The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 12

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Họ tiếp tục đi cho tới lúc gặp một cái hồ lớn tuyệt đẹp đầy thứ nước trong vắt như thủy tinh, và ở giữa hồ, Arthur trông thấy một cánh tay mặc áo trắng đang giữ một thanh kiếm đẹp tuyệt trần.

“Hãy trông, đó là thanh kiếm mà ta đã nhắc đến,” Merlin chỉ.

Đột nhiên họ trông thấy một cô gái bước đi trên mặt hồ.

“Đó là ai vậy?” Arthur hỏi.

“Đó là Nữ Thần Hồ.” Merlin trả lời.

Ngài Thomas Malory, Cái chết của vua Arthur.

Người đàn ông đang lén lại gần khu trại, phải công nhận, là nhanh nhẹn và khéo léo như một con cáo già. Hắn thay đổi vị trí vô cùng lẹ, và di chuyển thanh thoát và khẽ khàng tới nỗi có thể lén lại gần bất kỳ ai. Bất kỳ ai. Nhưng không phải Boreas Mun. Boreas Mun đã có quá nhiều kinh nghiệm trong việc rình mò và lén lút rồi.

“Đi ra đi, ông bạn!” ông ta gọi, thật cố để tô điểm cho giọng của mình một vẻ tự tin và kiêu ngạo. “Mấy cái mánh khóe đó vô ích thôi. Tôi thấy ông rồi. Ở ngay đó.”

Một trong những tảng đá nằm trên sườn đồi dưới vòm trời đầy sao chợt di chuyển và biến thành dạng một con người.

Boreas quay cái xiên thịt nướng, bởi bắt đầu ngửi thấy mùi khét. Vờ như chống tay để thoải mái, ông ta chạm vào cán cầm của cây nỏ.

“Đồ đạc của tôi không nhiều lắm,” Ông ta đan một sợi chỉ đe dọa vào câu nói tưởng như rất bình thản. “Nhưng tôi không có ý định để mất chúng. Tôi sẽ bảo vệ chúng đến chết.”

“Tôi không phải cướp,” người đàn ông đã giả làm một tảng đá lên tiếng bằng một giọng trầm. “Tôi là một người hành hương.”

Người hành hương khá cao và thân hình to lớn, phải đến hơn hai mét, và để cân ông ta trên một bàn cân thì Boreas dám cược phải cần đến ít nhất 25 cục đá. Thanh gỗ ông ta mang, dày như trục xe hàng, trông như một cây gậy chống. Boreas Mun thật sự thấy ngạc nhiên làm sao mà một kẻ vụng về ục ịch như vậy lại có thể lén lút khẽ khàng đến mức đó. Và bất an một phần. Cây nỏ của ông ta, với sức căng 35 cân và khả năng đốn hạ một con hươu đực trong khoảng cách 48 bước chân, đột nhiên có cảm giác bé nhỏ, như một món đồ chơi trẻ con.

“Tôi là một người hành hương,” người đàn ông to béo nhắc lại. “Tôi không có ý…”

“Và người còn lại nữa,” Boreas cao giọng ngắt lời. “Bảo ông ta ra luôn đi.”

“Người còn lại nào?” người hành hương ấp úng và dứt câu, trông thấy một bóng hình mảnh dẻ, im lặng như bóng tối hiện ra từ phía bên kia. Lần này Boreas Mun không thấy ngạc nhiên tí nào. Người còn lại – chuyển động của ông ta ngay lập tức để lộ ra danh tính trước con mắt chuyên nghiệp của người truy dấu – là một gã elf. Và bị một gã elf lén lại gần thì cũng chẳng có gì là đáng xấu hổ.

“Tôi xin các vị thứ lỗi,” người elves nói bằng giọng nghe không giống elves một cách kỳ lạ. “Tôi đã ẩn náu khỏi cả hai người không phải vì mục đích hiểm ác, mà vì sự sợ hãi. Nếu là tôi thì tôi sẽ giở xiên thịt.”

“Đúng vậy,” người hành hương nói, dựa vào cây gậy và hít hà. “Thịt ở mặt đó được nướng quá đủ rồi.”

Boreas giở xiên thịt, thở dài và hắng giọng. Rồi lại thở dài.

“Ngồi xuống đi, các ngài.” Ông ta quyết định. “Và đợi một chút. Con thú sẽ được quay xong vài phút nữa thôi. Ha, chỉ có kẻ vô lại mới từ chối phép lịch sự với người qua đường.”

Mỡ nhỏ giọt xuống ngọn lửa và rít lên, lửa bùng lên mạnh hơn. Và sáng hơn.

Người hành hương đội một chiếc mũ phớt rộng vành, rất hữu hiệu trong việc che giấu gương mặt ông ta. Một dải khăn sặc sỡ quấn quanh đầu người elves. Khi trông thấy gương mặt ông ta trong ánh lửa, cả hai người đàn ông – Boreas và người hành hương – chợt rùng mình. Nhưng không thốt ra thậm chí một tiếng động, dù là nhỏ nhất, trước cảnh tượng gương mặt mà không nghi ngờ gì là đã từng có thời mang vẻ đẹp cổ điển của elves, giờ bị hủy hoại bởi một vết sẹo xấu xí cắt chéo qua trán, lông mày, mũi và má đến tận cằm.

Boreas Mun hắng giọng và lại giở xiên thịt.

“Mùi hương quyến rũ này đã kéo các vị tới trại của tôi,” ông ta tuyên bố hơn là hỏi. “Phải không, các quý ngài?”

“Đúng vậy.” Giọng của người hành hương thay đổi đôi chút. “Khiêm tốn mà nói thì tôi ngửi được mùi thịt nướng từ cách xa cả dặm. Nhưng vẫn giữ cảnh giác. Có vài kẻ đã nướng một người phụ nữ trên một đống lửa trại tôi đi qua cách đây hai ngày.”

“Chính xác.” Gã elf xác nhận. “Tôi đã ở đó vào sáng hôm sau. Tôi thấy xương người lẫn trong tro tàn.”

“Sáng hôm sau,” người hành hương chậm rãi nhắc lại, kéo dài âm tiết, và Boreas dám cược mọi thứ rằng một nụ cười độc địa đang nở trên gương mặt ẩn giấu bên dưới chiếc mũ đó. “Bí mật bám theo tôi đã lâu rồi hả, ngài elf?”

“Phải.”

“Và điều gì đã ngăn ông lộ diện?”

“Lý trí.”

“Hẻm núi Elskerdeg”, Boreas Mun giở xiên thịt và cắt ngang sự im lặng kỳ quặc, “không phải là nơi có danh tiếng tốt đẹp. Tôi cũng đã trông thấy xương lẫn trong củi trại, hay đóng trên cọc. Xác người bị treo cổ. Nơi này đầy rẫy bọn tín đồ man rợ của những giáo phái tàn bạo. Và những sinh vật chỉ chực chờ ăn thịt ta. Đấy là theo lời đồn.”

“Đó không phải lời đồn,” người elves sửa lại. “Đó là sự thật. Và càng tiến sâu hơn về phía đông dãy núi thì càng tồi tệ hơn.”

“Các vị có đang di chuyển về phía đông không? Đằng sau Elskerdeg? Tới Zerrikania? Hoặc thậm chí xa hơn, tới Hakland?”

Cả người hành hương lẫn người elves đều không đáp. Boreas không trông đợi một câu trả lời. Thứ nhất, câu hỏi thật lộ liễu. Thứ hai, nó thật ngớ ngẩn. Từ nơi họ đang ở thì chỉ có thể quay lại hoặc tiến về phía đông. Qua Elskerdeg. Nơi mà ông ta cũng đang muốn đến.

“Thịt đã xong rồi.” Boreas rút một con dao bướm ra với động tác hoa mỹ, cố ý khoe khoang. “Ăn thôi, các quý ngài. Cứ tự nhiên.”

Người hành hương mang một thanh kiếm, và gã elf một con dao, mà cũng chẳng phải dao làm bếp thông thường. Nhưng cả ba món vũ khí, được mài bén dành cho những mục đích hiểm ác hơn nhiều, đã được dùng để cắt thịt ngày hôm đó. Trong một lúc tất cả những gì nghe được là tiếng nhồm nhoàm. Và âm thanh xèo xèo của xương bị ném vào đống lửa.

Người hành hương ợ một tiếng.

“Thật là một sinh vật nhỏ bé dị thường,” ông ta nói, xăm soi mẩu xương bả vai mà mình đã gặm sạch và liếm cho đến khi trông như đã được giữ trong tổ kiến đến ba ngày. “Có vị như dê, và mềm như thỏ…Tôi không nhớ là đã từng ăn con gì như thế bao giờ.”

“Nó là một con skrekk,” người elves trả lời, nhai sụn nghe răng rắc. “Tôi cũng không nhớ là đã từng được ăn nó bao giờ.”

Boreas khẽ hắng giọng. Âm điệu thích thú gần như không nhận ra nổi trong câu nói của gã elf cho thấy ông ta biết món thịt nướng đến từ một con chuột khổng lồ với đôi mắt đỏ vằn và hàm răng vĩ đại, chỉ đuôi không đã dài đến ba mét. Người truy dấu vốn không hề có ý định đi săn con thú gặm nhấm khổng lồ. Ông ta bắn chết nó vì tự vệ, nhưng đã quyết định sẽ nướng nó lên. Ông ta là một con người tỉnh táo và sáng suốt. Ông ta không đời nào ăn chuột bò lổm ngổm trên đống rác rưởi. Nhưng phải mất gần ba trăm dặm nữa từ hẻm núi hẹp Elskerdeg tới cơ ngơi văn minh gần nhất có khả năng sản sinh ra rác rưởi. Con chuột – hay như người elves đã nói, skrekk

– chắc phải sạch sẽ và khỏe mạnh. Nó không có bất kỳ liên hệ nào với nền văn minh. Và do đó không thể mang trong mình mầm bệnh nào cả.

Chẳng lâu sau, mẩu xương cuối cùng, bị gặm và liếm sạch, đã được ném vào đống củi. Mặt trăng vươn lên phía trên đường viền răng cưa của Núi Lửa. Cơn gió thổi bùng tro tàn và tia lửa tóe lên, lịm dần rồi biến mất giữa hàng vạn vì tinh tú lấp lánh.

“Đã rong ruổi được lâu chưa, các quý ngài?” Boreas lại đánh liều một câu hỏi thiếu tế nhị khác. “Ở giữa nơi hoang dã này? Các vị đã bỏ lại Cổng Solveiga được bao lâu rồi, cho phép tôi hỏi?”

“Lâu rồi, lâu rồi.” Người hành hương nói. “Dù sao thì nó cũng chỉ là tương đối. Tôi đã đi qua Solveiga vào ngày thứ hai sau trăng tròn tháng Chín.”

“Tôi thì vào ngày thứ sáu.” Gã elf thêm vào.

“Ha,” Boeras Mun tiếp tục, được khuyến khích bởi phản ứng của hai vị khách. “Thật lạ là chúng ta giờ mới gặp nhau, bởi tôi cũng đã đi lối đó, hay chính xác hơn là cưỡi ngựa, lúc đó tôi vẫn còn một con ngựa.”

Ông ta im lặng, xua đi những ý nghĩ khó chịu và ký ức về con ngựa và việc mất nó. Ông ta chắc rằng các bạn đồng hành bất đắc dĩ của mình cũng đã trải qua chuyến phiêu lưu tương tự. Nếu đi bộ suốt quãng đường thì họ đã không thể bắt kịp ông ta ở đây, gần Elskerdeg.

“Do vậy, tôi đoán là,” ông ta tiếp tục, “các vị đã khởi hành ngay sau khi kết thúc chiến tranh, sau khi Hiệp ước Cintra được ký kết. Dĩ nhiên là không phải việc của tôi, nhưng tôi mạnh dạn đoán rằng các vị không thấy hài lòng bởi trật tự thế giới mới đã được xác lập ở Cintra.”

Sự im lặng kéo dài bị ngắt quãng bởi một tiếng tru từ xa vẳng lại. Một con sói, chắc vậy.

Tuy nhiên, một khi đã ở gần Elskerdeg thì không bao giờ dám chắc được.

“Nếu được nói thẳng,” người elves bất chợt lên tiếng, “thì tôi chẳng có lý do gì để cảm thấy hài lòng với thế giới và hình ảnh của nó theo sau Hiệp ước Cintra. Đấy là chưa kể đến trật tự mới.”

“Trong trường hợp của tôi thì cũng tương tự,” người hành hương nối tiếp, gấp hai cánh tay to lớn trước ngực. “Mặc dù đến sau này tôi mới nhận ra, như một người bạn đã nói.”

Sự im lặng lại ngự trị. Thậm chí kể cả cái thứ gì đó đang tru lúc nãy cũng im bặt.

“Thoạt tiên,” người hành hương tiếp tục – mặc dù Boreas và gã elf đã sẵn sàng cược là ông ta không muốn – “Thoạt tiên, mọi thứ đều ám chỉ rằng Hiệp ước Cintra sẽ mang đến những thay đổi có lợi, sẽ tạo nên một trật tự thế giới tốt đẹp hơn. Nếu không phải cho tất cả mọi người, thì cũng ít nhất là cho tôi…”

“Nếu trí nhớ của tôi đúng,” Boreas Mun hắng giọng, “thì các vị vua đã tới Cintra vào tháng Tư?”

“Chính xác hơn thì là ngày mùng 2 tháng Tư,” người hành hương sửa lại. “Nếu tôi nhớ đúng thì đang là trăng tròn.”

***

Dọc những bức tường, treo bên dưới những cây cột nhà đen ngòm chống đỡ cho một phòng tranh nhỏ, là một hàng khiên với biểu tượng và gia huy sặc sỡ đại diện cho các gia tộc cao quý của Cintra. Cái nhìn đầu tiên cho thấy sự khác biệt giữa các gia huy giờ có phần phai nhạt của các gia tộc cổ xưa và những gia đình mới được đưa lên làm quý tộc gần đây dưới thời của Dagorad và Calanthe. Những gia huy mới có nước sơn sống động hơn và vẫn chưa nứt nẻ, hay lỗ chỗ vết mối gặm.

Trong khi đó, gia huy của những gia tộc Nilfgaard, được ban thưởng khi tòa lâu đài bị chiếm đóng và trong 5 năm trị vì của Đế chế, có màu sắc sống động nhất.

Khi chiếm lại được Cintra, Vua Foltest nghĩ, chúng ta cần phải đảm bảo rằng người Cintra sẽ không phá hủy những tấm khiên đó trong cơn sốt trang hoàng lại. Chính trị là một chuyện, nhưng đồ trang trí đại sảnh lại là chuyện khác. Sự thay đổi thể chế cũng không thể biện hộ được cho hành động phá hoại.

Vậy là mọi thứ đã bắt đầu tại đây, Dijkstra nghĩ, nhìn ngắm xung quanh đại sảnh. Buổi lễ cầu hôn nổi tiếng, mà Urcheon đã xuất hiện và đòi hỏi bàn tay của Công chúa Pavetta…Và Nữ hoàng Calanthe đã nhờ đến witcher…

Số mệnh con người mới lạ kỳ làm sao, người gián điệp nghĩ, ngạc nhiên trước sự thích thútầm thường của mình.

5 năm về trước, Nữ hoàng Meve nghĩ, 5 năm về trước, não của Calanthe, Sư Tử Cái của dòng máu Cerbins, đã bắn tung tóe trên chính khoảng sân này, khoảng sân mà ta có thể quan sát qua khung cửa sổ. Calanthe, mà bức chân dung kiêu hãnh chúng ta đã trông thấy ngoài sảnh, là người cuối cùng mang trong mình dòng máu hoàng tộc. Sau khi con gái của bà, Pavetta, đã chết đuối, hậu duệ duy nhất còn lại là đứa cháu ngoại. Cirilla. Trừ khi tin đồn là Cirilla đã chết cũng là sự thật.

“Xin mời.” Cyrus Engelkind Hemmelfart, giám mục của Novigrad, vẫy bàn tay run rẩy, do tuổi tác, địa vị và sự tôn trọng của phần đông dành cho mình, ông ta đã được cử làm chủ tọa của buổi đàm phán. “Mọi người hãy ngồi xuống.”

Họ tìm ghế của mình, được đánh dấu bởi những tấm bảng gỗ đào, và ngồi xuống quanh cái bàn. Meve, Nữ hoàng của Lyria  và Rivia. Foltest, Vua của Temeria, cùng chư hầu, Vua

Venzlav của Brugge. Demavend, Vua của Aedirn. Henselt, Vua của Kaedwen. Vua Ethain xứ Cidaris. Vị vua trẻ Kistrin của Verden. Công tước Nitert, người đứng đầu Hội đồng Nhiếp chính Redania. Và bá tước Dijkstra.

