The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 12

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Họ tiếp tục đi cho tới lúc gặp một cái hồ lớn tuyệt đẹp đầy thứ nước trong vắt như thủy tinh, và ở giữa hồ, Arthur trông thấy một cánh tay mặc áo trắng đang giữ một thanh kiếm đẹp tuyệt trần.

“Hãy trông, đó là thanh kiếm mà ta đã nhắc đến,” Merlin chỉ.

Đột nhiên họ trông thấy một cô gái bước đi trên mặt hồ.

“Đó là ai vậy?” Arthur hỏi.

“Đó là Nữ Thần Hồ.” Merlin trả lời.

Ngài Thomas Malory, Cái chết của vua Arthur.

Một thứ mùi trộn lẫn giữa ván gỗ ốp cũ kỹ, sáp nến và mười loại nước hoa lơ lửng trong đại sảnh của lâu đài Montecalvo. Mười thứ mùi hương đặc trưng được sử dụng bởi mười người phụ nữ ngồi quanh một cái bàn tròn làm bằng gỗ sồi, trên những chiếc ghế có tay vịn khắc hình đầu nhân sư.

Ngồi đối diện Fringilla Vigo là Triss Merigold trong một chiếc váy xanh kín cổ. Bên cạnh Triss là Keira Metz, ẩn trong bóng tối. Cặp khuyên tai to bự đính những viên thạch anh được gọt dũa bóng loáng cứ nhấp nháy liên hồi, thu hút ánh nhìn.

“Xin hãy tiếp tục, cô Vigo,” Philippa Eilhart giục. “Chúng tôi đang rất muốn nghe phần kết câu chuyện của cô. Và khẩn trương đưa ra những bước đi hợp lý.”

Philippa không đeo bất kỳ trang sức nào ngoại trừ một chiếc trâm cài có ảnh chân dung được làm từ mã não vân đính vào chiếc váy màu đỏ son của mình. Fringilla đã từng nghe lời đồn, cô ta biết cái trâm đó là quà tặng của ai và mang ảnh chân dung của ai.

Ngồi cạnh Philippa là Síle de Tanserville, trong chiếc váy đen tuyền nạm kim cương lấp lánh. Margarita Laux–Antille mặc sa tanh màu đỏ tía và dây chuyền vàng, không gắn đá. Sabrina Glevissig, trái lại, phô ra sợi dây chuyền, khuyên tai và nhẫn – đều làm từ bạch ngọc cùng màu với mắt và quần áo.

Gần Fringilla nhất là hai người elves – Francesca Findabair và Ida Emean aep Sivney. Bông Cúc của Thung Lũng thường trông rất vương giả, nhưng ngày hôm nay cả mái tóc hay chiếc váy đỏ đều không mang vẻ lộng lẫy rạng ngời, và chiếc vương miện cùng dây chuyền không đính ngọc ruby, mà là vỏ sò, tuy khiêm tốn nhưng vô cùng thẩm mỹ. Trong khi đó, Ida Emean mặc một chiếc váy muslin và vải lưới với tông màu mùa thu, trông tao nhã và nhẹ nhàng tới nỗi lả lướt và đung đưa như hải quỳ kể cả trong bầu không khí gần như không gợn chút gió nào.

Dạo gần đây, vẻ thanh lịch khiêm tốn nhưng vẫn độc đáo của Assire var Anahid mới là điều khơi lên sự ngưỡng mộ cao nhất. Người nữ pháp sư Nilfgaard đeo một viên ngọc lục bảo được dũa bóng trên một sợi dây chuyền vàng, nằm ngay ngắn giữa viền cổ nhỏ, hẹp của chiếc váy xanh đậm. Những chiếc móng tay được chăm sóc kỹ càng, cũng sơn màu xanh đậm, khiến cho tổ hợp quần áo thực sự toát lên vẻ hào nhoáng màu nhiệm.

“Chúng tôi đang đợi đây, cô Vigo.” Síle de Tanserville nói. “Thời gian không có nhiều.”

Fringilla hắng giọng. “Tháng Mười Hai tới,” cô ta tiếp tục. “Rồi, Yule, rồi năm mới đến. Witcher đã bình tĩnh lại đến mức cái tên Ciri không còn bị lôi ra trong mọi cuộc nói chuyện nữa. Những chuyến đi săn quái vật, mà anh ta chấp nhận thường xuyên, dường như đã chiếm hết toàn bộ thời gian của witcher. Chà, có lẽ là không phải toàn bộ…”

Cô ta không nói hết. Trong một thoáng cô ta nghĩ rằng đã trông thấy đôi mắt xanh lam của Triss Merigold bừng lên vẻ căm hờn. Nhưng có lẽ đó chỉ là ảnh phản chiếu của ngọn nến đang bập bùng. Philippa khịt mũi và mân mê cái trâm cài.

“Làm ơn, không cần phải khiêm tốn, cô Vigo. Cô đang ngồi giữa chúng tôi. Giữa những người phụ nữ hiểu rằng tình dục có nhiều chức năng khác ngoài thỏa mãn nhu cầu sinh lý. Chúng ta đều đã dùng đến nó, mỗi khi cần. Xin hãy tiếp tục.”

“Kể cả có đội lên một lớp mặt nạ thận trọng, cao ngạo và kiêu hãnh suốt ban ngày,” Fringilla tiếp tục, “nhưng vào buổi đêm anh ta hoàn toàn nằm dưới quyền lực của tôi. Anh ta kể tôi nghe mọi thứ. Anh ta thỏa mãn sự nữ tính của tôi, và phải nói là cực kỳ cường tráng ở vào cái tuổi ấy. Rồi anh ta thiếp đi. Trong vòng tay tôi, đầu gối lên ngực tôi. Tìm kiếm sự thay thế cho tình mẫu tử mà anh ta chưa từng được cảm nhận trong đời bao giờ.”

Lần này, cô ta dám chắc đó không phải là ảnh phản chiếu của ngọn lửa. Tốt thôi. Cứ ghen tị với tôi nếu muốn, cô ta nghĩ. Cứ ghen tị với tôi. Cô có mọi lý do để làm vậy.

“Anh ta,” Fringilla nhắc lại, “hoàn toàn nằm dưới quyền lực của tôi.”

***

“Quay lại giường đi, Geralt. Thậm chí trời còn chưa sáng mà, chết tiệt!”

“Anh có hẹn. Anh phải tới Pomerol.”

“Em không muốn anh tới Pomerol.”

“Anh có hẹn. Anh đã hứa. Quản gia của biệt thự sẽ đợi anh ngoài cổng.”

“Những cuộc đi săn của anh là ngớ ngẩn và vô bổ. Anh muốn chứng tỏ điều gì bằng cách giết một con quái vật trong một cái hang nào đó chứ? Bản lĩnh đàn ông? Em biết cách làm vậy tốt hơn nhiều. Quay lại giường đi. Đừng tới Pomerol. Ít ra thì cũng không sớm như vậy. Quản gia có thể đợi, chẳng phải đó là việc mà quản gia hay làm sao? Em muốn yêu anh.”

“Thứ lỗi cho anh. Anh không có thời gian. Anh đã hứa.”

“Em muốn yêu anh!”

“Nếu em muốn cùng anh đi ăn sáng, thì hãy mặc cái gì đó vào.”

“Anh chắc không còn yêu em nữa rồi, Geralt. Anh còn yêu em không? Trả lời đi!”

“Hãy mặc cái váy màu ngọc trai xám với lông chồn đó. Nó rất hợp với em.”

***

“Anh ta hoàn toàn nằm dưới quyền lực của tôi, thực hiện mọi ý nguyện của tôi,” Fringilla lặp lại. “Anh ta làm mọi thứ tôi bảo. Đúng như vậy.”

“Chúng tôi tin cô,” Síle de Tanserville nói cực kỳ khô khan. “Xin hãy tiếp tục.”

Fringilla ho vào nắm tay. “Vấn đề,” cô ta tiếp tục, “nằm ở chỗ đám bạn đồng hành của anh ta. Cái băng nhóm kỳ lạ mà anh ta đã gọi là bạn. Cahir Mawr Dyffryn aep Ceallach, người đã từng trông thấy tôi một lần và tự giày vò bản thân mình để nhớ xem là ở đâu. Nhưng cậu ta không thể nhớ, bởi lần cuối tôi ghé thăm Darn Dyffra, ngôi nhà tổ tiên của gia tộc cậu ta, cậu ta mới chỉ 6 hay 7 tuổi. Milva, một cô gái liều lĩnh và cao ngạo, nhưng đã hai lần bị tôi bắt gặp đang ngồi thút thít trong góc chuồng ngựa. Angouleme, một đứa trẻ khó tính. Và Regis Terzieff– Godefroy. Một người tôi không thể nhìn thấu được. Cả đoàn lữ hành có một sức ảnh hưởng mãnh liệt lên witcher, mà tôi không thể ngăn chặn.”

Chà, chà, cô ta nghĩ, nhìn họ nhướng lông mày lên xem. Nhìn họ vặn vẹo môi mà xem. Cứ chờ đi. Đây chưa phải kết thúc đâu. Rồi các cô sẽ được nghe về thắng lợi của tôi.

“Mỗi buổi sáng,” cô ta tiếp tục, “cả đoàn lữ hành này gặp nhau trong nhà bếp, nằm dưới tầng hầm của cung điện Beauclair. Người đầu bếp thích họ – chả biết vì lý do gì. Ông ta luôn để giành thứ gì đó cho họ, nhiều và ngon tới nỗi bữa sáng luôn kéo dài tới hai, thậm chí là ba tiếng đồng hồ. Tôi ăn cùng họ rất nhiều lần, bên cạnh Geralt. Vậy nên tôi biết họ thường nói về những thứ ngớ ngẩn như thế nào.”

***

Hai con gà chạy lăng xăng quanh bếp, một con đen và một con mang màu bình thường, nhẹ nhàng quẹt móng lên nền nhà. Chúng nháy mắt với đoàn lữ hành đang ăn sáng và nhặt vụn bánh mỳ ở dưới đất.

Như mọi buổi sáng, đoàn lữ hành tụ tập trong nhà bếp của cung điện. Người đầu bếp thích họ, chả ai biết vì lý do gì, và luôn để phần đồ ăn ngon cho họ. Ngày hôm nay là trứng bác, súp bột mỳ, cà tím hầm, pate thỏ, xúc xích bê với củ cải đỏ ăn kèm pho mát. Tất cả đều ngon lành và họ ăn thật nhanh trong im lặng. Ngoại trừ Angouleme, người chỉ mới ướt miệng.

“Tôi đã bảo rồi, chúng ta nên mở một cái nhà thổ ở đây. Sau khi làm xong những gì cần làm, chúng ta nên quay lại đây và mở một cái nhà thổ. Tôi đã xem xét xung quanh thành phố rồi. Ở đây họ có mọi thứ. Tôi đếm thấy chín tiệm cắt tóc, và tám nhà thuốc. Nhưng chỉ duy nhất một cái nhà thổ, và nó nhỏ với tồi tàn đến mức tôi thậm chí còn chẳng gọi nó là một cái nhà thổ. Không có đối thủ cạnh tranh luôn. Chúng ta sẽ xây một cái thật xa xỉ. Mua một căn nhà nhiều tầng có vườn…”

“Angouleme, làm ơn đi.”

“…chỉ dành riêng cho các khách hàng khá giả. Tôi sẽ là tú bà. Tôi nói rồi, chúng ta sẽ kiếm bộn tiền và sống như ông hoàng bà chúa. Cuối cùng, tôi sẽ được bổ nhiệm vào hội đồng thành phố, rồi tôi chắc chắn sẽ không quên mọi người đâu, bởi nếu đã bầu cho tôi, họ sẽ bầu cho mọi người, và mọi người có thể tự chu cấp cho chính mình…”

“Angouleme, làm ơn đi. Đây, ăn chút bánh mỳ với pate này.”

Trong một lúc chỉ có sự im lặng.

“Hôm nay ông săn cái gì, Geralt? Khó nhằn chứ?”

“Nhân chứng,” witcher nhìn xuống đĩa của mình, “đã cho ra nhiều mô tả xung đột lẫn nhau. Vậy nên tùy vào tình hình mà nó có thể là một con molding, cũng khá khó nhằn, hoặc một con delichon, mà thuộc vào hạng trung, hoặc một con dudel, mà dễ như ăn kẹo. Có lẽ công việc sẽ còn quá dễ, bởi lần cuối người ta trông thấy con quái vật là vào dịp Lammas năm ngoái. Có thể nó đã trốn khỏi Pomerol lên dãy núi.”

“Em hy vọng như vậy.” Fringilla nói trong khi gặm một mẩu xương ngỗng.

“Có chuyện gì với Dandelion thế nhỉ?” witcher đột ngột lên tiếng. “Tôi đã không nhìn thấy cậu ta lâu đến nỗi phải thu thập tin tức về những gì cậu ta làm từ các bài ca châm biếm họ hát trong thành phố.”

“Chúng tôi cũng không biết nhiều hơn anh.” Regis mỉm cười mà không hé miệng. “Tất cả những gì chúng tôi biết là nhà thơ của chúng ta đã gần gũi với công tước phu nhân Anarietta đến nỗi thậm chí còn gọi bà ấy, kể cả trước mặt nhân chứng, bằng một biệt danh rất thân thương. Chồn Nhỏ!”

“Và anh ta đúng đó chứ!” Angouleme nói trong khi mồm đầy thức ăn. “Cái bà công tước đó quả thực có cái mũi như chồn. Đấy là còn chưa kể bộ răng.”

Fringilla nheo mắt lại. “Không ai là hoàn hảo cả!”

“Mới đúng làm sao.”

Hai con gà, một con đen và một con có màu, đã trở nên bạo dạn tới mức bắt đầu mổ vào giày Milva. Nữ cung thủ nguyền rủa và đuổi chúng đi bằng một cú đá mạnh.

Geralt đã quan sát cô được một lúc lâu. Rồi anh quyết định.

“Maria,” anh nói cứng rắn, gần như nghiêm khắc. “Tôi biết rằng những cuộc trò chuyện của chúng ta không hẳn là nghiêm túc hay những câu đùa cợt cũng không hoàn toàn sâu sắc. Nhưng cô không cần phải làm cái mặt ủ ê như vậy. Có chuyện gì?”

“Rõ ràng là có chuyện rồi,” Angouleme nói. Geralt bảo cô trật tự bằng một cái liếc mắt. Quá muộn.

“Các người thì biết cái gì hả?” Milva bất thình lình bật dậy, gần như hất đổ cái ghế. “Quỷ tha ma bắt các người đi! Cả lũ các người có thể hôn mông tôi, hiểu chưa?”

Cô chụp lấy cái cốc từ trên bàn, uống, và ném xuống sàn mà không thèm suy nghĩ. Rồi chạy ra khỏi phòng và sập cửa.

