tay. “Tôi rất vinh dự vì đã được mời tới hòn đảo của người, Nữ Thần Hồ.”

“Nimue,” nữ pháp sư bé nhỏ sửa lại. “Nimue và không gì hơn. Chúng ta có thể bỏ qua tước hiệu, cô Tilly.”

“Nếu đã như vậy. Tôi là Condwiramurs. Condwiramurs và không gì hơn.”

“Vậy thì, với sự cho phép của cô, Condwiramurs. Chúng ta sẽ nói chuyện trong khi ăn sáng. Tôi đoán là cô đang đói.”

“Tôi không phủ nhận.”

***

Bữa sáng là bánh mỳ làm từ lúa mạch đen, pho mát với bơ, trứng và sữa. Được phục vụ bởi hai người hầu rất trẻ và im lìm có mùi như tinh bột. Condwiramurs cảm thấy ánh mắt của nữ pháp sư bé nhỏ chiếu lên mình.

“Tòa tháp này,” Nimue nói, theo dõi nhất cử nhất động của vị khách, “có 6 tầng, bao gồm một tầng hầm. Phòng của cô nằm trên tầng ba, cô sẽ tìm thấy mọi tiện nghi cần thiết. Tầng trệt, như cô thấy, là dành cho người hầu. Dưới tầng hầm là phòng thí nghiệm và tầng hai với tầng bốn là thư viện và phòng tranh. Cô có quyền tự do đi lại và sử dụng trang thiết bị trong tất cả những tầng này tùy thích.”

“Tôi hiểu. Xin cảm ơn.”

“Hai tầng trên cùng là phòng ngủ và văn phòng riêng của tôi. Những phòng đó là hoàn toàn của riêng tôi. Để tránh có hiểu lầm trong tương lai, hãy biết rằng trong phạm trù này tôi vô cùng nhạy cảm.”

“Tôi tôn trọng điều đó.”

Nimue quay đầu ra cửa sổ, mà qua đó có thể nhìn thấy người đánh cá thô lỗ đã xoay sở dỡ được hết đồ của Condwiramurs xuống và giờ mang trên thuyền một bộ dây tời, lưới và các dụng cụ khác dùng trong nghệ thuật đánh cá.

“Tôi hơi cổ lỗ một chút,” cô tiếp tục. “Do vậy có một số thứ tôi quen sử dụng độc quyền. Bàn chải đánh răng chẳng hạn. Phòng ngủ của tôi, thư viện của tôi, phòng tắm của tôi. Và Vua Đánh Cá. Xin đừng cố sử dụng Vua Đánh Cá.”

Condwiramurs suýt thì sặc sữa. Vẻ mặt của Nimue không thể hiện bất cứ điều gì.

“Và nếu…” cô tiếp tục trước khi người học viên kịp có lại khả năng giao tiếp. “Và nếu anh ta có ý muốn sử dụng cô, hãy từ chối.”

Condwiramurs nuốt ực và cuối cùng gật đầu, không bình luận gì cả. Dù cho rất muốn, người đánh cá đó không phải tuýp người của cô. Đặc biệt là khi họ có tóc bạc và thể hiện bản thân là một kẻ thô lỗ ủ dột.

“Thế là chúng ta đã qua màn giới thiệu.” Nimue nhấn mạnh. “Giờ là lúc chuyển sang những vấn đề cụ thể hơn. Cô có muốn biết vì sao trong số biết bao ứng cử viên, tôi lại chọn cô không?”

Condwiramurs, nếu có suy ngẫm trước khi trả lời, thì cũng chỉ là để tỏ ra không quá tự kiêu. Tuy nhiên, cô kết luận rằng để Nimue thấy sự khiêm tốn giả tạo, kể cả nếu rất nhỏ, cũng sẽ là xúc phạm bởi sự giả dối của nó.

“Tôi là người giỏi nhất ở học viện,” cô điềm tĩnh trả lời, khách quan và không hề khoe mẽ. “Ở năm thứ ba tôi đã đứng thứ hai trong xếp hạng về thuật giải nghĩa giấc mơ.”

“Tôi có thể mang người đứng nhất tới đây.” Nimue nói, chân thành một cách đau đớn.

“Ngẫu nhiên thay, người ta cứ nhất mực tiến cử cô ta với tôi. Bởi có vẻ như cô ta là con gái của một nhân vật quan trọng nào đó. Còn về mơ mộng, Condwiramurs thân mến, bản thân cô cũng biết giải nghĩa giấc mơ là một tài năng thất thường mà. Thất bại có thể xảy đến với cả người mơ giỏi nhất.”

Condwiramurs lại lần nữa kiềm chế câu bình luận rằng thất bại của mình chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Sau cùng thì, cô đang nói chuyện với một bậc thầy. Cần phải biết rõ giới hạn của mình là gì, như một giáo sư ở học viện của cô thường hay nói.

Phần thưởng của Nimue dành cho sự im lặng của cô là một cái gật đầu.

“Tôi có chất vấn vài câu với học viện,” nữ pháp sư bé nhỏ tiếp tục. “Do vậy, tôi biết cô có thể mơ mà không cần thuốc. Tôi rất mừng vì điều đó, bởi vì tôi không chấp nhận thuốc phiện.”

“Tôi mơ không cần thuốc.” Condwiramurs tự hào xác nhận. “Với thuật giải nghĩa giấc mơ, tôi chỉ cần một mỏ neo.”

“Cái gì?”

“Một mỏ neo.” Người học viên hắng giọng. “Ý tôi là, thứ gì đó liên hệ với đối tượng mà tôi đang mơ về. Một vật dụng cá nhân chẳng hạn. Hoặc một bức tranh…”

“Một bức tranh?”

“Vâng. Tôi chưa bao giờ nhầm với một bức tranh.”

“Ôi.” Nimue mỉm cười. “Nếu một bức tranh có thể giúp được thì chúng ta không cần gì phải lo rồi. Nếu cô đã dùng xong bữa sáng thì đi nào. Tôi nên giải thích lý do thứ hai vì sao tôi lại chọn cô làm trợ lý.”

Những bức tường đá tỏa ra cái lạnh mà lớp lót bằng gỗ và những tấm thảm thêu cũng không thể ngăn nổi. Người học viên cảm nhận được cái lạnh thậm chí bên trong đôi giày.

“Đằng sau cánh cửa này,” Nimue chỉ, “là phòng thí nghiệm. Như tôi đã nói từ trước, cô có thể sử dụng tùy ý. Dĩ nhiên là tôi vẫn khuyên cô nên cẩn thận. Cần biết tự lượng sức, đặc biệt khi cô thử ép một cái chổi đi vác xô nước.”

Condwiramurs cười theo phép lịch sự, dù cho nó là một trò đùa đã cũ rồi. Tất cả các giáo sư đã từng dạy cô đều thích những trò đùa liên quan đến rắc rối của người pháp sư tập sự huyền thoại.

Cầu thang xoắn vặn như một con rắn biển, dường như không có kết thúc. Những bậc thang cao và dốc. Trước khi họ tới nơi, người học viên đã thở dốc và mồ hôi nhễ nhại, nhưng Nimue dường như không bị ảnh hưởng tí nào.

“Làm ơn đi đường này,” nữ pháp sư mở một cánh cửa gỗ sồi. “Cẩn thận cộc đầu.”

Condwiramurs bước vào và trầm trồ.

Căn phòng là một phòng tranh. Những bức tường được treo đầy bích họa từ trần nhà xuống sàn. Những bức vẽ sơn dầu khổng lồ, những khung tranh thu nhỏ mòn vẹt và cũ nát, phù điêu, chạm nổi, những bức tranh màu nước đã phai mờ và ố vàng. Cũng có cả những tác phẩm mới hơn – sống động, phong cách hiện đại, nét vẽ dứt khoát, màu sắc tương phản thu hút con mắt bằng những chấm đen sắc nét.

Nimue dừng lại trước bức tranh treo gần cửa nhất, miêu tả một nhóm người đang tụ tập dưới một gốc cây vĩ đại. Cô nhìn vào bức vẽ, rồi quay sang Condwiramurs và ánh mắt im lặng xướng lên một câu hỏi.

“Dandelion,” người học viên trả lời không chậm trễ ngay khi nhận ra mình cần phải làm gì, “đang hát dưới gốc của cây sồi Bleobheris.”

Nimue mỉm cười và gật đầu. Cô bước lên một bước và dừng lại trước một bức vẽ khác. Màu nước. Biểu tượng. Hai người phụ nữ trên một ngọn đồi. Hải âu vần vũ trên đầu họ, và bên dưới sườn đồi là một hàng dài những bóng đen.

“Ciri và Triss Merigold. Điềm báo tiên tri ở Kaer Morhen.”

Mỉm cười, gật đầu, bước tiếp, một bức họa khác. Một kỵ sĩ trên lưng ngựa đang phi nước đại, hai hàng cây trăn hình thù kỳ dị, cành vươn ra về phía con ngựa. Condwiramurs cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng.

“Ciri…hmm…có vẻ như là cuộc chạy đêm tới buổi gặp mặt cùng Geralt ở trang trại người halfling Hofmeier.”

Bức tranh tiếp theo, một bức sơn dầu. Một khung cảnh chiến trận.

“Geralt và Cahir bảo vệ cây cầu bắc qua sông Yaruga.”

Rồi nhanh hơn và nhanh hơn.

“Yennefer và Ciri, lần gặp gỡ đầu tiên ở Đền thờ Melitele. Dandelion và người dryad Eithné, tại rừng Brokilon. Đoàn lữ hành của Geralt giữa một trận bão tuyết trên đèo Malheur…”

“Xuất sắc.” Nimue khen ngợi. “Một vốn kiến thức uyên thâm về huyền thoại. Giờ thì cô đã biết lý do thứ hai vì sao mình lại ở đây mà không phải người khác rồi.”

***

Đặt trên chiếc bàn làm từ gỗ mun mà họ đang ngồi là bức tranh khổng lồ miêu tả một khung cảnh chiến trận, có vẻ như là Trận Brenna, một khoảnh khắc quyết định của trận chiến – tức là cái chết vô vị của một người hùng nào đó. Tác giả của bức vẽ không thể là ai khác ngoài Nikolai Certosa, có thể nhận ra được nhờ vào nét vẽ, sự chú tâm hoàn hảo đến tiểu tiết và hiệu ứng ánh sáng của người họa sĩ.

“Phải, tôi biết huyền thoại về Witcher và Nữ witcher,” Condwiramurs trả lời. “Tôi dám nói rằng, đến từng chi tiết nhỏ nhất. Khi còn nhỏ, tôi vô cùng yêu thích câu truyện này, và đọc cũng như được nghe kể rất nhiều lần. Tôi thậm chí còn mơ được trở thành như Yennefer. Nhưng phải nói thật – dù cho có là tình yêu sét đánh, dù cho có cuồng nhiệt bao nhiêu…thì tình yêu của tôi cũng không tồn tại mãi được.”

Nimue nhướng một bên lông mày.

“Tôi lần đầu làm quen với câu truyện,” Condwiramurs tiếp tục, “với các phiên bản phổ cập dành cho lớp trẻ. Dĩ nhiên, sau này tôi nghiên cứu đến những phiên bản đầy đủ và nghiêm túc hơn. Nhạt nhẽo đến mức thừa thãi và thậm chí còn hơn nữa. Rồi ham mê dần bị thay thế bằng đánh giá khách quan và những ham muốn cuồng loạn như nghĩa vụ hôn nhân. Nếu cô hiểu ý tôi.”

Cái gật đầu của Nimue nhẹ gần đến mức không nhìn nổi, xác nhận rằng cô hiểu.

“Nói tóm lại, tôi thích những huyền thoại mang dáng dấp huyền thoại hơn, không trộn lẫn giả tưởng với hiện thực và không cố kết hợp bài học đạo đức giản đơn của một câu truyện cổ tích với sự thật tàn khốc của lịch sử. Tôi thích những huyền thoại mà không có lời mở đầu của các nhà khảo cổ học, sử gia hay biên soạn bách khoa toàn thư. Những huyền thoại mà bản chất không bị đem ra soi mói hay làm thí nghiệm. Tôi thích rằng nếu chàng hoàng tử trèo lên đỉnh Núi Pha Lê và hôn Công chúa ngủ trong rừng, cô ấy sẽ tỉnh dậy và cả hai sống hạnh phúc mãi mãi. Phải, không còn cách nào tốt hơn để kết thúc một huyền thoại…Ai đã vẽ bức chân dung này của Ciri? Bức mà nằm trên giá đó?”

“Không có bức chân dung nào của Ciri tồn tại cả,” giọng của nữ pháp sư bé nhỏ nghe khô khan. “Không có ở đây hay bất kỳ nơi nào trên thế giới. Không còn lại một bức chân dung nào được vẽ bởi những người đã từng gặp Ciri hay còn nhớ về cô. Bức họa trên giá đó miêu tả Pavetta, mẹ của Ciri. Nó được vẽ bởi người lùn Ruiz Dorrit, họa sĩ của triều đình Cintra. Các tài liệu ghi lại rằng Dorrit có vẽ Ciri vào lúc cô lên 10, nhưng bức tranh, mang tên Trẻ nhỏ và Sói xám, đáng tiếc thay, đã thất lạc. Hãy quay lại huyền thoại và thái độ của cô với chúng đi. Theo ýkiến của cô, một huyền thoại nên kết thúc như thế nào?”