Chúng ta phải trừ khử tên gián điệp đó, loại hắn ra khỏi bàn đàm phán, vị giám mục nghĩ. Vua Henselt và Vua Foltest, và thậm chí cả vị vua trẻ Kistrin cũng đã có vài lời bình phẩm chua ngoa đối với các đại diện của Nilfgaard. Cái tên Sigismund Dijkstra này là một người với xuất thân mờ ám cùng với quá khứ và danh tiếng không thể chấp nhận được. Chúng ta không thể để một kẻ như vậy làm hỏng bầu không khí của buổi tọa đàm.

Người đứng đầu phái đoàn của Nilfgaard, Nam tước Shilard Fitz–Osterlern, ngay lập tức ngồi xuống đối diện với Dijkstra, chào hỏi người gián điệp bằng một cái cúi đầu lịch sự.

Trông thấy tất cả đã yên vị, giám mục của Novigrad cũng ngồi xuống. Không phải là không có sự trợ giúp từ những người hầu đỡ lấy cánh tay run rẩy của ông ta. Vị giám mục ngồi xuống chiếc ghế đã được làm cho Nữ hoàng Calanthe nhiều năm về trước. Chiếc ghế có phần lưng cao và được trang trí vô cùng ấn tượng, khiến nó nổi bật giữa những cái ghế khác.

***

Vậy chính là nơi này, Triss Merigold nghĩ, nhìn xung quanh căn phòng, ngắm nghía nhữngtấm thảm, bích họa và cả tá chiến tích đi săn, bao gồm cả bộ sừng của một con thú trông hoàn toàn xa lạ đối với cô. Chính là nơi này, sau màn lộn xộn trứ danh trong phòng chính điện, đã xảy ra cuộc trò chuyện riêng tư giữa Calanthe, witcher, Pavetta và Urcheon bị phù phép. Khi Calanthe tán thành cuộc hôn nhân kỳ lạ đó. Và Pavetta đã có thai từ trước rồi. Ciri trào đời gần 8 tháng sau…Ciri, người thừa kế ngai vàng,…Sư Tử Con từ dòng máu của Sư Tử Cái…Ciri, đứa em gái bé nhỏ của mình. Người vẫn đang ở tít xa đâu đó dưới phía Nam. May mắn thay, con bé không còn đơn độc nữa. Nó đang ở cùng Geralt và Yennefer. Nó đang được an toàn.

Trừ khi họ lại nói dối mình một lần nữa.

“Hãy ngồi xuống, các quý cô thân mến.” Philippa Eilhart giục, săm xoi Triss từ nãy đến giờ. “Chỉ ít phút nữa thôi các nhà cai trị thế giới sẽ bắt đầu lần lượt có bài phát ngôn riêng. Tôi không muốn bỏ lỡ dù chỉ một từ.”

Các nữ pháp sư, cắt ngang màn tán gẫu của mình, nhanh chóng ngồi vào vị trí. Síle de Tanserville quàng một chiếc khăn lông cáo màu bạc, tạo nên vẻ nữ tính cho bộ trang phục đàn ông của mình. Assire var Anahid, trong chiếc váy lụa tím nhạt, kết hợp giữa vẻ giản dị khiêm tốn và tao nhã một cách vô cùng duyên dáng. Francesca Findabair trông vẫn vương giả, như mọi khi. Ida Emean aep Sivney, bí hiểm, như mọi khi. Margarita Laux–Antille, nổi bật và nghiêm trang. Sabrina Glevissig, một màu lam ngọc. Keira Metz thì xanh lục và vàng hoa thủy tiên. Và Fringilla Vigo. Chán nản. Buồn rầu. Nhợt nhạt đến ma mị.

Triss Merigold ngồi cạnh Keira, đối diện với Fringilla. Một bức tranh miêu tả một kỵ sĩ phi dọc một con đường giữa hai hàng cây trăn treo phía trên đầu nữ pháp sư Nilfgaard. Hai hàng trăn đang chìa những cành cây xương xẩu về phía người kỵ sĩ, hốc cây trống rỗng mỉm cười khinh khỉnh. Triss bất giác rùng mình.

Dụng cụ liên lạc ba chiều đứng giữa bàn đang hoạt động. Bằng một câu thần chú, Philippa Eilhart chỉnh lại hình ảnh và âm thanh.

“Các quý cô, như các cô đã nghe và nhìn,” cô ta bắt đầu, vẻ mỉa mai phảng phất trong giọng, “các nhà cai trị thế giới, ngay tại giây phút này, đang quyết định vận mệnh của nó trong phòng chính điện của Cintra, một tầng bên dưới. Và chúng ta, tại đây, một tầng bên trên, sẽ giám sát để chắc rằng các chàng trai không làm gì quá điên rồ.”

***

Những con thú khác gia nhập cùng cái thứ đang tru trong khe núi Elskerdeg. Boreas không còn nghi ngờ nào nữa. Chúng không phải sói.

“Tôi cũng đã chẳng trông mong gì nhiều từ buổi tọa đàm ở Cintra đó,” ông ta lên tiếng, cố vực lại cuộc nói chuyện đã tắt. “Tất cả mọi người tôi quen cũng đều chẳng trông mong điều gì tốt xảy ra được.”

“Sự thật đơn giản là các cuộc đàm phán đã diễn ra là đủ quan trọng rồi,” người hành hương phản đối điềm đạm. “Một con người đơn giản, và xin dám nói là tôi đích thực là một người như vậy, suy nghĩ rất giản đơn. Anh ta biết rằng các vị vua và hoàng đế đã không còn quá tức giận với nhau nữa. Nếu vẫn còn, nếu vẫn đủ sức, họ đã giết nhau rồi. Sự thật là họ đã ngừng cố gắng tàn sát lẫn nhau, và thay vào đó cùng ngồi quanh một cái bàn? Thế có nghĩa họ không còn sức mạnh nữa. Họ, nói một cách giản dị, đã bất lực. Và kết quả từ sự bất lực đó là không còn lính vũ trang nào tấn công ngôi nhà của con người đơn giản nữa, họ không giết, không cắt xẻo, không thiêu trụi làng mạc, không cứa cổ trẻ con, không cưỡng bức bà vợ, hay cầm tù người khác. Không. Thay vào đó họ đã tụ tập lại ở Cintra và thương lượng. Hãy cảm thấy vui mừng!”

Người elves đẩy xong một khúc gỗ vào đống lửa và liếc xéo người hành hương.

“Thậm chí một con người đơn giản,” ông ta nói, không che giấu vẻ châm chọc, “kể cả nếu có vui mừng, hay sung sướng đi chăng nữa, cũng nên hiểu rằng chính trị cũng là một cuộc chiến, chỉ có cách thực hiện khác mà thôi. Anh ta nên hiểu rằng thương lượng cũng như là buôn bán. Chúng có cùng nguyên tắc như nhau. Thương lượng thành công đồng nghĩa với nhượng bộ. Được cái này, mất cái kia. Nói theo cách khác, để mua được người này, phải bán lại người kia.”

“Đúng vậy,” người hành hương nói sau một lúc. “Nó đơn giản và rõ ràng tới mức tất cả mọi người đều hiểu. Kể cả những người giản đơn.”

***

“Không, không và thêm một lần nữa, không!” Vua Henselt la lớn, đập cả hai tay lên bàn mạnh tới nỗi hất đổ một cốc rượu và rung rinh lọ mực. “Không bàn luận thêm về vấn đề này nữa! Không trao đổi gì trong vấn đề này nữa! Chấm hết, có thế thôi, deireádh!”

“Henselt.” Foltest từ tốn cất lời, tỉnh táo và dỗ dành. “Đừng khiến mọi chuyện khó khăn hơn. Và đừng làm chúng ta xấu hổ trước mặt Điện hạ đây với mấy màn la hét của ông nữa.”

Shilard Fitz–Osterlern, người đàm phán cho Đế chế Nilfgaard, gật đầu với một nụ cười giả tạo hàm ý rằng trò hề của vị vua Kaedwen không làm ông ta thấy khó chịu hay bất ngờ.

“Chúng ta đang thương lượng với Đế chế,” Foltest tiếp tục, “và đột nhiên lại cắn lẫn nhau như chó dại? Thật là sỉ nhục, Henselt.”

“Chúng ta đã đạt được thỏa thuận với Nilfgaard trong những vấn đề khó khăn như Dol Angra và Riverdell,” Dijkstra bình thản cất lời. “Sẽ là ngu ngốc nếu…”

“Ta sẽ không dung thứ những câu bình luận như vậy!” Henselt gầm lên, lần này lớn đến nỗi một con trâu cũng chẳng thể đọ nổi. “Ta sẽ không dung thứ những câu bình luận như vậy, đặc biệt là từ mồm lũ gián điệp! Ta là vua, con mẹ nó!”

“Cái đó thì rõ ràng rồi.” Meve khụt khịt. Demavend, quay lưng lại phía họ, đang nhìn những tấm gia huy treo trên tường, mỉm cười khinh bỉ, cứ như thể trò chơi này chẳng liên quan đến vương quốc của mình.

“Đủ rồi,” Henselt khò khè, mắt đảo xung quanh. “Đủ rồi, các vị thần ơi, nếu không máu trong người ta sẽ sôi lên mất. Ta nói: không một tấc đất. Không, không hoàn lại gì cả! Ta sẽ không chấp nhận để vương quốc của mình bị thu hẹp dù chỉ một phân, hay nửa phân! Các vị thần đã trao Kaedwen cho ta và chỉ các vị thần mới bắt ta từ bỏ được nó! Vùng Lower Marks là của chúng ta…đất…t…tổ của chúng ta. Lower Marks đã thuộc về Kaedwen trong hàng thế kỷ…”

“Upper Aedirn,” Dijkstra lại lên tiếng, “đã thuộc về Kaedwen kể từ năm ngoái. Nói chính xác, kể từ ngày 24 tháng Bảy năm ngoái. Từ lúc lực lượng viễn chinh của Kaedwen chiếm đóng nó.”

“Tôi đề nghị,” Shilard Fitz–Osterlern nói mà không cần được hỏi, “ghi lại vào biên bản ad futuram rei memorian, rằng Đế chế Nilfgaard không có bất kỳ liên hệ nào đến việc sáp nhậpnày.”

“Ngoại trừ việc trong khoảng thời gian đó các ông đang giày xéo Vengerberg.”

Nihil ad rem!”

“Thật sao?”

“Các quý ngài!” Foltest nhắc nhở.

“Quân đội Kaedwen,” Henselt rống lên, “đã tiến vào Lower Marks như những người giải phóng! Lính của ta được chào đón ở đó bằng hoa hồng! Lính của ta…”

“Lũ cướp của ông.” Giọng của vua Demavend điềm tĩnh, nhưng có thể thấy từ gương mặt của ông ta rằng phải cần đến bao nhiêu công sức để giữ vẻ điềm tĩnh đó. “Lũ cướp của ông đã xâm chiếm vương quốc của ta, giết hại, cưỡng bức và bóc lột thần dân của ta. Các quý ngài! Chúng ta đã tụ tập ở đây và bàn luận được một tuần rồi, để quyết định bộ mặt tương lai của thế giới. Thần linh ơi, nó sẽ là bộ mặt của tội ác và trộm cắp sao? Chẳng lẽ hiện trạng giết người sẽ được giữ nguyên? Chẳng lẽ của cải trộm cắp sẽ vẫn ở trong tay bọn côn đồ và cướp của?”

Henselt giật lấy một tấm bản đồ từ trên bàn, thô bạo xé đôi nó và ném về phía Demavend.

Vị vua Aedirn không thèm di chuyển.

“Quân đội của ta,” Henselt khò khè, và mặt chuyển màu như rượu vang loại tốt ủ lâu ngày, “đã giành lại Lower Marks từ tay người Nilfgaard. Cái vương quốc thảm hại của ông đã không còn tồn tại vào lúc đó nữa rồi, Demavend. Ta sẽ nói lại lần nữa: nếu không phải vì quân đội của ta thì ngày hôm nay ông đã chẳng còn vương quốc nào cả. Ta muốn thử xem ông sẽ đẩy lùi bọn Áo Đen về đằng sau Yaruga và Dol Angra kiểu gì nếu không có sự trợ giúp của ta. Vậy nên nếu có nói rằng ông được làm vua nhờ ơn của ta thì cũng chẳng có gì là quá đáng. Nhưng sự hào phóng của ta chấm dứt ở đây! Ta đã nói sẽ không từ bỏ dù chỉ một tấc đất. Ta sẽ không để vương quốc của mình bị thu hẹp.”

“Hay ta cũng vậy!” Demavend đứng dậy. “Chúng ta sẽ không đạt được thỏa thuận rồi!”

“Các quý ngài.” Cyrus Hemmelfart, Giám mục Novigrad, đã ngủ gật từ nãy đến giờ, chợt lên tiếng hòa giải. “Chắc chắn là có thể đạt được một thỏa thuận nào đó…”

“Đế chế Nilfgaard,” Shilard Fitz–Osterlern lại nói, dường như rất thích chen vào bất thình lình, “sẽ không chấp nhận bất kỳ thỏa thuận nào có thể gây hại đến vùng đất của người elves Dol Blathanna. Nếu cần, tôi sẽ đọc một lần nữa nội dung của bản thông báo…”

Henselt, Foltest và Dijkstra khịt mũi, nhưng Demavend nhìn ngài đại sứ với vẻ điềm tĩnh và gần như ân cần.

“Vì lợi ích chung và hòa bình,” ông ta tuyên bố, “ta công nhận chủ quyền của Dol Blathanna. Không phải như một vương quốc, mà là một thuộc địa. Với điều kiện rằng Nữ công tước Enid an Gleanna nộp cống phẩm cho ta và đảm bảo quyền công dân bình đẳng cho cả con người và người elves. Ta sẵn sàng làm điều đó, như đã nói, pro publico bono.

“Nói như một vị vua đích thực.” Meve lên tiếng.

Salus publica lex suprema est,” Giám mục Hemmelfart, tìm kiếm nãy giờ cơ hội để thể hiện vốn kiến thức về tiếng lóng ngoại giao của mình, thêm vào.

“Tuy nhiên, ta sẽ vẫn nói,” Demavend tiếp tục, nhìn về phía Henselt đang vênh váo, “rằng sự nhượng bộ đối với Dol Blathanna không phải là một tiền lệ. Đây là sự lấn chiếm duy nhất trên đất của ta mà ta cho phép. Ta sẽ không công nhận bất kỳ thành phần nào khác. Quân đội Kaedwen đã xâm chiếm biên giới của ta với tư cách những kẻ xâm lược có một tuần để từ bỏ các pháo đài chiếm giữ bất hợp pháp của Upper Aedirn. Đây là điều kiện để ta tiếp tục tham gia vào cuộc đàm phán này. Và bởi vì verba volant, thư ký của ta sẽ trình lên hội đồng một démarche chính thức về việc này.”

“Henselt?” Foltest nhìn vị vua râu rậm với vẻ ái ngại.

“Không bao giờ!” Vua Kaedwen rống to, đạp đổ một cái ghế và nhảy nhót như một con khỉ bị ong đốt. “Ta sẽ không bao giờ từ bỏ vùng Marks! Bước qua xác chết của ta trước đã! Không bao giờ! Không gì có thể ép ta được! Không một thế lực nào! Không một thế lực bỏ mẹ nào hết!”

Và để chứng tỏ là mình cũng được dạy dỗ và giáo dục đàng hoàng, ông ta hú lên: “Non possumus!”

***

“Tôi sẽ cho ông ta thấy non possumus, lão già ngu!” Sabrina Glevissig khịt mũi ở tầng trên. “Các quý cô không cần phải lo, tôi sẽ buộc lão cứng đầu này phải chấp nhận việc hoàn lại Upper Aedirn. Quân đội Kaedwen sẽ rút trước 10 ngày. Vấn đề đã rõ ràng. Không nghi ngờ gì cả. Nếu có quý cô nào nghi ngờ thì tôi có quyền cảm thấy bị xúc phạm!”

Philippa Eilhart và Síle de Tanserville thể hiện sự công nhận của mình bằng một cái cúi đầu. Assire var Anahid cảm ơn bằng một nụ cười.

“Tất cả những gì còn lại hôm nay,” Sabrina nói, “là dàn xếp vấn đề của Dol Blathanna. Chúng ta đã rõ nội dung bản thông báo của Emhyr. Các vị vua bên dưới vẫn chưa có cơ hội để bàn luận vấn đề này, nhưng cũng đã gửi đi những tín hiệu về quan điểm của mình. Và vị vua có ý tưởng thú vị nhất – tôi dám nói như vậy – là Demavend.”