“Nghiêm trọng rồi đây…” Angouleme bắt đầu sau một lúc, nhưng lần này là đến lượt con ma cà rồng bảo cô im lặng.

“Chuyện thực sự nghiêm trọng,” ông xác nhận. “Tuy nhiên, tôi đã không trông đợi một phản ứng dữ dội như vậy từ nữ cung thủ của chúng ta. Một phản ứng thường thấy của người bị chia tay, chứ không phải người đi chia tay.”

“Mấy người đang nói cái quái quỷ gì thế, mẹ kiếp?” Geralt hỏi với vẻ khó chịu. “Này? Có ai cho tôi biết chuyện này là như thế nào đây không?”

“Nam tước Amadis de Trastamara.”

“Ngài thợ săn kín miệng đó á?”

“Chính xác. Ông ta đã cầu hôn Milva. Ba ngày trước trong một chuyến đi săn. Ông ta đã cố mời cô ấy đi săn trong suốt cả tháng…”

“Cuộc đi săn,” Angouleme điềm nhiên nhe răng ra, “kéo dài hai ngày. Qua đêm trong một căn lều nhỏ, ông hiểu chứ? Tôi thề là…”

“Trật tự đi, nhóc con. Nói tiếp đi, Regis.”

“Ông ta đã chính thức và trang trọng cầu hôn Milva. Cô ấy đã từ chối, có vẻ như là khá thô bạo. Vị nam tước, dù vẻ ngoài điềm tĩnh, đã cảm thấy bị xúc phạm bởi lời từ chối, và ngay lập tức rời khỏi Beauclair. Kể từ lúc đó Milva đã chạy qua chạy lại như thể bị đầu độc.”

“Chúng ta đã ngồi đây quá lâu rồi.” Witcher lầm bầm. “Quá lâu.”

“Giờ thì xem ai đang nói kìa?” Cahir, người từ nãy đến giờ chưa nói câu nào, lên tiếng. “Xem ai đang nói kìa?”

“Thứ lỗi cho tôi.” Witcher đứng dậy. “Chúng ta sẽ bàn chuyện này sau khi tôi quay về. Ngài quản gia của vườn nho Pomerol đang đợi. Và đúng giờ là một phần của quy tắc nghề nghiệp witcher.”

***

Sau màn bỏ đi ầm ĩ của Milva, và witcher, phần còn lại của đoàn lữ hành ăn bữa sáng trong im lặng. Hai con gà chạy lăng xăng quanh bếp, một con đen và một con có màu, nhẹ nhàng quệt móng lên nền nhà.

“Tôi,” Angouleme cuối cùng phá vỡ sự im lặng, nhấc một cái đĩa bánh mỳ lên và chuyền cho Fringilla. “Tôi có một vấn đề.”

Nữ pháp sư gật đầu. “Tôi hiểu. Sẽ ổn thôi. Lần kinh nguyệt cuối cùng của cô là khi nào?”

“Điều gì đã khiến cô nói vậy?” Angouleme nhảy dựng lên, làm hốt hoảng hai con gà. “Chẳng liên quan gì đến chuyện đó cả! Đây là vấn đề hoàn toàn khác!”

“Thế nói đi.”

“Geralt muốn bỏ tôi lại đây khi lại lên đường lần nữa.”

“Whoa.”

“Ông ấy nói,” Angouleme khụt khịt, “rằng không thể đưa tôi vào chỗ nguy hiểm, hay thứ gì đó ngớ ngẩn tương tự thế. Nhưng tôi muốn đi cùng ông ấy…”

“Whoa.”

“Đừng có ngắt lời tôi, được chứ? Tôi muốn đi cùng ông ấy, cùng Geralt, bởi vì ở cạnh ông ấy tôi không phải lo về việc bị Fulk Một–Mắt tóm được lần nữa, và ở Toussaint này…”

“Angouleme,” Regis chen vào. “Cô đang tốn hơi rồi. Cô Vigo sẽ chỉ lắng nghe thôi, chứ chẳng làm gì cả. Chỉ có duy nhất một điều làm cô ấy hốt hoảng: sự ra đi của witcher.”

“Whoa,” Fringilla lặp lại, quay sang nhìn ông và nheo đôi mắt xanh lục. “Đó là chủ đề bàn luận ưa thích của ông đấy à, ông Terzieff–Godefroy? Sự ra đi của witcher? Và khi nào thì anh ấy khởi hành đây? Cho phép tôi được hỏi?”

“Có thể không phải hôm nay hoặc ngày mai,” con ma cà rồng trả lời bằng giọng nhẹ nhàng. “Nhưng chắc chắn là một ngày nào đó. Tôi không có ý xúc phạm.”

“Tôi không bị xúc phạm,” Fringilla lạnh lùng đáp lại. “Dĩ nhiên đó là giả sử ông có quan tâm đến tôi. Quay trở lại vấn đề của cô, Angouleme, tôi đảm bảo sẽ bàn luận về việc rời khỏi Toussaint với Geralt. Tôi đảm bảo rằng witcher sẽ được nghe quan điểm của tôi về vấn đề này.”

“Dĩ nhiên rồi,” Cahir khịt mũi. “Sao mà tôi biết cô sẽ nói đúng như vậy nhỉ, cô Fringilla.”

Nữ pháp sư nhìn anh ta một lúc thật lâu.

“Witcher,” cuối cùng cô lên tiếng, “không nên rời khỏi Toussaint. Và không người nào nếu thực sự quan tâm đến anh ấy nên khuyến khích anh ấy làm điều đó cả. Anh ấy còn ở đâu khác tốt hơn nơi này? Được bơi trong nhung lụa. Săn quái vật kiếm chút tiền. Bạn bè thân tín được yêu mến bởi người trị vì vương quốc, và cũng được ngay cả bản thân công tước phu nhân coi trọng. Chủ yếu bởi con succubus đã hoành hành trong vùng. Phải, phải, các quý ngài. Anarietta và các công nương của Toussaint vô cùng hài lòng với witcher. Bởi con succubus quả thật đã thôi không còn viếng thăm họ nữa. Các quý cô của Toussaint đã tập hợp một khoản tiền thưởng đặc biệt sẽ được chuyển vào tài khoản tại ngân hàng Cianfanelli của witcher trong tương lai. Nhân thêm số gia tài nhỏ bé mà anh ấy đã có sẵn trong đó.”

“Một nghĩa cử cao đẹp từ các quý cô,” Regis không hạ mắt. “Và một phần thưởng xứng đáng. Ngăn chặn một con succubus là một việc không hề dễ dàng. Cô có thể tin tôi, cô Fringilla.”

“Ôi, tôi tin ông. Nhân tiện nói đến, ông có biết là một trong số lính gác cung điện thề rằng anh ta đã trông thấy con succubus không? Vào nửa đêm, trên đỉnh tháp canh Caroberta. Cùng một con ma khác. Có lẽ là một con ma cà rồng. Cả hai con quỷ đều dạo chơi ở đó, người lính đã thề như vậy, và chúng trông có vẻ thân mật. Có lẽ ông biết gì về chuyện đó, ông Regis? Ông có thể giải thích được không?”

“Không.” Regis không nao núng. “Tôi không thể. Có những điều giữa thiên đàng và trái đất này mà thậm chí các triết gia cũng không thể mơ nổi.”

“Không nghi ngờ gì là có những thứ như vậy.” Fringilla xác nhận bằng một cái gật đầu. “Nhưng quay trở lại vấn đề witcher sắp sửa rời đi – ông chắc hẳn biết nhiều hơn tôi? Bởi vì, ông thấy đấy, anh ấy vẫn chưa nói gì với tôi cả, và anh ấy thường kể tôi nghe mọi thứ.”

“Chắc rồi.” Cahir lầm bầm.

Fringilla phớt lờ anh ta. “Ông Regis?”

“Không.” Con ma cà rồng nói sau một giây im lặng ngắn ngủi. “Không, cô Fringilla, xin chớ lo. Witcher không hề quan tâm hay tâm sự với chúng tôi nhiều hơn cô. Anh ấy không thì thầm bí mật nào vào tai chúng tôi mà lại đem giấu cô cả.”

“Nếu vậy thì,” Fringilla điềm đạm như đá granite, “sao ông có thể phát ngôn về việc ra đi của anh ấy?”

Lại lần nữa, con ma cà rồng không nao núng. “Bởi vì như Angouleme trẻ trung, xinh xắn và đầy quyến rũ của chúng tôi thường hay nói: “Đến một lúc nào đó, ta sẽ phải ỉa ra hoặc đứng dậy khỏi cái bồn cầu.” Nói theo cách khác…”

“Đừng bận tâm với cách khác,” Fringilla sẵng giọng ngắt lời. “Nó đã quyến rũ đủ rồi.”

Trong một lúc chỉ có sự im lặng. Cả hai con gà, đen và có màu, chạy lăng xăng và mổ những gì còn thừa. Angouleme lau đi một vết củ cải đỏ dính trên mũi bằng tay áo. Con ma cà rồng nghịch ngợm mấy cái xúc xích.

“Nhờ có tôi,” Fringilla cuối cùng phá vỡ sự im lặng, “Geralt đã biết được điều mà ít người biết – gia phả của Ciri và bí mật nguồn gốc của nó. Nhờ có tôi, anh ấy đã biết những điều mà không hề hay biết một năm về trước. Nhờ có tôi mà anh ấy có thông tin, và thông tin là một vũ khí. Nhờ có tôi và sự bảo vệ của tôi khỏi các phép dò ma thuật, anh ấy được an toàn khỏi kẻ thù, bao gồm cả lũ sát thủ. Nhờ có tôi mà đầu gối anh ấy không còn đau mỗi khi gập nữa. Trên cổ anh ấy là một tấm mề đay do chính tay tôi làm, có thể không được bằng tấm mề đay witcher nguyên bản, nhưng có còn hơn không. Nhờ có tôi và chỉ mình tôi, anh ấy đã chuẩn bị cho mùa xuân và mùa hè – anh ấy được thông tin đầy đủ, ăn no, khỏe mạnh, và sẵn sàng chiến đấu với kẻ thù. Nếu có ai ngồi đây đã làm được nhiều hơn cho Geralt, cống hiến nhiều hơn cho anh ấy, thì cứ việc nói ra. Tôi sẵn sàng vinh danh người đó.”

Không ai lên tiếng. Hai con gà lại mổ vào giày Cahir, nhưng người Nilfgaard trẻ tuổi phớt lờ chúng.

“Quả thật,” anh ta mỉa mai, “không ai trong số chúng tôi đã làm được cho Geralt nhiều hơn cô, thưa quý cô.”

“Sao tôi lại biết cậu sẽ nói đúng như vậy nhỉ?”

“Đó không phải là vấn đề, cô Fringilla.” Con ma cà rồng bắt đầu. Nữ pháp sư không cho phép ông ta.

“Vậy thì vấn đề là gì?” Cô hỏi một cách hung hăng. “Rằng tôi và anh ấy đang ở cùng nhau? Rằng sự thật là chúng tôi có một mối liên hệ cảm xúc? Rằng tôi không muốn anh ấy rời đi bây giờ? Rằng tôi không muốn anh ấy quyết định dựa trên mặc cảm tội lỗi? Cùng cái cảm giác tội lỗi đã khiến tất cả các người quyết định lên đường?”

Regis im lặng. Cahir cũng không nói gì. Angouleme nhìn quanh, rõ ràng là không hiểu nhiều lắm chuyện gì đang xảy ra.

“Nếu nó đã được tiên đoán,” nữ pháp sư tiếp tục sau một hồi, “rằng Geralt sẽ tìm thấy Ciri, vậy thì mọi việc sẽ xảy ra đúng như vậy. Bất kể witcher có lên đường vượt núi hay ngồi lại ở Toussaint. Định mệnh đi trước con người. Không phải ngược lại. Ông có hiểu không? Ông có hiểu không, ông Regis Terzieff–Godefroy?”

“Tốt hơn cô nghĩ nhiều, cô Vigo.” Con ma cà rồng lật khoanh xúc xích trong tay. “Tuy nhiên, cô sẽ phải thứ lỗi cho tôi, vì tôi không chấp nhận cái gọi là định mệnh được viết trong sách đó, bởi bàn tay của đấng tạo hóa, hay ý chỉ của thiên đàng, hay sự phán xét không thể thay đổi của bất kỳ bậc thần thánh nào. Chính xác hơn, nó là kết quả của một chuỗi những sự kiện, hành động dường như ngẫu nhiên. Tôi cũng đồng ý với cô rằng định mệnh đi trước con người… và không chỉ riêng con người. Tuy vậy, tôi khó chấp nhận cái ý tưởng rằng điều ngược lại là bất khả thi. Bởi vì cái ý tưởng này là một góc nhìn quá giản đơn về thuyết định mệnh. Một vần thơ ca ngợi sự uể oải và lười biếng, chiếc giường lông tơ mềm mại và hơi ấm quyến rũ của một người phụ nữ. Nói ngắn gọn, một cuộc sống trong mơ. Và cuộc sống, cô Vigo à, có thể là một giấc mơ, có thể kết thúc bằng một giấc mơ…nhưng đó là một giấc mơ mà ta phải chủ động nằm mơ. Do vậy, cô Vigo, con đường đang đợi chúng tôi.”

“Vậy thì đi đi.” Fringilla bật dậy, cũng thô bạo gần như Milva lúc trước. “Như các người muốn! Tuyết, cái lạnh, và định mệnh đang đợi các người trong hẻm núi. Và sự chuộc lỗi mà các người dường như rất cần đó. Cứ đi đi! Nhưng witcher sẽ ở lại đây. Tại Toussaint! Cùng với tôi!”

“Tôi tin là,” con ma cà rồng điềm tĩnh đáp lời, “cô đã nhầm rồi, cô Vigo. Giấc mơ mà cô đang mơ cùng witcher, tôi xin cúi đầu thừa nhận, vô cùng nhiệm màu và đẹp đẽ. Tuy nhiên, giấc mơ nào mà nằm mơ quá lâu cũng sẽ trở thành cơn ác mộng. Và từ nó chúng ta thức dậy với một tiếng hét.”

***

Chín người phụ nữ ngồi quanh chiếc bàn vĩ đại ở lâu đài Montecalvo chăm chú nhìn Fringilla Vigo. Nhìn vào Fringilla, người mà đột nhiên bắt đầu vấp lời.

“Geralt rời đi vào buổi sáng ngày mùng 8 tháng Một tới dinh thự Pomerol. Và anh ta quay lại…chà…vào đêm mùng 8, hoặc sáng mùng 9…tôi không biết…tôi không dám chắc…”

“Hãy bình tĩnh,” Síle de Tanserville nói nhẹ nhàng. “Hãy bình tĩnh, cô Vigo. Và nếu có chi tiết nào của câu truyện quá xấu hổ, cứ việc bỏ qua.”