“Với một kết cục có hậu,” người học viên khăng khăng. “Cái thiện phải chiến thắng. Cái ác phải bị trừng phạt để làm gương, đôi tình nhân được tái hợp và sống bên nhau trọn đời. Và không một người anh hùng nào được chết! Còn huyền thoại về Ciri? Nó đã kết thúc như thế nào?”

“Chính xác. Như thế nào?”

Condwiramurs im lặng trong một lúc. Cô đã không trông đợi một câu hỏi như vậy. Cô ngửi thấy một bài kiểm tra, một thử thách, một cạm bẫy. Cô ngừng nói để tránh bị sa bẫy.

Huyền thoại về Ciri và Geralt đã kết thúc thế nào ư? Sau cùng thì, ai cũng biết.

Cô nhìn vào một bức vẽ màu nước tăm tối miêu tả cảnh một con thuyền trôi trên mặt hồ mù sương, hình người đứng trên thuyền chỉ là một cái bóng.

Huyền thoại đã kết thúc như vậy. Phải.

Nimue đọc được suy nghĩ của cô.

“Chưa chắc đâu, Condwiramurs. Chưa chắc đâu.”

***

“Huyền thoại,” Nimue bắt đầu, “Tôi đã được nghe lần đầu tiên từ miệng của một người kể truyện rong. Tôi là một đứa trẻ thôn quê, đứa con gái thứ tư trong một gia đình nông dân nghèo. Ký ức đẹp đẽ nhất từ tuổi thơ của tôi đó là những ngày khi người kể truyện rong Pogwizd tới thăm làng của chúng tôi. Trong giây phút, tôi có thể quên đi công việc đồng áng và trong tâm trí chỉ còn lại những kỳ quan hào nhoáng, được thấy cả thế giới rộng mở trước mắt…Một thế giới tươi đẹp và nhiệm màu…thậm chí đẹp hơn nhiều so với cái khu chợ trong thị trấn cách đó 9 dặm…”

“Lúc đó tôi vào khoảng 6 hay 7 tuổi. Người chị cả của tôi đã lên 14 và lưng bắt đầu còng vì khối lượng công việc nặng nhọc. Số phận của một người phụ nữ nông dân! Trong làng chúng tôi, con gái đã được chuẩn bị để đón nhận nó ngay từ khi còn nhỏ. Được dạy cách cúi! Cúi để làm việc, để chăm sóc cho con cái, cúi trước sức nặng cái bụng sưng phồng của mình, bị ép lên người bởi các đức ông chồng ngay từ giây phút ta nhổm dậy khỏi giường.”

“Chính những câu truyện của ông già này đã khiến tôi bắt đầu thèm muốn nhiều hơn là lưng còng và đồng áng, mơ ước nhiều hơn là sinh con, một người chồng và gia đình. Quyển sách đầu tiên tôi mua bằng tiền bán việt quất nhặt trong rừng là về huyền thoại Ciri. Phiên bản này, như cô đã nhận xét rất chính xác, khá nhẹ nhàng và được chỉnh sửa phù hợp cho giới trẻ. Đó là phiên bản vừa đủ dành cho tôi. Tôi đọc rất kém. Nhưng kể cả hồi đó tôi đã biết mình muốn gì. Tôi muốn trở thành như Philippa Eilhart hay Síle de Tanserville, hay Assire var Anahid…”

Cả hai quan sát bức vẽ trộn keo miêu tả một chiếc bàn đặt trong đại sảnh một tòa lâu đài với phụ nữ ngồi xung quanh. Những người phụ nữ huyền thoại.

“Tại Học viện,” Nimue tiếp tục, “mà tôi đã thi đỗ sau cố gắng thứ hai, tôi chỉ quan tâm tới huyền thoại về Hội Pháp Sư trong các bài giảng về lịch sử phép thuật. Thoạt tiên tôi đơn giản là không có thời gian để đọc sách giải trí, tôi phải học hành cực nhọc…để theo kịp các cô con gái của bá tước và chủ ngân hàng mà mọi thứ trong cuộc sống đều có được một cách dễ dàng, những người luôn cười nhạo các cô thôn nữ…”

Cô tạm ngừng, rồi bẻ tay.

“Cuối cùng,” cô tiếp tục. “Khi đã tìm được thời gian để đọc, tôi bỗng nhận ra rằng cuộc phiêu lưu của Geralt và Ciri kém thú vị hơn nhiều so với hồi mình còn nhỏ. Tôi đã mắc những triệu chứng hệt như của cô. Cô đã gọi nó là gì nhỉ? Nghĩa vụ hôn nhân? Mọi việc cứ như vậy cho đến khi…”

Cô tạm ngừng và lau mặt bằng mu bàn tay. Condwiramurs để ý với sự kinh ngạc rằng bàn tay của nữ pháp sư bé nhỏ run rẩy.

“Tôi lên 18 tuổi khi…khi chuyện đó xảy ra. Một điều đã làm hồi sinh huyền thoại về Ciri trong tôi. Tôi bắt đầu đối xử với nó nghiêm túc hơn và khoa học hơn. Tôi cống hiến cả cuộc đời cho nó.”

Người học viên im lặng, mặc dù đang cảm thấy sự tò mò sôi sục trong người.

“Đừng giả vờ như cô không biết,” Nimue cao giọng. “Tất cả mọi người đều biết rằng Nữ Thần Hồ sở hữu một nỗi ám ảnh gần như không lành mạnh đối với huyền thoại về Ciri. Tất cả mọi người đều nói rằng nó bắt đầu như một thú vui vô hại và dần trở thành một chứng nghiện, hoặc thậm chí là phát cuồng. Có khá nhiều sự thật trong những lời đồn đại đó, Condwiramurs thân mến à, khá nhiều sự thật! Và cô, vì đã được lựa chọn để làm trợ lý cho tôi, cũng sẽ rơi vào cơn cuồng loạn này. Bởi vì tôi yêu cầu điều đó ở cô. Ít nhất là trong khoảng thời gian cô ở đây. Cô có hiểu không?”

Người học viên gật đầu.

“Dường như cô hiểu,” Nimue kiểm soát lại bản thân. “Nhưng tôi vẫn sẽ giải thích. Dần dần. Và khi đến lúc, cô sẽ biết mọi thứ. Nhưng giờ…”

Cô tạm ngừng và nhìn ra cái hồ bên ngoài ô cửa, dõi theo bóng đen trên con thuyền của Vua Đánh Cá, một nét tương phản với mặt nước lóng lánh sắc vàng.

“Hiện tại, hãy nghỉ ngơi. Nhìn ngắm xung quanh phòng tranh. Trong các ngăn kéo và giá sách, cô sẽ thấy những album ảnh và tranh bìa, đều liên quan đến huyền thoại. Trong thư viện là tất cả các phiên bản về huyền thoại và gần như mọi bài khóa luận diễn giải khoa học. Hãy dành cho chúng chút thời gian. Nhìn, đọc, tập trung. Tôi muốn cô có cảm hứng để mơ. Một cái mỏ neo, như cô đã nói từ trước.”

“Tôi sẽ làm. Quý cô Nimue?”

“Tôi đang nghe đây.”

“Hai bức chân dung đó. Treo cạnh nhau…không phải là Ciri sao?”

“Không có bức chân dung nào của Ciri tồn tại cả.” Nimue kiên nhẫn lặp lại. “Các họa sĩ về sau chỉ miêu tả cô trong những khung cảnh nhất định, dựa theo trí tưởng tượng của từng người. Còn về hai bức chân dung, bức bên trái có lẽ là một bản phác họa tự do, bởi nó miêu tả nữ elves Lara Dorren aep Shiadhal, một người mà tác giả của bức tranh chắc chắn không thể quen được. Bởi tên người họa sĩ là Lydia van Bredevoort, cô chắc hẳn đã biết đến cái tên này từ huyền thoại. Một trong các tác phẩm sơn dầu còn sống sót của cô ấy vẫn được treo tại Học viện.”

“Tôi biết. Còn bức kia?”

Nimue nhìn một lúc lâu bức chân dung một cô gái trẻ tóc vàng với đôi mắt u sầu. Cô mặc một chiếc váy trắng với tay áo xanh lục.

“Robin And erida đã vẽ nó.” Cô trả lời, quay lại nhìn thẳng vào mắt Condwiramurs. “Và nó vẽ ai…điều đó là dành cho những người mơ và diễn giải như cô để tìm hiểu. Và hãy kể lại với tôi giấc mơ này.”

***

Ngài Robin Anderida trông thấy Hoàng đế trước và cúi chào thật thấp. Stella Congreve, bá tước phu nhân Liddertal, đứng dậy, chào theo kiểu phụ nữ và nhanh chóng ra hiệu cho cô gái đang ngồi trên chiếc ghế tựa trạm trổ làm theo.

“Xin chào, các quý cô,” Emhyr var Emreis gật đầu. “Và xin chào ông, ngài Robin. Công việc của ông thế nào rồi?”

Ngài Robin lầm bầm xấu hổ và lại chào lần nữa, lo lắng chùi ngón tay lên tạp dề. Emhyr biết rằng người họa sĩ mắc chứng sợ đám đông nghiêm trọng và rụt rè bẩm sinh. Nhưng ai quan tâm kia chứ. Điều quan trọng là ông vẽ thế nào.

Như mọi khi, bất kể lúc nào đi du hành, Hoàng đế luôn mặc một bộ quân phục của Lữ đoàn Cảnh vệ Impera – giáp đen và áo choàng thêu hình thằn lằn bạc. Ông ta tiến lại gần hơn và thẩm định bức vẽ. Đầu tiên là bức vẽ, rồi đến người mẫu, một cô gái mảnh mai tóc vàng với đôi mắt u sầu. Trong một chiếc váy trắng với tay áo xanh lục và một sợi dây chuyền treo một viên ngọc duy nhất.

“Hoàn hảo,” ông ta nói vào khoảng không và theo cách để không thể nào đoán được ai hay cái gì đang được tán thưởng. “Hoàn hảo, thưa ngài. Xin hãy tiếp tục, đừng bận tâm đến ta. Phiền bà một chút thời gian, bá tước phu nhân.”

Ông ta bước vài bước ra phía cửa sổ để ép bà đi theo mình.

“Ta sắp khởi hành.” Hoàng đế khẽ nói. “Việc nước. Cảm ơn vì lòng hiếu khách của bà. Và công chúa nữa. Làm tốt lắm, Stella. Bà thực sự nên được tán thưởng. Cả con bé nữa.”

Stella Congreve cúi chào thật duyên dáng.

“Hoàng đế đã tỏ ra vô cùng rộng lượng với chúng tôi.”

“Đừng nói quá sớm như vậy.”

“Oh…” bà hơi mím môi. “Thế sao?”

“Đúng thế.”

“Chuyện gì sẽ xảy đến với con bé, Emhyr?”

“Ta không biết,” ông ta trả lời. “Trong 10 ngày nữa chúng ta sẽ tiếp tục chiến dịch phản công trên phía Bắc. Đây hứa hẹn sẽ là một cuộc chiến vô cùng, vô cùng khó khăn. Vattier de Rideaux vừa mới vạch trần những âm mưu mới nhằm vào ta. Đại sự có thể sẽ ép ta phải làm nhiều điều.”

“Cô gái không có tội tình gì cả.”

“Ta nói: đại sự. Đại sự chẳng liên quan gì đến công lý hết. Đằng nào thì…” ông ta vẫy tay, “ta cũng muốn được nói chuyện với con bé. Một mình. Đi nào, công chúa. Nhanh lên. Lại gần hơn. Hoàng đế ra lệnh.”

Cô gái cúi chào thật thấp. Emhyr đo lường cô bằng ánh mắt, hồi tưởng lại cuộc gặp định mệnh ở Loc Grim. Ông ta thực sự tán dương, thậm chí là ngưỡng mộ Stella Congreve, người mà trong vòng 6 tháng kể từ lúc đó, đã xoay sở biến một con vịt xấu xí vụng về thành một tiểu thư đài các.

“Hãy để mặc chúng ta,” Hoàng đế nói. “Tạm nghỉ một lát, ngài Robin, để lau chùi cọ vẽ. Bà, bá tước phu nhân, xin hãy đợi trong phòng chờ. Còn nàng, công chúa, xin hãy theo ta ra sân thượng.”

Lớp tuyết ẩm rơi đêm trước đã tan chảy dưới những tia nắng của bình minh, và mái nhà cùng tháp canh vẫn còn ướt của lâu đài Darn Rowan phản chiếu ánh mặt trời như ngọn lửa.

Emhyr tiến ra gần lan can. Cô gái, đúng theo cung cách triều đình, đứng sau ông ta một bước. Với một cử chỉ khó chịu, ông ta ra lệnh cho cô lại gần hơn.

Hoàng đế im lặng trong một khoảng thời gian dài, đứng tựa cả hai tay lên lan can, mắt dõi về phía những ngọn đồi và rừng thủy tùng xanh mướt ở xa. Trông hoàn toàn tách biệt với khe vực đá vôi trắng xóa. Bên dưới chúng, một dòng suối bạc óng ánh luồn lách qua hẻm núi.