“Quan điểm của Demavend,” Síle de Tanserville nói, quấn chiếc khăn lông cáo quanh cổ, “là một thỏa hiệp cực kỳ hữu ích. Nó khá tích cực, chu đáo và cân bằng. Shilard Fitz–Osterlern sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thương lượng một sự nhượng bộ lớn hơn. Tôi không biết liệu ông ta có muốn làm thế hay không.”

“Ông ta sẽ làm,” Assire var Anahid điềm tĩnh lên tiếng. “Bởi đó là những chỉ thị ông ta đã nhận được từ Nilfgaard. Ông ta sẽ đòi biểu quyết và trình kiến nghị. Ông ta sẽ tranh cãi ít nhất một ngày. Sau đó ông ta sẽ bắt đầu nhượng bộ…”

“Như vậy là bình thường.” Sabrina Glevissig ngắt lời. “Việc họ cuối cùng tìm được tiếng nói chung và tán thành điều gì đó là bình thường. Nhưng chúng ta sẽ không đợi, chúng ta sẽ quyết định ngay những gì họ được phép làm. Francesca! Nói gì đi chứ! Sau cùng thì đây là vương quốc của cô còn gì.”

“Chỉ bởi lý do đó,” Bông Cúc của Thung Lũng mỉm cười rất đẹp, “chỉ bởi lý do đó mà tôi đang giữ im lặng, Sabrina.”

“Vượt qua lòng tự kiêu của cô đi,” Margarita Laux–Antille nghiêm túc nói. “Chúng ta phải biết có thể cho phép các vị vua làm những gì.”

Francesca Findabair cười còn đẹp hơn.

“Vì hòa bình và pro bono publico,” cô ta trả lời, “tôi đồng ý với đề nghị của vua Demavend. Từ giờ phút này các quý cô thân mến có thể thôi gọi tôi là Điện hạ, chỉ cần “Nữ công tước” là đủ rồi.”

“Mấy trò đùa của elves,” Sabrina nhăn mặt, “không làm tôi buồn cười tí nào, có lẽ bởi vì tôi không hiểu chúng. Vậy còn những điều kiện khác của Demavend?”

Francesca chớp hàng mi.

“Tôi đồng ý với việc thu nhận con người và hoàn trả lại đất đai của họ,” cô ta nói nghiêm trang. “Tôi đảm bảo quyền bình đẳng với mọi giống loài…”

“Thần linh ơi, Enid,” Philippa Eilhart cười. “Đừng có tán thành mọi thứ thế chứ! Đặt vài điều kiện đi!”

“Tôi sẽ.” Người elves đột nhiên trở nên nghiêm túc hơn. “Tôi không đồng ý với việc cống nạp. Tôi muốn Dol Blathanna được độc lập. Không phải mang vác trách nhiệm nào ngoại trừ một lời thề trung thành và không bao giờ hành động chống lại chính quyền cai trị.”

“Demavend sẽ không chấp nhận,” Philippa bình phẩm cộc lốc. “Ông ta sẽ không từ bỏ lợi nhuận và tiền thuê đất mà Thung Lũng Ngàn Hoa có thể đem lại cho mình.”

“Trong trường hợp đó,” Francesca nhướng một bên lông mày, “tôi sẵn sàng đàm phán song phương. Tôi đảm bảo rằng cả hai bên có thể đạt được một thỏa thuận. Không bắt buộc phải nộp cống vật, nhưng không có nghĩa là nghiêm cấm hay loại bỏ hoàn toàn.”

“Còn vấn đề kế vị?” Philippa hỏi. “Còn chủ nghĩa nguyên mẫu? Với việc đồng ý quyền độc lập, Foltest sẽ yêu cầu đảm bảo được tính thống nhất của thuộc địa.”

“Nước da và thân hình của tôi có thể đánh lừa được Foltest,” Francesca lại mỉm cười, “nhưng cô lại khiến tôi ngạc nhiên đấy, Philippa. Cái thời tôi có thể mang thai đã qua từ lâu, rất lâu rồi. Còn về chủ nghĩa nguyên mẫu và bàn giao chủ quyền, Demavend không việc gì phải sợ. Tôi sẽ là ultimus familiae của triều đại Dol Blathanna. Nhưng bất chấp khác biệt về tuổi tác mà Demavend coi là một lợi thế, chúng ta sẽ giải quyết việc kế vị không phải với ông ta, mà là con cháu ông ta. Tôi xin đảm bảo, các quý cô, rằng sẽ không vấp phải tranh luận nào trong vấn đề này.”

“Không phải trong vấn đề này,” Assire var Anahid đồng tình, nhìn vào đôi mắt elves của nữ pháp sư. “Vậy còn vấn đề các biệt đội Sóc? Vấn đề những người elves đã chiến đấu cho Đế chế? Nếu tôi không nhầm, việc này chủ yếu liên quan tới thần dân của cô, quý cô Francesca?”

Bông Cúc của Thung Lũng ngừng cười. Cô ta liếc nhìn Ida Emean, nhưng nữ elves im lặng đến từ Núi Xanh tránh ánh mắt của cô ta.

Pro publico bono,” cô ta bắt đầu rồi dừng bất chợt. Assire, cũng đang rất nghiêm túc, gật đầu thấu hiểu.

“Làm gì được bây giờ?” cô ta nói chậm rãi. “Mọi thứ đều có giá. Chiến tranh đòi hỏi thương vong. Hòa bình, hóa ra, cũng đòi hỏi tương tự.”

***

“Phải, đúng trong mọi khía cạnh,” người hành hương lặp lại với vẻ trầm tư, nhìn vào gã elf đang cúi đầu. “Đàm phán hòa bình là một thị trường. Một phiên chợ thôn quê. Vậy nên để mua được người này, phải bán đi kẻ khác. Quy luật của thế giới là như vậy. Vấn đề cốt lõi là không được trả giá quá cao…”

“Và không được bán mình quá rẻ mạt,” gã elf nói nốt mà không ngẩng lên nhìn.

***

“Quân phản bội! Bọn vô lại khốn khiếp!”

“Lũ con hoang!”

An’badraigh aen cuach!”

“Bọn chó Nilfgaard!”

“Trật tự!” Hamilcar Danza gầm lên, dộng nắm tay bọc găng lên lan can trước nhà. Các cung thủ đứng dọc mái hiên chĩa nỏ vào đám elves đang tụ tập bên dưới.

“Hãy bình tĩnh!” Danza gầm to hơn. “Đủ rồi! Trật tự đi, các ngài sĩ quan! Hãy giữ thể diện một chút!”

“Các người còn có gan để nói về thể diện sao, bọn vô lại!” Coinneach Dá Reo hét lớn. “Chúng ta đã đổ máu vì các người, lũ dh’oine đáng nguyền rủa! Vì các người và Hoàng đế của các người, đã nhận được lời thề trung thành từ chúng ta! Và đây là cách mà các người đáp trả? Các người sẽ giao chúng ta cho bọn sát nhân phương Bắc đó? Như một lũ tội phạm!”

“Ta nói, đủ rồi!” Danza lại dộng nắm tay xuống lần nữa. “Hãy chấp nhận fait accompli này, các quý ngài elves! Thỏa thuận đạt được ở Cintra, như là điều kiện để hiệp ước hòa bình được ký kết, yêu cầu Đế chế phải trao trả tội phạm chiến tranh cho phương Bắc…”

“Tội phạm?” Riordain la. “Tội phạm? Bọn dh’oine bẩn thỉu!”

“Tội phạm chiến tranh,” Danza nhắc lại, không hề quan tâm đến sự hỗn loạn bên dưới. “Bất kỳ sĩ quan nào bị buộc tội khủng bố, tàn sát dân thường, tra tấn và giết hại tù binh, hay thương binh trong các bệnh viện thực địa…”

“Lũ chó đẻ!” Angus Bri Cri hét. “Chúng ta giết bởi vì đó là chiến tranh!”

“Chúng ta đã giết theo lệnh các người!”

Cuach’te aep arse, bloede Dh’oine!”

“Mọi sự đã rồi!” Danza nhắc lại. “Sỉ nhục và la hét cũng chẳng thay đổi được gì cả. Làm ơn hãy trình diện tới trước trạm gác lần lượt từng người một và không kháng cự khi bị còng tay.”

“Lẽ ra chúng ta nên ở lại khi chúng bỏ chạy qua sông Yaruga.” Riordain nghiến răng. “Lẽ ra chúng ta nên ở lại và chiến đấu cùng các biệt đội. Nhưng chúng ta, lũ ngốc, đã giữ lời thề người lính của mình! Đáng đời chúng ta lắm!”

Isengrim Faoiltiarna, Sói Sắt, vị chỉ huy lừng danh nhất, và giờ đây gần như là huyền thoại của Sóc, hiện đang giữ chức danh đại tá của quân đội đế chế, xé bỏ tia chớp bạc của Lữ đoàn Vrihedd thêu trên tay áo và vai mình, mặt cứng như đá, và ném chúng xuống đất. Các sĩ quan còn lại noi theo. Hamilcar Danza vừa nhăn mặt vừa chứng kiến.

“Một màn thể hiện vô trách nhiệm,” ông ta nói. “Thêm nữa, ở vào vị trí của các vị ta sẽ không nhẹ nhàng vứt bỏ biểu tượng của đế chế như vậy đâu. Ta cảm thấy có nghĩa vụ phải thông báo rằng với tư cách là các sĩ quan đế chế, trong cuộc thương lượng các điều khoản của hiệp ước, các vị được hứa hẹn một phiên tòa công bằng, hưởng khoan hồng và ân xá nhanh chóng…”

Những người elves đứng bên dưới đồng thanh rống lên cười. Tiếng cười vang vọng và dội lại từ những bức tường.

“Ta cũng cần lưu ý với các vị rằng,” Hamilcar Danza điềm tĩnh thêm vào, “chỉ có các vị là sẽ bị giao nộp cho người phương Bắc. Ba mươi hai sĩ quan. Và không một người lính nào dưới quyền chỉ huy của các vị. Không một ai.”

Tiếng cười ngưng bặt.

***

Gió lùa qua lửa trại, bùng lên một cơn mưa lấp lánh và tạt khói vào mắt họ. Lại lần nữa, tiếng hú có thể được nghe thấy từ khe núi.

“Họ rao bán mọi thứ.” Người elves phá vỡ sự im lặng. “Cái gì cũng đều đem bán được. Danh dự, lòng trung thành, tình bằng hữu, lời thề nguyện, sự tử tế thường ngày…Chúng chỉ đơn thuần là hàng hóa, có giá trị chừng nào còn có trao đổi và nhu cầu. Và khi không còn nữa, chúng chẳng đáng một cọng rơm và bị vứt bỏ. Vào đống rác.”

“Đống rác của lịch sử.” Người hành hương gật gù. “Ông nói đúng, ngài elves. Mọi chuyện là như vậy ở Cintra. Mọi thứ đều có giá của nó. Và đáng giá nhiều nhất bằng thứ ta có thể nhận lại. Phiên chợ mở ra mỗi buổi sáng. Và như một phiên chợ thực sự, nó có lúc lên lúc xuống. Và cũng như một phiên chợ thực sự, ta không thể rũ bỏ cảm giác rằng có ai đó đang đứng đằng sau và giật dây.”

***

“Tôi có đang nghe đúng không?” Shilard Fitz–Osterlern hỏi thật chậm và kéo dài, bày tỏ sự ngạc nhiên trong giọng nói và biểu cảm. “Đôi tai này có đang đánh lừa tôi không?”

Berengar Leuvaarden, đặc phái viên của đế chế, không buồn trả lời. Duỗi dài trên ghế, ông ta tiếp tục ngâm cứu gợn sóng lăn tăn của rượu vang trong chiếc cốc lắc trên tay.

Shilard gồng mình lên, rồi đeo vào một chiếc mặt nạ của khinh bỉ và kẻ cả. Hàm ý rằng, hoặc là ngươi đang nói dối, quân vô lại, hoặc là ngươi muốn lừa ta, thử thách ta. Đằng nào đi nữa thì ta cũng nhìn thấu ngươi rồi.

“Vậy là tôi phải hiểu,” ông ta nói, ưỡn ngực ra, “rằng sau sự nhượng bộ trong vấn đề biên giới, tù binh chiến tranh và hoàn trả chiến lợi phẩm, vấn đề các sĩ quan của Lữ đoàn Vrihedd và các biệt đội Scoia’tael, hoàng đế lại ra lệnh cho tôi phải tiếp tục thỏa hiệp và chấp nhận yêu cầu bất khả thi của người phương Bắc về hồi hương cho người định cư?”

“Ngài hiểu chính xác đấy, nam tước.” Berengar Leuvaarden đáp, kéo dài âm tiết một cách đặc trưng. “Quả thật, tôi rất ngưỡng mộ sự thông hiểu của ngài.”

“Mặt Trời Vĩ Đại ơi, ngài Leuvaarden, các ngài ở thủ đô có bao giờ cân nhắc đến hậu quả các quyết định của mình hay không? Người phương Bắc đã đang kháo nhau rằng đế chế của chúng ta là một đống đất sét bèo nhèo khổng lồ rồi! Giờ thì họ hô hào rằng đã đánh bại được chúng ta, đuổi chúng ta đi! Hoàng đế có hiểu rằng nhượng bộ thêm nữa nghĩa là chấp nhận sự kiêu ngạo và tối hậu thư quá đáng của họ không? Hoàng đế có hiểu rằng nếu họ coi đây là dấu hiệu của sự yếu đuối thì nó có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng về sau không? Hoàng đế có hiểu rằng, số phận nào đang chờ đợi vài ngàn người định cư của chúng ta ở Brugge và Lyria không?”

Berengar Leuvaarden dừng lắc cái cốc và chiếu đôi mắt đen láy như than về phía Shilard.

“Tôi đã trao cho ngài một mệnh lệnh của đế chế, nam tước.” Ông ta lầm bầm qua kẽ rằng. “Một khi đã thực hiện xong và quay về Nilfgaard ngài có thể tự đi mà hỏi Hoàng đế tại sao ông ấy lại kém khôn ngoan như vậy. Có lẽ ngài muốn quở trách Hoàng đế. La mắng ông ấy. Tại sao không? Nhưng hãy làm vậy một mình. Mà không có mặt tôi.”

Aha, Shilard nghĩ. Giờ thì ta biết rồi. Một Stefan Skellen mới đang ngồi trước mặt ta. Và ta phải đối xử với hắn như với Skellen.

Nhưng rõ ràng là hắn không đến đây mà không có mục đích. Một người đưa thư bình thường cũng có thể mang mệnh lệnh đến được rồi.

“Chà,” ông ta bắt đầu, khá thoải mái và sử dụng chất giọng quen thuộc. “Đáng thương thay những kẻ bại trận! Nhưng mệnh lệnh của đế chế là rõ ràng và chuẩn xác, và sẽ được thi hành đúng đến từng từ. Tôi cũng sẽ cố gắng hết mình để khiến nó giống như là kết quả của thương lượng chứ không phải khúm núm. Tôi biết cách làm. Tôi đã là một sứ thần được 30 năm rồi. Với bốn thế hệ đi trước. Gia đình tôi là một trong những gia tộc khá giả, hùng mạnh…và có sức ảnh hưởng nhất…”

“Tôi biết, tôi biết.” Leuvaarden cắt lời ông ta bằng một nụ cười mỉm. “Đó là lý do vì sao tôi ở đây.”

Shilard khẽ cúi đầu. Và kiên nhẫn đợi.

“Khó khăn trong việc thấu hiểu của ngài,” người đặc phái viên bắt đầu, lại lắc cốc rượu, “nam tước thân mến, là bởi vì ngài nghĩ rằng chiến thắng và chinh phạt dựa trên sự diệt chủng vô nghĩa. Dựa vào việc cắm một lá cờ đâu đó giữa cánh đồng nhuộm máu và hét rằng: Tất cả đây là của ta, ta đã chinh phạt nó! Một quan điểm tương tự, đáng tiếc thay, cũng đang khá lan rộng. Tuy nhiên, đối với tôi, thưa ngài, và cũng cả với những người đã trao quyền lực cho tôi, chiến thắng và chinh phạt dựa vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Chiến thắng nên phải như này: kẻ thua sẽ buộc phải mua hàng hóa sản xuất bởi người thắng. Và họ sẽ tự nguyện làm vậy, bởi hàng hóa của người thắng rẻ hơn và tốt hơn nhiều. Đồng tiền của người thắng mạnh hơn đồng tiền của kẻ thua, và kẻ thua sẽ tin tưởng nó hơn nhiều của mình. Ngài có hiểu ý tôi không, nam tước Fitz– Osterlern? Ngài đã bắt đầu phân biệt được giữa thắng và thua hay chưa? Ngài có hiểu kẻ nào mới là đáng thương hay không?”