***

Con gà có màu chạy quanh căn bếp, nhẹ nhàng quẹt móng lên sàn nhà. Nó ngửi thấy mùi nước hầm.

Cánh cửa mở tung. Geralt xông vào phòng. Gương mặt sương gió của anh lộ rõ một vết bầm tím và một dải máu đen đã khô.

“Nhanh nào, mọi người, gói ghém đồ đạc đi.” Anh tuyên bố mà không cần mở lời dài dòng. “Chúng ta sẽ khởi hành! Trong vòng một tiếng nữa, và không chậm hơn một giây, tôi sẽ chờ mọi người trên con dốc ngoài thành phố, cạnh cột chỉ đường. Với hành lý và yên cương, sẵn sàng cho một chuyến hành trình dài và gian khổ.”

Thế là đủ. Nó như thể họ đã đợi thông báo này từ lâu và chuẩn bị sẵn sàng hết cả rồi.

“Ngay lập tức!” Milva la lớn, nhảy dựng lên. “Tôi sẽ xong trong vòng nửa tiếng đồng hồ.”

“Cả tôi nữa.” Cahir đánh rơi cái thìa, đứng dậy và nhìn witcher cẩn thận. “Nhưng tôi muốn biết việc này là sao đây? Bốc đồng? Cặp đôi xích mích? Hay chúng ta thực sự rời đi?”

“Thật sự. Angouleme, sao cô làm cái mặt đó?”

“Geralt, tôi…”

“Đừng lo. Tôi sẽ không bỏ cô lại đâu. Tôi đã đổi ý rồi. Nhưng cô phải coi chừng đấy, nhãi con, cô không được phép rời khỏi tầm mắt của tôi. Đi đi, gói ghém đồ đạc nhanh lên. Và từng người một thôi, để tránh thu hút sự chú ý trên đường từ thành phố tới ngọn đồi. Chúng ta gặp nhau ở đó sau một tiếng nữa.”

“Không chậm trễ, Geralt.” Angouleme reo lên. “Cuối cùng, con mẹ nó!”

Trong nháy mắt chỉ còn lại mỗi Geralt và con gà trong căn bếp. Và con ma cà rồng, người đang ngồi khuấy cái nồi mỳ với nước thịt một cách im lặng.

“Ông còn đợi được mời à?” Witcher hỏi lạnh lùng. “Sao ông vẫn còn ngồi đây? Thay vì chuẩn bị con lừa Draakula? Và nói tạm biệt với con succubus?”

“Geralt,” Regis điềm tĩnh đáp lại, múc một thìa đầy súp từ cái liễn. “Thời gian để tôi chia tay với con succubus cũng tương đương với thời gian anh cần để nói tạm biệt với cô bạn tóc đen của mình. Đó là giả sử anh định nói tạm biệt với cô ấy. Nhưng chỉ giữa hai ta thôi nhé: anh có thể cử đám trẻ đi gói ghém đồ đạc với những tiếng hò la và quát tháo, nhưng tôi thì xứng đáng nhận được nhiều hơn, vì lý do tuổi tác. Làm ơn, hãy cho tôi vài lời giải thích.”

“Regis…”

“Một lời giải thích, Geralt. Anh càng sớm bắt đầu thì càng tốt hơn. Để tôi giúp anh. Sáng hôm qua, anh đã đi gặp quản gia của vườn nho Pomerol tại cổng thành đúng như giao hẹn…”

***

Alcides Fierabas, vị quản gia râu đen của vườn nho Pomerol, người mà witcher đã gặp trong quán Pheasantry vào đêm trước Yule, đang đợi ở cổng thành cùng một con la. Còn bản thân ông ta thì ăn mặc và trang bị như thể họ sắp phải đi xa, rất xa tới tận cùng thế giới, đằng sau Cổng Solveiga và Hẻm núi Elskerdeg.

“Nó thật sự không gần đâu,” ông ta đáp trả lời nhận xét chua cay của Geralt. “Ngài tới từ bên ngoài thế giới rộng lớn và nghĩ rằng Toussaint của chúng tôi chỉ bé như cái làng chài, ngài nghĩ rằng có thể ném một cái mũ từ đầu này tới đầu kia cũng được. Nhưng ngài sai rồi. Vườn nho Pomerol, nơi mà chúng ta đang muốn đến, cách xa rất xa và nếu chúng ta tới được đó vào buổi trưa thì cũng đã là hạnh phúc lắm rồi.”

“Có thể,” witcher nói khô khan, “chúng ta không nên xắp sếp khởi hành muộn thế này.”

“Phải, có thể.” Alcides Fierabras nhìn anh và thổi hàng ria mép. “Nhưng tôi lại không nghĩ là ngài dậy sớm thế. Điều đó thật hiếm đối với các quý tộc.”

“Tôi không phải một quý tộc. Lên đường thôi nào, chúng ta không nên tốn thời gian nói chuyện vu vơ.”

“Ngài nói đúng ý tôi.”

Họ cưỡi ngựa qua thành phố để rút ngắn quãng đường. Ban đầu Geralt định phản đối – anh đã sợ sẽ mắc kẹt trong những con phố đông đúc quen thuộc. Tuy nhiên, ngài quản gia Fierabras hóa ra lại rất thuộc đường và biết rõ lúc nào thì phố vắng người. Họ vượt qua nhanh chóng và dễ dàng.

Họ tiến vào khu chợ và đi ngang đài hành hình. Và giá treo cổ, được trang trí bởi một cái xác lủng lẳng.

“Thật là nguy hiểm,” – vị quản gia ám chỉ bằng một cái gật đầu – “khi gieo vần và hát nhạc đả kích. Đặc biệt là giữa chốn công cộng.”

“Hình phạt ở đây khá nghiêm khắc,” Geralt nói khi nhận ra ý của ông ta. “Ở nơi khác cùng lắm là bị gông cổ.”

“Đó là tùy thuộc bài đả kích nói về ai,” Alcides Fiebabras bình luận tỉnh táo. “Và nó vần thế nào. Công tước phu nhân của chúng tôi rất tốt bụng và dễ mến, nhưng khi bị khiêu khích…”

“Ta không thể bóp chết một bài hát, như một người bạn của tôi đã nói.”

“Bài hát thì không được. Nhưng tay nhạc sĩ thì hoàn toàn có thể.”

Họ băng qua thành phố và ra khỏi Cổng Cooper, hướng thẳng đến thung lũng của dòng Blessure, sủi bọt và té nước đầy vui tươi. Trên những cánh đồng, tuyết chỉ nằm dưới rãnh hoặc nơi đất lún, nhưng trời vẫn khá lạnh.

Một toán hiệp sĩ vượt qua họ, rõ ràng là đang trên đường đến khe núi Cervantes, tới pháo đài biên phòng Vedette. Những tấm khiên và áo choàng được tô điểm sặc sỡ và thêu hình griffin, sư tử, trái tim, hoa huệ, ngôi sao, thập tự và đủ thể loại gia huy nhảm nhí khác. Tiếng móng ngựa rầm rập, cờ bay phấp phới, và những giọng ca mạnh mẽ cùng cất lên một bài hát ngớ ngẩn về chuyện xảy ra khi một hiệp sĩ được tặng thưởng một cô dâu.

Geralt dõi theo đoàn người. Cảnh tượng các hiệp sĩ dạo khiến anh nghĩ về Reynart de Bois– Fresnes, vừa mới trở về nhà sau khi hoàn thành nghĩa vụ và đang hồi phục sức khỏe trong vòng tay một người phụ nữ trung lưu. Chồng cô ta, một lái buôn, đã không về nhà trong nhiều ngày liền, có lẽ là bị ngăn cản bởi dòng sông sủi bọt trắng xóa, những khu rừng đầy thú hoang, và các thế lực tự nhiên khác. Witcher không thể tưởng tượng cảnh giằng Reynart ra khỏi vòng tay cô tình nhân của mình, nhưng anh thật sự thấy tiếc rằng bản hợp đồng với vườn nho Pomerol lại không diễn ra vào một ngày muộn hơn. Anh thích vị hiệp sĩ và nhớ cảm giác được đồng hành cùng ông.

“Đi nào, ngài witcher.”

“Đi thôi, ngài Fierabras.”

Họ bám theo xa lộ lên thượng nguồn. Dòng Blessure xoắn vặn và quanh co, nhưng có khá nhiều cầu, nên họ không cần phải đi đường vòng.

Hơi phả ra từ mũi con ngựa và con la.

“Ông có nghĩ mùa đông sẽ kéo dài không, ngài Fierabras?”

“Có băng vào đêm Saovine. Và người ta có câu: Băng vào Saovine – nhanh chân mặc quần ấm.”

“Tôi thấy rồi. Còn rượu của ông? Cái lạnh có gây hại đến chúng không?”

“Có năm còn lạnh hơn.”

Họ đi trong im lặng.

“Nhìn kìa,” Fierabras chỉ. “Trong thung lũng đó là làng Fox Hollow. Khó để tin được, nhưng cánh đồng của họ mọc nồi.”

“Cái gì?”

“Nồi. Chúng mọc lên từ đất, dĩ nhiên là hoàn toàn tự nhiên, không có chút nào can thiệp của con người. Nồi mọc ở Fox Hollow như khoai tây hay cải đỏ mọc ở nơi khác. Đủ mọi hình dáng và kích cỡ.”

“Thật ư?”

“Tôi mà nói điêu thì chết tại chỗ. Đó là vì sao Fox Hollow thiết lập quan hệ làm ăn với làng Dudno ở Maecht. Bởi ở đó đất mọc vung nồi.”

“Đủ mọi hình dáng và kích cỡ.”

“Chính xác, ngài witcher.”

Họ đi tiếp. Trong im lặng. Dòng Blessure lấp lánh và sủi bọt giữa những tảng đá.

***

“Và nhìn ở đó kìa, ngài witcher. Đó là tàn tích của pháo đài cổ Dun Tynne. Tòa lâu đài đó đã từng chứng kiến những sự kiện kinh hoàng, nếu ngài tin vào truyền thuyết. Walgerius, biệt danh là Mọc Sừng, đã giết bà vợ lăng loàn của mình, tình nhân, mẹ, em gái và anh trai cô ta tại đây. Thật tàn nhẫn và đẫm máu. Rồi sụp xuống và khóc, không ai hiểu tại sao…”

“Tôi đã từng nghe kể.”

“Ngài đã từng đến đó chưa?”

“Chưa.”

“Ah. Nghĩa là câu truyện đã được truyền đi rất xa.”

“Chính xác, ngài quản gia.”

***

“Và tòa tháp mảnh mai đó, nằm sau cái pháo đài khiếp đảm, đằng kia?” witcher chỉ. “Nó là gì vậy?”

“Đó sao? Nó là một ngôi đền.”

“Thờ ai?”

“Ai mà nhớ được?”

“Đúng thật. Những ngày này ai mà nhớ chứ.”

***

Tầm giữa trưa, họ trông thấy vườn nho. Nó nằm trên sườn đồi thoai thoải dốc xuống dòng Blessure, phủ đầy những dây nho cắt tỉa gọn gàng, giờ trông vặn vẹo và trụi lá. Trên đỉnh ngọn đồi cao nhất, nơi gió quật vần vũ, là những tòa tháp chọc trời, pháo đài và đồn canh của lâu đài Pomerol.

Geralt để ý với sự thích thú rằng con đường dẫn lên tòa lâu đài in đầy dấu chân ngựa và bánh xe hàng tương tự như xa lộ. Rõ ràng là có người đã sử dụng thường xuyên con đường này. Anh kìm lại sự tò mò đến giây phút trông thấy một tá những chiếc xe hàng vĩ đại, cồng kềnh và phủ bạt, loại mà dùng để vận chuyển đường dài.

“Thương nhân,” người quản gia trả lời câu hỏi của anh. “Thương nhân buôn rượu.”

“Thương nhân?” Geralt ngạc nhiên. “Sao lại thế được? Tôi tưởng các khe núi đã bị bao phủ bởi tuyết và Toussaint giờ bị cô lập khỏi phần còn lại của thế giới rồi chứ. Vậy các thương nhân đã đến đây bằng cách nào?”

“Đối với thương nhân,” quản gia Fierabras nói nghiêm trang, “không có đường nào là xấu hay không đi được – chí ít thì cũng đối với những người thực sự coi trọng công việc của mình. Họ, ngài witcher à, có một nguyên tắc: khi đã có mục đích, khắc tìm được con đường.”

“Quả thật,” Geralt nói chậm, “một nguyên tắc đáng ngưỡng mộ, mà chúng ta đều nên noi theo. Trong mọi tình huống.”

“Không nghi ngờ gì. Nhưng sự thật là một vài thương nhân đã bị kẹt ở đây kể từ mùa thu và không thể ra ngoài được. Nhưng họ không để mất tinh thần, mà thay vào đó nói: “Ôi dào, giờ thì chúng ta sẽ là những người đầu tiên ở đây khi xuân tới, trước khi các đối thủ xuất hiện.” Họ gọi nguyên tắc này là: suy nghĩ tích cực.”

Geralt gật gù. “Khó để phủ nhận nguyên tắc này. Tuy nhiên vẫn có một điều khiến tôi ngạc nhiên, ngài quản gia. Tại sao các thương nhân này lại ngồi đây mà không phải là Beauclair? Chẳng lẽ công tước phu nhân không muốn tiếp đón họ hay sao? Bà ấy có hiềm khích gì với các thương nhân này à?”

“Không hề,” Fierabras trả lời. “Công tước phu nhân luôn gửi lời mời đến tất cả bọn họ, và họ nhất mực và lịch sự từ chối. Và ở lại vườn nho.”

“Tại sao?”

“Họ nói rằng Beauclair là ngôi nhà của những bữa tiệc, vũ hội, ăn mừng và tán tỉnh triền miên. Họ nói rằng những hoạt động này đều là lười nhác, ngu ngốc và lãng phí thời gian mà họ có thể dùng để suy tính chuyện làm ăn. Họ nói rằng ta phải tập trung vào điều thực sự quan trọng. Vào mục đích luôn kêu gọi ở phía cuối con đường. Không ngừng nghỉ. Không tốn suy nghĩ cho những chuyện không đâu. Và chỉ khi đó ta mới có thể đạt được chúng.”

“Đúng vậy, ngài Fierabras,” witcher nói từ tốn. “Tôi thực sự thấy mừng vì chuyến du hành này. Những cuộc trò chuyện của chúng ta thực sự rất có ích cho tôi.”