Cơn gió mang đến hương vị mùa xuân.

“Ta hiếm khi ra đây.” Emhyr nói. Cô gái giữ im lặng.

“Ta hiếm khi ra đây.” Ông ta nhắc lại, quay mặt đi. “Nó là một nơi đẹp đẽ và yên bình. Khung cảnh thơ mộng…Cô có đồng ý không?”

“Vâng…thưa Hoàng đế.”

“Có thể ngửi thấy mùa xuân trong không khí. Cô cũng nhận thấy chứ hả?”

“Vâng, thưa Hoàng đế.”

Từ khoảng sân bên dưới, họ nghe thấy những âm thanh huyên náo trộn lẫn với âm nhạc và tiếng móng ngựa. Đoàn hộ tống mà đã nhận được lệnh khởi hành đang rục rịch chuẩn bị xuất phát. Emhyr nhớ lại rằng trong số các lính canh có một người biết hát. Thường xuyên, bất kỳ hoàn cảnh.

Nhìn xuống ta xao xuyến

Đôi mắt tựa lưu ly

Và cho ta lưu luyến

Vẻ đẹp không muộn màng

Nhớ đến ta da diết

Trong đêm thâu bất tận

Đừng phũ phàng từ chối

Ham muốn cháy trong tim

“Một bản nhạc đẹp,” ông ta trầm ngâm, ngón tay lướt qua sợi dây chuyền vàng đeo trên cổ.

“Rất đẹp. Thưa Hoàng đế.”

Vattier đã đảm bảo với ta rằng hắn đang lần theo dấu vết của Vilgefortz. Rằng việc xác định được tên pháp sư chỉ còn tính bằng ngày, hoặc tuần là nhiều nhất. Cái đầu của những kẻ phản bội sẽ rơi xuống và Ciri thực sự, công chúa của Cintra, sẽ được đưa tới Nilfgaard.

Và trước khi Cirilla thực sự, công chúa của Cintra tới được Nilfgaard, ta sẽ phải làm gì đó với kẻ đóng thế.

“Ngẩng cao đầu lên.”

Cô vâng lời.

“Cô có mong ước gì không?” Ông ta hỏi, bất thình lình và sỗ sàng. “Yêu cầu? Than phiền?”

“Không, thưa Hoàng đế. Em không có.”

“Thật sao? Thú vị đấy. Đằng nào thì ta cũng không thể yêu cầu cô có cho được. Ngẩng cao đầu lên, hãy ra dáng một công chúa. Stella đã dạy cô phép tắc triều đình rồi chứ?”

“Vâng, thưa Hoàng đế.”

Thú thật, ông ta nghĩ, họ đã dạy con bé khá tử tế đó chứ. Đầu tiên là Rience, rồi đến Stella. Họ đã dạy cho con bé vai trò của nó – dĩ nhiên là dưới sự hăm dọa bằng cực hình và cái chết. Họ đã cảnh báo nó về vai diễn mình phải đóng trước mặt một khán giả tàn độc và không dung thứ. Trước Emhyr var Emreis, Hoàng đế của Nilfgaard.

“Tên cô là gì?” Ông ta cao giọng.

“Cirilla Fiona Elen Riannon.”

“Tên thật của cô.”

“Cirilla Fiona…”

“Đừng thử thách sự kiên nhẫn của ta. Tên!”

“Cirilla…” giọng cô gái vỡ như que củi. “Fiona…”

“Đủ rồi, Mặt Trời Vĩ Đại ơi,” ông ta rít lên qua hàm răng nghiến chặt. “Quá đủ rồi!”

Cô sụt sịt mũi, phá vỡ quy tắc ứng xử. Đôi môi run rẩy nhưng quy tắc không cấm điều đó.

“Bình tĩnh đi,” ông ta ra lệnh bằng một giọng trầm, gần như dịu dàng. “Cô sợ cái gì? Cô thấy xấu hổ vì cái tên của mình hay sao? Cô sợ phải cho ta biết à? Nó có mang lại những ký ức không mấy vui vẻ không? Ta hỏi chỉ bởi muốn gọi cô bằng chính tên thật của cô. Nhưng ta cần phải biết nó là gì đã.”

“Nó không là gì cả,” cô đáp lời, đôi mắt lớn chợt sáng lên như ngọc lục bảo trong ánh nến. “Bởi vì nó là một cái tên tầm thường, thưa Hoàng đế. Một người mang cái tên đó không là ai cả. Trong khi em vẫn còn là Cirilla Fiona, em phải là ai đó…trong khi…”

Giọng cô kẹt lại trong cổ họng nhanh đến mức cô bất giác đưa tay lên cổ, như thể vật đang đeo trên đó không phải một sợi dây chuyền, mà là một sợi xích đang bóp nghẹt. Emhyr tiếp tục đo lường cô bằng ánh mắt, vẫn cảm thấy ngưỡng mộ Stella Congreve. Và tức giận cùng một lúc. Một cơn giận vô cớ và do đó càng khủng khiếp hơn.

Ta muốn gì ở đứa trẻ này đây, ông ta nghĩ, cảm thấy cơn thịnh nộ dấy lên trong người, sôisục như vạc dầu bốc khói. Ta muốn gì ở cái đứa trẻ mà…

“Hãy biết rằng ta không liên quan gì đến việc bắt cóc cô cả,” ông ta sẵng giọng. “Ta không liên quan gì đến việc bắt cóc cô hết. Ta đã không ra mệnh lệnh nào. Ta đã bị lừa…”

Ông ta tức giận với bản thân, nhận ra rằng mình đã mắc sai lầm. Lẽ ra ông ta nên kết thúc cuộc trò chuyện này từ lâu rồi mới phải, kết thúc nó với sự lịch lãm, uy quyền và đáng sợ, như một vị hoàng đế. Ông ta cần phải quên đi cô gái với đôi mắt xanh lục này. Cô gái này không tồn tại. Cô ta chỉ là một kẻ đóng thế. Một vật giả tạo. Cô ta thậm chí còn không có tên. Cô ta không là ai cả. Một hoàng đế thì không bao giờ cầu xin tha thứ, không bao giờ hạ mình cho bất kỳ ai…

“Thứ lỗi cho ta,” ông ta nói, ngôn từ nghe thật lạ lẫm, dính lấy đầu môi một cách khó chịu. “Ta đã phạm sai lầm. Phải, đúng vậy, ta có lỗi với những gì đã xảy ra với cô. Có lỗi. Nhưng ta xin thề rằng cô sẽ không phải chịu bất kỳ nguy hiểm, bất công hay đe dọa nào. Đừng sợ.”

“Em không sợ.” Cô ngẩng cao đầu và nhìn thẳng vào mắt ông ta, lại phá quy tắc. Emhyr giật mình, ngỡ ngàng trước sự thành thật và tin tưởng trong mắt cô. Ông ta ngay lập tức đứng thẳng dậy, lấy lại tác phong của một bậc quân vương kiêu hãnh và cao quý.

“Hãy hỏi ta điều cô muốn.”

Cô lại nhìn ông ta lần nữa, và ông ta bất chợt hồi tưởng lại vô số lần mình đã dùng tới cách này để giảm nhẹ gánh nặng lương tâm vì những thương tổn mình gây ra cho kẻ khác. Ông ta bí mật tận hưởng sự thật rằng mình có thể đền bù một cách rẻ rúng như vậy.

“Hãy hỏi ta điều cô muốn,” ông ta lặp lại, và bởi vì đã mệt mỏi nên giọng trở nên giống người hơn một chút. “Ta sẽ thỏa mãn mọi khao khát của cô.”

Đừng nhìn ta, Hoàng đế nghĩ. Ta không thể chịu được cái nhìn đó. Dường như mọi người đều sợ phải nhìn ta. Vậy thì ta còn phải sợ cái gì chứ?

Kệ mẹ Vattier và cái đại sự của hắn. Nếu con bé yêu cầu, ta sẽ đưa nó về nhà, nơi mà nó đã bị bắt đi khỏi. Có lẽ là bằng một cỗ xe vàng 6 ngựa kéo. Con bé chỉ cần hỏi thôi.

“Hãy hỏi ta điều cô muốn.” Ông ta nhắc lại.

“Em cảm ơn ngài, thưa Hoàng đế.” Cô gái trả lời, hạ mắt xuống. “Hoàng đế vô cùng cao thượng và hào phóng. Nếu có thể hỏi…”

“Nói đi.”

“Thì em muốn ở lại đây. Tại Darn Rowan này. Tại nhà của phu nhân Stella.”

Ông ta không ngạc nhiên. Ông ta đã dự đoán trước điều gì đó tương tự vậy.

Sự tế nhị ngăn ông ta không hỏi câu hỏi mà sẽ khiến cả hai thấy ngại ngùng.

“Ta đã hứa.” Ông ta nói lạnh lùng. “Ý nguyện của ta sẽ được thực thi.”

“Cảm ơn, thưa Hoàng đế.”

“Ta đã hứa,” ông ta nhắc lại, “và sẽ tôn trọng lời hứa đó. Tuy vậy, ta nghĩ rằng cô đã chọn sai. Cô không chọn điều mà cô mong muốn trong tim. Nếu cô đổi ý…”

“Em sẽ không đổi ý,” cô trả lời khi nhận ra Hoàng đế sẽ không nói hết. “Sao em lại có thể đổi ý được? Em đã chọn phu nhân Stella, em đã chọn những điều mà mình được trải nghiệm rất ít trong đời…một ngôi nhà, hơi ấm, lòng tốt…tình thương. Ngài không thể sai lầm khi chọn những điều như vậy.”

Ôi, tạo vật ngây thơ, bé nhỏ, tội nghiệp à, Emhyr var Emreis, Deithwen Addan yn Carn aepMorvudd – Ngọn Lửa Trắng Nhảy Múa Trên Ngôi Mộ Của Kẻ Thù nghĩ thầm. Chính những ham muốn đó mới tạo nên những sai lầm khủng khiếp nhất.

Nhưng thứ gì đó – có lẽ là những ký ức sâu thẳm đã bị lãng quên từ lâu – đã ngăn Hoàng đế thốt lên suy nghĩ của mình.

***

“Thú vị thật.” Nimue nhận xét một khi nghe xong câu chuyện. “Một giấc mơ rất thú vị. Còn cái nào khác nữa không?”

“Còn nhiều!” Condwiramurs cắt phần đỉnh của quả trứng luộc bằng một con dao. “Đầu tôi vẫn còn đang quay cuồng sau màn diễu hành đó đây! Nhưng điều này là bình thường. Đêm đầu tiên ở một chỗ mới luôn mang đến những giấc mơ hỗn loạn. Cô có biết không, Nimue, rằng đối với những người mơ chúng tôi, người ta nói rằng tài năng của chúng tôi không nằm ở chỗ chúng tôi có thể mơ. Nếu không tính đến những viễn cảnh trong thôi miên hay lên đồng, thì những giấc mơ của chúng tôi cũng không khác gì so với người bình thường, về cường độ, hay tần suất và nội dung. Khác với họ, đây mới là điều quyết định tài năng của chúng tôi. Chúng tôi nhớ được giấc mơ của mình. Hiếm khi chúng tôi quên được những gì mình đã mơ…”

“Bởi vì tuyến nội tiết của các cô hoạt động khác thường hơn một chút,” Nữ Thần Hồ cắt ngang. “Những giấc mơ của cô, nếu nói giản lược đi, thì không hơn gì là endorphin được bơm khắp cơ thể. Như mọi tài năng phép thuật tiềm ẩn, tài năng của cô vẫn có một nguồn gốc sinh học tầm thường. Nhưng sao tôi lại đi giải thích những điều cô đã biết rồi nhỉ. Cô còn nhớ giấc mơ nào nữa không?”

“Một chàng trai,” Condwiramurs cau mày, “đang đi qua những cánh đồng với một túi đồ trên vai. Đang là chớm xuân, những cánh đồng vẫn trống rỗng. Hàng liễu…chạy dọc hai bên con đường. Liễu rủ và dị dạng…đầy lỗ hổng, ấy vậy vẫn có lá. Chàng trai vừa đi vừa nhìn quanh. Trời đang tối. Trên bầu trời đã có sao. Một trong số chúng đang di chuyển. Nó là một ngôi sao chổi. Một đốm sáng đỏ chớp lóe chạy dọc đường chân trời…”

“Tốt.” Nimue phấn khởi. “Dù cho hoàn toàn không biết cô đang mơ đến ai, tôi vẫn có thể biết được ngày. Sao Chổi Đỏ chỉ xuất hiện trong 6 ngày, vào mùa xuân của năm ký kết Hiệp ước Cintra. Chi tiết hơn, vào ngày đầu tiên của tháng Ba. Trong những giấc mơ khác cô có nhận ra được thời gian không?”

“Những giấc mơ của tôi,” Condwiramurs khịt mũi, tìm kiếm sự an ủi trong quả trứng luộc, “không phải một quyển lịch nông nghiệp. Chúng không kèm theo chú thích về ngày tháng. Nhưng tôi cũng một lần mơ thấy Trận Brenna, có lẽ là do nhìn vào bức tranh của Nikolai Certosa trong phòng trưng bày của cô. Và ngày tháng của Trận Brenna thì ai cũng biết. Nó cũng xảy ra vào cùng năm xuất hiện sao chổi, trừ khi tôi nhầm.”