Ngài đại sứ gật đầu để xác nhận là mình hiểu.

“Nhưng để đảm bảo thắng lợi và ràng buộc nó,” Leuvaarden tiếp tục một phút sau, kéo dài âm tiết, “hòa bình phải được xác lập. Nhanh chóng và bằng mọi giá. Không phải một bản đình chiến hay hiệp ước nào cả, mà là hòa bình. Một sự thỏa hiệp sáng tạo. Một bản hợp đồng mạnh mẽ được xây dựng và loại trừ các yếu tố của cấm vận kinh tế, thuế phí trả đũa và bảo hộ kinh doanh.”

Shilard lại gật đầu để xác nhận rằng mình hiểu.

“Không phải vô cớ mà chúng ta đã phá hủy nền nông nghiệp và công nghiệp của họ,” Leuvaarden tiếp tục bằng giọng điềm tĩnh, vô cảm. “Chúng ta làm vậy để họ phải mua hàng hóa của chúng ta do khan hiếm. Nhưng các thương nhân và hàng của chúng ta sẽ không vượt qua những biên giới thù địch và khép kín. Và rồi chuyện gì xảy ra? Tôi sẽ nói cho ngài chuyện gì sẽ xảy ra, nam tước thân mến. Một cuộc khủng hoảng dư thừa sản phẩm, bởi các công xưởng của chúng ta đang hoạt động hết công suất. Các doanh nghiệp hàng hải liên kết cùng Novigrad và Kovir cũng sẽ hứng chịu tổn thất nặng nề. Gia đình của ngài, nam tước thân mến, có rất nhiều cổ phần trong những công ty đó. Và gia đình, như ngài đã biết rồi đó, chính là nhân tố cơ bản của xã hội. Ngài có hiểu không?”

“Tôi hiểu.” Shilard Fitz–Osterlern hạ giọng, mặc dù căn phòng được niêm phong kín đáo. “Tôi hiểu, tôi hiểu. Nhưng tôi vẫn muốn chắc rằng mình đang thực hiện mệnh lệnh của hoàng đế…chứ không phải của…các tập đoàn…”

“Các hoàng đế đến rồi đi,” Leuvaarden dài giọng, “Nhưng tập đoàn vẫn ở lại. Và sẽ ở lại. Nhưng đó là sự thật hiển nhiên rồi. Tôi hiểu sự lo lắng của ngài, nam tước. Ngài có thể an tâm rằng tôi đang truyền lại một mệnh lệnh được ban bởi hoàng đế. Để phục vụ cho lợi ích của Đế chế. Mệnh lệnh, mà tôi cũng không phủ nhận, là kết quả của những lời tư vấn dành cho hoàng đế từ một tập đoàn nào đó.”

Người đặc phái viên mở cúc áo, để lộ ra một tấm mề đay bằng vàng có khắc một ngôi sao bao quanh bởi một tam giác rực lửa.

“Một vật trang trí đẹp đẽ,” Shilard xác nhận rằng mình hiểu với một nụ cười và khẽ gật đầu. “Tôi biết rằng nó rất đắt…và hiếm…có thể mua được ở đâu không?”

“Không,” Berengar Leuvaarden nhấn mạnh. “Ngài phải giành được nó.”

***

“Nếu các quý ông và quý bà cho phép.” Giọng của Shilard Fitz–Osterlern trở nên đặc biệt, một chất giọng đã quen thuộc với các đại biểu của buổi tọa đàm, chất giọng báo hiệu rằng những gì mà ngài đại sứ sắp nói là vô cùng quan trọng đối với ông ta. “Nếu các quý ông và quý bà cho phép, tôi xin được đọc nội dung của thông điệp đến từ Hoàng đế Emhyr var Emreis, nhờ ơn Mặt Trời Vĩ Đại, Hoàng đế của Nilfgaard…”

“Ôi không. Lại nữa à.” Demavend nghiến răng, còn Dijkstra chỉ rên rỉ. Điều này không qua được mắt của Shilard.

“Thông điệp khá dài,” ông ta thừa nhận. “Vậy nên tôi sẽ tóm lược. Hoàng đế vô cùng hài lòng với hướng đi của cuộc thương lượng, và là một con người yêu chuộng hòa bình, sẵn lòng chấp nhận các thỏa hiệp và hòa giải. Hoàng đế mong muốn cuộc thương lượng tiến triển chóng vánh và tìm được giải pháp trung gian có lợi cho tất cả…”

“Vào việc chính đi,” Foltest ngắt giữa câu. “Và nhanh lên! Hãy cùng kết thúc có lợi cho tất cả rồi về nhà.”

“Phải đó,” Henselt, người xa nhà nhất, lên tiếng. “Kết thúc đi, bởi nếu còn nhùng nhằng thì chúng ta sẽ kẹt lại đây suốt mùa đông!”

“Còn một thỏa hiệp nữa đang đợi chúng ta,” Meve nhắc nhở. “Một vấn đề mà chúng ta gần như không chạm đến vài lần rồi. Có lẽ bởi vì sợ sẽ không thể đi đến thống nhất. Đã tới lúc vượt qua nỗi sợ đó. Vấn đề sẽ không biến mất chỉ vì chúng ta sợ nó.”

“Đúng vậy,” Foltest xác nhận. “Vậy hãy vào việc thôi. Hãy dàn xếp vấn đề hiện trạng của Cintra, vấn đề kế vị ngai vàng của hậu duệ của Calanthe. Đó là một vấn đề khó khăn, nhưng ta không nghi ngờ là chúng ta có thể làm được. Phải không, thưa Điện hạ?”

“Ôi.” Fitz–Osterlern mỉm cười xã giao và bí hiểm. “Tôi chắc chắn rằng việc kế vị ngai vàng của Cintra sẽ diễn ra trơn tru như đồng hồ. Nó là một vấn đề dễ dàng hơn các vị tưởng nhiều.”

***

“Tôi đề nghị chúng ta cân nhắc,” Philippa Eilhart tuyên bố bằng một giọng khó cưỡng lại, “kế hoạch sau đây: biến Cintra thành một vương quốc ủy thác. Tôi tin tưởng giao trọng trách này cho Foltest của Temeria.”

“Lãnh thổ của Foltest đang phình ra quá nhanh,” Sabrina Glevissig cau mày. “Brugge, Sodden, Angren,…”

“Chúng ta cần một vương quốc mạnh mẽ ở cửa sông Yaruga.” Philippa cắt lời. “Và trước thung lũng Marnadal.”

“Tôi không phủ nhận điều đó.” Síle de Tanserville gật đầu. “Đây là một sự cần thiết đối với chúng ta. Nhưng không phải với Emhyr var Emreis. Và thỏa hiệp – chứ không phải xung đột – mới là mục tiêu chúng ta đang nhắm đến.”

“Vài ngày trước,” Francesca Findabair gợi lại, “Shilard có đề nghị thiết lập một ranh giới phân chia, tách Cintra thành hai nửa riêng biệt, khu bắc và khu nam…”

“Nhảm nhí và ấu trĩ,” Margarita Laux–Antille khịt mũi. “Sự phân chia như vậy là vô nghĩa, và sẽ trở thành mầm mống của xung đột trong tương lai.”

“Tôi cho rằng Cintra nên được biến thành một thuộc địa quản lý chung,” Síle nói. “Với chính quyền cai trị được tạo nên từ các đại diện được chỉ định của phương Bắc và Đế chế Nilfgaard. Thành phố và cảng biển của Cintra sẽ được coi là tự trị…Cô muốn phát biểu sao, quý cô Assire? Xin hãy lên tiếng. Tôi thường quen bày tỏ quan điểm của mình hoàn chỉnh và mạch lạc, nhưng trong lúc này…tôi sẽ nghe.”

Tất cả các nữ pháp sư, bao gồm Fringilla Vigo đang trắng bệch như tờ giấy, dán mắt vào Assire var Anahid. Nữ pháp sư Nilfgaard không có vẻ gì là thấy ngại ngùng.

“Tôi đề nghị chúng ta tập trung vào những vấn đề khác,” cô ta cất lời bằng chất giọng nhẹ nhàng, dễ chịu. “Hãy để Cintra được yên. Cho đến giờ tôi vẫn chưa có cơ hội được báo cáo với tất cả các cô về thông tin mình đã nhận được. Vấn đề của Cintra, các chị em thân mến, đã được giải quyết xong xuôi cả rồi.”

“Xin lỗi, cái gì cơ?” Đôi mắt Philippa nheo lại. “Tôi xin hỏi ý cô là gì?”

Triss Merigold khẽ hít vào một hơi. Cô đã đoán được thế nghĩa là gì.

***

Vattier buồn bã và cảm thấy chán chường. Cô tình nhân xinh đẹp và nồng nhiệt tóc vàng Cantarella đã rời bỏ ông ta, đột ngột và bất ngờ, không để lại lý do hay một lời giải thích. Đối với Vattier, đây là một cú sốc nặng nề, khiến ông ta trở nên ủ dột, lo lắng, choáng váng và phân tâm. Ông ta phải chú ý, cẩn thận và đề phòng không thốt lên câu gì đó ngu ngốc trong khi nói chuyện với Hoàng đế. Thời buổi đổi thay không ưu ái những kẻ phiền muộn và bất tài.

“Hội thương nhân,” Emhyr var Emreis cau mày, “đã được đáp trả cho sự trợ giúp vô giá của họ rồi. Chúng ta đã cho họ đủ đặc quyền, nhiều hơn những gì họ đã nhận được từ ba vị hoàng đế trước cộng lại. Thêm vào đó, chúng ta còn nợ Berengar Leuvaarden vì sự giúp đỡ của ông ta trong việc lật tẩy âm mưu tạo phản. Ông ta đã được nhận một vị trí rất cao và nhiều lợi lộc. Nhưng nếu tỏ ra vô dụng, bất kể tài cán ra sao, ông ta sẽ bị bắn ra khỏi tường thành bằng một cái nỏ bắn đá. Hãy đảm bảo rằng ông ta biết rõ điều này.”

“Tôi sẽ, thưa Hoàng đế. Còn Dijkstra thì sao? Và kẻ chỉ điểm bí ẩn của ông ta?”

“Dijkstra thà chết còn hơn hé lộ ra người chỉ điểm của mình. Tuy nhiên, vẫn nên trả cho ông ta một khoản phí vì mẩu thông tin vô giá đó…Nhưng vấn đề là Dijkstra sẽ không thèm nhận cái gì từ ta hết cả.”

“Nếu Hoàng đế cho phép…”

“Nói đi…”

“Dijkstra sẽ rất vui lòng nhận thông tin để đổi lại. Thứ gì đó mà ông ta không biết, nhưng rất muốn biết. Chúng ta có thể thưởng cho ông ta bằng một thông tin như vậy.”

“Xuất sắc, Vattier.”

Vattier de Rideaux thở phào nhẹ nhõm. Bởi vì đã bí mật quay đầu đi, ông ta là người đầu tiên trông thấy các công nương đang tiến đến, bá tước phu nhân Liddertal và cô gái tóc vàng trẻ trung đã được giao cho bà để chăm sóc.

“Họ đang đến,” ông ta ám chỉ bằng ánh mắt. “Thưa Hoàng đế, hãy để tôi nhắc nhở ngài…về đại sự…và lợi ích của Đế chế…”

“Đủ rồi,” Emhyr var Emreis miễn cưỡng ngắt lời. “Ta đã nói là sẽ cân nhắc và quyết định. Và rồi ta sẽ cho ngươi biết quyết định của ta là gì.”

“Tuân lệnh, thưa Hoàng đế.”

“Còn gì nữa không?” Ngọn Lửa Trắng của Nilfgaard hỏi với vẻ nóng vội, tay chống lên hông. “Ngươi còn đợi gì nữa, Vattier?”

“Vấn đề của Stefan Skellen…”

“Không khoan nhượng. Cái chết cho những kẻ phản bội. Nhưng phải là sau một phiên tòa công bằng.”

“Tôi hiểu, thưa Hoàng đế.”

Emhyr không nhìn khi ông ta cúi chào và rút lui. Stella Congreve đang đợi. Và cô gái tóc vàng.

Và giờ là đến lợi ích của Đế chế, ông nghĩ. Cô công chúa giả mạo, Nữ hoàng Cintra giả mạo. Người trị vì những vùng đất nằm xung quanh cửa sông Yaruga mà vô cùng quan trọng đối với Đế chế. Con bé đang đến, mắt nhìn xuống đất, hãi hùng, trong một chiếc váy trắng với tay áo xanh lục và một sợi dây chuyền đeo trên cổ áo trễ. Tại Darn Rowan ta đã khen chiếc váy và sự lựa chọn trang sức của nó. Stella biết ta thích gì. Nhưng ta phải làm sao với con búp bê này đây? Đặt nó lên một bệ thờ?

“Các quý cô đáng kính,” ông cúi chào trước. Bên ngoài phòng chính điện của Nilfgaard, phép lịch sự đối với phụ nữ là bắt buộc, kể cả đối với Hoàng đế. Họ đáp trả ông và cúi đầu.

Họ đang đứng trước một người đàn ông lịch sự, nhưng vẫn là Hoàng đế.

Emhyr cảm thấy đã quá đủ với quy tắc rồi.

“Ở lại đây nhé, Stella.” Ông nói khô khan. “Còn cô, cô gái, hãy đi dạo cùng ta. Cầm lấy tay ta nào. Vui lên. Chỉ là đi dạo mà thôi.”

Họ sánh vai bên cạnh nhau. Đội cảnh vệ hoàng gia, thành viên của lữ đoàn Impera ưu tú, đứng xa xa, nhưng luôn sẵn sàng. Họ đã được huấn luyện để bảo vệ Hoàng đế, và biết khi nào thì không nên can thiệp.

Hai người bước qua một hồ nước trống rỗng và đượm buồn. Một con cá chép rất già được nuôi nấng bởi Hoàng đế Torres đã chết hai ngày trước. Chúng ta sẽ phải nuôi một con cá chép mới trẻ khỏe hơn, Emhyr quyết định. Chúng ta sẽ làm một tấm huy hiệu mới bằng ảnh của ta và ngày tháng. Va’esse deireádh aep eigean. Thứ gì đó kết thúc, thứ gì đó bắt đầu. Đây là một năm mới, một kỷ nguyên mới. Hãy nuôi một con cá chép mới.

Lạc trong suy nghĩ, ông gần như quên mất cô gái mình đang khoác trong tay. Ông nhớ lại sự hiện diện của cô nhờ vào hơi ấm cơ thể, mùi hoa huệ và lợi ích của Đế chế. Theo thứ tự đó.

Họ dừng lại bên cái hồ, ở giữa nổi lên một hòn đảo nhân tạo, với một khu vườn, đài phun nước và một bức tượng cẩm thạch.

“Cô có biết bức tượng này đại diện cho điều gì không?”

“Dạ có, thưa Hoàng đế,” cô không trả lời ngay lập tức. “Nó là một con bồ nông, tự xé ngực mình bằng mỏ để mớm cho đàn con ăn bằng máu. Đây là một phép tượng trưng cho sự hy sinh cao quý. Và cũng…”

“Ta đang nghe đây.”

“Và cũng là tình yêu vĩ đại.”

“Cô có nghĩ,” ông nắm lấy vai cô và xoay mặt cô lại đối diện với mình, “là như vậy thì sẽ khiến một cái ngực bị xé bớt đau đớn hơn không?”

“Em không biết…” cô ấp úng. “Thưa Hoàng đế…em…”

Ông cầm lấy tay cô. Ông cảm nhận được cơn run chạy dọc bàn tay, cánh tay và bờ vai cô.

“Cha ta,” Emhyr nói, “là một hoàng đế vĩ đại, nhưng chưa bao giờ để tâm đến truyền thuyết và huyền thoại. Ông ấy không có thời gian cho những thứ đó. Ông ấy luôn nhầm lẫn giữa chúng. Mỗi khi dẫn ta ra đây, tới công viên này, ông ấy luôn bảo ta rằng đây là bức tượng một con bồ nông vươn lên từ tro tàn. Ít nhất thì hãy mỉm cười đi chứ, cô gái, khi Hoàng đế kể cho cô nghe những câu truyện từ thuở ấu thơ của mình. Tốt hơn rồi đó, cảm ơn cô. Ta sẽ cảm thấy buồn nếu nghĩ rằng cô không thích đi dạo cùng ta. Nhìn vào mắt ta này.”