***

Trái ngược với dự đoán của witcher, họ không hướng tới lâu đài Pomerol, mà đi xa hơn một chút về phía chỏm núi đằng sau thung lũng, nơi một tòa lâu đài khác đang đứng, nhỏ hơn và hoang sơ hơn nhiều. Đây là lâu đài Zurbarrán. Geralt trông đợi sẽ được bắt tay làm gì đó thật sớm, bởi những tháp canh răng cưa u ám của Zurbarrán trông hệt như một tàn tích ma ám lôi từ trong sách ra, mà không nghi ngờ gì là chứa đầy ma thuật, phép màu và quái vật.

Tuy nhiên, khi vào trong khoảng sân trước, thay vì phép màu và quái vật, anh lại trông thấy một tá người đang bận bịu với những công việc diệu kỳ như lăn thùng và đóng ván. Không khí có mùi như gỗ tươi, vôi mới, vài con mèo không mới lắm, rượu chua và súp đậu. Món súp đậu được phục vụ ngay tức thì.

Cơn gió và cái lạnh trong suốt chuyến hành trình đã khiến bụng họ cồn cào, và họ ăn thật nhanh trong im lặng. Một trong số các cấp dưới của quản gia Fierabras tên Simon Gilka đã nấu cho họ. Món súp được phục vụ bởi hai cô gái tóc vàng với bím tóc dài phải gần một mét. Cả hai đều nhìn chằm chằm witcher đầy khiêu gợi tới nỗi anh quyết định ăn nhanh hết mức có thể và bắt tay làm việc.

Simon Gilka đã không trông thấy con quái vật. Anh ta biết đến ngoại hình của nó chỉ từ những câu truyện được nghe kể.

“Trời tối đen, ha, tối đen như mực, và khi nó bò qua tường, ngài có thể nhìn thấy từng viên gạch. Người nó trong suốt như thạch, nếu ngài hiểu ý tôi, ngài witcher, hoặc trông như một đống nước mũi. Nhưng nó có những cái chân dài, và nhiều lắm, tám hoặc thậm chí hơn. Và Yontek đứng đó, chỉ đứng đó và nhìn, đến khi đột nhiên tỉnh ra và hét ầm lên: “Biến đi, biến mau đi!” và một câu trừ tà nữa: “Nhà ngươi sẽ ngỏm củ tỏi, thằng con hoang!” Và rồi con quái vật phóng đi!!

Vèo, vèo, chuồn mất. Vào trong vực sâu tăm tối và mất dạng. Và các chàng trai kháo nhau rằng: nếu có quái vật ở đây, chúng ta sẽ đòi tiền công rủi ro, và nếu không được trả, chúng ta sẽ kiện lên công đoàn. Tôi nói mà nghe, cái bọn công đoàn đó có thể đi mà…”

“Con quái vật,” Geralt ngắt lời, “được trông thấy lần cuối khi nào?”

“Ba tuần trước. Vậy là ngay trước Yule.”

Witcher nhìn ngài quản gia. “Ông nói với tôi là người ta đã không trông thấy nó kể từ Lammas.”

Alcides Fierabras đỏ bừng lên đến độ chòm râu cũng không che được.

Gilka khục khặc. “Chà, chà, ngài quản gia, nếu muốn điều hành công việc, ông phải ở quanh đây thường xuyên hơn, không thể cứ rúc mãi trong văn phòng ở Beauclair, đánh bóng mấy cái ghế bằng mông đít được. Tôi nghĩ…”

“Tôi không quan tâm,” Fierabras sỗ sàng cắt lời, “anh nghĩ cái gì. Kể lại câu truyện về con quái vật đi.”

“Tôi đã kể rồi đấy. Chỉ có vậy thôi.”

“Không có nạn nhân nào sao? Không có ai bị tấn công à?”

“Không. Nhưng năm ngoái một người hầu đã biến mất không dấu vết. Có kẻ nói con quái vật đã lôi anh ta xuống vực và giết. Người khác lại cho rằng chắc chắn không phải quái vật nào, mà chính gã hầu đã tự sát, bởi đang nợ nần chồng chất. Sự thật là hắn mê đánh bạc như quỷ, và có một đứa con với con gái ông thợ xay bột, và bởi vì cô ta đã đâm đơn lên tòa, tòa đã ra lệnh cho người hầu phải trả tiền hỗ trợ nuôi con…”

“Vậy là,” Geralt xen ngang, “con quái vật đã không tấn công bất kỳ ai? Và không ai từ dạo đó đã trông thấy nó?”

“Không.”

Một trong số hai cô gái rót thêm rượu cho Geralt và quệt ngực mình qua tai anh, nháy mắt khuyến khích.

“Đi thôi,” Geralt nói nhanh. “Không nên tốn thời gian nói chuyện vô ích. Hãy dẫn tôi đến tầng hầm.”

***

Thật không may, hóa ra tấm mề đay của Fringilla lại không thể thực hiện được điều anh hy vọng. Geralt không dám tin dù trong một giây rằng viên chrysoprase đánh bóng có thể thay thế được tấm mề đay witcher bằng bạc. Fringilla cũng chẳng hứa hẹn điều gì như thế. Tuy nhiên, cô đã đảm bảo với anh – một cách đầy thuyết phục – rằng tấm mề đay, một khi kết hợp với tâm trí người đeo, có thể làm nhiều điều khác, bao gồm cảnh báo chủ nhân của nó về những mối nguy hiểm tiềm tàng.

Nhưng hoặc là phép thuật của Fringilla đã thất bại, hoặc Geralt và tấm mề đay có những quan niệm rất khác nhau về cái gì là nguy hiểm và cái gì không. Trên đường đến căn hầm, viên chrysoprase gần như không động đậy khi một con mèo cam lớn chạy ra trước mặt anh, nhấc đuôi lên đầy thách thức, và ị một bãi ra sân. Con mèo hẳn đã nhận được một tín hiệu từ tấm mề đay, bởi nó nhảy dựng lên và meo một tiếng chói tai.

Nhưng khi witcher xuống tầng hầm, tấm mề đay bắt đầu rung một cách khó chịu, liên tục và liên tục, trong những căn phòng khô ráo, ngăn nắp nơi mà mối nguy hiểm duy nhất phát ra chỉ có thể là từ những thùng rượu to kềnh. Một ai đó không biết kiềm chế và nằm há mồm bên dưới những cái thùng có thể sẽ bị ngộ độc rượu nặng. Nhưng không gì hơn.

Mặt khác, tấm mề đay không hề di chuyển khi Geralt rời khỏi phần vẫn còn đang được sử dụng của căn hầm, xuống cầu thang, và tiến vào những đường hầm dài và sâu. Witcher đã từ lâu nhận ra rằng hầu hết các vườn nho của Toussaint đều có những hầm mỏ cũ nằm bên dưới chúng. Không nghi ngờ gì là khi dây leo bắt đầu mọc quả và cho ra lợi nhuận hấp dẫn hơn, việc khai thác mỏ đã bị bỏ bê và để lại những đường hầm cùng dãy hành lang có thể dùng cho việc ủ rượu. Lâu đài Pomerol và Zurbarrán đứng trên một mỏ đá phiến cũ. Nó ngập đầy những đường hầm và hang hốc, sẽ chỉ mất một giây thiếu cảnh giác để khiến ta nằm dưới một cái hố cùng xương cốt gãy nát trong người. Vài hố được che lại bằng ván mục nát đã bị bao phủ bởi hàng lớp bụi xám xịt tới nỗi không thể phân biệt nổi với mặt đất xung quanh. Cả khu vực nguy hiểm tới nỗi anh thật sự cần tấm mề đay để cảnh báo cho mình. Nó không làm được.

Nó thậm chí còn không nói gì khi một bóng hình mờ ảo nhảy ra từ một đống đá phiến vụn cách Geralt 10 bước chân, cào cấu nền hang bằng móng vuốt, nhảy múa, tru lên một tiếng muốn thủng màng nhĩ, rồi khẽ khúc khích trước khi chạy xuống đường hầm và biến mất vào một cái hố trên tường.

Witcher chửi thề. Món nữ trang ma thuật đã phản ứng lại với một con mèo cam, nhưng không phải gremlin. Mình sẽ phải nói với Fringilla về chuyện này, anh nghĩ trong khi tiến lại gần cái hố nơi sinh vật nhỏ bé đã biến mất.

Tấm mề đay giật điên cuồng.

Cuối cùng, anh nghĩ. Nhưng ngay lập tức suy ngẫm sâu xa hơn. Sau cùng thì tấm mề đaycũng không thể quá ngu được. Chiến thuật thường thấy của gremlin là bỏ chạy rồi bất ngờ mai phục nạn nhân bằng một cú đánh từ bộ vuốt cong như lưỡi liềm. Con gremlin đợi trong bóng tối – đó là thứ mà tấm mề đay đã cảnh báo anh.

Anh đợi và đợi, nín thở, vểnh tai nghe ngóng. Tấm mề đay im lìm và bất động trên ngực. Một thứ mùi mốc meo, khó chịu bốc ra từ cái hố. Nhưng mọi thứ vẫn im lặng như tờ. Và không con gremlin nào lại im lặng lâu đến vậy.

Không nghĩ ngợi, anh nhảy vào hố và bò bằng cả tứ chi, lưng chà lên lớp đá thô ráp. Anh không đi được xa.

Thứ gì đó bắt đầu kêu cọt kẹt và nứt. Rồi nền hang sụp xuống cùng với witcher – kéo theo vài chục cân bụi và mảnh vụn. May là anh đã không rơi quá lâu – nó không phải một cái hố vô tận, mà một hầm ngục thông thường. Anh bắn ra như cứt khỏi miệng ống cống và đập vào một đống gỗ mục. Anh nhổ thứ gì đó ra, phủi bụi khỏi mái tóc, và chửi thề thật báng bổ. Tấm mề đay rung liên hồi, run rẩy trên ngực anh như một con chim sẻ dưới tấm áo khoác. Witcher kìm lại ham muốn giật nó ra và ném vào trong bóng tối. Đầu tiên, Fringilla sẽ nổi khùng. Thứ hai, theo lý thì viên chrysoprase còn có những công dụng khác. Geralt hy vọng rằng chúng sẽ đáng tin cậy hơn.

Trong lúc đứng dậy, anh nắm phải một cái hộp sọ tròn. Và anh nhận ra cái đống mình đã ngã vào không phải gỗ mục một xíu nào hết.

Anh đứng dậy và nhanh chóng quan sát bãi xương xung quanh. Chúng đều là con người. Tất cả những người này đều đã bị cùm vào lúc chết, và khả năng cao là khỏa thân. Xương của họ bị nghiền nát và gặm nhấm. Có thể họ đã chết trước khi bị cắn. Nhưng anh không dám chắc.

Một hành lang dẫn ra khỏi đường hầm, dài và thẳng. Bức tường đá phiến đã được xử lý rất nhẵn nhụi – nó không còn trông như một hầm mỏ nữa.

Hành lang chợt kết thúc tại một cái hang vĩ đại, trần ngập trong bóng tối dày đặc. Trung tâm của cái hang là một khe vực khổng lồ, đen ngòm, vô tận, mà phía trên có bắc một cây cầu đá trông mong manh và nguy hiểm.

Tiếng nước nhỏ từ những bức tường vang vọng. Cái lạnh và mùi hôi không thể xác định bay lên từ dưới vực. Tấm mề đay treo bất động. Geralt đặt chân lên cây cầu, căng thẳng và tập trung, cố tránh xa hàng lan can gãy nát.

Sau cây cầu là một dãy hành lang nữa. Trên những bức tường nhẵn nhụi, anh để ý thấy giá cắm đuốc rỉ sét. Cũng có cả hốc tường ở đây, một số đặt tượng sa thạch nhỏ, nhưng qua năm tháng nước chảy đã bào mòn chúng thành những khối không hình thù. Cũng có những phiến đá chạm nổi gắn trên tường. Những phiến đá được làm từ chất liệu cứng cáp hơn nên hình khắc vẫn còn nhìn rõ được. Geralt nhận ra một người phụ nữ với cặp sừng bán nguyệt, một tòa tháp, một con chim nhạn, một con lợn rừng, một con cá heo và một con kỳ lân.

Anh nghe thấy một giọng nói.

Anh dừng lại, nín thở.

Tấm mề đay giật nảy.

Không. Nó không phải ảo ảnh, không phải tiếng lọc xọc của đá phiến cựa quậy hay âm vang của nước nhỏ giọt. Nó là một giọng con người. Geralt nhắm mắt và căng tai ra nghe. Anh cố định vị nguồn phát.

Giọng nói, witcher có thể thề rằng đến từ một cái hốc tường, nằm đằng sau một bức tượng nhỏ, cũng bị bào mòn, nhưng không đủ để xóa đi những đường cong nữ tính. Lần này tấm mề đay đã làm đúng việc. Nó lóe sáng, và Geralt chợt trông thấy ánh kim phản chiếu trên tường. Anh nắm chắc lấy người phụ nữ trong tay và vặn mạnh. Có một tiếng rắc, và toàn bộ hốc tường mở ra nhờ một bản lề thép và để lộ một cầu thang xoắn ốc.

Giọng nói lại cất lên, từ đỉnh cầu thang. Geralt không do dự.

Trên đỉnh cầu thang anh tìm thấy một cánh cửa mở ra không khó khăn, thậm chí còn không kêu cọt kẹt. Đằng sau cửa là một căn phòng nhỏ với trần cao. Bốn ống đồng vĩ đại treo trên tường, phía cuối loe ra như kèn trumpet. Một cái ghế đặt giữa phòng, trên đó là một bộ xương. Phần còn lại của một chiếc mũ bê rê đội trên đầu và trùm xuống tận răng. Thân thể mang những mảnh vụn của quần áo nhà giàu, trên cổ đeo dây chuyền vàng. Đôi chân đặt trong ủng cao, giờ đã bị chuột gặm gần hết.

Từ một cái ống phát ra tiếng hắt xì, lớn và bất thình lình đến nỗi witcher suýt thì nhảy dựng lên. Rồi ai đó sì mũi, và âm thanh được khuyếch đại bởi cái ống đồng nghe thật sự kinh tởm.

“Sức khỏe,” tiếng phát ra từ ống. “Hắt xì ghê quá đấy, Skellen.”

Geralt di chuyển bộ xương ra khỏi cái ghế, mà không quên tháo sợi dây chuyền vàng và nhét vào túi. Rồi anh ngồi xuống chỗ giám sát. Ở phía cuối miệng ống.

***

Một trong số những người Geralt đang nghe lén có chất giọng trầm và âm vang. Khi ông ta lên tiếng, cái ống đồng rung lên rõ mồn một.

“Hắt xì ghê quá đấy, Skellen. Ông bị cảm lạnh ở đâu thế? Và bao giờ?”

“Không đáng nhắc tới,” người hắt xì trả lời. “Tôi mắc phải căn bệnh chết tiệt và giờ nó không chịu thuyên giảm. Ngay khi tưởng như đã khỏi hẳn, nó lại tái phát. Thậm chí cả ma thuật cũng không giúp được.”