“Không. Cô không nhầm. Giấc mơ về trận chiến có gì đặc biệt không?”

“Không. Một hỗn hợp của người, ngựa và vũ khí. Binh lính xô xát và la hét. Ai đó, chắc chắn là một người đàn ông, đã reo lên – “Đại bàng! Đại bàng!”

“Còn gì nữa? Cô nói rằng có hẳn một màn diễu hành những giấc mơ kia mà.”

“Tôi không nhớ…” Condwiramurs khựng lại.

Nimue mỉm cười.

“Ừ thì,” người học viên ngượng nghịu, nhăn mặt, tránh để Nữ Thần Hồ thốt lên bất kỳ câu bình luận châm chích nào. “Đúng, đôi lúc tôi có quên. Không ai là hoàn hảo cả. Tôi nhắc lại, những giấc mơ của tôi là viễn cảnh, không phải thẻ thư viện…”

“Tôi biết,” Nimue đáp lại. “Chúng ta không làm việc này để thử thách năng lực mơ mộng của cô. Chúng ta đang phân tích một huyền thoại. Để trả lời những câu đố và lấp đầy những khoảng trống. Và nó diễn ra khá êm xuôi cho chúng ta đấy, bởi trong giấc mơ đầu tiên cô đã khám phá ra danh tính của cô gái trong bức chân dung, người đóng thế của Ciri mà Vilgefortz đã định dùng để lừa Hoàng đế Emhyr…”

Cô dừng lại vì vừa mới bước vào trong bếp là Vua Đánh Cá. Anh ta cúi chào, lầm bầm gì đó và lôi ra một ổ bánh mỳ, một cái chai và một gói đồ bọc trong vải từ trên chạn. Rồi anh ta bỏ đi, không quên lại cúi chào và lầm bầm.

“Anh ta bị què,” Nimue nói với sự cảm thông được che đậy một cách hời hợt. “Anh ta đã bị thương trong một cuộc đi săn heo rừng. Đó là lý do vì sao anh ta lại dành nhiều thời gian đến thế trên thuyền. Với mái chèo và đánh cá, anh ta có thể quên đi thương tích của mình. Anh ta là một người đàn ông tốt bụng và tử tế. Và tôi…”

Condwiramurs vẫn lịch sự giữ im lặng.

“Tôi cần một người đàn ông.” Nữ pháp sư bé nhỏ dứt lời.

Cả tôi cũng vậy, người học viên nghĩ. Quỷ sứ, ngay khi quay lại Học viện, tôi sẽ để ai đó quyến rũ mình. Sống độc thân cũng tốt, nhưng không nên lâu hơn là một học kỳ.

Nimue khịt mũi.

“Nếu cô đã ăn và mơ xong, hãy tới thư viện nào.”

***

“Hãy quay trở lại giấc mơ của cô.”

Nimue mở một tập tài liệu, quay trái quay phải và lấy ra vài bức tranh vẽ bằng mực sepia.

Condwiramurs ngay lập tức nhận ra khung cảnh được miêu tả.

“Buổi chầu ở Loc Grim?”

“Dĩ nhiên rồi. Kẻ đóng thế được giới thiệu tại cung điện hoàng gia. Emhyr vờ như mình đã bị lừa và đóng kịch rất giỏi. Ở đây, nhìn này, đó là những sứ thần của các vương quốc phương Bắc, khán giả chính của màn kịch của ông ta. Và ở đây có thể thấy các công tước Nilfgaard. Họ cảm thấy nhục nhã khi Hoàng đế khước từ con gái mình và do vậy đã nhổ vào lời đề nghị liên minh của họ. Họ đứng sang bên, thì thầm, lên kế hoạch báo thù, âm mưu, ám sát. Kẻ đóng thế đứng trước ngai vàng với đầu cúi thấp. Người họa sĩ đã làm thế này để nhấn mạnh sự huyền bí của cô, kể cả đường nét gương mặt cũng được ẩn giấu sau tấm mạng che trên đầu. Đây gần như là tất cả những gì chúng ta biết về Ciri giả mạo. Không phiên bản nào của huyền thoại nhắc đến chuyện xảy ra với cô ấy về sau.”

“Cũng chẳng khó để tưởng tượng,” Condwiramurs nói buồn bã, “định mệnh đã không nhân từ với cô gái đó. Khi Emhyr có được bản gốc, và chúng ta đều biết là ông ta đã có được, ông ta đã loại bỏ kẻ giả mạo. Trong mơ tôi không cảm thấy điềm báo tai ương nào, và theo nguyên tắc thì đúng ra tôi phải cảm nhận được gì đó…Mặt khác, những gì tôi thấy trong mơ cũng không nhất thiết phải là sự thật hoàn toàn. Cũng như một con người bình thường, những giấc mơ của tôi phản ánh khát vọng của tôi, những nỗi nhớ…và những nỗi sợ.”

“Tôi biết.”

***

Họ bàn luận cho đến bữa trưa, tìm tòi trong những xấp tài liệu và tranh vẽ. Việc đánh cá ắt đã rất thuận lợi với Vua Đánh Cá, vì bữa trưa là món cá hồi hun khói. Cả bữa tối nữa.

Đêm đó, Condwiramurs ngủ rất tệ. Cô đã ăn quá nhiều.

Cô không mơ thấy gì cả. Cô thấy hơi tức giận và xấu hổ vì nó, nhưng Nimue không biểu lộ gì hết.

“Chúng ta có thời gian,” cô nói. “Vẫn còn nhiều đêm nữa.”

***

Tòa tháp Inis Vitre có đến vài cái phòng tắm, thực sự xa xỉ, hào nhoáng, tường lát cẩm thạch và nội thất bằng đồng sáng bóng. Nước được đun nóng qua những đường ống kết nối với lò lửa nằm đâu đó dưới tầng hầm. Condwiramurs có thể ngâm mình trong bồn tắm hàng giờ, nhưng thỉnh thoảng lại gia nhập cùng Nimue trong phòng xông hơi, một căn buồng gỗ nhỏ với phần hiên nằm nhoài ra hồ. Họ cùng ngồi trên một băng ghế trong làn hơi mù mịt tỏa ra từ những viên đá nóng đỏ được dội nước, tự kỳ cọ bằng bàn chải làm từ cành phong. Mồ hôi chảy xuống mắt họ.

“Nếu tôi hiểu đúng,” Condwiramurs lau mặt, “thì kết quả cuối cùng từ những trải nghiệm của tôi tại Inis Vitre này sẽ trả lời được mọi câu đố và lấp đầy mọi khoảng trống trong huyền thoại về Witcher và Nữ witcher?”

“Chính xác.”

“Ban ngày, bằng cách kiểm nghiệm các hình ảnh và bàn luận, tôi sẽ được chuẩn bị về đêm để mơ về những sự kiện đã bị lãng quên hoàn toàn và biết được chuyện gì đã thật sự xảy ra?”

Lần này Nimue coi việc xác nhận là không cần thiết. Cô đứng dậy và dội nước từ một cái xô vào đống cuội. Hơi bốc lên khiến họ nghẹt thở mất một lúc. Số nước còn lại trong xô, Nimue dội lên người. Condwiramurs ngưỡng mộ thân hình của cô. Dù thấp bé, nữ pháp sư vẫn vô cùng cân đối. Thân thể cùng làn da của cô đủ để khiến nhiều thiếu nữ phải thấy ghen tị. Condwiramurs chỉ mới 24 và cũng nằm trong số đó.

“Nhưng kể cả nếu tôi có mơ thấy cái gì đó,” cô tiếp tục, lại lấy tay lau mặt, “làm sao tôi có thể chắc chắn rằng cái mình mơ là sự thật? Tôi không thể biết…”

“Hãy tạm dừng cuộc tranh luận này trong một lúc,” Nimue xen ngang. “Ra ngoài thôi. Tôi chán phải ngồi trong cái nồi hầm này rồi. Hãy tắm táp sạch sẽ. Rồi chúng ta nói chuyện.”

Như là một phần của nghi lễ hàng ngày, họ chạy ra khỏi phòng xông hơi, chân trần giậm huỳnh huỵch trên những tấm ván gỗ ngoài hiên và với một tiếng la, nhảy xuống làn nước mát lạnh. Một khi đã ngụp lặn xong xuôi, họ bơi trở lại và rũ tóc.

Vua Đánh Cá, giật mình bởi tiếng la và quẫy nước, ngoảnh lại từ chiếc thuyền, lấy tay che mắt cho khỏi nắng, rồi nhanh chóng quay đi và dồn toàn bộ sự chú ý vào cái cần câu. Condwiramurs coi hành động này thật là xúc phạm và đáng khiển trách. Cái nhìn của cô về Vua Đánh Cá đã được cải thiện đáng kể từ khi cô bắt đầu nhận ra rằng, mỗi khi không đánh cá, anh ta đều đọc sách. Anh ta đi dạo cùng một quyển sách, thậm chí đến phòng tắm cùng một quyển sách, và nó thậm chí còn là Speculum Aureum, một tác phẩm xuất sắc cũng như vô cùng thử thách về trí tuệ. Vậy nên dù trong những ngày đầu mới đến Inis Vitre, Condwiramurs còn thấy ngạc nhiên trước sở thích của Nimue, thì bây giờ cô không còn thấy vậy nữa. Rõ ràng là vẻ thô lỗ quê mùa của Vua Đánh Cá chỉ là một lớp vỏ bọc bên ngoài. Dường như nó rất hiệu quả trong vai trò một chiếc mặt nạ bảo vệ danh tính thật sự.

Tuy nhiên, Condwiramurs nghĩ, vẫn là một sự xúc phạm và sỉ nhục ghê gớm khi quay sang nhìn cái cần câu trong khi có hai người phụ nữ đang khỏa thân ở đây, với thân hình không thua kém gì các nymph, mà bất kỳ đôi mắt nào trông thấy cũng không nên bỏ đi nơi khác.

“Nếu tôi mơ về thứ gì đó,” cô quay trở lại chủ đề lúc trước trong khi lau ngực bằng một tấm khăn, “thì điều gì sẽ đảm bảo rằng nó là đúng sự thật? Tôi biết hết mọi phiên bản của huyền thoại trong văn học, từ Nửa thế kỷ thơ ca của Dandelion, cho đến Nữ Thần Hồ của Andrei Ravix. Tôi cũng đã làm quen với toàn bộ các tác phẩm của Mục sư Jarre, vô số các bài phân tích khoa học đối với những phiên bản phổ cập mà tôi sẽ thậm chí còn không nhắc tới. Tất cả những kiến thức này sẽ để lại dấu ấn, gây nên ảnh hưởng mà tôi không thể loại trừ ra khỏi những giấc mơ của mình. Có cơ hội nào để phá vỡ được rào cản giả tưởng và mơ tới sự thật không?”

“Có chứ.”

“Bao nhiêu phần trăm?”

“Cũng tương đương với Vua Đánh Cá.” Nimue hất đầu về phía con thuyền trên hồ. “Cô thấy anh ta miệt mài kiểm tra lưỡi câu thế nào không. Chúng toàn mắc phải cỏ dại, rễ, cành cây, giày cũ và có quỷ mới biết còn cái gì khác. Nhưng thỉnh thoảng anh ta vẫn câu được cá.”

“Vậy tôi chúc chúng ta đi câu thành công.” Condwiramurs thở dài và bắt đầu mặc đồ. “Móc mồi và thả lưới thôi. Tìm kiếm sự thật trong ao cá và hy vọng có thứ đớp mồi. Nhưng nếu không còn con cá nào thì sao? Với toàn bộ sự tôn trọng, Nimue, nhưng chúng ta không phải là những người đầu tiên thả lưới ở đây. Có bao nhiêu cơ hội rằng còn sót lại những chi tiết đã trốn thoát khỏi sự chú ý của một lô lốc các nhà chép sử và nghiên cứu gia đã từng đi câu trước chúng ta? Liệu có còn lại con cá nào không?”

“Họ đã để lại,” Nimue nói với lòng tin tưởng, chải tóc trên đầu, “những khoảng trống dày đặc câu hỏi tu từ và bịa đặt. Hoặc gói trong im lặng.”

“Như là gì?”

“Ví dụ, mùa đông mà witcher đã trú ẩn tại Toussaint. Mọi phiên bản của huyền thoại đều lướt qua giai đoạn này bằng một câu ngắn gọn: “Những vị anh hùng dành mùa đông ở Toussaint.” Kể cả Dandelion, người đã dành hẳn hai chương trong cuộc phiêu lưu của mình tại đó, cũng tỏ ra mập mờ đến ngạc nhiên khi nhắc đến witcher. Tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra mùa đông năm đó chẳng phải là đáng kể hay sao? Sau khi đào thoát khỏi Belhaven, và cuộc gặp với người elves Avallac’h trong nghĩa trang ngầm Tir ná Béa Arainne? Sau trận đụng độ tại Caed Myrkvid và chạm trán các thầy druid? Witcher đã làm gì ở Toussaint từ tháng Mười cho đến tháng Một?”