“Em rất hạnh phúc…khi được ở đây…thưa Hoàng đế. Nó là một vinh dự lớn lao đối với em…và cũng là một niềm vui vô kể. Em rất hạnh phúc…”

“Thật sao? Đây không chỉ là những lời xã giao đó chứ? Quy tắc triều đình học từ Stella Congreve? Thú nhận đi, cô gái.”

Cô im lặng, mắt chùng xuống.

“Hoàng đế của cô đang hỏi,” Emhyr var Emreis nói. “Và khi Hoàng đế hỏi, không ai dám im lặng. Và dĩ nhiên, không ai dám nói dối.”

“Thật sự,” giọng cô cất lên nghe du dương. “Em rất hạnh phúc, thưa Hoàng đế.”

“Ta tin cô.” Emhyr đáp lại sau một hồi suy ngẫm. “Ta nghĩ vậy. Tuy nhiên, ta vẫn thấy khá ngạc nhiên.”

“Em cũng…” cô thì thầm. “Em cũng thấy ngạc nhiên.”

“Cái gì? Làm ơn nói to lên nào.”

“Em ước chúng ta có thể…đi dạo thường xuyên hơn. Và trò chuyện. Nhưng em hiểu…em hiểu rằng điều đó là bất khả thi.”

“Cô hiểu rất rõ đấy,” ông cắn môi. “Hoàng đế trị vì thế giới, nhưng có hai thứ họ không thể kiểm soát được. Trái tim và thời gian của mình. Cả hai đều thuộc về Đế chế.”

“Em biết.” cô trả lời. “Em biết rất rõ.”

“Ta sẽ không nán lại đây lâu.” Ông lên tiếng sau một khoảnh khắc im lặng nặng nề. “Ta sẽ phải tới Cintra, để vinh danh người dân bằng sự hiện diện của mình trong lễ ăn mừng hòa bình. Cô sẽ phải quay về Darn Rowan…Vui lên đi, cô gái. Và ta nói lần thứ hai, hãy ngẩng cao đầu lên khi đứng trước ta. Ta đang nhìn thấy cái gì trong mắt cô thế kia? Nước mắt? Đây là một sự vi phạm nghiêm trọng quy tắc ứng xử, ta sẽ phải cho bá tước phu nhân Liddertal thấy mình không hài lòng thế nào. Ta bảo, ngẩng cao đầu lên…”

“Xin Hoàng đế…hãy bỏ qua cho công nương Stella, đây là lỗi của em. Chỉ mình em thôi. Công nương Stella đã dạy em…và chuẩn bị cho em rất chu đáo.”

“Ta có nhận thấy, và trân trọng điều đó. Đừng sợ, Stella không cần phải lo lắng đến việc làm ta khó chịu. Bà ấy không bao giờ cần lo lắng. Ta chỉ đùa với cô thôi. Có phần tệ hại.”

“Em có nhận thấy,” cô gái đáp lại, kinh hoàng trước sự bạo dạn của mình. Nhưng Emhyr chỉ cười. Có phần khiên cưỡng.

“Ta thích cô.” Ông nói. “Tin ta đi. Cô rất dũng cảm. Cũng như…”

Ông khựng lại.

Cũng như con gái ta vậy, ông nói nốt trong đầu. Một cảm giác tội lỗi gặm nhấm ông nhưchó cắn.

Cô gái vẫn đang nhìn vào mắt Hoàng đế. Không chỉ là tác phẩm của Stella, Emhyr nghĩ thầm. Đây thực sự là bản chất của con bé. Và bất chấp ngoại hình, nó đích thực là một viên kim cương thô. Không, ta sẽ không cho phép Vattier giết cô gái này. Cintra là lợi ích của Đế chế, nhưng vấn đề này dường như chỉ có một giải pháp hợp tình hợp lý duy nhất.

“Đưa tay cho ta.”

Nó là một mệnh lệnh được truyền đạt bằng chất giọng cứng rắn và lạnh lùng. Nhưng kể cả như vậy, ông có cảm giác rằng cô vẫn sẽ tự nguyện vâng lời. Không cần ép buộc.

Bàn tay cô nhỏ và lạnh. Nhưng không còn run rẩy nữa.

“Tên cô là gì? Xin đừng nói với ta là Cirilla Fiona.”

“Cirilla Fiona.”

“Ta cảm thấy muốn trừng phạt cô lắm, cô gái. Thật nặng.”

“Em biết, thưa Hoàng đế. Em xứng đáng bị phạt. Nhưng em…em phải là Cirilla Fiona.”

“Ta nghĩ cô thấy tiếc rằng mình không phải là Cirilla.” Ông nói, vẫn đang cầm tay cô.

“Em xin lỗi,” cô thì thầm. “Em thấy tiếc rằng mình không phải cô ấy.”

“Thật ư?”

“Nếu em…thực sự là Cirilla, có lẽ Hoàng đế sẽ tỏ ra ân cần với em hơn. Nhưng em chỉ là một kẻ giả mạo. Một vật sao chép. Một thế thân không xứng đáng nhận được gì cả. Không gì hết…”

Ông bất thình lình quay lại và túm lấy tay cô. Rồi buông ra và bước lùi lại một bước.

“Cô có muốn một vương miện không? Một tước hiệu?” ông hỏi lịch sự, nhưng rất nhanh, vờ như không thấy cô đang lắc đầu quầy quậy. “Cống phẩm? Lời khen? Xa hoa phú quý?”

Ông ngừng lại. Ông vờ như không thấy cô gái lắc đầu, chối bỏ lời buộc tội bất công của mình, có lẽ còn bất công hơn những lời không nói ra.

Ông hít vào một hơi thật sâu.

“Cô biết rõ chứ, con thiêu thân bé nhỏ, rằng cái đang đứng trước mặt mình là ngọn lửa?”

“Em biết, thưa Hoàng đế.”

Họ im lặng hồi lâu. Hương mùa xuân chợt lượn quanh đầu. Đê mê.

“Làm một nữ hoàng,” cuối cùng Emhyr nói nhạt, “không dễ như vẻ bề ngoài đâu. Ta không biết liệu mình có thể yêu được cô hay không.”

Cô gật đầu để ám chỉ rằng mình biết. Ông trông thấy một giọt lệ lăn trên má cô. Cũng như lúc đó, ở lâu đài Stygga, ông cảm thấy tim mình như thể bị mảnh kính đâm phải.

Ông ôm cô, ấp cô vào ngực, và vuốt ve mái tóc đượm mùi hoa huệ.

“Đứa trẻ tội nghiệp của ta,” ông nói bằng một giọng lạ lùng. “Đại sự tội nghiệp của ta.”

***

Tiếng chuông ngân vang khắp Cintra. Trang trọng, sâu lắng. Nhưng u sầu đến lạ kỳ.

Trông hơi khác thường, Giám mục Hemmelfart nghĩ, cũng đang nhìn giống mọi người vàobức chân dung cao phải đến hai thước, hoặc hơn. Trông hơi khác thường. Ta hoàn toàn chắc chắn rằng con bé là một đứa con lai. Ta thề rằng con bé có máu của bọn elves đáng nguyền rủa trong người.

Khá xinh xắn, Foltest nghĩ, xinh hơn là tấm ảnh mà sở tình báo đã cho ta xem. Thôi thì, chân dung thường phải cách điệu.

Khác xa so với Calanthe, Meve nghĩ. Khác xa so với Roegner. Khác xa so với Pavetta… Hmm…đã có những lời đồn…Nhưng không, không thể nào. Con bé chắc hẳn phải có dòng máu hoàng tộc, người kế vị hợp pháp ngai vàng của Cintra. Chắc chắn. Đại sự yêu cầu như vậy. Và lịch sử.

Con bé không phải người ta đã thấy trong mơ, Esterad Thyssen, vua của Kovir, vừa mới tớiCintra nghĩ thầm. Chắc chắn không phải. Nhưng ta sẽ không tiết lộ với ai hết. Ta sẽ giữ riêng cho mình và Zuleyka. Zuleyka và ta sẽ quyết định sử dụng tri thức mà những giấc mơ đó ban cho mình thế nào.

Cái cô Ciri đó suýt thì trở thành vợ mình, Kistrin của Verden nghĩ. Nếu vậy thì mình đã là

Vua của Cintra, dựa theo truyền thống kế vị ngai vàng…Và mình có lẽ đã chết thảm như

Calanthe. Thật may mắn, ôi, thật may mắn là cô ta đã chạy trốn khỏi mình hồi đó.

Chưa bao giờ ta tin vào tình yêu sét đánh, Shilard Fitz–Osterlern nghĩ. Chưa một phút nào. Ấy vậy mà Emhyr đã cưới cô gái này. Ông ấy đã khước từ cơ hội hòa giải với các quý tộc. Thay vì con gái của một trong các công tước của Nilfgaard, ông ấy lại lấy Cirilla của Cintra làm vợ. Tại sao? Để chiếm giữ cái vương quốc bé nhỏ thảm hại đó ư, mà một nửa, nếu không phải hơn, ta đã có thể đem về cho đế chế bằng thương lượng. Để chiếm lấy cửa sông Yaruga, mà đằng nào thì cũng đang nằm dưới quyền kiểm soát của các công ty liên doanh hàng hải Nilfgaard– Novigrad–Kovir sao.

Ta chẳng hiểu đại sự này là thế nào đây.

Ta nghi rằng họ không nói hết tất cả với mình.

Nữ pháp sư, Dijkstra nghĩ. Đây là do bàn tay của các nữ pháp sư nhúng vào. Nhưng thôi kệ đi. Đằng nào đi nữa Ciri cũng sẽ trở thành Nữ hoàng của Cintra, vợ của Emhyr và Nữ hoàng của Nilfgaard. Định mệnh muốn điều đó. Số phận muốn điều đó.

Hãy để như vậy đi. Triss Merigold nghĩ. Hãy cứ để như vậy đi. Tốt. Giờ đây Ciri đã được an toàn. Họ sẽ quên con bé. Họ sẽ để nó sống.

Bức chân dung cuối cùng cũng được treo vào vị trí, và những người hầu lùi lại và gỡ thang.

Trong một hàng dài những bức chân dung đen tối và có phần bụi bặm của những người trị vì Cintra, đằng sau một bộ sưu tập những Cerbin và Coram, đằng sau Corbett, Dagorad và Roegner, đằng sau Calanthe kiêu hãnh và Pavetta u sầu, là bức chân dung cuối cùng. Miêu tả người cai trị cao quý hiện tại. Người kế vị ngai vàng và mang trong mình dòng máu hoàng tộc.

Bức chân dung một cô gái mảnh mai với mái tóc vàng và ánh nhìn buồn bã. Trong chiếc váy trắng và găng tay xanh lục.

Cirilla Fiona Elen Riannon.

Nữ hoàng của Cintra và Nữ hoàng của Nilfgaard.

Định mệnh, Philippa Eilhart nghĩ, cảm thấy ánh mắt của Dijkstra chiếu lên mình.

Đứa trẻ tội nghiệp, Dijkstra nghĩ, nhìn vào bức chân dung. Con bé có lẽ đang tưởng rằng tất cả những rắc rối và bất hạnh của mình đã kết thúc. Đứa trẻ tội nghiệp.

Tiếng chuông ngân vang khắp Cintra, làm khiếp sợ đàn hải âu.

***

“Không lâu sau khi kết thúc việc đàm phán và ký kết Hiệp ước Cintra,” người hành hương tiếp tục câu truyện, “một buổi lễ ăn mừng long trọng kéo dài vài ngày đã được tổ chức ở Novigrad, đỉnh điểm là cuộc diễu hành của quân đội. Ngày hôm đó đích thực rất đẹp, xứng đáng là ngày đầu tiên của một kỷ nguyên mới…”

“Chúng tôi có nên hiểu,” gã elf hỏi châm chọc, “rằng ông đã có mặt ở đó không, thưa ngài? Tại buổi diễu hành?”

“Nói thật thì tôi đến hơi trễ.” Người hành hương rõ ràng không phải loại dễ bị khiêu khích. “Ngày hôm đó, như tôi nói, quả thực rất đẹp. Nó đã hứa hẹn ngay từ lúc bình minh.”

***

Vascoigne, chỉ huy trưởng Drakenborg – mới gần đây còn là chánh văn phòng phụ trách ngoại giao – nôn nóng quất roi lên giày.

“Đằng kia nhanh lên, nhanh lên.” Ông ta giục. “Lứa tiếp theo đang đợi! Sau cái hiệp ước được ký kết ở Cintra đó chúng ta đang bận ngập đầu đây.”

Người hành quyết, sau khi đã choàng dây quanh cổ tử tù, đứng lùi lại. Vascoigne quất roi lên giày.

“Nếu ai trong số các ngươi có gì để nói,” ông ta tuyên bố khô khan, “giờ là cơ hội cuối cùng.”

“Tự do muôn năm.” Cairbre aep Diared hô lên.

“Phiên tòa của tôi bị dàn xếp,” Orestes Kropps, sát nhân, cướp của, rên rỉ.

“Hôn mông ta đi.” Robert Pilch, lính đào ngũ, lên tiếng.

“Nói với ngài Dijkstra rằng tôi xin lỗi.” Jan Lennep, đặc vụ bí mật, bị buộc tội hối lộ và ăn cắp, cất lời.

“Tôi không cố ý…tôi thật sự không cố ý,” Istvan Igalffy, chỉ huy trưởng tiền nhiệm của pháo đài, bị phế truất và giải đến trước tòa án binh vì tội ác đối với các nữ tù nhân, nức nở trong khi nhảy nhót trên khúc gỗ phong.

Mặt trời sáng chói như vàng nấu chảy, nổ tung phía trên vách tường của pháo đài. Những cây cột treo cổ trải bóng thật xa. Một ngày mới tuyệt đẹp vươn lên phía trên Drakenborg.

Ngày đầu tiên của một kỷ nguyên mới.

Vascoigne quất roi lên giày. Ông ta giơ tay lên và hạ xuống.

Những khúc gỗ bị đá đổ dưới chân.

***

Tất cả chuông của Novigrad ngân vang, âm thanh trầm đục dội lại những mái nhà và căn gác của thương nhân, tiếng vang chìm dần vào những con phố hẹp. Pháo hoa bắn cao. Đám đông rộn ràng, hò reo, rồi ném hoa, quăng mũ, vẫy khăn, cờ, thậm chì còn cả quần.

“Quân Đoàn Tự Do muôn năm!”

“Hurrahhh!”

“Các chỉ huy muôn năm!”

Lorenzo Molla cúi chào đám đông, thổi những nụ hôn gió về phía phụ nữ.

“Nếu họ trả tiền cũng hoành tráng như hò reo,” ông ta hét lớn bên trên sự huyên náo, “thì chúng ta giàu to!”

“Thật đáng tiếc,” Julia Abatemarco nói, cổ họng như mắc nghẹn. “Thật đáng tiếc là Frontino không còn sống để được nhìn…”

Họ cưỡi ngựa qua con phố chính, Julia, Adam ‘Adieu’ Pangratt và Lorenzo Molla, đi trên đầu đoàn quân, khoác trên mình những bộ trang phục bảnh bao nhất, sắp thành bốn hàng để thậm chí không một cái đầu ngựa sáng bóng và cắt tỉa gọn gàng nào chìa mũi ra khỏi hàng một phân. Những con ngựa của các lính đánh thuê, giống chủ nhân của chúng, điềm tĩnh và tự hào, không hoảng sợ bởi tiếng reo hò của đám đông, phản ứng bằng những cái gật đầu thật nhẹ, gần như không nhìn nổi với những vòng hoa bay về phía mình.

“Các chỉ huy muôn năm!”

“Adieu Pangratt muôn năm! Mèo Con Xinh Xắn muôn năm!”

Julia bí mật lau đi một giọt nước mắt, bắt lấy một bó hoa cẩm chướng.

“Tôi chưa từng mơ…” cô nói. “Một chiến thắng như vậy…thật tiếc là Frontino…”

“Cô nhạy cảm quá đấy, Julia.” Lorenzo Molla mỉm cười. “Tôi không hề biết là cô có một tâm hồn lãng mạn đến vậy.”

“Tôi có chứ. Quân đoàn, chú ý! Bên trái…quay!”