“Có lẽ ông nên đổi pháp sư?” giọng tiếp theo cất lên, nghe cọt kẹt như bản lề han rỉ. “Thật sự, ta thấy cái tay Vilgefortz này chưa có thành công nào đặc biệt cả. Ta nghĩ…”

“Bỏ đi,” một giọng khác chen vào, kéo dài âm tiết một cách đặc trưng. “Đây không phải lý do chúng ta tổ chức buổi họp này ở Toussaint. Giữa nơi đồng không mông quạnh, tận cùng của thế giới!”

“Nơi tận cùng thế giới này,” người hắt xì nói, “là vương quốc duy nhất tôi biết mà không có cơ quan an ninh riêng. Góc duy nhất của đế chế mà không lúc nhúc các gián điệp của Vattier de Rideaux. Nơi này được tất cả coi là một đất nước ngớ ngẩn và luôn trong tình trạng say khướt, mà chẳng ai thèm coi trọng.”

“Những vương quốc bé nhỏ như này,” người kéo dài âm tiết nói, “vẫn luôn là chốn thiên đường dành cho bọn gián điệp, và là địa điểm tụ tập ưa thích. Nên chúng cũng thu hút phản gián và chỉ điểm, và đủ thể loại thám tử tư.”

“Có thể nó đã từng như vậy,” người hắt xì đáp lại, “nhưng không phải dưới chính quyền của phụ nữ, mà đã kéo dài gần 100 năm. Tôi lặp lại, chúng ta an toàn ở đây. Sẽ không ai truy lùng hay rình mò chúng ta cả. Chúng ta có thể, dưới lốt cải trang là thương nhân, từ tốn bàn luận về những vấn đề vô cùng quan trọng đối với các quý ngài đây. Vô cùng quan trọng với gia sản và đất đai của các vị.”

“Ta thật sự ghét ham muốn cá nhân!” cái giọng cọt kẹt cằn nhằn khó chịu. “Và ta không ở đây vì ham muốn cá nhân! Ta chỉ quan tâm đến lợi ích của đế chế. Và lợi ích của đế chế, các quý ngài, chính là một triều đại vững mạnh! Sẽ thật tồi tệ và nguy hiểm cho đế chế nếu một con chó ghẻ, một quả táo thối đến từ dòng máu ô uế, hậu duệ của lũ vua phương bắc bệnh hoạn và yếu hèn, lên được ngai vàng. Không, các quý ngài. Ta, de Wett của gia tộc de Wett, sẽ không khoanh tay đứng nhìn, Mặt Trời Vĩ Đại ơi! Đặc biệt là khi con gái ta gần như đã đính hôn với…”

“Con gái ông, de Wett?” cái giọng âm vang gầm lên. “Vậy còn ta thì sao? Ta, người đã hỗ trợ con cún Emhyr trong cuộc chiến với kẻ chiếm ngôi? Chính từ dinh thự của ta mà các học viên thiếu sinh quân đã triển khai cuộc tấn công vào cung điện! Và ta được cái gì nào? Thằng vô lại ấy liếc nhìn Eilan bé bỏng của ta, mỉm cười với nó, khen nó, trong khi ngồi bóp vú nó đằng sau một tấm rèm. Và giờ thì sao đây…một nữ hoàng mới? Một thứ ghê tởm như vậy? Một thứ xúc phạm như vậy? Hoàng đế của Đế chế Vĩnh cửu, lại thích một con mèo lạc từ Cintra hơn là con gái của các gia tộc lâu đời! Cái gì chứ? Hắn được ngồi trên ngai vàng là nhờ ơn của ta, và hắn dám sỉ nhục Eilan của ta? Không, ta sẽ không cho phép!”

“Hay ta cũng vậy!” một giọng khác hét lên, nghe the thé và phấn khích. “Hắn cũng đã sỉ nhục ta! Hắn dám bỏ vợ ta vì đứa con gái Cintra vô danh đó!”

“Thật may mắn,” người kéo dài âm tiết nói, “là kẻ vô danh đã được tiễn sang thế giới bên kia. Theo như báo cáo của ngài Skellen.”

“Ta đã nghe rất kỹ bản báo cáo này,” giọng cọt kẹt đáp lại, “và đi đến kết luận rằng đứa con gái chỉ đơn giản biến mất. Và nếu chỉ biến mất, nó vẫn có thể xuất hiện lại. Bởi vì nó đã thoắt ẩn thoắt hiện vài lần suốt từ năm ngoái rồi! Thật sự, ngài Skellen, ông đã làm chúng ta thất vọng. Ông và cái gã pháp sư của ông, cái tên Vilgefortz này!”

“Giờ không phải lúc, Joachim!” Giọng trầm nói. “Giờ không phải lúc để đổ tội cho nhau và khiến chúng ta bị chia cắt! Chúng ta phải đoàn kết và vững mạnh. Và quyết tâm. Do vậy, không quan trọng việc người Cintra có còn sống hay không. Một hoàng đế mà đã sỉ nhục các gia tộc cổ xưa một lần, sẽ tiếp tục làm vậy trong tương lai! Người Cintra đã biến mất sao? Vậy thì vài tháng sau hắn sẽ giới thiệu một nữ hoàng người Zerrikania hay Zangwebar! Không, Mặt Trời Vĩ Đại ơi, chúng ta không thể để hắn làm vậy!”

“Đúng vậy, chúng ta không thể! Ông nói phải lắm, Ardal!” Giọng cọt kẹt tán thành. “Triều đại Emreis đã là một nỗi thất vọng kể từ khi lên ngôi. Mỗi giây phút Emhyr ngồi trên ngai vàng là một giây phút tổn hại đến đế chế, đơn giản là vậy. Và có người khác có thể ngồi lên đó. Voorhis trẻ…”

Một tiếng hắt xì vang lên như kèn trumpet.

“Quân chủ lập hiến,” người hắt xì lên tiếng. “Đã đến lúc thiết lập một nhà nước quân chủ lập hiến, một trật tự xã hội tiến bộ. Và rồi sau đó là nền dân chủ…một chính quyền của người dân…”

“Hoàng đế Voorhis,” giọng trầm nhắc lại với ý nhấn mạnh. “Hoàng đế Voorhis, Stefan Skellen. Hắn sẽ cưới con gái ta Eilan, hoặc con gái của Joachim. Rồi ta sẽ là Đại pháp quan và de Wett sẽ là Nguyên soái. Còn ông, Stefan – Bộ trưởng Ngoại giao và một bá tước. Nếu ông từ bỏ cái ý tưởng trao tước vị và quyền lực cho đám nông dân. Cái gì?”

“Hãy quên tiến trình lịch sử đi,” người hắt xì nói nhẹ nhàng. “Cũng chẳng có gì ngăn cản được nó cả. Nhưng ngày hôm nay, ngài đại pháp quan aep Dahy, nếu tôi có phản đối gì về vương công Voorhis thì đó chủ yếu là anh ta là một nhân vật sắt đá, kiêu hãnh và không chịu khuất phục, vô cùng khó để gây ảnh hưởng.”

“Tôi xin phép được nói,” người kéo dài âm tiết cất lời. “Vương công Voorhis có một đứa con trai, Morvran bé bỏng. Nó là ứng cử viên phù hợp hơn nhiều. Đầu tiên, nó có quyền thừa kế ngai vàng hợp pháp hơn, cả về đằng nội lẫn đằng ngoại. Thứ hai, nó chỉ là một đứa trẻ, vậy nên Hội đồng Nhiếp chính sẽ phải đứng ra cai quản thay. Vậy tức là, chúng ta.”

“Vớ vẩn! Chúng ta sẽ thỏa thuận với người cha! Chúng ta sẽ tìm được cách!” Giọng trầm đáp lại.

“Chúng ta đẩy,” giọng the thé gợi ý, “vợ ta vào dưới hắn!”

“Trật tự đi, bá tước Broinne. Giờ không phải lúc. Chúng ta thật sự nên bàn về một vấn đề khác. Bởi theo như quan sát của ta thì Emhyr var Emreis vẫn đang cai trị.”

“Dĩ nhiên rồi.” Người hắt xì đồng ý và sì mũi vào khăn tay. “Ông ta vẫn còn sống và cai trị. Ông ta đang ở đỉnh cao, cả về thể chất lẫn tinh thần. Và cái thứ hai thì không cần bàn cãi, đặc biệt là sau khi ông ta đã loại bỏ được cả hai quý ngài đây – cùng với bất kỳ binh lính nào trung thành với các vị. Ngài định sẽ làm cách mạng thế nào hả, công tước Ardal, trong khi bất kỳ lúc nào thôi ngài sẽ phải dẫn đầu Quân Đoàn Đông ra trận? Và công tước Joachim thì giờ này lẽ ra phải ở cùng quân đội của mình và lực lượng tác chiến Verden.”

“Tha cho ta đi, Stefan Skellen.” Giọng cọt kẹt nói. “Và đừng làm cái bản mặt mà chỉ có ông nghĩ là khiến ông nhìn giống gã chủ nhân mới của mình, tên pháp sư Vilgefortz. Và hãy biết điều này, Cú Nâu, nếu Emhyr có nghi ngờ điều gì, thì chính ông và Vilgefortz sẽ phải gánh tội. Thú nhận đi, ông đã muốn bắt sống người Cintra và đổi nó lấy ân huệ của Emhyr, phải không? Giờ thì đứa con gái đã chết và chẳng còn lại gì để đổi chác hết cả, có đúng không? Emhyr sẽ cho ngựa phanh thây ông, đơn giản như vậy. Ông sẽ không giơ tay chống lại chúng ta, cả ông hay tên pháp sư mà ông đã liên minh cùng đó!”

“Không ai trong chúng ta sẽ giơ tay cả, Joachim.” Giọng trầm chen vào. “Chúng ta cần nhìn thẳng vào sự thật. Chúng ta cũng đang ở trong tình thế không tốt hơn Skellen là bao. Hoàn cảnh đã đẩy chúng ta lên chung một con thuyền.”

“Nhưng chính Cú Nâu là người đã đẩy chúng ta lên con thuyền này!” Giọng cọt kẹt đốp lại. “Chúng ta lẽ ra phải hành động trong bí mật, và giờ thì sao nào? Emhyr biết mọi thứ! Các đặc vụ của Vattier de Rideaux đang săn lùng Cú Nâu trên khắp lãnh thổ đế chế. Và chúng ta thì đã bị cử ra trận!”

“Chính xác,” người kéo dài âm tiết lên tiếng. “Các ngài nên lấy đó làm lợi thế. Tất cả mọi người đã chịu quá đủ với cuộc chiến này rồi, tôi có thể đảm bảo với các ngài. Quân đội, dân thường, và trên cả là các thương nhân và lái buôn. Chỉ riêng việc chiến tranh kết thúc là đã đủ để toàn bộ đế chế cảm thấy vui mừng rồi, chưa cần biết nó kết thúc thế nào. Và các quý ngài đây, với vai trò chỉ huy quân đội, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ lên kết quả của cuộc chiến ngay trong tầm với, không phải sao? Còn gì dễ dàng hơn là đội một vòng nguyệt quế trên đầu vào ngày thắng trận? Hay trong trường hợp thất bại, đứng ra với vai trò là những người đại diện đi đàm phán hòa bình và chấm dứt đổ máu?”

“Đúng vậy,” giọng cọt kẹt nói sau một hồi. “Mặt Trời Vĩ Đại ơi, đúng là như vậy. Ông nói phải lắm, ngài Leuvaarden.”

“Emhyr,” giọng trầm lên tiếng, “đã tự choàng dây quanh cổ khi cử chúng ta ra chiến trường.”

“Emhyr,” giọng the thé thêm vào, “vẫn còn sống và khỏe mạnh, các quý ngài. Hãy đừng bán bộ da gấu trước khi bắt được con gấu.”

“Không.” Giọng trầm nói. “Trước tiên hãy giết con gấu.”

Sự im lặng kéo dài.

“Vậy thì ám sát. Chết.”

“Chết.”

“Chết!”

“Chết! Đó là giải pháp duy nhất. Chừng nào còn sống, Emhyr vẫn có người ủng hộ. Khi hắn chết rồi, mọi người sẽ ủng hộ chúng ta. Các quý tộc sẽ đứng về phía chúng ta, bởi chúng ta chính là các quý tộc và sức mạnh của quý tộc nằm trong sự đoàn kết. Một phần lớn quân đội sẽ ngả về ta, đặc biệt là các sĩ quan vẫn còn nhớ vụ thanh trừng của Emhyr sau thất bại trên Đồi Sodden. Và người dân sẽ đứng về phía ta…”

“Bởi vì người dân ngu dốt và dễ dàng bị thao túng,” Skellen nói nốt, sì mũi vào khăn tay. “Chỉ cần nói “hoan hô”, làm một bài phát biểu trước cổng nghị viện, phóng thích tù nhân và giảm thuế là đủ.”

“Ngài hoàn toàn chính xác, bá tước.” người kéo dài âm tiết nói. “Giờ thì tôi biết vì sao ngài nhất mực ủng hộ dân chủ thế rồi.”

“Ta cảnh báo đấy, các quý ngài,” giọng cọt kẹt tên Joachim nói, “mọi việc sẽ không diễn ra êm xuôi như khi nói vậy đâu. Toàn bộ kế hoạch của chúng ta phụ thuộc vào cái chết của Emhyr. Nhưng chúng ta không thể nhắm mắt trước sự thật rằng Emhyr có rất nhiều tay sai, một quân đoàn nội bộ, và lính gác trung thành đến điên cuồng. Sẽ không dễ để vượt qua Lữ đoàn Impera và xuống tay với Hoàng đế đâu, bởi chớ có ảo tưởng, chúng sẽ chiến đấu cho đến chết.”

“Và đây,” Stefan Skellen tuyên bố, “chính là điểm mà Vilgefortz đã đề nghị giúp chúng ta. Chúng ta sẽ không cần bao vây cung điện, và mở đường xuyên qua Lữ đoàn Impera. Việc có thể được hoàn thành bởi một sát thủ duy nhất được yểm trợ bằng phép thuật. Cũng như ở Tretogor, ngay trước khi xảy ra vụ nổi loạn trên Thanedd.”

“Vua Radovid của Redania.”

“Chính xác.”

“Vilgefortz có một tên sát thủ như vậy sao?”

“Hắn có. Để chứng minh lòng thành của chúng tôi, các quý ngài, tôi sẽ cho các ngài biết đó là ai. Nữ pháp sư Yennefer, người mà chúng tôi đang giam cầm.”

“Giam cầm? Ta nghe nói Yennefer tự nguyện tham gia cùng Vilgefortz kia mà.”