“Anh ấy đã làm gì à? Trú đông chứ còn sao nữa!” người học viên khịt mũi. “Trước khi xuân đến, anh ấy sẽ không thể vượt qua khe núi, vậy nên phải dành suốt một mùa đông ủ dột. Cũng chẳng ngạc nhiên khi các nhà văn sau này đã loại bỏ sự nhàm chán bằng một câu súc tích: “Mùa đông qua đi.” Nhưng nếu cô cần, tôi sẽ thử mơ. Chúng ta có bức tranh nào không?”

Nimue mỉm cười.

“Chúng ta có rất nhiều tranh.”

***

Bức bích họa miêu tả một khung cảnh săn bắn. Những nét vẽ lướt mô tả các thợ săn nhỏ bé mang cung và giáo đuổi theo một con trâu lớn. Con trâu màu tím, có sọc vằn như hổ và bên trên cặp sừng dài là thứ gì đó trông tựa như chuồn chuồn.

“Đây,” Regis vừa nói vừa gật gù, “là tác phẩm của người elves Avallac’h. Người elves mà biết nhiều đó hả.”

“Phải.” Geralt xác nhận khô khan. “Đây là bức vẽ của anh ta.”

“Vấn đề là chúng ta đã khám xét cái hang một cách kỹ càng và không còn lại dấu vết nào của gã elf cả, hay bất kỳ sinh vật nào mà anh đã nhắc đến.”

“Họ đã ở đây. Giờ thì đang lẩn trốn. Hoặc đi mất rồi.”

“Đó là sự thật không thể chối cãi. Đừng quên là anh đã được ban cho một buổi gặp mặt nhờ vào sự can thiệp của flaminica. Có vẻ như họ đã rút ra kết luận rằng một lần là đủ rồi. Sau khi flaminica đã từ chối hợp tác, tôi thực sự không biết anh còn có thể làm gì khác nữa. Chúng ta đã lang thang trong những hang động này cả ngày rồi. Tôi e rằng không có ích gì cả.”

“Tôi cũng vậy,” witcher cay đắng đáp lại. “Tôi không thể rũ bỏ cái cảm giác đó được. Tôi chưa bao giờ hiểu được người elves. Nhưng giờ thì ít ra tôi cũng biết vì sao hầu hết con người không có lấy một chút cảm thông nào dành cho họ. Bởi vì khó để rũ bỏ được cái cảm giác rằng họ đang trêu đùa chúng ta. Trong mọi điều họ làm, mọi thứ họ nói, mọi thứ họ nghĩ, elves luôn đem chúng ta ra làm trò cười.”

“Tính người trong anh đang lên tiếng kìa.”

“Có lẽ là một chút. Nhưng cảm giác đó vẫn không thay đổi.”

“Giờ chúng ta làm gì đây?”

“Quay lại Caed Myrkvid, để gặp Cahir, các thầy druid chắc hẳn đã chữa lành vết thương trên đầu cậu ta rồi. Rồi chúng ta lên ngựa và tận dụng tối đa lời mời của công tước phu nhân Anna Henrietta. Đừng nhìn tôi như vậy, ma cà rồng. Milva bị gãy xương sườn, Cahir thì vỡ đầu, vậy nên nghỉ lại ở Toussaint sẽ có lợi cho cả hai người họ. Và chúng ta cũng cần phải kéo Dandelion ra khỏi mớ rắc rối của cậu ta, bởi vì tôi sợ rằng lần này cậu ta đã dính phải thứ gì thật sự nghiêm trọng đó.”

“Chà,” Regis thở dài. “Tùy anh thôi. Tôi sẽ phải tránh gương và chó, đồng thời canh chừng các pháp sư và nhà ngoại cảm…và nếu vẫn bị lật tẩy, tôi đành phải trông cậy vào anh.”

“Ông có thể trông cậy vào tôi,” Geralt nói nghiêm túc. “Tôi không có thói quen bỏ mặc bạn bè trong cơn hoạn nạn.”

Con ma cà rồng mỉm cười và bởi vì họ đang ở một mình, ông ta không cần che đi hai cái răng nanh.

“Bạn?”

“Tính người trong tôi đang lên tiếng đó mà. Đi nào, ra khỏi cái hang này thôi, bạn của tôi. Bởi vì thứ duy nhất chúng ta có thể tìm được trong đây là bệnh phong thấp.”

“Có lẽ vậy. Trừ khi…Geralt? Từ những gì anh đã thấy, nghĩa trang elves Tir ná Béa Arainne nằm đằng sau bức tường này. Chúng ta có thể tới được đó nếu…anh biết mà. Nếu chúng ta phá tường qua. Anh đã cân nhắc điều này chưa?”

“Chưa. Tôi chưa nghĩ đến chuyện đó.”

***

Vua Đánh Cá lại lần nữa làm ăn phát đạt, bởi trong bữa tối lại xuất hiện cá hồi. Những con cá ngon đến mức bài học lại bị ném ra ngoài cửa sổ. Và Condwiramurs lại ăn quá nhiều.

***

Condwiramurs ợ một cái. Đến lúc đi ngủ rồi, cô nghĩ khi bắt gặp bản thân lần thứ hai giở qua một trang sách mà không thèm nhìn vào nội dung. Đến lúc nằm mơ.

Cô ngáp dài và đặt quyển sách xuống. Cô chỉnh lại cái gối từ vị trí ngồi đọc sang nằm ngủ. Với một câu thần chú, cô tắt đèn. Căn phòng ngay lập tức chìm vào bóng đêm dày đặc như mật đường. Tấm màn nhung được kéo căng hết cỡ, bởi người học viên đã nhận ra rằng nằm trong bóng tối hoàn toàn thì dễ mơ hơn. Nên chọn gì đây? Cô tự nhủ, duỗi dài trên tấm nệm. Cứ để tự nhiên và mơ hay là thử dùng mỏ neo?

Bất chấp lời tuyên bố đầy ngạo nghễ, những người mơ thường không thể nhớ nổi một nửa những giấc mơ của mình, một số lượng lớn nằm lại trong tâm trí của người diễn giải dưới dạng những hình ảnh hỗn độn, liên tục thay đổi màu sắc và hình dạng như kính vạn hoa – một món đồ chơi trẻ em cấu tạo từ gương và thủy tinh. Nếu những giấc mơ bị lột sạch trật tự và ý nghĩa, vậy thì họ có thể an toàn mà quên chúng đi được. Dựa theo nguyên tắc: Nếu ta không nhớ, vậy tức là nó không đáng để nhớ. Trong tiếng lóng của những người mơ, những giấc mơ này được gọi là “rác”.

Tệ hơn và có phần xấu hổ là những giấc mơ “ma”, mà người mơ chỉ có thể nhớ lại từng mảnh, từng sự kiện diễn ra chóng vánh, mà buổi sáng hôm sau chỉ để lại một cảm giác lờ mờ rằng mình đã mơ được. Nếu con “ma” lặp đi lặp lại nhiều lần, vậy thì chắc chắn rằng đó là một giấc mơ quan trọng vì một lý do nào đó. Và rồi người mơ, bằng cách tập trung và tự gợi ý, có thể ép mình lại mơ đến nó, lần này con “ma” sẽ rõ ràng hơn. Kết quả tốt nhất là khi tự ép bản thân mơ lại ngay sau khi thức dậy – kỹ thuật này gọi là “móc câu”. Nếu giấc mơ không thể bị móc thì người mơ có thể cố tạo ra một cái trong những lần mơ tiếp theo dựa vào thiền định và tập trung trước lúc đi ngủ. Kỹ thuật này gọi là “mỏ neo”.

Sau 12 đêm trên đảo, Condwiramurs đã liệt kê ra được ba danh sách giấc mơ. Một danh sách đáng tự hào những giấc mơ “ma” mà cô đã “móc câu” hoặc “mỏ neo” thành công. Trong số chúng là giấc mơ về cuộc nổi loạn trên Đảo Thanedd và chuyến hành trình của witcher cùng đoàn lữ hành qua đèo Malheur giữa một trận bão tuyết, và cơn mưa xuân ấm áp cùng những con đường mềm mại trong thung lũng Sudduth. Cũng có một danh sách – mà người học viên vẫn chưa dám thú nhận với Nimue – những giấc mơ mà cô cho là thất bại, những giấc mơ mà bất chấp mọi cố gắng vẫn giữ nguyên là một ẩn số. Và còn cả một danh sách những giấc mơ dang dở, đang chờ đến lượt của mình.

Và có một giấc mơ, kỳ lạ nhưng rất tuyệt, liên tục quay trở về từng mảnh nhỏ trong những âm thanh êm ái và sự đụng chạm mềm mại tựa nhung lụa.

Một giấc mơ rất dễ chịu.

Chà, Condwiramurs nghĩ, nhắm mắt lại. Cứ kệ đi vậy.

***

“Tôi nghĩ mình biết witcher đã làm gì trong suốt mùa đông ở Toussaint rồi.”

“Chà, chà,” Nimue ngước lên khỏi quyển sách bìa da mình đang đọc. “Vậy là cuối cùng cô đã mơ được thứ gì đó?”

“Đương nhiên rồi,” Condwiramurs tự hào đáp lại, “Tôi đã mơ! Về witcher Geralt và một người phụ nữ với mái tóc đen cắt ngắn và đôi mắt xanh lục. Tôi không biết đó có thể là ai. Có lẽ là vị công tước phu nhân mà Dandelion đã nhắc đến trong cuốn hồi ký?”

“Cô chắc đọc chưa kỹ rồi,” nữ pháp sư nói có phần lạnh lùng. “Dandelion đã miêu tả công tước phu nhân Anarietta rất chi tiết và mọi nguồn đều xác nhận rằng tóc bà ấy, tôi xin trích dẫn “Nâu hạt dẻ và thực sự óng ánh như vàng.”

“Vậy tức là không phải bà ấy,” người học viên thừa nhận. “Người phụ nữ của tôi có tóc đen cơ. Như than. Và giấc mơ…hmm…rất thú vị.”

“Tôi rất muốn nghe đây.”

“Họ nói chuyện cùng nhau. Nhưng đó không phải một cuộc trò chuyện thông thường.”

“Có gì lạ?”

“Hầu hết thời gian chân cô ta đều gác lên vai anh ấy.”

***

“Nói em nghe đi, Geralt, anh có tin vào tình yêu sét đánh không?”

“Em có tin không?”

“Em tin.”

“Giờ anh biết vì sao chúng ta lại thành một cặp rồi. Sự đối lập thu hút.”

“Đừng có mỉa mai như vậy.”

“Sao lại không? Người ta nói rằng mỉa mai là minh chứng cho trí thông minh.”

“Điều đó không đúng. Mỉa mai, bất chấp mang vẻ ngoài hào nhoáng của trí khôn giả tạo, đều là đạo đức giả một cách kinh tởm và dối trá. Sẵn tiện nhắc đến…nói em nghe đi, witcher, anh yêu điều gì nhất ở em?”

“Cái này.”

“Anh đi thẳng từ mỉa mai sang tầm thường và nhạt nhẽo. Thử lại đi.”

“Điều anh yêu nhất ở em đó là óc xét đoán của em, trí thông minh của em và sâu thẳm trong con người em, sự độc lập và tự do,…”

“Em không hiểu anh lấy đâu ra nhiều mỉa mai như vậy.”

“Đó không phải mỉa mai, đó là một câu đùa.”

“Em không thể chịu nổi những câu đùa như thế. Đặc biệt là không đúng lúc đúng chỗ. Mọi thứ, anh yêu à, đều có một thời điểm nhất định, và dưới gầm trời này tất cả đều được phân định vị trí của mình. Có lúc để im lặng và có lúc để nói, có lúc để khóc và có lúc để cười, có lúc để gieo và có lúc để gặt, xin lỗi, thu hoạch, có lúc để đùa và có lúc để nghiêm túc…”

“Có lúc để sờ và có lúc để giữ tay ở yên vị trí?”

“Này, đừng có bám sát vào nghĩa đen thế chứ! Thay vào đó hãy cứ cho là đến lúc để khen rồi đi. Yêu mà không có khen sẽ trở thành những hoạt động vô vị chỉ nhằm giải quyết nhu cầu sinh lý. Khen em đi!”

“Từ Bruina cho đến Yaruga, không ai có cặp mông nào đẹp như của em.”

“Giờ thì anh lại đi so sánh em với mấy cái dòng sông khỉ gió trên phương Bắc mà em chẳng biết. Bỏ qua chất lượng của phép ẩn dụ, anh không thể nói từ Velda cho đến Alba được hay sao? Hay từ Alba cho đến Sansretour?”

“Anh chưa từng lên Alba bao giờ. Anh cố tránh dùng những câu tán tỉnh mà không thể được hỗ trợ bằng kinh nghiệm thực tế.”

“Ôi, thật sao? Vậy em đoán là anh đã từng thấy và trải nghiệm quá nhiều cặp mông để có thể cho ra đánh giá được nhỉ? Thế nào, tóc–trắng? Anh đã từng qua tay bao nhiêu phụ nữ trước em rồi? Thế nào? Em đang hỏi anh đó, witcher! Bỏ bàn tay đó ra, anh không trốn được đâu. Anh đã từng ở cùng bao nhiêu người phụ nữ trước em rồi?”

“Không ai cả. Em là người đầu tiên.”

“Có thế chứ!”