Họ ngồi thẳng trên yên ngựa, quay đầu về phía bục quan sát đặt sẵn ngai vàng và ghế ngồi. Mình trông thấy Foltest, Julia nghĩ. Người râu rậm kia có lẽ là Henselt của Kaedwen, và người lịch lãm đó là Demavend của Aedirn. Kia chắc là Hoàng hậu Hedwig…và đứa trẻ bên cạnh là Hoàng tử Radovid, con trai của vị vua bị ám sát…thằng bé tội nghiệp…

***

“Các chỉ huy muôn năm! Julia Abatemarco muôn năm! Hoan hô Adieu Pangratt! Hoan hô Lorenzo Molla!”

“Tổng chỉ huy Natalis muôn năm!”

“Các vị vua muôn năm! Foltest, Demavend và Henselt muôn năm!”

“Dijkstra muôn năm!” Ai đó khục khặc.

“Đức Giám mục muôn năm!” Vài giọng nói được trả tiền hét lên. Cyrus Engelkind Hemmelfart, Giám mục của Novigrad, đứng dậy và vẫy tay chào đám đông cùng đoàn quân diễu hành, quay mông về phía Hoàng hậu Hedwig và Radovid bé nhỏ, che khuất họ bằng cái đuôi áo cồng kềnh.

Sẽ không ai hô “Radovid muôn năm”, vị hoàng tử nghĩ thầm, bị chắn bởi cái mông to bựcủa đức giám mục. Sẽ không ai thậm chí liếc nhìn ta. Sẽ không ai hô tên mẹ ta. Hay thậm chí nhắc đến cha ta. Ngày chiến thắng hôm nay, ngày hòa giải hôm nay, mà thuộc về liên minh cha ta đã góp phần vào. Mà chính là lý do vì sao ông ấy bị sát hại.

Cậu ta cảm thấy ánh mắt của ai đó trên cổ mình. Tinh tế như điều gì đó cậu ta không biết – hoặc biết, nhưng chỉ là trong mơ. Thứ gì đó như một cái hôn nhẹ nhàng, nóng bỏng của bờ môi phụ nữ. Cậu ta quay đầu lại. Cậu ta trông thấy đôi mắt đen không đáy của Philippa Eilhart dán vào mình.

Cứ đợi đi, vị hoàng tử nghĩ, quay mặt sang nơi khác. Cứ đợi đi.

Vào lúc đó không ai có thể đoán được rằng cậu bé 13 tuổi này – hiện giờ là một nhân vật chẳng mấy quan trọng đối với một vương quốc được trị vì bởi Hội đồng Nhiếp chính và Dijkstra sẽ lớn lên thành một vị vua. Một vị vua, mà sau khi đã đáp trả mọi lời sỉ nhục đối với bản thân và mẹ mình, sẽ đi vào lịch sử với cái tên Radovid đệ Ngũ Cương Nghị.

Đám đông reo hò. Hoa trút như mưa dưới móng ngựa các lính đánh thuê.

***

“Julia?”

“Ừ, Adieu.”

“Hãy lấy tôi đi. Làm vợ tôi.”

Mèo Con Xinh Xắn mất một lúc lâu mới trả lời, vì còn phải đợi sự ngỡ ngàng qua đi. Đám đông reo hò. Giám mục Novigrad, mồ hôi nhễ nhại, đớp đớp không khí như một con cá trê to bự, chúc phúc người dân và đoàn diễu hành, cả thành phố và thế giới từ trên bục.

“Nhưng anh đã có vợ rồi, Adam Pangratt!”

“Chúng tôi đã li thân từ lâu. Tôi sẽ li dị.”

Julia Abatemarco không trả lời. Cô quay mặt đi. Ngạc nhiên. Bối rối. Và vô cùng hạnh phúc. Chỉ có thần linh mới hiểu vì sao.

Đám đông reo hò và ném hoa. Pháo hoa nổ lách tách phía trên những mái nhà.

Tiếng chuông Novigrad ngân vang.

***

Một người phụ nữ, Nenneke nghĩ. Khi ta gửi nó đi, nó vẫn là một đứa trẻ con. Khi trở về, nó đã là một người phụ nữ. Tự tin. Thông thái. Điềm đạm. Nữ tính.

Nó đã thắng cuộc chiến đó. Nó đã thắng bằng cách không để chiến tranh tàn phá mình.

“Deborah,” Eurneid tiếp tục bằng giọng nhẹ nhàng, nhưng rắn rỏi, “đã chết vì sốt rét trong một khu trại ở Mayena. Prune chết đuối ở Yaruga khi một chiếc thuyền chở thương binh bị lật. Myrrha bị giết bởi Sóc, trong một cuộc tấn công vào một bệnh viện thực địa ở Ameria… Katye…”

“Nói tiếp đi con.” Nenneke giục nhẹ nhàng.

“Katye,” Eurneid hắng giọng, “đã gặp một người Nilfgaard bị thương tại một bệnh viện. Cô ấy đã trở về Nilfgaard cùng anh ta sau khi hòa bình được xác lập, và các tù binh chiến tranh được trao đổi.”

“Ta vẫn luôn nói,” nữ tư tế mập mạp thở dài, “rằng tình yêu không có giới hạn. Vậy còn Iola đệ Nhị?”

“Cô ấy còn sống,” Eurneid nhanh chóng trấn an bà. “Cô ấy đang ở Maribor.”

“Tại sao con bé không về?”

Nữ học viên cúi đầu.

“Cô ấy sẽ không quay lại đền thờ đâu, thưa Mẹ.” cô nói khẽ. “Cô ấy đang ở bệnh viện của ông Milo Vanderbeck, người bác sĩ halfling. Cô ấy nói rằng muốn chăm sóc người bệnh. Rằng sẽ chỉ cống hiến bản thân mình cho việc đó. Hãy tha thứ cho cô ấy, Mẹ Nenneke.”

“Tha thứ ư?” Nữ tư tế khịt mũi. “Ta tự hào vì nó.”

***

“Ông đến muộn,” Philippa Eilhart rít lên. “Ông đến muộn một buổi lễ mà các vị vua cũng có mặt. Nhân danh một ngàn con quỷ, Sigismund, sự coi thường phép tắc của ông đã nổi tiếng đủ rồi, không cần phải khoa trương vậy đâu. Đặc biệt là hôm nay, vào một ngày như thế này…”

“Tôi có lý do.” Dijkstra đáp lại ánh mắt của Hoàng hậu Hedwig và cái nhướng mày của Giám mục Novigrad bằng một cái cúi chào. Ông ta nhận thấy vẻ cau có của tư tế Willemer và sự khinh bỉ trên gương mặt điển trai đến bất khả thi của Vua Foltest.

“Tôi phải nói chuyện với cô, Phil.”

Philippa nhăn mày.

“Chắc là riêng tư chứ hả?”

“Như thế là tốt nhất.” Dijkstra mỉm cười. “Tuy nhiên, nếu cô không phiền, tôi sẽ chấp nhận thêm một vài cặp mắt. Hãy nói là của các quý cô xinh đẹp ở Montecalvo đi.”

“Trật tự,” nữ pháp sư rít lên từ đôi môi đang mỉm cười.

“Khi nào thì tôi có thể trông đợi một cuộc gặp?”

“Tôi sẽ suy nghĩ và cho ông biết. Giờ thì để tôi yên. Đây là một buổi lễ trang trọng. Để tôi nhắc ông nhớ, nếu vẫn chưa chú ý.”

“Một buổi lễ trang trọng?”

“Chúng ta đang trên ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới, Dijkstra.”

Gián điệp nhún vai.

Đám đông reo hò. Pháo hoa bắn lên trời. Tiếng chuông Novigrad ngân vang, ngân vang vì chiến thắng, vì vinh quang. Nhưng u sầu đến lạ kỳ.

***

“Giữ dây cương đi, Jarre,” Lucienne bảo. “Tôi đói rồi, tôi muốn ăn gì đó. Đây, tôi sẽ quấn dây quanh tay anh. Tôi biết là một tay không có ích gì nhiều nữa rồi.”

Jarre cảm thấy sự xấu hổ và tủi nhục đốt cháy mặt mình. Cậu vẫn chưa quen được. Cậu vẫn có cảm giác rằng cả thế giới chẳng có việc gì hay ho để làm hơn là nhìn chằm chằm cái mẩu tay cụt của mình, và phần tay áo được khâu bít lại. Rằng cả thế giới không nghĩ được gì ngoài việc săm soi khuyết tật của cậu, giả vờ thương hại và đồng cảm với gã què quặt, trong khi ngấm ngầm khinh miệt và đối xử với cậu như thể cậu đã xúc phạm đến trật tự thông thường chỉ bằng mỗi việc là tồn tại. Dám tồn tại.

Lucienne, cậu buộc phải công nhận, có hơi khác so với thế giới trong khoản này. Cô không vờ như không để ý, hay giả bộ giúp đỡ và thương hại. Jarre gần như tin rằng cô gái tóc vàng này đối xử với cậu một cách bình thường. Nhưng cậu xua ý nghĩ đó đi. Cậu không chấp nhận nó.

Bởi bản thân cậu cũng chưa đối xử được bình thường với chính mình.

Chiếc xe chở thương binh kêu cọt kẹt và rung lắc. Thời tiết nóng đến sau một cơn mưa ngắn, và những ổ gà tạo nên bởi các đoàn xe của quân đội đã khô và cứng lại thành những hình lồi lõm đủ loại trên đường, mà chiếc xe bốn ngựa kéo phải vượt qua. Nó chòng chành như một con tàu giữa cơn bão. Tiếng chửi rủa của những người lính tàn tật – đa phần là cụt chân – đa dạng cũng tương đương với độ tục tĩu, và để tránh bị ngã Lucienne phải ôm chặt lấy Jarre, hào phóng truyền cho chàng trai hơi ấm kỳ diệu, sự mềm mại phi thường và mùi hương trộn lẫn giữa ngựa, dây da, rơm, lúa mạch và mồ hôi con gái.

Chiếc xe lăn qua một ổ gà nữa, Jarre kéo dây cương quấn quanh cổ tay mình. Lucienne, lần lượt cắn từ một ổ bánh mỳ và một cái xúc xích, nằm cuộn lại bên cậu.

“Chà, chà.” Cô để ý tấm mề đay bằng đồng của chàng trai và trơ trẽn tận dụng lợi thế rằng cả hai tay cậu đang phải cầm lái. “Anh cũng thích thể loại này sao? Một tấm mề đay xin–đừng– quên–tôi? Ôi, kẻ nào sáng tạo ra cái thứ này đúng là quỷ quái. Trong thời chiến nhu cầu của nó là rất lớn, có lẽ chỉ đứng sau vodka. Và tên của cô gái nào ở bên trong đây? Hãy nghía qua một tí…”

“Lucienne.” Jarre đỏ lựng như củ cải và cảm thấy máu sắp phun ra từ má bất kỳ lúc nào. “Tôi phải yêu cầu cô…không mở nó ra…xin lỗi, nhưng nó là vấn đề cá nhân. Tôi không muốn xúc phạm cô, nhưng…”

Chiếc xe xóc nảy, Lucienne cuộn lại bên cậu, và Jarre im lặng.

“Ci…ri…lla,” cô gái đánh vần khó khăn, nhưng nó khiến Jarre ngạc nhiên, không ngờ rằng cô thôn nữ này lại có năng khiếu đó.

“Cô ấy sẽ không quên anh đâu.” Cô đóng sập cái mề đay lại, rồi buông ra và nhìn chàng trai. “Ý tôi là cái cô Cirilla đó. Nếu cô ấy thực sự yêu anh. Thần chú với chả mề đay. Nếu cô ấy thực sự yêu anh, cô ấy sẽ không quên, cô ấy sẽ chung thủy. Cô ấy sẽ đợi.”

“Đợi làm gì?” Jarre giơ mẩu tay cụt.

Cô gái hơi nheo đôi mắt màu xanh bông bắp lại.

“Nếu cô ấy thực sự yêu anh,” cô lặp lại một cách chắc chắn, “cô ấy sẽ đợi, tất cả những thứ còn lại là rác rưởi. Tôi biết là như thế.”

“Cô có nhiều kinh nghiệm trong chuyện này rồi hả?”

“Không liên quan đến anh,” giờ là đến lượt Lucienne hơi đỏ mặt, “việc tôi có cái gì và với ai. Và đừng có nghĩ tôi là loại con gái mà chỉ gần hất đầu là sẵn sàng làm thúy nghuyệm trong đống rơm. Nhưng tôi biết cái tôi biết. Nếu anh yêu một người, anh yêu toàn bộ con người họ chứ không phải theo từng mảnh. Vậy nên nếu anh ta có sót mất một mảnh thì cũng chỉ là chuyện vặt.”

Chiếc xe xóc nảy.

“Cô đang tối giản quá rồi,” Jarre nói qua kẽ răng, tham lam hít vào mùi hương của cô gái. “Cô đang làm nó đơn giản quá mức và lý tưởng hóa nó quá mức, Lucienne. Cô thậm chí còn lờ đi một chi tiết rất nhỏ rằng khả năng chu cấp cho gia đình của một người đàn ông dựa vào việc anh ta có còn lành lặn hay không. Một kẻ tàn tật không thể…”

“Này, này, này!” cô sỗ sàng ngắt lời cậu. “Đừng có khóc vào tạp dề của tôi. Bọn Áo Đen chặt tay chứ không chặt đầu anh. Anh nhìn cái gì? Tôi xuất thân từ vùng quê thật đấy, nhưng tôi có mắt và có tai. Đủ khôn để nhận ra những chi tiết nhỏ nhặt như cung cách nói chuyện của một người, thực sự cao quý và hiểu biết. Và thêm nữa…”

Cô cúi xuống và ho. Jarre cũng ho. Chiếc xe xóc nảy.

“Và thêm nữa,” cô gái nói nốt, “Tôi cũng đã nghe những người khác kháo nhau. Rằng anh là một học giả. Và một thầy tu ở đền thờ. Vậy thì cái bàn tay đó…chẳng là gì hết. Có thế thôi.”

Chiếc xe đã không nảy được một lúc, nhưng Jarre và Lucienne dường như không để tâm.

Và nó cũng chẳng khiến họ bận tâm.

“Có vẻ như tôi rất có sức hấp dẫn với học giả,” cô gái lên tiếng sau một hồi. “Có một người…đã từng tán tỉnh tôi…Anh ta học rộng và đã qua trường lớp. Thậm chí nghe tên là đủ biết.”

“Và nó là gì?”

“Semester.”

“Này cô,” Gefeiter Corncrake gọi từ đằng sau. Ông ta là một lão già dơ bẩn, u ám, bị thương trong trận chiến ở Mayena. “Quất roi lên mông mấy con ngựa đi, cái xe của cô chạy như rùa bò vậy!”

“Tôi thề,” một người tàn tật nữa lên tiếng, gãi gãi mẩu chân cụt đã đóng vảy sáng loáng bên dưới gấu quần xắn cao, “cái vùng hoang vu này bắt đầu khiến tôi phát điên đây! Tôi thực sự nhớ một cái quán rượu, và một cốc bia. Chúng ta có thể đi nhanh hơn không?”

“Chúng ta có thể.” Lucienne quay lại. “Nhưng nếu trục xe hay bánh xe bị vỡ khi chạy qua một cục đá nào đó, thì trong một đến hai ngày chủ nhật tới ông sẽ không được uống bia đâu, mà là nước mưa, trong khi đợi xe khác đến đón. Ông không đi bộ được, và đời nào tôi lại đi cõng ông, có phải không?”

“Tiếc thật,” Corncrake mỉm cười. “Bởi tôi mơ được cô cõng vào mỗi đêm. Trên lưng, ý tôi là từ đằng sau. Tôi thích thế. Còn cô?”

“Lão tàn tật mắc toi này!” Lucienne la lên. “Đồ dê già hôi hám! Đồ…”

Cô dừng lại, trông thấy gương mặt tất cả thương binh trên xe bỗng trắng bệch như xác chết.

“Mẹ kiếp,” một người nức nở. “Chúng ta đã gần nhà đến thế rồi…”

“Chúng ta xong đời rồi,” Corncrake nói khẽ và hoàn toàn vô cảm. Chỉ đơn giản là nêu lên một sự thật.

Ấy thế mà họ nói, suy nghĩ vụt qua trong đầu Jarre, rằng không còn Sóc nữa. Rằng tất cả đã bị tàn sát. Và câu hỏi về người elves đã được giải quyết.

Có sáu kỵ sĩ. Nhưng sau khi nhìn gần hơn hóa ra có sáu con ngựa, nhưng tám người ngồi.

Hai con ngựa đang chở hai cặp. Chúng bước từng bước cứng nhắc và loạng choạng, đầu ủ rũ.