“Cô ta là tù nhân của hắn. Bị thôi miên và bỏ bùa, như một con golem, cô ta sẽ thực hiện vụ ám sát. Rồi tự tử.”

“Theo ý tôi thì một mụ phù thủy là không phù hợp lắm.” Người kéo dài âm tiết nói, thậm chí còn kéo dài hơn với vẻ kinh tởm. “Một người hùng thì tốt hơn, một nhà vô địch sáng chói của lý tưởng, một kẻ báo thù…”

“Một kẻ báo thù,” Skellen cắt lời. “Cái đó phù hợp đến hoàn hảo, ngài Leuvaarden. Yennefer sẽ báo thù cho những thương tổn gây ra cho cô ta bởi tên bạo chúa. Emhyr đã tra tấn và hại chết con gái cô ta, một đứa trẻ vô tội. Tên độc tài tàn nhẫn đó, thay vì chăm lo đến đế chế và người dân, lại đi kết án và sát hại một đứa trẻ. Vì lẽ đó hắn sẽ không thoát được sự báo thù…”

“Ta hoàn toàn ủng hộ.” Ardal aep Dahy tuyên bố.

“Ta cũng vậy.” Joachim de Wett tán thành.

“Hoàn hảo!” Bá tước Broinne thốt lên đầy phấn khích. “Vì dám làm nhục vợ của người khác, tên bạo chúa đồi bại sẽ nhận được công lý thích đáng. Hoàn hảo!”

“Chỉ một điều.” Leuvaarden kéo dài âm tiết. “Để thiết lập lòng tin, bá tước Stefan, xin hãy tiết lộ cho chúng tôi nơi ở hiện tại của ngài Vilgefortz.”

“Các quý ngài, tôi…tôi không thể…”

“Nó sẽ là sự đảm bảo. Minh chứng cho sự trung thực và cống hiến của ông vì lý tưởng.”

“Đừng sợ bị phản bội, Stefan.” Aep Dahy thêm vào. “Không ai ở đây sẽ phản bội ai hết cả. Đó là nghịch lý. Dưới những hoàn cảnh khác có thể giữa chúng ta sẽ có người sẵn sàng mua lấy mạng sống bằng cách phản bội kẻ khác. Nhưng tất cả chúng ta đều biết mình sẽ không mua được gì với bội phản cả. Emhyr var Emreis không tha thứ. Hắn không thể tha thứ. Thay vì trái tim thì hắn có một cục băng trong lồng ngực. Đó là lý do vì sao hắn phải chết.”

Stefan Skellen không lưỡng lự lâu.

“Được rồi,” hắn nói. “Hãy để đây là minh chứng cho lòng thành của tôi. Vilgefortz đang trốn ở…”

***

Witcher, đang ngồi trước mấy cái ống đồng, nắm tay lại chặt đến mức cảm thấy đau. Anh vểnh tai lên. Và ghi nhớ.

***

Mối nghi ngờ của witcher về tấm mề đay của Fringilla là vô lý và đã bị loại trừ trong giây lát. Bởi khi quay lại cái hang khổng lồ và đến gần cây cầu đá bắc qua khe vực, tấm mề đay bắt đầu giật đùng đùng trên cổ anh, không phải như một con sẻ nhỏ, mà giống một thứ chim to lớn và mạnh mẽ. Như một con quạ chẳng hạn.

Geralt đứng im. Tấm mề đay dịu lại. Anh không làm một chuyển động nào dù là nhỏ nhất, để không cho dù là tiếng quần áo lạo xạo hay hơi thở làm thính giác của mình bị nhiễu loạn. Anh đợi. Anh biết rằng ở đầu bên kia, nằm ngoài cây cầu, là thứ quái quỷ gì đó đang rình trong bóng tối. Anh cũng không thể loại trừ rằng có thứ cũng đang nấp sau lưng mình, và cây cầu chính là một cái bẫy. Anh không có ý định sa bẫy. Anh đợi. Đợi điều gì đó xảy ra.

“Xin chào, witcher.” Anh nghe thấy. “Chúng ta đang đợi ngươi đây.”

Giọng nói cất lên từ bóng tối nghe lạ lùng. Nhưng Geralt đã từng nghe những giọng nói như vậy, và anh biết chúng. Giọng của những sinh vật không quen giao tiếp bằng ngôn từ. Chỉ có thể sử dụng phổi, màng ngăn, khí quản và thanh quản, những sinh vật này không hoàn toàn kiểm soát được cách phát âm của mình, dù cho kết cấu môi, vòm họng và lưỡi khá giống con người. Những từ ngữ thốt ra bởi những sinh vật như vậy, ngoại trừ âm điệu lạ lùng, đều chứa đầy âm thanh khó nghe đối với tai con người – từ tiếng sủa cục cằn cho đến rú rít nghe nhừa nhựa.

“Chúng ta đang đợi ngươi đây,” giọng nói lặp lại. “Chúng ta biết ngươi sẽ tới đây, bị dụ bởi những lời đồn. Rằng ngươi sẽ bò vào đây, dưới đất, để rình rập, truy đuổi, tra tấn và sát hại. Giờ thì ngươi sẽ không rời khỏi đây được. Ngươi sẽ không được nhìn lại ánh sáng mặt trời mình vô cùng yêu mến đó.”

“Ra mặt đi.”

Thứ gì đó di chuyển trong bóng tối phía bên kia cây cầu. Tại một vị trí, bóng đen dường như đặc lại và dần chuyển thành dạng người. Dường như sinh vật không bao giờ ở nguyên một chỗ trong một lúc lâu, mà di chuyển với sự trợ giúp của từng động tác nhanh nhẹn, bồn chồn và mờ ảo. Witcher đã từng gặp những thứ giống như vậy.

“Một con korred,” anh nói lạnh lùng. “Ta đã trông đợi gặp được một thứ như ngươi ở đây. Thật lạ là đến giờ ta mới tìm thấy ngươi.”

“Chà, chà.” Vẻ giễu cợt chất đầy trong giọng nói kỳ quặc của con quái vật. “Tối thế này mà hắn vẫn nhận ra ta. Và ngươi có nhận ra hắn không? Và hắn? Và hắn?”

Thêm ba sinh vật nữa hiện ra từ bóng tối, âm thầm như bóng ma. Một trong số chúng, nấp sau lưng con korred, cũng có hình dạng giống người, nhưng lùn hơn, vai gù giống khỉ. Geralt biết nó là một con kilmulis.

Hai con quái vật còn lại, mà anh đã nghi ngờ rất chính xác, đang rình trước cây cầu, sẵn sàng chặn đường rút lui ngay khi anh bước lên nó. Con đầu tiên bên trái, trông như một con nhện khổng lồ, dừng di chuyển và múa may mấy cái chân. Đó là một con molding. Sinh vật cuối cùng, trông tương tự một cái giá cắm nến, dường như chui ra từ khe nứt trên bức tường đá phiến. Geralt không thể đoán nó là cái gì. Không có con quái vật nào trông như vậy trong các quyển sách witcher.

“Ta không muốn đánh nhau,” anh nói, trông đợi một chút vào sự thật là những sinh vật này đã bắt đầu nói chuyện thay vì đơn giản là nhảy bổ vào lưng anh từ trong bóng tối. “Ta không muốn đánh nhau với các ngươi. Nhưng nếu cần ta sẽ tự vệ.”

“Chúng ta đã tính đến việc đó.” Con korred rít lên. “Đó là lý do vì sao chúng ta có bốn người. Đó là lý do vì sao chúng ta đã dụ ngươi ra đây. Ngươi đã dồn chúng ta vào đường cùng, lũ witcher chó má. Cái hố đẹp nhất ở phần này của thế giới, một nơi tuyệt vời để trú đông. Chúng ta đã ở đây gần như từ thuở bình minh của thời gian. Và giờ thì ngươi đã đến để săn lùng chúng ta, đồ khốn khiếp. Để truy sát chúng ta, giết chúng ta vì tiền. Chúng ta sẽ chấm dứt việc đó. Và cả ngươi nữa.”

“Nghe này, korred…”

“Tỏ ra lịch sự chút đi,” sinh vật gầm gừ. “Ta không thể chịu được lũ xấc xược.”

“Thế ta nên gọi ngươi là gì đây…”

“Ngài Schweitzer.”

“Vậy thì, ngài Schweitzer,” Geralt tiếp tục, ra vẻ phục tùng và nhũn nhặn, “chuyện là thế này. Ta thừa nhận mình đã tới đây với tư cách một witcher, cùng một nhiệm vụ của witcher. Ta gợi ý chúng ta bỏ qua vấn đề này. Tuy nhiên, có một chuyện đã xảy ra trong hang ở đây, mà khiến tình hình thay đổi 180 độ. Ta đã biết được những thông tin cực kỳ quan trọng đối với mình. Những thông tin có thể thay đổi toàn bộ cuộc đời ta.”

“Và kết quả từ việc này là gì?”

“Ta phải ngay lập tức quay trở lại mặt đất,” Geralt là một hình mẫu của điềm tĩnh và kiên nhẫn. “Ta phải ngay lập tức bắt đầu một chuyến hành trình dài, không chậm trễ nửa giây. Một con đường mà có thể ta sẽ không quay về được. Ta không nghĩ là mình sẽ bao giờ về lại nơi này…”

“Muốn mua mạng sống như vậy đó hả, witcher?” Ngài Schweitzer rít lên. “Không được đâu. Trò van xin của ngươi không có tác dụng. Chúng ta đã tóm được ngươi trong tay và sẽ không để ngươi thoát. Chúng ta sẽ giết ngươi không phải vì riêng bản thân mình, mà còn vì các anh em khác. Vì sự tự do của chúng ta và của họ, có thể nói vậy.”

“Ta sẽ không chỉ không quay lại nơi này,” Geralt từ tốn tiếp tục, “mà còn chấm dứt sự nghiệp witcher của mình. Ta sẽ không bao giờ sát hại giống loài của các ngươi nữa…”

“Ngươi nói dối! Ngươi nói dối vì sợ!”

“Nhưng,” Geralt không để bị ngắt lời, “ta phải ra khỏi đây ngay tức thì, như đã nói đó. Vậy nên ngươi có hai lựa chọn. Thứ nhất, ngươi tin vào sự thành thật của ta, và ta để mặc các ngươi ở đây. Hoặc thứ hai, ta bước qua xác các ngươi để rời khỏi đây.”

“Hoặc thứ ba,” con korred gầm gừ, “ngươi sẽ là cái xác nằm lại.”

Thanh kiếm của witcher rít lên khi được rút ra khỏi vỏ.

“Không phải duy nhất,” anh nói vô cảm. “Chắc chắn không phải là cái xác duy nhất, ngài Schweitzer.”

Con korred im lặng mất một lúc. Con kilmulis đi qua đi lại sau lưng anh. Con molding duỗi người và chân tay. Cái giá cắm nến thay đổi hình dạng. Giờ nó trông như một cây thông giáng sinh quái dị với hai con mắt lớn phát sáng.

“Hãy cho chúng ta bằng chứng,” cuối cùng con korred cất lời, “về sự thành thật và thiện chí của ngươi.”

“Cái gì?”

“Thanh kiếm của ngươi. Ngươi nói sẽ từ bỏ làm một witcher. Một witcher chính là thanh kiếm của hắn. Hãy ném nó xuống vực. Hoặc bẻ gẫy nó. Rồi chúng ta sẽ để ngươi đi.”

Trong một lúc Geralt đứng bất động. Tiếng nước nhỏ từ tường và trần hang nghe rõ mồn một. Rồi từ từ, không vội vã, anh cắm thanh kiếm vào sâu trong một vách đá. Và đập gãy lưỡi kiếm bằng một cú đá cực mạnh. Lưỡi kiếm vỡ tung với tiếng rền rĩ vang vọng khắp hang động.

Nước nhỏ từ những bức tường trông như nước mắt.

“Ta không thể tin,” con korred nói chậm rãi, “Ta không thể tin là lại có kẻ ngu đến vậy được.”

Cả bốn nhào vào anh, ngay lập tức, không một tiếng la ó, ồn ào hay mệnh lệnh gì cả. Ngài Schweitzer là tên đầu tiên lao qua cầu, móng vuốt vươn dài và bộ hàm mà ngay cả chó sói cũng không thấy hổ thẹn nhe ra.

Geralt để nó đến gần hơn, rồi vặn mình và cắt, chém xuyên qua cổ họng và hàm dưới của con quái vật. Trong chuyển động tiếp theo, anh đã đứng trên cầu và mổ bụng con kilmulis bằng một đường kiếm mạnh mẽ. Anh cúi xuống và nằm rạp ra đất vừa kịp lúc cái giá cắm nến bay qua đầu, móng vuốt sượt qua chiếc áo khoác da. Con molding nhảy ra trước mặt witcher, những cái chân mảnh mai xoay tròn như cối xay gió. Một cú gạt từ chúng đập vào bên đầu anh. Geralt nhảy, làm động tác giả, và thực hiện một đường kiếm quét ngang. Con molding lại nhảy, nhưng trượt. Nó đâm sầm vào lan can và rớt xuống vực cùng một cơn mưa đá. Cho đến giây phút đó nó vẫn chưa phát ra âm thanh nào cả, nhưng giờ khi rơi xuống, con quái vật hú hét điên loạn. Phải mất một lúc lâu trước khi tiếng hét dừng lại.

Chúng tấn công anh từ hai phía – cái giá cắm nến ở một bên, con kilmulis ở bên kia, mặc dù bị thương và máu chảy ồ ạt nhưng vẫn đứng được. Witcher nhảy lên lan can, khiến cả cây cầu rung chuyển. Anh thăng bằng và giờ nằm ngoài tầm với những chiếc móng của cái giá cắm nến, và ở đằng sau con kilmulis. Con kilmulis không có cổ, nên Geralt tặng nó một nhát kiếm vào thái dương. Nhưng cái đầu của con quái vật cứng như sắt, nên anh phải đánh tới hai lần để kết thúc. Nó khiến anh mất đến một giây lâu hơn.

Anh ăn một đập vào đầu, cơn đau nổ tung trong hộp sọ và hốc mắt. Anh xoay tròn xung quanh, bảo vệ mình bằng một nhát đỡ, cảm thấy máu chảy từ bên dưới tóc, cố để hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Anh né một nhát cào bằng móng vuốt nữa và hiểu. Cái giá cắm nến đã thay đổi hình dạng – và giờ đang tấn công bằng những cái chân dài gần như không thể tin nổi.