***

Nimue đã dành một khoảng thời gian thật lâu để ngồi nghiền ngẫm một bức tranh phối màu sáng tối nhẹ nhàng, mô tả 10 người phụ nữ ngồi quanh một cái bàn.

“Thật tiếc là chúng ta không biết họ thật sự trông như thế nào.” Cuối cùng cô nói.

“Các nhà giáo vĩ đại ư?” Condwiramurs khịt mũi. “Có hàng tá các bức chân dung! Chỉ riêng ở Aretuza…”

“Tôi nói: thật sự!” Nimue ngắt lời. “Ý tôi không phải là những hình ảnh được tô điểm từ trí tưởng tượng dựa trên những trí tưởng tượng được tô điểm khác. Đừng quên, đã có một thời hình ảnh về các nữ pháp sư bị tổn hại nghiêm trọng. Và bản thân họ cũng vậy. Rồi tới kỷ nguyên của tuyên truyền, các nhà giáo phải xây dựng lại vẻ ngoài đạo mạo, đáng ngưỡng mộ và được tôn sùng. Cuộc gặp gỡ của Hội Pháp Sư, Thuyết âm mưuBuổi đại hội, tất cả đều xuất xứ trong khoảng thời gian đó, những bức phù điêu và bích họa miêu tả một cái bàn với 10 người phụ nữ đẹp lộng lẫy ngồi quanh. Nhưng không một bức chân dung xác thực nào cả. Ngoại trừ hai. Chân dung của Margarita Laux–Antille được treo ở Aretuza, trên đảo Thanedd và bằng một cách thần kỳ nào đấy đã được cứu khỏi ngọn lửa. Và một bức ảnh của Síle de Tanserville trong cung điện Ensenada tại Lan Exeter.”

“Vậy còn bức chân dung của Francesca Findabair được vẽ bởi một họa sĩ người elves không tên, treo trong phòng tranh ở Vengerberg?”

“Giả. Khi Cánh Cổng mở ra và loài elves bỏ đi, họ đã đem theo hoặc phá hủy mọi tác phẩm nghệ thuật của mình, không chừa lại cái nào. Chúng ta không biết liệu Bông Cúc của Thung Lũng có thật sự đẹp như người ta nói hay không. Chúng ta không biết Ida Emean trông như thế nào. Và hình ảnh của các nữ pháp sư Nilfgaard cũng đã bị thiêu hủy một cách toàn diện và kỹ càng, chúng ta không thể biết ngoại hình thật của Assire var Anahid hay Fringilla Vigo.”

“Hãy cứ cho là họ trông đúng như tranh vẽ đi.” Condwiramurs thở dài. “Duyên dáng, cao quý, tốt đẹp, thông thái, trung thực và rộng lượng. Và đẹp, đẹp rạng ngời…Hãy cứ cho là như vậy. Và rồi chúng ta cũng sẽ cảm thấy dễ sống hơn.”

***

Công việc hằng ngày trên đảo Inis Vitre dần trở thành lịch trình tẻ nhạt. Việc phân tích giấc mơ bắt đầu sau bữa sáng và thường kéo dài đến trưa. Trước bữa trưa, Condwiramurs luôn đi dạo, nhưng đi dạo cũng sớm trở nên buồn chán. Chẳng ngạc nhiên lắm, trong vòng một tiếng đồng hồ là đã có thể đi được hai vòng quanh đảo và nhìn ngắm những thứ thú vị như đá tảng, thông lùn, cát, sò và hải âu.

Sau bữa trưa và một giấc ngủ dài, họ bắt đầu bàn bạc, xem xét sách vở, tranh vẽ và bản đồ. Và những cuộc tranh luận dài đằng đẵng vào buổi đêm về mối liên quan giữa huyền thoại và sự thật.

Và khi đêm xuống cũng là lúc để mơ. Những giấc mơ khác nhau. Cảnh độc thân bắt đầu phát tác. Thay vì những giấc mơ bí ẩn về huyền thoại witcher, Condwiramurs lại mơ về Vua Đánh Cá trong đủ các tình huống từ bình thường cho đến cực kỳ gợi dục. Trong những giấc mơ bình thường, Vua Đánh Cá đang trói cô vào sau thuyền. Anh ta chèo thật chậm và lười biếng, để cô từ từ chìm xuống hồ. Làn nước bao phủ và trong người cô dấy lên một nỗi sợ không tả xiết, bởi cô cảm thấy dường như có thứ gì đó đang trồi lên từ đáy hồ, thứ gì đó to lớn và đói khát, thứ gì đó muốn nuốt gọn mồi câu, mà chính là cô. Khi cái thứ đó chuẩn bị tóm được cô, Vua Đánh Cá giật mạnh sợi dây và cô bị kéo khỏi nanh vuốt của con thú săn mồi vô hình. Cô cảm thấy như ngộp thở, rồi tỉnh dậy.

Trong những giấc mơ mà rõ ràng là gợi dục, cô đang quỳ trên con thuyền chòng chành, tay bám lấy mạn thuyền trong khi Vua Đánh Cá bóp cổ và nhiệt tình phang cô từ đằng sau, lầm bầm, ậm ực và khạc nhổ suốt toàn bộ quãng thời gian. Ngoại trừ cơn khoái cảm xác thịt, Condwiramurs cũng cảm thấy một nỗi sợ khiến mình lạnh sống lưng: nếu Nimue bắt quả tang họ thì sao? Đột nhiên trên mặt hồ, cô trông thấy gương mặt rung rinh và đe dọa của nữ pháp sư bé nhỏ…Cô choàng dậy, người ướt đẫm mồ hôi.

Cô đứng lên, mở cửa sổ ra để cảm nhận làn gió đêm mát lạnh, và ngắm nhìn ánh trăng phủ lên màn sương lơ lửng trên mặt hồ.

Và rồi cô mơ tiếp.

***

Tòa tháp Inis Vitre có một ban công nhìn ra phía hồ. Thoạt tiên Condwiramurs không để ý đến nó, nhưng dần dà cô bắt đầu có lý do để suy ngẫm. Cái ban công đặc biệt bởi vì nó không thể tiếp cận được. Không thể tới được đó từ bất kỳ căn phòng nào mà cô biết.

Nhận ra rằng ngôi nhà của nữ pháp sư không thể không tồn tại những dị điểm như vậy, Condwiramurs không thắc mắc gì. Thậm chí kể cả lúc đi dạo quanh hồ, cô cũng trông thấy Nimue đang theo dõi mình từ trên đó. Có vẻ như cái ban công chỉ không thể được tiếp cận với những kẻ không được phép và tọc mạch.

Cô cảm thấy hơi bực vì bị coi là tọc mạch, nhưng vờ như không để tâm. Nhưng cũng chẳng lâu cho đến khi bí ẩn của cái ban công được giải mã.

Đó là sau một chuỗi những giấc mơ lấy cảm hứng từ các bức tranh màu nước của Wilma Wessely. Người họa sĩ có vẻ như rất quan tâm đến cuộc phiêu lưu của Ciri và tòa Tháp Nhạn, bởi vì mọi tác phẩm của bà đều xoay quanh chủ đề này.

“Tôi đã có những giấc mơ kỳ lạ,” Condwiramurs phàn nàn vào một buổi sáng. “…Tôi mơ thấy những hình ảnh. Không phải một chuỗi sự kiện, mà chỉ là những hình ảnh. Ciri và một tòa tháp…Một bức tranh tĩnh.”

“Và không gì nữa? Không gì ngoại trừ trải nghiệm về thị giác?”

Nimue dĩ nhiên biết rõ rằng một người mơ giỏi, như Condwiramurs, sẽ dùng đến toàn bộ các giác quan của mình, và không chỉ tiếp nhận một giấc mơ thông qua mắt thường như đa số mọi người, mà còn cả qua thính giác, khứu giác, xúc giác – và thậm chí là vị giác.

“Không gì hết,” người học viên trả lời. “Chỉ là…”

“Sao?”

“Một suy nghĩ. Một suy nghĩ bướng bỉnh. Rằng trong tòa tháp này, tôi không phải một nữ thần, mà là một tù nhân.”

“Đi cùng tôi nào.”

Đúng như Condwiramurs đã dự đoán, cái ban công chỉ có một lối ra duy nhất nằm trong các phòng riêng của nữ pháp sư. Những căn phòng vô cùng sạch sẽ và ngăn nắp, thoang thoảng mùi gỗ đàn hương, nhựa thơm, oải hương và băng phiến. Họ phải dùng một cánh cửa nhỏ xíu và một cầu thang xoắn dốc xuống dưới.

Rồi họ đến nơi phải đến.

Căn phòng này, trái ngược với những phòng còn lại, không có tường ốp gỗ, hay thảm trang trí. Chỉ một nước sơn trắng và do vậy rất sáng sủa. Thậm chí còn được chiếu rọi thêm nhờ vào một ô cửa sổ ba cánh khổng lồ, hay nói đúng hơn thì là một cánh cửa thủy tinh dẫn thẳng ra cái ban công nhìn ra hồ.

Những món đồ nội thất duy nhất trong phòng là hai cái ghế, một cái gương hình ôvan vĩ đại và một cái giá bằng gỗ đào nằm ngang nơi treo một tấm thảm. Tấm thảm dài khoảng 1m7 và tua rua chạm đến nền nhà.

Tấm thảm thêu một con dốc rải đá đứng trên một cái hồ núi. Một tòa lâu đài được xây trên vách núi như thể là một phần của bức tường đá. Condwiramurs biết tòa lâu đài rất rõ, cô đã từng thấy trong nhiều tác phẩm tranh ảnh.

“Thành trì của Vilgefortz, nơi hắn giam cầm Yennefer. Nơi huyền thoại kết thúc.”

“Đúng vậy.” Nimue trả lời với vẻ thờ ơ. “Đó là nơi huyền thoại kết thúc, ít nhất là trong những phiên bản truyền thống. Chúng ta đều biết những phiên bản này, vậy nên đây có vẻ như là chặng cuối của chuyến hành trình. Ciri đã trốn thoát khỏi Tháp Nhạn, nơi mà như cô đã mơ, cô ấy đang bị giam giữ như một tù nhân. Nơi mà khi nhận ra họ muốn làm gì với mình, cô đã bỏ chạy. Huyền thoại cũng có nhiều phiên bản về cuộc chạy trốn này…”

“Tôi,” người học viên xen vào, “thích nhất phiên bản có đồ vật bị ném ra sau lưng cô ấy. Một cái lược, một quả táo và một cái khăn tay. Nhưng…”

“Condwiramurs.”

“Tôi xin lỗi.”

“Như tôi đã nói, có rất nhiều phiên bản kể về cuộc chạy trốn. Nhưng chúng ta vẫn chưa rõ bằng cách nào mà Ciri có thể đi thẳng từ Tháp Nhạn đến lâu đài của Vilgefortz. Nếu không thể mơ về Tháp Nhạn, hãy cố mơ về tòa lâu đài. Nhìn thật kỹ bức thảm đi…cô có đang nghe không đấy?”

“Cái gương này…nó có phép thuật, phải không?”

“Không. Tôi dùng nó để nặn mụn.”

“Xin lỗi.”

“Nó là một cái gương Hartmann.” Nimue nói, trông thấy cái mũi nhăn nheo và cử chỉ khó chịu của người học viên. “Cô có thể nhìn. Nhưng làm ơn hãy cẩn thận.”

“Có đúng là,” Condwiramurs hỏi, giọng run rẩy vì phấn khích, “với một chiếc gương Hartmann, ta có thể đi tới…”

“Những thế giới khác? Đúng vậy. Nhưng không phải ngay lập tức, mà không cần chuẩn bị kỹ càng, tập luyện, thiền định và nhiều thứ khác nữa. Khi tôi bảo cô hãy cẩn thận, tôi đang nghĩ tới điều khác.”

“Cái gì?”

“Gương Hartmann hoạt động hai chiều. Luôn có khả năng ai đó hoặc cái gì đó có thể chui ra.”

***

“Cô biết không, Nimue…khi tôi nhìn tấm thảm…”

“Cô có mơ tối qua không?”

“Tôi có. Nhưng rất kỳ lạ. Một tầm nhìn qua mắt chim. Tôi là một con chim…tôi nhìn xuống tòa lâu đài từ trên cao. Tôi không thể vào trong được, có thứ gì đó đang giữ cổng.”

“Hãy nhìn lại tấm thảm,” Nimue ra lệnh. “Nhìn lại tòa thành. Nhìn thật kỹ, tập trung vào mọi chi tiết. Tập trung cao độ, ghi nhớ lại hình ảnh này trong tâm trí cô. Tôi muốn cô, nếu có thể tới đó trong mơ, thì hãy vào trong. Việc cô vào được là tối quan trọng.”

***

Bên ngoài những bức tường của tòa lâu đài, một cơn bão tuyết đang thét gào, nhưng bên trong một ngọn lửa đỏ chói tỏa sáng bằng những khúc gỗ nặng ịch. Yennefer tận hưởng hơi ấm. Cái nhà giam mới này chắc chắn là tốt hơn cái nhà giam cũ ẩm ướt, mà cô đã phải tá túc trong hai tháng vừa qua, nhưng kể cả thế, răng cô vẫn đánh cầm cập vì lạnh. Trong khi bị giam, cô không biết thời gian là gì nữa, và chúng cũng chẳng vội thông báo cho cô ngày tháng, nhưng cô dám chắc đang là mùa đông, vào khoảng tháng Mười Hai, có thể là tháng Một.