Trông chúng thật khổ sở.

Lucienne hít vào.

Những người elves đến gần hơn. Họ trông còn tệ hơn lũ ngựa.

Sự kiêu hãnh, rắn rỏi, cao ngạo và xa lạ của họ chẳng còn gì. Quần áo họ – thường kể cả trong các biệt đội du kích cũng rất đẹp – bẩn thỉu và tả tơi. Mái tóc – niềm tự hào và vui sướng – rối bời, bết lại từng cục rác rưởi và máu đông. Đôi mắt lớn, thường lạnh lùng và vô cảm, giờ là hố sâu chứa đầy sợ hãi và tuyệt vọng.

Sự khác biệt chẳng còn lại gì. Cái chết, nỗi kinh hoàng, cơn đói và không nhà cửa đã biến họ trở nên bình thường. Rất đỗi bình thường.

Họ thậm chí còn không đáng sợ nữa.

Trong một lúc Jarre nghĩ rằng họ sẽ chỉ đi qua, băng ngang đường và biến mất vào khu rừng phía bên kia, không thèm liếc cái xe hay các hành khách lấy một lần. Rằng tất cả những gì còn lại của họ sẽ chỉ là thứ mùi hoàn toàn không phải elves, khó chịu, hôi hám, một thứ mùi Jarre biết rất rõ từ các bệnh viện thực địa – mùi của sự khổ sở, nước đái, bụi bẩn và vết thương mưng mủ.

Họ đi qua mà không liếc nhìn.

Nhưng không phải tất cả.

Một nữ elf với mái tóc đen dài bết thành từng cục máu đông dừng con ngựa ngay cạnh chiếc xe. Cô ta ngồi dựa trên yên một cách vụng về, ôm lấy một cánh tay băng bó đẫm máu bu đầy ruồi nhặng.

“Toruviel,” một người elves lên tiếng, quay đầu lại. “En’ca digne, luned.

Lucienne ngay lập tức hiểu điều đang diễn ra. Cô hiểu người phụ nữ elf đang nhìn cái gì. Cô gái thôn quê đã quá quen từ thuở ấu thơ với những bóng ma xanh–xám của đói khát, rình rập quanh góc chòi nhà mình. Vậy nên cô hành động theo bản năng và rõ ràng. Cô giơ mẩu bánh mỳ ra cho người phụ nữ elf.

En’ca digne, Toruviel,” người elves lặp lại. Ông ta là người duy nhất trong toàn biệt đội mang biểu tượng tia chớp bạc của Lữ đoàn Vrihedd trên tay áo khoác rách rưới và bụi bặm.

Các thương binh trên xe, cho đến giờ còn tê liệt vì sợ, đột nhiên trở mình, như thể bị phù phép. Hàng tá bánh mỳ, pho mai, mỡ lợn và xúc xích xuất hiện – như thể do ma thuật – trong những bàn tay đang chìa ra với những người elves.

Và lần đầu tiên trong vòng một ngàn năm, elves chìa tay ra với con người.

Và Lucienne cùng Jarre là những người đầu tiên trông thấy elves khóc. Thấy họ nức nở, nghẹn ngào, không buồn lau đi những giọt nước mắt đang lăn trên những gương mặt lấm bẩn. Đánh tan lời nói dối rằng elves không có tuyến lệ.

En’ca…digne,” người elves với tia chớp bạc trên tay áo ngập ngừng.

Rồi ông ta chìa tay ra và nhận lấy ổ bánh mỳ từ Corncrake.

“Cảm ơn,” giọng ông ta khàn khàn, cố để môi và lưỡi làm quen với ngôn từ xa lạ. “Cảm ơn, con người.”

Sau một lúc, nhận thấy tất cả bọn họ đã rời đi, Lucienne tặc lưỡi với đàn ngựa và quất dây cương. Chiếc xe lại cọt kẹt và chòng chành. Không ai nói câu nào.

Cũng phải gần đến tối thì con đường bắt đầu tràn ngập kỵ binh vũ trang. Họ được chỉ huy bởi một người phụ nữ với mái tóc cắt ngắn, trắng hoàn toàn, gương mặt hung dữ, ác hiểm bị sẹo hủy hoại, một vết cắt từ thái dương đến khóe môi, và một vết, trông như móng guốc, vòng quanh hốc mắt. Người phụ nữ cũng mất một phần lớn tai phải, và cánh tay trái bên dưới cùi chỏ kết thúc bằng một tay áo da khâu kín và một cái móc đồng treo dây cương trên đó.

Người phụ nữ, nhìn họ với vẻ hung tợn và hiểm độc, hỏi về những người elves. Về Scoia’tael. Về bọn khủng bố. Về những kẻ đào tẩu, phần còn lại của một biệt đội bị tiêu diệt hai ngày trước.

Jarre, Lucienne và các thương binh, tránh ánh mắt của người phụ nữ tóc trắng cụt tay, lầm bầm rằng họ không gặp hay trông thấy ai cả.

Các người nói dối, Rayla Trắng, đã từng là Rayla Đen nghĩ thầm. Ta biết các người nói dối.

Các người nói dối vì thương hại.

Nhưng đằng nào cũng chẳng quan trọng.

Bởi ta, Rayla Trắng, không có lòng thương hại.

***

“Hoan hô các người lùn! Barclay Els muôn năm!”

“Người lùn muôn năm!”

Những con phố Novigrad rung chuyển bên dưới những đôi ủng bọc sắt nặng nề của các cựu binh đến từ trung đoàn Quân Tình Nguyện. Những người lùn hành quân đúng theo kiểu đặc trưng, theo năm hàng, hình búa bắt chéo trên cờ hiệu tung bay.

“Mahakam muôn năm! Người lùn muôn năm!”

“Vinh quang và danh tiếng cho họ!”

Đột nhiên ai đó trong đám đông phá lên cười. Thêm vài người khác hùa theo. Và chỉ phút sau tất cả mọi người đều cười.

“Đây là một sự sỉ nhục…” Giám mục Hemmelfart đớp không khí. “Một bê bối…không thể tha thứ…”

“Lũ người hèn mọn.” Tư tế Willemer rít lên.

“Cứ vờ như không nhìn thấy đi,” Foltest điềm tĩnh khuyên bảo.

“Lẽ ra chúng ta không nên cắt bớt tiền công của họ,” Meve nói chua chát. “Hay từ chối cho họ thức ăn.”

Các sĩ quan người lùn giữ vẻ nghiêm túc và đội hình, đứng trước bục quan sát và cúi chào. Trong khi những người lính còn lại của Quân Tình Nguyện bày tỏ sự không hài lòng của mình với việc cắt xén tiền công do các vị vua bày ra. Vài người cong khuỷu tay khi đi ngang qua bục, số khác thể hiện một cử chỉ yêu thích của họ: một nắm đấm có ngón giữa chỉ lên trời. Trong số các học giả cử chỉ đó mang cái tên digitus infamis. Dân thường có một cách gọi dân dã hơn nhiều.

Màu đỏ trên gương mặt các vị vua và giám mục cho thấy họ biết cả hai cái tên đó.

“Lẽ ra chúng ta không nên sỉ nhục họ bằng sự bủn xỉn của mình,” Meve nhắc lại. “Đó là một dân tộc rất khó tính.”

***

Những bóng ma trong Elskerdeg tru từng hồi, tiếng tru biến thành những lời than khóc tỉ tê.

Không ai trong số những người ngồi quanh đống lửa quay lại.

Boreas Mun là người đầu tiên lên tiếng sau một quãng im lặng dài.

“Thế giới đã thay đổi. Công lý đã được thực thi.”

“Chà, về phần công lý thì ông có hơi nói quá lời.” Người hành hương mỉm cười. “Nhưng tôi đồng ý rằng thế giới, theo một cách nào đó, đã thay đổi. Tự thích ứng trước những quy luật căn bản của vật lý.”

“Tôi băn khoăn không biết chúng ta có đang cùng nghĩ đến một quy luật hay không,” gã elf nói thật dài và chậm.

“Mỗi hành động đều tạo ra phản lực ngang bằng.” Người hành hương đáp lời.

Gã elf khịt mũi, nhưng đó là cái khịt mũi thân thiện.

“Điểm cộng cho ông, con người.”

***

“Stefan Skellen, con trai của Bertram Skellen, nguyên là Thanh tra trưởng Hoàng gia, hãy đứng dậy. Tòa án tối cao của Đế chế Vĩnh hằng, nhờ ơn Mặt trời Vĩ đại, đã kết luận ngươi có tội với những cáo buộc sau đây: phản quốc và âm mưu chống lại Đế chế và Hoàng đế. Tội của ngươi, Stefan Skellen, đã được xác nhận và chứng minh, và Tòa cũng không tìm được tình tiết giảm nhẹ nào cả. Do vậy, Hoàng đế tối cao không thể ân xá cho ngươi.”

“Stefan Skellen, con trai của Bertram Skellen. Ngươi sẽ bị giải từ phòng xử án đến thủ đô, nơi ngươi sẽ bị giam giữ cho đến thời điểm thích hợp. Là một kẻ phản bội, không xứng đáng được bước đi trên đất của Đế chế, ngươi sẽ bị trói vào một xe hàng và ngựa sẽ kéo ngươi đến Quảng trường Thiên Niên Kỷ. Là một kẻ phản bội, không xứng đáng được hít thở bầu không khí của Đế chế, ngươi sẽ bị treo cổ giữa thiên đàng và trái đất. Và ở đó cho tới chết. Xác ngươi sẽ được hỏa táng và tro tàn rải vào gió bốn phương.”

“Hỡi Stefan Skellen, con trai của Bertram Skellen, kẻ phản bội. Ta, đứng đầu Tòa án tối cao của Đế chế, kết tội ngươi, thốt lên tên ngươi lần cuối cùng. Hãy để nó từ nay về sau bị lãng quên.”

***

“Nó hoạt động rồi! Nó hoạt động rồi!” Giáo sư Oppenhauser la lên, xộc vào văn phòng trưởng khoa. “Nó hoạt động rồi, các quý ngài! Cuối cùng! Cuối cùng! Nó hoạt động rồi. Nó xoay rồi!”

“Thật ư?” Jean La Voisier, Giáo sư Hóa, còn được gọi là Trứng Thối bởi các sinh viên của mình, hỏi thẳng thừng và hồ nghi. “Không thể nào! Và xin cho hỏi cái gì đã hoạt động vậy?”

“Cỗ máy chuyển động vĩnh viễn của tôi!”

“Một động cơ vĩnh cửu?” Edmund Bumbler, giản viên môn Động vật học đáng kính, tò mò hỏi. “Thật sao? Ông không phóng đại đó chứ, bạn đồng nghiệp thân mến?”

“Không hề!” Oppenhauser hét lên, và nhảy loi choi như một con dê. “Không hề! Nó hoạt động rồi! Cỗ máy hoạt động rồi. Tôi đã cho nó chạy và nó đã chạy. Nó chạy liên tục. Không ngừng. Vĩnh viễn. Mãi mãi và mãi mãi. Không thể nào miêu tả được, các đồng nghiệp, các ông phải tới xem! Nhanh tới phòng thí nghiệm của tôi!”

“Tôi đang ăn sáng,” Trứng Thối phàn nàn, nhưng lời phàn nàn của ông ta bị lạc giữa sự huyên náo và phấn khích chung. Các giáo sư và giảng viên khoác áo lông lên người và chạy ra phía cửa, dẫn đầu bởi Oppenhauser, vẫn đang la ó và chỉ trỏ. Trứng Thối chỉ cái digitus infamis về phía họ và quay trở lại ổ bánh mỳ và thịt nguội trên bàn.

Nhóm nhỏ các học giả, liên tục được bổ sung bởi thêm nhiều các học giả nữa tham lam muốn chứng kiến thành quả 30 năm của Oppenhauser, nhanh chóng vượt qua khoảng cách giữa họ và phòng thí nghiệm của nhà vật lý lừng danh. Họ chỉ vừa sắp mở cửa thì đột nhiên mặt đất rúng động. Mạnh. Rất mạnh.

Nó là một cơn địa chấn, một trong chuỗi những trận động đất gây ra bởi sự phá hủy tòa lâu đài Stygga, nơi ẩn náu của Vilgefortz, dưới bàn tay các nữ pháp sư. Cơn địa chấn đã lan tới Oxenfurt từ tận Ebbing xa xôi.

Hàng tá mẩu thủy tinh vỡ tung từ khung cửa sổ trước Khoa Hội Họa. Cái đầu của Nicodemus de Boot, hiệu trưởng đầu tiên của học viện, bị khắc ngoằn nghèo những dòng chữ thô tục, rơi xuống khỏi bệ. Cốc trà Trứng Thối đang dùng để nuốt trôi bánh mỳ và thịt nguội rớt khỏi bàn. Một sinh viên khoa Lý năm nhất, Albert Solpietra, ngã khỏi cành đước trồng trên đất học viện mà cậu ta đã trèo để gây ấn tượng với vài nữ sinh khoa Y dược.

Và động cơ vĩnh cửu của Giáo sư Oppenhauser, chiếc động cơ vĩnh cửu huyền thoại, lật sang bên và dừng hẳn. Vĩnh viễn.

Và nó không bao giờ hoạt động lại nữa.

***

“Người lùn muôn năm! Mahakam muôn năm!”

Cái thể loại hỗn tạp gì đây, lũ côn đồ nhơ bản nào đây? Giám mục Hemmelfart nghĩ, chúcphúc cho đám đông bằng bàn tay run rẩy. Ai là người đang được tung hô? Bọn lính đánh thuê hám tiền, lũ người lùn tục tĩu, thật là một đống ô hợp! Sau cùng thì ai đã thắng cuộc chiến này, ta hay chúng? Thần linh ơi, ta phải lôi kéo sự chú ý của các vị vua vào vấn đề này mới được. Khi các sử gia và nhà văn học bắt đầu công việc, tác phẩm của họ nên được kiểm duyệt. Lính đánh thuê, witcher, bọn du côn, lũ không–phải–người và các thể loại đáng nghi khác phải biến mất hoàn toàn khỏi biên niên sử của nhân loại. Phải bị xóa sổ, bôi đen. Không một lời nào về chúng. Không một lời.

Và không một lời nào về hắn nữa, ông ta nghĩ, mím môi và nhìn Dijkstra, lúc này đang quan sát cuộc diễu hành với vẻ chán chường.

Cần thiết, vị giám mục nghĩ, phải ra chỉ dẫn cho các vị vua về Dijkstra. Sự hiện diện của hắn là nỗi sỉ nhục tới những con người tử tế và lương thiện.

Hắn là một kẻ vô thần và một tên vô lại. Cầu cho hắn biến mất không dấu vết. Và cầu cho hắn bị lãng quên.

***

Bước qua xác của ta trước, đồ con lợn hợm hĩnh, Philippa Eilhart nghĩ, đọc suy nghĩ của vịgiám mục không chút khó khăn. Ngươi muốn cai trị, muốn ra lệnh và gây ảnh hưởng? Muốn định đoạt mọi thứ? Bước qua xác của ta trước.

Tất cả những gì ngươi có thể quyết định là bệnh trĩ, mà cũng chẳng ảnh hưởng đến ai ngoại trừ cái mông của ngươi.

Và Dịjkstra sẽ còn ở lại. Cho đến chừng nào ta cần ông ta.

***

Rồi một ngày ngươi sẽ mắc sai lầm, tư tế Willemer nghĩ, nhìn vào đôi môi đỏ mọng, sángbóng của Philippa. Rồi một ngày, một trong số các ngươi sẽ mắc sai lầm. Và rồi hư danh, sự kiêu căng và ngạo mạn sẽ là cái chết của các ngươi. Và những âm mưu của các ngươi. Sự bất tử của các ngươi. Sự dơ bẩn và đồi bại mà các ngươi cống hiến bản thân cho nó, mà các ngươi đang sống vì nó. Nó sẽ được phơi bày trước ánh sáng. Mùi hôi thối của tội lỗi sẽ lan tràn khi các ngươi mắc sai lầm. Giây phút đó ắt sẽ đến.

Và kể cả nếu các ngươi không mắc sai lầm, thì cũng sẽ có một cơ hội để đổ tội cho các ngươi. Một bất hạnh nào đó, một tai họa nào đó xảy ra, có thể là một dịch bệnh đổ xuống đầu loài người…Và rồi tội lỗi sẽ đổ xuống đầu các ngươi. Không những bị trách là không thể ngăn chặn cơn dịch, các ngươi sẽ còn bị trách là không thể loại bỏ được hậu quả của nó.

Các ngươi sẽ gánh lấy mọi sai lầm trên vai.