Điều này cũng có bất lợi. Giờ thì trọng tâm và sự thăng bằng của con quái vật đã bị rối loạn. Witcher né xuống bên dưới những cái chân, tiến đến gần hơn. Cái giá cắm nến, trông thấy chuyện gì đang diễn ra, nhảy lui lại như một con mèo, đôi chân sau thò ra, mà cũng đầy vuốt như chân trước. Geralt nhảy qua chúng, chém một nhát giữa không khí. Anh cảm thấy lưỡi kiếm cắt qua thịt. Witcher thụp xuống, xoay mình và lại chém lần nữa, khuỵu một bên gối. Sinh vật gào thét và lao đầu lên trước, bộ hàm vĩ đại cắn phập một cái ngay trước ngực anh. Đôi mắt lớn của nó sáng rực trong bóng tối. Geralt đẩy nó lùi lại bằng một cú đánh từ chuôi kiếm và cắt một nhát khoảng cách gần, cạo sạch một nửa hộp sọ của con quái vật. Nhưng kể cả không có một nửa đó thì sinh vật lạ lùng, mà không xuất hiện trong bất kỳ quyển sách witcher nào, vẫn táp táp bộ hàm được vài giây. Rồi nó chết, với một tiếng thở dài não nề nghe gần giống người.

Con korred giãy dụa trong một vũng máu.

Witcher đứng bên trên nó.

“Ta không thể tin được,” anh nói, “rằng lại có kẻ ngu đến mức bị lừa bởi một ảo ảnh đơn giản như một thanh kiếm gãy.”

Anh không chắc là con korred còn đủ tỉnh táo để hiểu. Thật ra anh cũng chẳng quan tâm.

“Ta đã cảnh báo ngươi rồi,” anh nói, lau máu đang chảy xuống má. “Ta đã bảo ngươi là ta phải ra khỏi đây mà lại.”

Ngài Schweitzer rùng mình dữ dội, khò khè, và nghiến răng. Rồi im lìm và nằm bất động.

Nước nhỏ trên tường và trần hang.

***

“Ông hài lòng chưa, Regis?”

“Giờ thì rồi.”

“Nếu vậy…” witcher đứng lên. “Thì đi đi. Gói ghém đồ đạc mau. Và khẩn trương vào.”

“Tôi sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Omnia mea mecum porto.

“Cái gì?”

“Tôi có rất ít đồ.”

“Vậy thì càng tốt. Bên ngoài thành phố trong nửa tiếng nữa.”

“Tôi sẽ tới đó.”

***

Anh đã đánh giá thấp cô. Cô bắt quả tang anh tại trận. Anh chỉ có thể tự trách mình. Thay vì vội vàng, lẽ ra anh có thể đi vòng qua đằng sau cung điện và để Roach lại cái chuồng ngựa lớn ở đó, nơi dành cho các hiệp sĩ dạo, người hầu, và cũng là nơi các bạn đồng hành của anh giữ ngựa. Anh đã không làm vậy, mà sử dụng cái chuồng của công tước phu nhân vì thói quen và đang vội. Và lẽ ra anh nên đoán được có người ở chuồng ngựa sẽ mách lẻo về mình.

Cô đi từ từ qua từng cái chuồng, chân đá rơm rạ. Cô mặc một cái áo khoác da cáo ngắn, một cái áo sơ mi bằng sa tanh trắng, một cái váy cưỡi ngựa màu đen và ủng cao. Những con ngựa khụt khịt, cảm nhận thấy cơn giận tỏa ra từ cô.

“Chà, chà,” cô cất lời khi trông thấy anh, phẩy cây roi quất ngựa trong tay. “Chúng ta đang bỏ chạy đây hả! Mà không thèm nói tạm biệt. Bởi lá thư mà có lẽ đang nằm trên bàn em không phải một lời tạm biệt tí nào hết. Không phải sau những gì chúng ta có. Em đang tưởng tượng rằng có vài lý do vô cùng quan trọng nào đó có thể lý giải và biện minh được cho hành động của anh.”

“Chúng có thể. Xin lỗi, Fringilla.”

“Xin lỗi, Fringilla”, cô nhại anh, môi méo mó đầy phẫn nộ. “Trang trọng làm sao, lịch sự làm sao, vô cùng thành tâm, để ý chú trọng đến phong cách. Lá thư mà anh đã để lại cho em, em hoàn toàn có thể chắc chắn rằng cũng được biên soạn một cách đầy tao nhã như vậy. Không hề phí mực.”

“Anh phải đi,” anh thốt ra. “Em có thể đoán vì sao. Và vì ai. Xin hãy tha thứ cho anh. Anh đã định ra đi trong lặng lẽ và âm thầm, bởi vì…anh không muốn em thử cố đuổi theo anh.”

“Nỗi sợ của anh là vô căn cứ,” cô dài giọng, bẻ gập cây roi. “Em cũng chẳng thèm đi kể cả nếu anh có hỏi, van nài dưới chân em. Ôi, không đâu, witcher. Cứ việc đi một mình, chết cóng một mình trong khe núi. Em không có nghĩa vụ gì với Ciri cả. Và với anh? Anh có biết đã bao nhiêu người cầu xin được có những gì anh đã có chưa? Và những gì mà giờ đây anh đang chối bỏ với sự khinh bỉ, ném đi không thương tiếc?”

“Anh sẽ không bao giờ quên em.”

“Ôi,” cô rít lên. “Anh không biết em muốn biến điều đó thành chắc chắn thế nào đâu. Kể cả nếu không phải bằng ma thuật, thì cũng bằng cây roi này!”

“Em sẽ không làm vậy.”

“Anh nói đúng, em sẽ không. Em không thể. Em sẽ cư xử sao cho phù hợp với một tình

nhân bị xua đuổi và ruồng bỏ. Theo cách truyền thống. Em sẽ bỏ đi với đầu ngẩng cao. Với danh dự và phẩm hạnh. Nuốt nước mắt vào trong. Rồi gào thét với một cái gối. Rồi ngủ với một người khác!”

Đến cuối cô gần như hét lên.

Anh không nói gì. Cô cũng vậy.

“Geralt,” cuối cùng cô lên tiếng, giọng hoàn toàn khác. “Ở lại với em đi.”

“Em nghĩ rằng em yêu anh.” Cô nói khi trông thấy anh lưỡng lự trả lời. “Ở lại với em đi. Em cầu xin anh. Em chưa từng làm vậy với bất kỳ ai và đừng có nghĩ là em sẽ làm thế lần nữa. Em cầu xin anh.”

“Fringilla,” anh trả lời sau một lúc. “Em là một người phụ nữ mà tất cả đàn ông đều mơ ước. Lỗi của anh, lỗi duy nhất của anh, đó là anh không phải một kẻ mơ mộng.”

“Anh,” cô đáp lại sau một giây, cắn môi, “như thể một cái lưỡi câu, mà một khi đã cắn phải thì chỉ có thể rút ra cùng với máu và thịt. Chà, em chỉ biết tự trách mình mà thôi. Em biết mình đang làm gì, chơi đùa cùng một món đồ chơi nguy hiểm như vậy. May thay, em cũng biết cách chấp nhận hậu quả. Ở khía cạnh đó em có lợi thế hơn phần còn lại của phái nữ.”

Anh không bình luận.

“Dù sao thì,” cô thêm vào, “một trái tim tan vỡ, dù đau đớn tột cùng, hơn nhiều một cánh tay gãy, nhưng lại lành nhanh hơn.”

Anh cũng không bình luận lần này. Fringilla ngắm nghía vết bầm trên má anh.

“Tấm mề đay của em thế nào? Hoạt động tốt chứ?”

“Nó đơn giản là tuyệt vời. Cảm ơn em.”

Cô gật đầu.

“Anh định đi đâu?” cô hỏi bằng giọng hoàn toàn khác. “Anh đã tìm hiểu được điều gì? Anh biết nơi Vilgefortz đang ở, có phải không?”

“Phải. Đừng bảo anh nói cho em biết nó ở đâu. Anh sẽ không nói.”

“Em sẽ mua thông tin đó. Có qua có lại.”

“Ồ, thế sao?”

“Em có thông tin đáng giá,” cô nhắc lại, “và với anh thì nó đơn giản là vô giá. Em sẽ bán cho anh để đổi lại…”

“Sự thảnh thơi,” anh kết thúc, nhìn vào mắt cô. “Lòng tin tưởng anh đã đặt nơi em. Vừa mới phút trước còn đang yêu đương. Giờ chúng ta đã nói tới chuyện trao đổi rồi sao?”

Cô im lặng một lúc lâu. Rồi quật cây roi thúc ngựa thật mạnh lên ủng.

“Yennefer,” cô tuôn ra thật nhanh, “người với cái tên mà anh đã dùng để gọi em vài lần trong đêm, giữa giây phút khoái lạc, chưa bao giờ phản bội anh, hay Ciri. Cô ấy chưa bao giờ là đồng phạm của Vilgefortz. Để giải cứu Cirilla, cô ấy đã dũng cảm chấp nhận một rủi ro vô cùng lớn. Cô ấy đã phải hứng chịu thất bại, và rơi vào tay Vilgefortz. Cô ấy chắc chắn đã bị tra tấn để tìm ra vị trí của anh hồi mùa thu năm ngoái. Không rõ là cô ấy có còn sống hay không. Em không biết nhiều hơn thế. Em thề.”

“Cảm ơn em, Fringilla.”

“Giờ đi đi.”

“Anh tin em,” anh nói mà không di chuyển. “Và anh sẽ không bao giờ quên những gì đã xảy ra giữa hai ta. Anh tin em, Fringilla. Anh sẽ không ở lại cùng em, nhưng anh nghĩ rằng anh cũng yêu em…theo cách của riêng mình. Xin hãy giữ bí mật những gì em sắp được biết. Nơi trú ẩn của Vilgefortz là…”

“Đợi đã,” cô ngắt lời. “Anh sẽ cho em biết sau. Còn bây giờ, trước khi đi, hãy nói tạm biệt với em. Theo cách mà anh nên nói tạm biệt. Không phải bằng những lá thư nhỏ mọn, hay những lời xin lỗi ấp úng. Hãy nói tạm biệt với em theo cách mà em muốn.”

Cô cởi bỏ chiếc áo khoác da cáo và ném xuống một vựa rơm khô. Bằng một chuyển động thô bạo cô giật tung chiếc áo sơ mi, mà bên dưới không mặc gì cả. Cô ngả xuống chiếc áo khoác và kéo theo anh. Geralt đỡ dưới gáy cô, kéo váy cô lên, và chợt nhận ra rằng anh không có thời gian để tháo găng tay. Thật may là Fringilla không đeo găng. Hay mặc quần lót. Và cũng thật may là cô không đeo gai thúc ngựa, bởi chỉ một lúc sau gót giày cô đạp gần như mọi nơi. Không thể biết được chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô đeo gai thúc ngựa.

Khi cô hét lên, anh hôn cô. Kìm tiếng hét lại.

Những con ngựa cảm nhận được sự cuồng nhiệt của họ, hý vang và giậm chân lên cửa chuồng cho đến khi rơm và bụi trút lả tả từ trên trần.

***

“Lâu đài Rhys–Rhun, ở Nazair, bên cạnh Hồ Muredach,” Fringilla Vigo kết thúc trong chiến thắng. “Đó là nơi Vilgefortz đang ẩn nấp. Tôi đã lôi được thông tin này từ witcher trước khi anh ta bỏ đi. Chúng ta có đủ thời gian để vượt mặt anh ta. Anh ta không thể tới đó trước tháng Tư được.”

Chín người phụ nữ quây quần trong đại sảnh của lâu đài Montecalvo gật gù, nhìn Fringilla bằng con mắt tán thưởng.

“Rhys–Rhun,” Philippa Eilhart lặp lại trong khi răng nhe ra thành một nụ cười dã thú và tay mân mê cái trâm cài bằng mã não vân đính trên váy. “Rhys–Rhun ở Nazair. Hẹn sớm gặp lại, ngài Vilgefortz…sớm gặp lại!”

“Nếu witcher tới đó,” Keira Metz rít lên, “anh ta sẽ không tìm được gì ngoại trừ những mảnh vụn thậm chí chẳng còn bốc mùi khét nữa.”

“Và cả những xác chết cũng không.” Sabrina Glevissig mỉm cười duyên dáng.

“Hoan hô, cô Vigo,” Síle de Tanserville gật đầu – một cử chỉ mà Fringilla chưa bao giờ trông đợi ở nữ pháp sư lừng danh. “Một công việc hoàn hảo.”

Fringilla cúi đầu.

“Hoan hô,” Síle lặp lại. “Ba tháng ở Toussaint…nhưng hoàn toàn xứng đáng.”

Fringilla Vigo quét mắt qua một lượt các nữ pháp sư đang ngồi quanh bàn. Qua Síle, Philippa và Sabrina Glevissig. Qua Keira Metz, Margarita Laux–Antille và Triss Merigold. Qua Francesca Findabair và Ida Emean, những người mà đôi mắt elves được tô điểm lòe loẹt không biểu lộ cảm xúc gì cả. Qua Assire var Anahid, mà đôi mắt đang lộ vẻ lo lắng và bất an.

“Đúng như vậy.” cô ta thừa nhận.

Khá thành thực.

***

Bầu trời dần chuyển từ xanh đậm sang đen. Một cơn gió buốt giá thổi qua những vườn nho. Geralt cài cúc cái áo khoác lông sói của mình và quấn một chiếc khăn len quanh cổ. Và cảm thấy thật tuyệt. Làm tình, như mọi khi, đưa anh lên đến đỉnh cao của thể chất và tinh thần, xóa bỏ mọi nghi ngờ và thanh lọc tâm trí. Anh chỉ thấy tiếc rằng mình sẽ không còn được tận hưởng phương thuốc chữa bách bệnh đó trong một thời gian dài.

Giọng của Reynart de Bois–Fresnes kéo anh ra khỏi dòng suy ngẫm.

“Thời tiết xấu đang đến,” vị hiệp sĩ dạo nói trong lúc nhìn về hướng đông, nơi mà cơn gió đang thổi. “Khẩn trương lên. Nếu cơn gió này đem theo tuyết, nếu nó bắt kịp anh trên đèo, thì anh sẽ như ngồi trong bẫy. Điều duy nhất anh có thể làm khi đó là cầu nguyện với thần linh – cả những vị anh tôn thờ và những vị anh chỉ nghe nói đến – để tuyết tan ra.”

“Chúng tôi hiểu.”

“Dòng Sansretour sẽ dẫn đường cho anh trong vài ngày đầu tiên, hãy bám theo con sông. Anh sẽ đi qua một trạm giao thương và tới một điểm nơi mà một nhánh sông đổ vào Sansretour từ bên phải. Đừng quên, từ bên phải. Nó sẽ chỉ đường cho anh tới đèo Malheur. Nếu, với sự trợ giúp của thần linh, anh chinh phục được Malheur, đừng vui mừng quá nhiều, bởi anh vẫn còn đèo Sansmerci và Mortblanc ở trước mặt. Anh sẽ phải vượt qua cả hai, rồi sau đó phi xuống thung lũng Sudoth. Sudoth có khí hậu khá ấm áp, gần như Toussaint. Nhưng đất ở đó quá nghèo nàn, không nho nào mọc được…”

Ông ta dứt lời với vẻ ngại ngùng, nhận thấy những ánh mắt không hài lòng.