“Ăn đi, Yennefer.” Vilgefortz nói. “Đừng ngại.”

Nữ pháp sư không hề ngại ngùng. Nếu cô có đang xử lý con gà một cách chậm rãi và kỳ quặc thì cũng chỉ bởi những ngón tay vừa mới hồi phục vẫn còn cứng và lóng ngóng, khó để giữ được dụng cụ ăn uống. Và không đời nào cô chịu dùng tay để bốc thức ăn. Cô phải chứng tỏ được sự ưu việt của mình với Vilgefortz và khách khứa của tên pháp sư. Cô không biết ai trong số chúng cả.

“Ta rất lấy làm tiếc phải thông báo với cô,” Vilgefortz cất lời, ngón tay khẽ mân mê cốc rượu, “rằng Ciri, con gái của cô, đã rời bỏ thế giới này. Cô chỉ có thể tự trách mình thôi, Yennefer. Và sự bướng bỉnh ngu ngốc của cô.”

Một trong số những vị khách, một người đàn ông thấp bé tóc đen, hắt hơi một cái thật mạnh, chùi mũi bằng một chiếc khăn tay làm từ vải lanh. Mũi hắn đỏ chót, sưng phồng và không nghi ngờ gì là bị nghẹt.

“Sức khỏe,” Yennefer nói, không hề tỏ ra buồn phiền trước những lời giận dữ của Vilgefortz. “Sao ông lại bị cảm lạnh thế kia, thưa quý ngài? Phải chăng ông đứng ra gió sau khi vừa tắm xong?”

Một vị khách khác, một người đàn ông cao, gầy với cặp mắt nhợt nhạt không tự nhiên cười lớn. Người đàn ông bị cảm lạnh, mặc dù mặt đỏ gay vì giận dữ, vẫn cảm ơn nữ pháp sư bằng một cái gật đầu khe khẽ và một câu lầm bầm. Nó vẫn chưa đủ ngắn để che được ngữ điệu Nilfgaard.

Vilgefortz quay sang nhìn cô. Hắn không còn đeo trên đầu những gọng kính vàng hay quả cầu thủy tinh trên mắt nữa, nhưng giờ đây trông nó còn tệ hơn hồi mùa hè, khi cô lần đầu tiên trông thấy gương mặt dị dạng của tên pháp sư. Con mắt trái đã hồi phục tạm thời, nhưng nhỏ hơn rất nhiều so với mắt phải. Cảnh tượng trông thật ghê rợn.

“Cô, Yennefer,” hắn dài giọng, “có lẽ nghĩ rằng ta đang cố lừa gạt cô. Ta làm thế để làm gì? Báo cáo về cái chết của đứa con gái cũng khiến ta suy sụp như cô vậy, thậm chí còn hơn. Ta đã có những kế hoạch rất to tát dành cho con bé, mà sẽ quyết định tương lai của ta sau này. Ciri đã chết và kế hoạch của ta giờ đã đổ bể.”

“Tốt,” Yennefer gần như không cầm nổi con dao, vụng về cắt mẩu sườn lợn thứ hai.

“Tuy nhiên, bản thân cô,” tên pháp sư tiếp tục, hoàn toàn không để tâm đến câu bình luận, “cũng chỉ liên hệ với Ciri nhờ một cảm tính ngớ ngẩn, được tạo nên từ lòng hối tiếc đối với sự vô sinh và tội lỗi của mình. Phải, phải, Yennefer, một mặc cảm tội lỗi! Bởi sau cùng thì chính tay cô đã góp phần vào những thí nghiệm gien dẫn đến sự ra đời của Ciri sau này. Dĩ nhiên là thí nghiệm đã thất bại bởi vì người thí nghiệm thiếu kiến thức.”

Yennefer đáp lại hắn bằng sự im lặng, cầu rằng cái cốc đang cầm sẽ không tuột khỏi tay. Cô dần nhận ra rằng ít nhất một trong hai bàn tay của mình sẽ bị cứng trong một khoảng thời gian dài. Có khi là vĩnh viễn.

Vilgefortz khịt mũi.

“Giờ thì đã quá muộn rồi,” hắn nói qua kẽ răng. “Nhưng Yennefer à, hãy biết rằng ta có đủ kiến thức. Và nếu có đứa trẻ trong tay thì ta đã sử dụng kiến thức này. Đúng quả thật rất không may đối với cô, bởi dù cho có vô sinh đi chăng nữa, ta vẫn muốn thỏa mãn bản năng làm mẹ của cô và tặng cho cô không chỉ một đứa con gái, mà thậm chí là một đứa cháu. Hay ít nhất thứ gì đó gần giống một đứa cháu.”

Yennefer cười khẩy, mặc dù bên trong đang sôi sục vì phẫn nộ.

“Ta rất tiếc khi phải làm hỏng tâm trạng của cô,” tên pháp sư nói lạnh lùng. “Bởi vì ta đã nhận được tin buồn rằng gã witcher, Geralt xứ Rivia, cũng đã chết. Phải, phải, chính tên witcher Geralt mà cô có mối liên hệ cảm xúc ngớ ngẩn và buồn nôn như với Ciri đó. Hãy biết, Yennefer à, rằng anh bạn witcher của chúng ta đã nói lời tạm biệt với thế giới này theo một cách vô cùng máu lửa. Đối với việc này, cô không nên cảm thấy tội lỗi gì cả. Bởi cái chết của gã witcher chẳng phải do cô, dù là một chút nào. Tất cả công trạng thuộc về ta. Nếm thử món kẹo lê đi, chúng thật sự ngon lắm đó.”

Đôi mắt tím của Yennefer bừng lên ngọn lửa căm hờn.

Vilgefortz cười.

“Ý chí của cô mới mạnh mẽ làm sao,” hắn nói, “nếu không phải nhờ đôi còng tay dimeritium, đôi mắt cô đã thiêu ta ra tro rồi. Nhưng vì chúng vẫn đang hoạt động, cô không thiêu ta được, mà chỉ có thể nhìn.”

Gã đàn ông bị cảm lạnh hắt hơi, xì mũi và ho đến chảy nước mắt. Gã cao kều nhìn cô với đôi mắt cá không hề dễ chịu.

“Vậy thế quý ngài Rience đâu rồi?” Yennefer hỏi, nhấn mạnh từng từ. “Quý ngài Rience mà đã hứa sẽ làm rất nhiều điều với ta đó. Và quý ông Schirrú đâu nữa, người mà chưa từng bỏ lỡ một cơ hội để tặng ta một cú đá hoặc đấm? Và tại sao lính gác cửa phòng của ta, những kẻ mà mới gần đây còn thô lỗ và cục cằn, đột nhiên bắt đầu cư xử khúm núm và rụt rè? Không, đừng trả lời làm gì, Vilgefortz. Ta nghĩ là mình biết rồi. Những gì ngươi đã nói với ta là dối trá. Ngươi đã để mất Ciri và Geralt đã trốn thoát, trong khi tổ chức một buổi tắm máu cho lũ tay chân của ngươi. Giờ thì sao? Kế hoạch của ngươi đã đổ bể, trở về với cát bụi và bản thân ngươi cũng đã tự thú nhận rằng giấc mơ bá chủ của mình đã tan thành mây khói. Và các nữ pháp sư cùng Dijkstra đang ngày càng tới gần hơn. Không phải không có lý do mà ngươi đã ngừng tra tấn và ép ta lùng sục thông tin ngươi cần, và càng không phải vì lòng trắc ẩn. Và Hoàng đế Emhyr cũng đang thắt chặt mạng lưới của mình, và không nghi ngờ gì là vô cùng, vô cùng tức giận. Ess a tearth, me tiarn? A’pleine a cales, ellea?

“Ta biết dùng tiếng phổ thông,” gã Nilfgaard với cơn cảm lạnh đáp lại. “Và tên ta là Stefan Skellen. Và ta vẫn chưa són ra quần đâu. Ta nghĩ rằng mình vẫn còn đang trong hoàn cảnh tốt đẹp hơn cô nhiều, quý cô Yennefer.”

Vừa dứt lời, hắn hít vào một hơi thật sâu, lại ho và sì mũi vào cái khăn mùi soa ướt nhẹp.

Vilgefortz đập tay lên bàn.

“Chơi đùa thế đủ rồi,” tên pháp sư nói, đảo con mắt nhỏ. “Hãy biết, Yennefer à, rằng cô không còn cần thiết với ta nữa. Thật ra mà nói, ta nên nhét cô vào bao tải và dìm chết dưới hồ, nhưng ta chúa ghét những phương pháp như vậy. Vậy nên cho đến khi hoàn cảnh cho phép hoặc ép buộc ta ra một quyết định khác, cô sẽ vẫn bị biệt giam. Nhưng ta cảnh báo cô – đừng gây thêm cho ta rắc rối. Nếu cô còn định tuyệt thực, ta sẽ không phí thời gian tống cho cô ăn bằng ống truyền nữa. Ta sẽ đơn giản mặc cô chết đói. Và nếu cô còn định thử trốn thoát, lính gác đã nhận được mệnh lệnh rất rõ ràng. Và giờ, tạm biệt. Trừ khi cô vẫn ăn chưa đủ…”

“Không,” Yennefer đứng dậy và vo tròn tấm khăn ăn trên bàn. “Có lẽ vẫn còn hơi đói, nhưng sự hiện diện của các quý ngài đây làm ta ăn mất ngon. Xin tạm biệt.”

Stefan Skellen hắt hơi và ho. Gã đàn ông cao ráo nhìn cô và nở một nụ cười giận dữ và quỷ quyệt. Vilgefortz quay đi.

Như thường lệ, mỗi khi bị giải đi hay quay về phòng giam, Yennefer đều cố tìm hiểu xem mình đang ở đâu, lượm lặt bất kỳ mẩu thông tin nào có thể trợ giúp cho kế hoạch đào thoát. Và mỗi lần cô đều thấy thất vọng. Tòa lâu đài không có cửa sổ để cô có thể nhận biết được cảnh quan bên ngoài, hay chí ít là trông thấy mặt trời để tự định hướng. Ngoại cảm bị ngăn chặn bởi đôi còng tay nặng nề và một chiếc vòng cổ, tất cả đều làm từ dimeritium, vô cùng hiệu quả trong việc ngăn chặn bất kỳ nỗ lực sử dụng phép thuật nào.

Căn phòng nơi nữ pháp sư bị giam cầm lạnh và đơn sơ như một cái túp lều ẩn sĩ. Tuy vậy, Yennefer vẫn nhớ mình đã hạnh phúc thế nào khi chúng chuyển cô tới đây từ hầm ngục. Căn phòng dưới hầm lúc nào cũng có một vũng nước bốc mùi hôi thối trên sàn, và tường sặc mùi diêm và muối. Căn phòng dưới hầm nơi chúng cho cô đồ ăn thừa mà lũ chuột cướp khỏi những ngón tay méo mó của cô không chút khó khăn.

Thế rồi, sau khoảng hai tháng, chúng cởi bỏ xiềng xích, mang cô ra khỏi đó và cho phép cô thay quần áo và tắm rửa. Yennefer vui mừng khôn tả. Chúng đem cô tới một căn phòng nhỏ mà đối với cô dường như là một phòng ngủ của đức vua, và cái bát nước chúng cho cô ăn, súp yến, trông cũng gần như bàn tiệc của hoàng đế. Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian, súp trở nên nhạt như nước ốc, cái giường trông như cũi nhốt trẻ và căn phòng là một nhà tù. Một nhà tù lạnh lẽo và chật hẹp, mà chỉ cần đi bốn bước là đủ để tới bức tường đối diện.

Yennefer nguyền rủa, thở dài và ngồi lên cái ghế mà ngoại trừ cái cũi ra, là món đồ nội thất duy nhất mà cô có trong phòng.

Hắn bước vào khẽ tới mức cô gần như không nghe được.

“Tên ta là Bonhart,” hắn nói. “Sẽ tốt cho ngươi nếu nhớ được cái tên này, phù thủy. Hãy khắc ghi vào trong tâm trí mình đi.”

“Tự đi mà *** đi, con lợn.”

“Ta là một thợ săn tiền thưởng,” hắn gầm gừ. “Ba tháng trước, vào giữa tháng Chín, ta đã bắt được con nhãi của ngươi ở Ebbing – Ciri lừng danh mà các ngươi vừa mới nhắc đến đó.”

Yennefer chăm chú lắng nghe. Tháng Chín, Ebbing. Bắt được con bé. Nhưng nó đâu có ở đó. Có thể hắn đang nói dối?

“Con nhóc witcher tóc xám đã được huấn luyện ở Kaer Morhen. Ta đã bắt nó đánh trong đấu trường, bắt nó giết người trong khi các khán giả la hét. Dần dần, dần dần, ta đã biến nó thành thú vật. Ta đã dạy cho nó vai trò của mình bằng roi da, nắm tay và đế giày. Nó học rất lâu. Nhưng rồi nó trốn mất khỏi tay ta, con rắn độc mắt xanh đó.”

Yennefer thở phào nhẹ nhõm thật kín đáo.

“Nó đã bỏ trốn tới một thế giới khác. Nhưng chúng ta rồi sẽ gặp lại, ta chắc chắn như vậy. Ngươi biết không, phù thủy, rằng điều ta thấy hối tiếc nhất đó là người tình của ngươi, gã witcher Geralt, đã bị thiêu sống trên cọc. Ta đã muốn cho hắn nếm thử lưỡi kiếm của mình, lũ đột biến chó chết.”

Yennefer khịt mũi.

“Nghe này, Bonhart, hay tên ngươi là cái gì đi chăng nữa. Đừng làm ta cười. Ngươi không phải là đối thủ của witcher. Ngươi không thể sánh được với anh ấy. Ở bất kỳ phương diện nào. Ngươi chỉ là, như chính ngươi vừa mới thú nhận, một kẻ bắt chó mà thôi. Mà chỉ là lũ chó con thôi đấy nhé. Chó con thôi.”

“Vậy thì nhìn đi, phù thủy.”

Với một chuyển động đột ngột, hắn mở phanh áo và lôi ra một sợi dây chuyền có treo ba tấm mề đay bằng bạc. Một cái hình đầu con mèo, cái thứ hai hình đại bàng hoặc griffin. Cái thứ ba cô không nhìn rõ được, nhưng cô nghĩ nó giống một con sói.

“Mấy món trang sức như này,” cô vờ như không quan tâm, “bán đầy ngoài chợ.”

“Chúng không được mua từ chợ.”

“Ngươi nói gì mà chẳng được.”

“Đã từng có thời,” Bonhart rít lên, “người ta sợ witcher còn hơn lũ quái vật. Quái vật, sau cùng thì, cũng chỉ ngồi trong rừng hoặc hang động, nhưng witcher dám có gan bước đi trên phố, vào quán rượu, lượn lờ quanh miếu, đền thờ, trường học và sân chơi. Những con người tử tế cảm thấy bị xúc phạm, vậy nên họ bắt đầu tìm một ai đó biết dạy cho bọn witcher láo xược một bài học. Họ đã tìm được một người. Không dễ dàng hay chóng vánh, không hề. Nhưng họ đã tìm được. Và như ngươi thấy, ta đã giết được ba. Không một tên đột biến nào dám xuất hiện trong khu vực để làm phiền những công dân trung thực nữa. Và nếu hắn có xuất hiện, ta sẽ làm với hắn như đã làm với những kẻ đi trước.”

“Trong mơ à,” Yennefer đáp lại, “với một cây nỏ từ trong góc phố? Hay là thuốc độc?”

Bonhart nhét ba tấm mề đay lại vào chỗ cũ và bước một bước về phía cô.

“Ngươi xúc phạm ta, phù thủy.”

“Đó là điều ta muốn làm mà.”

“Thật sao? Giờ thì để ta cho ngươi thấy, con chó cái, rằng ta có thể sánh được với gã witcher người tình của ngươi trong bất kỳ khía cạnh nào và thậm chí còn tốt hơn.”

Lính gác đứng canh cửa nhảy dựng lên khi nghe tiếng đổ vỡ, loảng xoảng, tru tréo và thút thít từ buồng giam. Và nếu đám lính đã từng trong đời được nghe một con báo bị sập bẫy, chúng có thể thề rằng buồng giam đang giữ một con báo.

Rồi một tiếng gầm khủng khiếp tới tai chúng, hệt như một con sư tử bị thương, mà chúng cũng chưa từng nghe thấy bao giờ và chỉ biết thông qua hình thêu trên tay áo. Chúng nhìn nhau. Rồi lắc đầu và bước vào.

Yennefer ngồi ở góc phòng, giữa mảnh vụn của cái ghế gỗ.

Mái tóc cô rối bời, cái váy và áo sơ mi bị xé toạc từ trên xuống dưới, ngực phập phồng theo từng hơi thở nặng nhọc. Máu chảy từ mũi cô, một vết bầm dần hiện rõ trên mặt và vài vết xước trên tay phải.

Bonhart đang ngồi ở góc đối diện, cũng giữa những mảnh vụn của cái ghế, ôm đầu bằng cả hai tay. Mũi hắn cũng đang chảy máu và tô điểm hàng ria mép bằng một màu đỏ thẫm. Mặt hắn bị rạch mấy nhát. Những ngón tay vừa mới bình phục của Yennefer là một vũ khí tồi, nhưng đôi còng dimeritium có vài cạnh sắc rất hữu ích.

Trên má Bonhart, gần xương quai hàm, là một cái dĩa cắm thật sâu, mà Yennefer đã bí mật chôm từ bữa tối.

“Chỉ có bọn cún con thôi,” nữ pháp sư thở gấp, cố che ngực bằng phần còn lại của chiếc váy. “Và tránh xa lũ chó cái ra, ngươi quá yếu đối với chúng, quân khốn khiếp.”

Cô không thể tha thứ cho mình vì đã nhắm trượt đích đến – con mắt của tên thợ săn tiền thưởng. Nhưng mục tiêu thì đang di chuyển, vả lại, không ai là hoàn hảo cả.

Bonhart ậm ực, bật dậy, rút cái dĩa ra, gầm rú và lảo đảo vì cơn đau. Hắn chửi thề ác liệt.

Trong khi đó, thêm hai tên lính nữa cũng đã vào phòng.

“Này, các ngươi!” Bonhart rống lên, lau máu khỏi mặt. “Lại đây! Đè con đĩ này xuống và dạng chân nó ra!”

Bọn lính gác nhìn nhau, rồi ngước lên trần nhà.

“Tốt hơn hết là ngài nên đi đi,” một kẻ lên tiếng. “Sẽ không có đè hay dạng chân gì ở đây cả. Nó không phải việc của chúng tôi.”

“Vả lại,” tên thứ hai thì thầm, “chúng tôi không muốn có kết cục như Rience hay Schirrú.”

***

Condwiramurs đặt xuống trang giấy vẽ một buồng giam. Trong buồng là một người phụ nữ đang ngồi, đầu tựa xuống ngực, tay chân bị trói và xích vào bức tường đá.

“Chúng đã cầm tù cô ấy,” người học viên lầm bầm, “trong khi witcher đang hú hí ở Toussaint cùng một người đàn bà tóc đen nào đó.”

“Cô đang buộc tội anh ấy sao?” Nimue cao giọng hỏi. “Trong khi gần như không biết gì hết?”

“Không. Tôi không buộc tội anh ấy, nhưng…”

“Không nhưng nhị gì cả. Làm ơn trật tự đi nào.”

Trong một lúc họ ngồi đó im lặng và lật qua những trang giấy của một tập tài liệu.

“Tất cả mọi phiên bản của huyền thoại,” Condwiramurs nhận ra một trong các bức hình, “đều coi nơi này là kết thúc của cuộc phiêu lưu, trận đấu quyết định giữa Cái Thiện và Cái Ác, tòa lâu đài Rhys–Rhun. Mọi phiên bản. Ngoại trừ một.”

“Ngoại trừ một,” Nimue gật đầu. “Một phiên bản nặc danh ít được biết đến với cái tên Quyển Sách Đen của Ellander.”

“Quyển Sách Đen nói rằng huyền thoại đã kết thúc ở lâu đài Stygga.”

“Chính xác. Vài sự kiện được trình bày trong quyển sách có sự khác biệt rất lớn so với bản chính thống.”

“Tôi tự hỏi,” người học viên ngước đầu lên, “trong bức hình này là tòa lâu đài nào? Trong các tấm thảm của cô là tòa lâu đài nào? Đâu mới là đồ thật?”

“Chúng ta có lẽ sẽ chẳng bao giờ biết được. Tòa lâu đài nơi đánh dấu sự kết thúc của huyền thoại đã bị phá hủy và xóa sạch mọi dấu vết, điều này được xác nhận trong tất cả các phiên bản của huyền thoại, bao gồm cả Quyển Sách Đen của Ellander. Không có địa điểm nào trong giả thiết nghe có vẻ thuyết phục. Chúng ta không biết và có lẽ sẽ chẳng bao giờ biết tòa lâu đài đã từng ở đâu hay trông như thế nào.”

“Nhưng sự thật…”

“Sự thật chẳng có ý nghĩa gì hết,” Nimue sẵng giọng cắt lời. “Hãy nhớ là chúng ta còn chẳng biết diện mạo thực sự của Ciri ra sao. Nhưng ở đây, trong bức tranh được vẽ bởi Wilma Wessely này, một cuộc tranh luận nảy lửa với Avallac’h trên nền là những bức tượng trẻ con rùng rợn, là Ciri. Không còn nghi ngờ nào cả.”

“Nhưng,” Condwiramurs vẫn chưa chịu thua, “các tấm thảm của cô…”

“Chỉ tòa lâu đài nơi mà huyền thoại đã kết thúc.”

Sự im lặng kéo dài. Chỉ còn lại tiếng sột soạt của trang giấy bị lật.

“Tôi không thích phiên bản của huyền thoại trong Quyển Sách Đen.” Condwiramurs lên tiếng. “Nó quá…quá…”

“Thực tế một cách đáng sợ.” Nimue nói nốt, lắc đầu.

***

Condwiramurs ngáp và cất đi cuốn Nửa thế kỷ thơ ca, phiên bản bổ sung với lời tựa của giáo sư Everett Denhoff Con. Cô sắp xếp vị trí của mấy cái gối ôm nằm lộn xộn thành đội hình để đi ngủ. Cô lại ngáp, duỗi người và tắt đèn. Căn phòng chìm vào bóng tối, chỉ được chiếu sáng bởi ánh trăng lọt qua khe hở giữa những bức màn. Nên chọn gì đêm nay đây, cô nghĩ, cựa quậy giữa đống chăn chiếu. Để tự nhiên? Hay thử dùng mỏ neo?

Sau một thoáng cô quyết định dùng cái thứ hai.

Có một giấc mơ vô cùng nhạt nhòa và cứ liên tục xuất hiện lại mà cô không thể nhớ nổi đoạn kết, lạc lõng và biến mất giữa một biển những giấc mơ khác, như sợi chỉ trong khuôn hoa văn sặc sỡ. Một giấc mơ đã trốn khỏi trí nhớ của cô, mặc dù vẫn cứ bướng bỉnh lưu lại đó.

Cô thiếp ngủ ngay tức thì. Và giây phút mí mắt khép lại cũng là lúc giấc mơ bắt đầu.

Một đêm trời không mây, chỉ có trăng và sao. Trên con dốc của một ngọn đồi phủ tuyết cô nhìn thấy những vườn nho trải dài. Và đường viền đen thui của những tòa nhà lởm chởm tường và tháp canh. Có hai kỵ sĩ. Cả hai bước vào khoảng sân trống không, cả hai xuống ngựa, và hướng ra phía cửa hang. Tuy nhiên, chỉ có một người bước vào.

Người với mái tóc trắng.

Condwiramurs khẽ rên trong giấc ngủ, trở mình trên giường.

Người tóc trắng bước theo những bậc thang dài dẫn sâu xuống lòng đất. Vượt qua những dãy hành lang tối om, cứ thỉnh thoảng anh lại dừng một lần, thắp sáng những ngọn đuốc cắm trên giá sắt. Bóng tối nhảy múa trên tường và trần nhà.

Thêm nhiều hành lang, cầu thang, đại sảnh. Một căn phòng, một căn hầm có mái vòm và thùng hàng chất dọc những bức tường. Một đống gạch. Rồi hành lang rẽ đôi. Đường nào cũng ngập trong bóng tối. Người tóc trắng lại thắp một cây đuốc nữa. Anh rút ra một thanh kiếm từ trên lưng. Anh ngập ngừng, không biết phải đi lối nào. Cuối cùng quyết định đường bên phải. Nó rất tối và đầy những mảnh vụn.

Condwiramurs khẽ rên trong giấc ngủ, một nỗi sợ khiếp đảm túm chặt lấy cô. Cô biết rằng con đường người tóc trắng đã chọn sẽ dẫn đến nguy hiểm. Nhưng cùng lúc đó cô cũng biết rằng người tóc trắng đang tìm kiếm nguy hiểm.

Bởi vì đó là nghề của anh.

Người học viên trở mình giữa đống chăn màn, rên rỉ. Cô là một người mơ, và khi một người mơ đang nằm mơ, đột nhiên họ có thể dự báo được điều sẽ xảy ra trong chốc lát.

Coi chừng, cô muốn hét lên nhưng biết rằng mình không thể. Coi chừng, coi chừng!

Cẩn thận, witcher!

Con quái vật tấn công từ trong bóng tối, từ đằng sau, âm thầm, hiểm độc. Nó bất thình lình hiện ra từ màn đêm như một ngọn lửa.

Mặc cho chúng tôi hối thúc và giục dã, witcher vẫn ở lại Toussaint gần suốt cả mùa đông. Lý do của anh là gì? Tôi sẽ không viết nó ra ở đây. Chuyện đã rồi và thế là đủ, không cần phải nhắc lại làm gì nữa. Với những ai muốn buộc tội witcher, xin hãy nhớ rằng tình yêu mang rất nhiều cái tên, chớ vội phán xét, nếu không muốn bị phán xét.

– Dandelion, Nửa thế kỷ thơ ca.

About The Author

Ngo David

Power is Power