“Được rồi,” ông ta tiếp tục. “Vào ý chính. Thị trấn Caravista nằm ở cuối Sudoth. Người anh họ của ta sống ở đó, Guy de Bois–Fresnes. Hãy đến thăm ông ấy và nhắc đến ta. Nếu hóa ra ông ấy đã chết, hoặc bị ngớ ngẩn, thì hãy nhớ rằng bước tiếp theo của chuyến hành trình của anh là hướng tới những cánh đồng của Mag Deira và thung lũng Sylte. Từ đó, Geralt, bám theo tấm bản đồ mà anh đã cho người vẽ đó. Sẵn tiện nói đến người vẽ bản đồ – ta không hiểu vì sao anh lại hỏi ông ta về lâu đài…”

“Quên đi, Reynart. Không có chuyện gì đã xảy ra cả. Ông không nghe thấy gì và trông thấy gì. Kể cả nếu chúng có tra tấn ông. Hiểu chứ?”

“Ta hiểu.”

“Một kỵ sĩ,” Cahir cảnh báo, ghìm lại con ngựa bỗng dưng chồm lên. “Một kỵ sĩ đang phi nước đại từ cung điện.”

“Nếu chỉ có một,” Angouleme nở một nụ cười ngoác miệng, tay xoa cái rìu treo trên yên, “thì chẳng có vấn đề gì cả.”

Người kỵ sĩ hóa ra là Dandelion. Và, ngạc nhiên của ngạc nhiên, con ngựa hóa ra là Pegasus, chú ngựa thiến của nhà thơ, mà thường không hay phi nước đại và rõ ràng là không ưa việc đó lắm.

“Chà,” nhà thơ nói, thở dốc đến nỗi có cảm tưởng như cậu đã mang con ngựa trên lưng chứ không phải là ngược lại. “Chà, tôi đã làm được. Tôi cứ sợ là mình sẽ không bắt kịp các anh.”

“Đừng nói là giờ cậu muốn đi cùng chúng tôi đấy nhé.”

“Không, Geralt” – Dandelion cúi đầu – “tôi sẽ không đi cùng. Tôi sẽ ở lại Toussaint, cùng Chồn Nhỏ. Ý là, Anarietta. Nhưng tôi phải nói tạm biệt với anh. Chúc anh may mắn trên đường.”

“Cảm ơn công tước phu nhân vì mọi thứ. Và hãy tìm một lý do để biện minh cho việc chúng tôi đột ngột rời đi như vậy, mà không nói tạm biệt. Hãy giải thích bằng cách nào đấy.”

“Anh đã lập một lời thề hiệp sĩ, và giờ phải hoàn thành nó. Mọi người ở Toussaint, kể cả Chồn Nhỏ, đều sẽ hiểu. Nhưng đây…cầm lấy đi. Đây sẽ là đóng góp của tôi.”

“Dandelion,” – Geralt cầm lấy cái túi từ tay nhà thơ – “chúng tôi không thiếu tiền. Không cần phải…”

“Đây sẽ là đóng góp của tôi.” Nhà thi sĩ nhắc lại. “Tiền không bao giờ là thừa. Vả lại, nó cũng không phải của tôi – tôi đã lấy mấy đồng ducat này từ ví của Chồn Nhỏ. Sao anh lại nhìn tôi như vậy? Phụ nữ đâu cần tiền. Và họ cần tiền để làm gì? Họ không uống rượu, không đánh bạc – phụ nữ chỉ tự đày đọa chính mình thôi. Giờ thì, mọi thứ xong xuôi rồi! Đi đi, trước khi tôi bật khóc. Và khi tất cả kết thúc, các anh phải quay lại Toussaint, quay lại và kể tôi nghe mọi chuyện. Và tôi sẽ vẽ chân dung Ciri. Hứa nhé, Geralt?”

“Tôi hứa.”

“Giờ thì tốt rồi.”

“Đợi đã.” Geralt quay đầu con ngựa, tiến lại gần nhà thơ và lôi ra một lá thư bí mật từ trong áo. “Hãy đảm bảo lá thư này đến đúng địa chỉ…”

“Fringilla Vigo?”

“Không. Dijkstra.”

“Tại sao, Geralt? Và tôi phải làm thế nào đây?”

“Tìm cách đi. Tôi biết cậu có thể. Và giờ, bảo trọng nhé. Ôm tôi một cái nào, lão già ngốc nghếch.”

“Ôm tôi một cái nào, anh bạn. Tôi sẽ để mắt trông chừng anh.”

Họ nhìn cậu rời đi, từ từ quay lại Beauclair.

Bầu trời đen ngòm.

“Reynart.” Witcher quay người trên yên. “Hãy đi cùng chúng tôi.”

“Không, Geralt.” Reynart de Bois–Fresnes trả lời sau một lúc. “Ta là một hiệp sĩ dạo. Nhưng ta không điên.”

***

Một sự phấn khích lạ thường bao trùm đại sảnh của lâu đài Montecalvo. Ánh nến như mọi khi giờ đã được thay thế bằng thứ ánh sáng mờ ảo phát ra từ một tấm màn ma thuật lớn. Hình ảnh trên màn lập lòe, đung đưa và thoắt ẩn thoắt hiện. Tất cả những điều này đều làm tăng sự căng thẳng và phấn khích. Và lo lắng.

“Ha,” Philippa Eilhart lên tiếng với một nụ cười dã thú. “Thật tiếc là tôi không thể có mặt ở đó. Một chút hoạt động chân tay sẽ rất tốt cho tôi. Và một chút adrenaline.”

Síle de Tanserville liếc cô ta một cái không bằng lòng, nhưng không nói gì cả. Francesca Findabair và Ida Emean ổn định hình ảnh bằng thần chú và phóng to để nó nằm vừa toàn bộ màn hình. Họ có thể trông thấy rõ ràng những đỉnh núi đen ngòm trên nền trời xanh thẳm đầy sao, mà cũng phản chiếu trên mặt một cái hồ nằm cạnh một tòa lâu đài u ám.

“Tôi vẫn không chắc,” Síle nói, “liệu có hợp lý không khi giao quyền chỉ huy đội đặc nhiệm này vào tay Sabrina và Metz trẻ tuổi. Keira đã bị gãy xương sườn trên Thanedd, cô ấy có lẽ sẽ muốn báo thù. Và Sabrina…chà, cô ấy thích được hành động và adrenaline có phần hơi quá. Không phải vậy sao, Philippa?”

“Chúng ta đã bàn chuyện này rồi,” Philippa vặc lại, giọng nghe chua như giấm. “Chúng ta đã đề ra quy tắc. Không ai phải chết nếu có thể tránh được. Nhóm của Sabrina và Keira sẽ lặng lẽ tiến vào Rhys–Rhun, im như chuột nhắt. Họ sẽ bắt sống Vilgefortz, không một vết xước, không một vết bầm. Đó là luật lệ chúng ta đã đề ra. Mặc dù quan điểm của tôi vẫn là chúng ta nên làm gương. Để số ít những kẻ sống sót trong tòa lâu đài sẽ choàng dậy giữa đêm, la hét và mơ về cơn ác mộng này suốt phần đời còn lại của chúng.”

“Báo thù,” nữ pháp sư Kovir nói khô khan, “là thú vui dành cho những tâm trí yếu ớt, tầm thường và ti tiện.”

“Có lẽ vậy,” Philippa đồng tình với một nụ cười dường như thờ ơ. “Nhưng nó vẫn là một thú vui.”

“Đủ rồi.” Margarita Laux–Antille nhấc một ly rượu vang óng ánh lên cao. “Tôi đề nghị chúng ta uống mừng sức khỏe của cô Fringilla Vigo, nhờ có những nỗ lực của cô ấy mà nơi ẩn náu của Vilgefortz mới bị phát hiện. Thật sự, cô Fringilla, cô đã làm tốt, rất tốt.”

Fringilla cúi chào và nâng ly đáp lại. Cô ta để ý một thoáng châm chọc trong đôi mắt đen của Philippa, và khó chịu trong đôi mắt xanh lam của Triss Merigold. Cô ta không thể giải nghĩa được nụ cười của Francesca và Síle.

“Bắt đầu rồi.” Assire var Anahid nói, tay chỉ vào màn hình.

Họ ngồi xuống thoải mái. Để nhìn được rõ hơn, Philippa làm dịu ánh nến bằng một câu thần chú.

Họ nhìn những bóng hình đen ngòm bay qua dãy núi, thầm lặng và nhanh nhẹn như dơi.

Nhìn họ phá đội hình và lao xuống những tháp canh và tường thành của lâu đài Rhys–Rhun.

“Chắc cũng phải một trăm năm rồi,” Philippa lầm bầm, “kể từ lần cuối tôi kẹp một cây chổi giữa hai chân. Sớm thôi tôi sẽ quên mất cách bay.”

Síle, mắt dán vào màn hình, làm cô ta im lặng với một tiếng rít.

Những khung cửa sổ của tòa lâu đài đen chợt nhá lên với ánh sáng của lửa trong tích tắc. Một lần, hai lần, ba lần. Họ biết nó là cái gì. Những ô cửa và chốt khóa đang bị bẻ gãy dưới tác dụng của cầu sét.

“Họ đã vào trong,” Assire var Anahid nói khẽ, người duy nhất không nhìn vào màn hình, mà là một quả cầu pha lê nằm trên bàn. “Đội đặc nhiệm đã vào trong. Nhưng có gì đó không ổn. Có gì đó không đúng lắm.”

Trái tim của Fringilla đập thình thịch và bao tử cô ta như xoắn vặn. Cô ta biết điều không ổn là cái gì.

“Cô Glevissig,” Assire lại báo cáo, “sẽ mở một kênh liên lạc trực tiếp.”

Khoảng không giữa những cây cột của đại sảnh chợt sáng lên và một hình ôvan hiện ra thành Sabrina Glevissig – trong trang phục đàn ông, tóc buộc gọn bằng một dải khăn quanh trán, gương mặt điểm vài vệt sơn ngụy trang đen ngòm. Sau lưng nữ pháp sư, họ có thể trông thấy bức tường đá bẩn thỉu và những tấm thảm rách bươm đã từng dùng để trang trí.

Bàn tay Sabrina vươn ra về phía họ, chiếc găng tay bám một dải mạng nhện dài lòng thòng.

“Chỉ có cái này thôi,” cô ta nói, làm cử chỉ loạn xạ, “chỉ có cái này! Chỉ có cái này! Mẹ kiếp, thật ngu ngốc làm sao…đúng là một thảm họa…”

“Nói rõ ràng hơn đi, Sabrina!”

“Nói rõ cái gì?” nữ pháp sư Kaedwen hét lên. “Còn gì để mà rõ nữa? Các cô không thấy sao? Đây là lâu đài Rhys–Rhun! Nó trống rỗng! Trống rỗng và bẩn thỉu! Nó là một cái tàn tích chết tiệt! Chẳng có gì ở đây cả! Chẳng có gì hết!”

Keira Metz hiện ra sau lưng Sabrina, nhìn như địa ngục thuần khiết với lớp ngụy trang trên mặt.

“Không có ai,” cô ta xác nhận khe khẽ, “đã ở tòa lâu đài này trong khoảng 50 năm rồi. Trong 50 năm, không có một sinh linh nào ngoại trừ nhện, chuột và dơi trú ngụ nơi đây. Chúng ta đã đột nhập hoàn toàn sai địa điểm.”

“Cô đã xác nhận đây không phải là ảo ảnh chưa?”

“Chị nghĩ chúng tôi là trẻ con à, Philippa?”

“Hãy cẩn thận, cả hai người.” Philippa Eilhart lo lắng lùa tay qua mái tóc. “Nói với đám lính đánh thuê và học viên rằng đây chỉ là một bài diễn tập. Trả tiền cho họ rồi quay về. Quay về ngay lập tức. Và làm mặt thật điềm tĩnh vào, nghe rõ chưa? Thật điềm tĩnh vào!”

Kênh liên lạc chấm dứt. Chỉ còn lại một hình ảnh trên màn chiếu. Lâu đài Rhys–Rhun giữa những ngôi sao lấp lánh của thiên đàng. Và cái hồ phản chiếu lại chúng.

Fringilla Vigo nhìn xuống bàn. Cô ta có cảm giác như mạch máu ở má sẽ vỡ tung bất kỳ lúc nào.

“Tôi thật sự…,” cô ta cất lời, bởi không thể chịu nổi sự im lặng kéo dài trong đại sảnh của lâu đài Montecalvo. “Tôi thật sự…không hiểu…”

“Tôi thì có.” Triss Merigold nói.

“Tòa lâu đài này…” Philippa trầm ngâm, phớt lờ những người khác. “Lâu đài…Rhys–Rhun này…chúng ta sẽ phải thiêu hủy nó. Đánh sập nó hoàn toàn. Và bất kỳ ghi chép nào về sự kiện này – cả huyền thoại hay chuyện dân gian, đều phải được che đậy thật cẩn thận. Các quý cô có hiểu ý tôi không?”

“Được thôi.” Francesca Findabair, người im lặng từ nãy đến giờ, gật đầu. Ida Emean, cũng im lặng, phát ra một tiếng khịt mũi thật duyên dáng.

“Tôi…” Fringilla Vigo vẫn còn choáng váng. “Tôi thật sự không hiểu…sao chuyện này lại có thể xảy ra…”

“Ah,” Síle de Tanserville lên tiếng sau một khoảng im lặng dài. “Không có gì nghiêm trọng đâu, cô Vigo. Không ai là hoàn hảo cả.”

Philippa khịt mũi thật khẽ. Assire var Anahid thở dài và nhìn lên trần nhà.

“Sau cùng thì,” Síle thêm vào, môi vặn vẹo, “đó là điều mà tất cả chúng ta đều đã từng trải qua một lần. Tất cả mỗi người ngồi đây, đều đã có lúc bị phản bội, lợi dụng hoặc đem ra làm trò cười bởi một người đàn ông.”

“Ta yêu nàng, vẻ đẹp ta say đắm:

Hãy tự nguyện, nàng yêu, bằng không ta ép buộc.” “Cha ơi, cha ơi, tay con hắn nắm lấy!

Tên vua Alder, cha ơi, hắn làm con ô nhục!”

Johann Wolfgang von Goethe.

Mọi thứ đã từng xảy ra, mọi thứ sẽ xảy đến lần nữa. Và mọi thứ đều đã được tiên liệu từ trước.

– Vysogota của Corvo.

About The Author

Ngo David

Power is Power