Và rồi củi sẽ được châm dưới những cây cọc.

***

Con mèo khoang được gọi là Ginger bởi màu lông đang nằm chết. Chết một cách xấu xí. Nó lăn lộn, quằn quại, cào bới nền nhà, nôn ra máu và chất nhờn, người co giật và run rẩy. Trên cả nó còn đang đi ngoài ra máu. Nó kêu meo meo, dù cho cảm thấy việc đó là dưới tầm mình. Tiếng kêu của nó thật yếu ớt. Nó đang mất sức rất nhanh.

Ginger biết rằng mình đang chết. Hay ít ra là thứ gì đã giết mình.

Vài ngày trước đó, một con tàu lạ, cũ nát và bẩn thỉu, gần như là một đống gỗ vụn, đã cập cảng ở Cintra. Cái tên “Catriona” gần như mờ tịt in trên mũi tàu. Ginger đương nhiên là không biết đọc. Một con chuột bò dọc dây tời neo thuyền vào cảng. Một con chuột duy nhất. Con chuột trụi lông, bước đi lảo đảo và chậm chạp. Và chỉ có một tai.

Ginger giết con chuột. Nó đang đói, nhưng bản năng mách bảo nó đừng ăn con vật gớm ghiếc. Tuy nhiên, vài con rận, to, bóng loáng, lúc nhúc trên mình con thú gặm nhấm, đã xoay sở chui vào trong lông Ginger và yên vị ở đó.

“Con mèo mắc toi này bị làm sao vậy?”

“Chắc có người đã đầu độc nó. Hoặc ếm bùa nó!”

“Ugh, gớm quá! Nó bốc mùi kinh khủng! Vứt nó ra ngoài đi!”

Ginger cứng đờ và khẽ há cái mồm sặc máu. Nó không còn cảm nhận được cái chọc từ cán chổi mà bà vợ giờ đang cảm ơn nó cho 11 năm bắt chuột. Bị ném ra ngoài, nó nằm chết dưới cống nước lềnh bềnh xà phòng và nước tiểu. Nó chết, ước rằng những kẻ vô ơn đó cũng sẽ mắc bệnh. Và khổ sở như mình.

Điều ước của nó sắp sửa thành hiện thực. Và trên quy mô rộng. Quả thực là rất rộng.

Người phụ nữ đã quét con mèo ra ngoài đứng lại, nhấc váy lên và gãi phần chân bên dưới đầu gối. Nó ngứa.

Một con rận đã cắn cô ta.

***

Những ngôi sao phía trên Elskerdeg nhấp nháy mãnh liệt. Những đốm lửa trại tan biến vào không trung.

“Hiệp ước Cintra,” người elves lên tiếng, “hay cả màn diễu hành ở Novigrad, cũng đều không thể coi là một cột mốc. Ý nghĩa của chúng là gì? Các chính thể cai trị không thể tạo ra lịch sử bằng sắc lệnh hay đạo luật. Cũng không thể đánh giá lịch sử, cho điểm hay phân loại nó, dù rằng không nhà cai trị nào vì lòng tự kiêu lại đi công nhận sự thật này. Một trong những biểu hiện cực đoan của sự ngạo mạn của con người là cái gọi là biên soạn lịch sử, những cố gắng để đưa ra ý kiến hay phán xét thứ mà các ông gọi là “lịch sử cổ đại”. Nó là điển hình của các ông, và là kết quả từ việc tự nhiên ban tặng cho các ông tuổi đời như loài côn trùng, thời gian sống không quá 100 năm. Tuy nhiên, các ông lại cố nhào nặn thế giới cho phù hợp với sự tồn tại của côn trùng đó. Trong khi lịch sử là một quá trình diễn ra liên tục không có kết thúc. Không thể phân chia lịch sử ra làm từng phần, từ đây tới đó, từ đó tới đây, ngày này qua tháng khác. Các ông không thể định nghĩa lịch sử, hay thay đổi nó bằng sắc lệnh hoàng gia. Kể cả dù cho các ông đã thắng một cuộc chiến.”

“Tôi sẽ không tham gia vào cuộc đàm đạo triết lý này,” người hành hương nói. “Và như đã nói từ trước, tôi là một con người đơn giản và ít lời. Nhưng tôi xin dám quan sát được hai điều sau đây. Đầu tiên, tuổi thọ ngắn như côn trùng bảo vệ loài người chúng tôi khỏi sự suy đồi, và ép chúng tôi phải quý trọng sự sống, sống hết mình và sáng tạo để tận dụng mọi khoảnh khắc có được và tận hưởng nó. Tôi nói và suy nghĩ như một con người, nhưng sau cùng thì, suy nghĩ đó có lẽ cũng đã vụt qua tâm trí những người elves trăm tuổi đầu quân chiến đấu cho các biệt đội Scoia’tael. Nếu tôi sai, cứ việc sửa.”

Người hành hương đợi một khoảng thời gian thích hợp, nhưng không có ai sửa.

“Thứ hai,” ông ta tiếp tục, “có vẻ như với tôi, các chính thể cai trị dù không có khả năng thay đổi lịch sử, nhưng bằng hành động có thể tạo ra một ảo tưởng đủ mạnh về khả năng đó. Quyền lực chính trị có những phương cách và biện pháp để làm vậy.”

“À, vâng.” Gã elf đáp lại, ngoảnh mặt đi nơi khác. “Ông đã nói trúng vấn đề rồi đó, thưa ngài. Quyền lực có những phương cách và biện pháp. Mà không thể đem ra bàn tán công khai.”

***

Mạn thuyền cạ vào thanh ray của cầu tàu bám đầy rong biển và vỏ sò. Dây tời được ném xuống. Tiếng la ó, chửi rủa và ra lệnh cất lên.

Hải âu vừa kêu vừa lượn tìm thức ăn nổi lềnh phềnh trên mặt nước xanh rờn bẩn thỉu của bến cảng. Cầu tàu đầy ắp người. Chủ yếu mặc quân phục.

“Kết thúc cuộc hành trình rồi, các quý ngài elves.” Người chỉ huy Nilfgaard của đoàn hộ tống cất tiếng. “Chúng ta đang ở Dillingen. Tất cả xuống tàu! Có người đang đợi các ngài ở đây.”

Đó là sự thật. Họ đang được đợi.

Không có người elves nào – và chắc chắn không phải Faoiltiarna – tin tưởng vào lời đảm bảo một phiên tòa công bằng và ân xá. Các Scoia’tael và sĩ quan của Lữ đoàn Vrihedd không ấp ủ bất kỳ hy vọng hão huyền nào về số phận đang đợi họ ở phía bên kia dòng Yaruga. Phần đông đã chấp nhận nó một cách vô cảm, thậm chí buông xuôi. Họ tưởng rằng không gì có thể làm mình ngạc nhiên được nữa.

Họ đã lầm.

Họ bị đuổi khỏi con thuyền xuống cầu tàu, còng tay kêu leng keng, đứng giữa hai hàng lính đánh thuê vũ trang kín mít. Cũng có cả dân thường ở đó, những ánh mắt sắc lẹm đảo nhanh như cắt, chuyển từ gương mặt này sang gương mặt kia, dáng người này sang dáng người kia.

Nhận dạng, Faoiltiarna nghĩ. Ông ta không nhầm.

Cơ hội rằng gương mặt dị dạng của ông ta bị bỏ qua là bất khả thi.

“Ngài Isengrim Faoiltiarna? Sói Sắt? Thật là một bất ngờ dễ chịu! Đi lối này, đi lối này!”

Các lính đánh thuê lôi ông ta ra khỏi hàng.

Va fáill!” Coinneach Dá Reo gọi với theo. Anh ta đã bị nhận dạng và kéo đi bởi những người lính khoác biểu tượng đại bàng Redania. “Se’ved, se caerme dea!”

“Các người khắc được gặp lại nhau,” người đã nhận diện Faoiltiarna rít lên, “nhưng chắc sẽ là dưới địa ngục. Họ đã đang đợi hắn ở Drakenborg rồi. Hullo, dừng lại! Chẳng phải đó là ngài Riordain hay sao? Bắt hắn!”

Tổng thể, họ lôi ra ba người. Chỉ ba. Faoiltiarna hiểu và đột nhiên – trước sự ngạc nhiên của bản thân – cảm thấy sợ.

Va fáill!” Angus Bri Cri hét lên với các đồng đội trong khi bị kéo ra khỏi hàng. “Va fáill, fraeren!”

Một người lính sỗ sàng xô anh ta.

Họ không bị đem đi xa. Họ chỉ vừa tới một cái lán nằm gần bến cảng. Ngay cạnh một rừng cột buồm đang xao động.

Tay thường dân chỉ điểm ra hiệu. Faoiltiarna bị ép vào một cây cột, bên dưới một sợi dây treo lủng lẳng. Một cái móc sắt được buộc vào dây. Riordain và Angus bị dí xuống hai cái ghế dưới đất.

“Ngài Riordain, ngài Bri Cri,” gã dân thường nói lạnh lùng. “Các ngài đã được ân xá. Tòa đã quyết định khoan hồng.”

“Nhưng công lý phải được thực thi,” hắn thêm vào, không đợi một phản ứng đáp lại, “Và các gia đình có người thân bị các ngài sát hại đã trả tiền để điều đó xảy ra, các quý ngài. Đó là phán quyết cuối cùng.”

Riordain và Angus thậm chí còn không kịp kêu. Thòng lọng tròng qua cổ họ, siết chặt, xô họ ngã xuống đất và kéo lê trên nền nhà. Và khi họ cố gắng trong vô vọng với bàn tay bị cùm để tháo sợi dây thừng đang thít quanh cổ, các đao phủ quỳ lên ngực họ. Dao lóe sáng và hạ xuống, máu bắn lên. Giờ thì dây thừng cũng không thể hãm được tiếng hét dựng tóc gáy.

Nó diễn ra một lúc lâu. Như thường lệ.

“Hình phạt của ngài, Faoiltiarna, đi kèm với một phần thưởng đặc biệt.” Gã dân thường nói, chầm chậm quay đầu. “Khá đặc biệt…”

Faoiltiarna không hề có ý định chờ xem phần thưởng đó là gì. Cái còng tay được mở, mà đã tốn của người elves hai ngày và hai đêm, giờ tuột khỏi cổ tay như thể do phép màu. Với một nhát quất bằng sợi xích nặng nề ông ta đánh ngã cả hai người lính đang canh giữ mình. Faoiltiarna – hoàn toàn tự do – đá vào mặt kẻ tiếp theo, quất xích gã dân thường và quăng mình thẳng qua khung cửa sổ bám đầy mạng nhện, mang theo cả khung cửa, để lại máu và vải vụn bám trên đinh. Ông ta hạ cánh xuống những tấm ván của cầu tàu cái rầm, bật dậy, lảo đảo, lăn sang bên và lặn xuống nước giữa những con thuyền đánh cá và xà lan. Cái xích nặng nề, vẫn đang gắn ở cổ tay phải, kéo ông ta xuống đáy. Faoiltiarna chiến đấu. Chiến đấu với toàn bộ sức lực để níu giữ mạng sống, mà trước đó không lâu ông ta tưởng rằng không còn quan tâm đến nữa.

“Bắt hắn!” các lính đánh thuê la lên, xông ra từ cái lán. “Bắt hắn! Giết hắn!”

“Đằng này!” những kẻ khác hô lớn, chạy dọc cầu tàu. “Đó, hắn nổi lên ở đó!”

“Tới chỗ mấy con thuyền!”

“Bắn!” gã dân thường gầm lên, cố ngăn máu khỏi chảy ra từ hốc mắt bằng cả hai tay. “Giết hắn!”

Tiếng dây cung bật. Hải âu kêu quang quác. Dòng nước xanh rờn sôi sục mũi tên.

***

Vivant!” Cuộc diễu hành kéo dài và đám đông của Novigrad bắt đầu có những dấu hiệu mệt mỏi và khản giọng. “Vivant! Quân đội muôn năm!”

“Hoan hô!”

“Vinh quang cho các vị vua! Vinh quang!”

Philippa Eilhart nhìn quanh để đảm bảo không ai ở gần đó nghe lén, rồi nghiêng mình sang phía Dijkstra.

“Ông muốn nói chuyện gì với tôi?”

Gián điệp cũng nhìn quanh.

“Về vụ ám sát Vua Vizimir hồi tháng Bảy năm ngoái.”

“Cái gì cơ?”

“Gã nửa–elves sát thủ,” Dijkstra hạ giọng xuống thấp nữa, “không hề điên tí nào, Phil. Và không hành động một mình.”

“Ý ông là gì?”

“Trật tự.” Dijkstra mỉm cười. “Trật tự, Phil.”

“Đừng có gọi tôi là Phil. Ông có bằng chứng không? Bằng chứng thế nào? Ông kiếm ở đâu ra?”

“Cô sẽ ngạc nhiên đấy, Phil, nếu tôi kể cho cô nghe. Khi nào thì tôi có thể trông đợi một cuộc gặp với các quý cô đáng kính đây?”

Đôi mắt của Philippa Eilhart như hai cái hồ đen không đáy.

“Sớm thôi, Dijkstra.”

Tiếng chuông ngân vang. Đám đông reo hò khản cổ. Quân đội diễu hành. Cánh hoa trải khắp mặt đường Novigrad như bông tuyết.

***

“Ông vẫn đang viết đấy à?”

Ori Reuven giật mình và quệt một vết mực. Ông ta đã phụng sự Dijkstra được 19 năm nhưng vẫn không quen được cung cách di chuyển không tiếng động của sếp mình, hiện ra từ nơi chỉ có thần linh mới biết và bằng cách mà chỉ có thần linh mới biết.

“Chào buổi tối, hem, hem, ngài…”

Những con người trong bóng đêm.” Dijkstra đọc tựa đề của bản thảo, mà ông ta đã lượm lên từ mặt bàn. “Lịch sử của Mật vụ Hoàng gia, tác giả Oribasius Gianfranco Paolo Reuven,… Ôi, Ori, Ori. Già vậy rồi mà còn ngốc thế sao…”

“Hem, hem…”

“Tôi đến để nói tạm biệt, Ori.”

Reuven nhìn ông ta ngạc nhiên.

“Ông thấy đấy, ông bạn trung thành của tôi,” gián điệp tiếp tục mà không đợi người thư ký ho ra cái gì, “Tôi cũng đã già, và hóa ra cũng ngu nữa. Tôi đã nói một từ với một người. Chỉ một người. Và chỉ một từ. Hóa ra như vậy là quá nhiều từ và quá nhiều người. Nghe kỹ đi, Ori. Ông có nghe thấy chúng không?”

Ori Reuven lắc đầu, đôi mắt mở to kinh ngạc. Dijstra không nói gì một lúc lâu.

“Ông không nghe được,” ông ta lên tiếng sau một hồi. “Nhưng tôi nghe được. Trong dãy hành lang. Chuột đang chạy qua thành phố Tretogor. Chúng đang tới đây. Chúng đang tới trên những đôi chân chuột nhắt khẽ khàng đó.”

***

Chúng tới từ bóng đêm. Mặc đồ đen, đeo mặt nạ, khẽ khàng như chuột. Lính gác trong phòng chờ đổ xuống không một tiếng kêu bên dưới những nhát dao đâm nhanh như cắt. Máu tuôn ra trên sàn lâu đài Tretogor, thấm ướt những viên gạch, làm ố những tấm thảm mang về từ Vengerberg.

Chúng áp sát dọc theo hành lang và để lại xác chết sau lưng.

“Hắn ở đó,” một tên chỉ trỏ. Dải khăn quàng kín đến mắt bít lại giọng. “Hắn bước vào đó. Qua phòng văn thư chỗ lão già Reuven làm việc.”

“Không có đường nào ra khỏi nơi đó.” Ánh mắt của tên khác, kẻ chỉ huy, sáng lên qua khe hở của chiếc mặt nạ nhung đen. “Căn phòng đằng sau phòng văn thư không có cửa sổ. Không có đường ra.”

“Tất cả dãy hành lang khác đã được canh phòng. Tất cả cửa chính và cửa sổ. Hắn không thể thoát. Hắn mắc kẹt rồi.”

“Tiến lên!”

Cánh cửa bật mở với một cú đá. Những con dao sáng loáng.

“Cái chết! Cái chết cho kẻ sát nhân!”

“Hem, hem?” Ori Reuven giương đôi mắt cận thị, nhoèn nước lên khỏi những trang giấy. “Vâng? Tôi có thể giúp gì các quý ngài?”

Bọn sát thủ đạp cửa vào phòng riêng của Dijkstra, lục lọi như chuột nhắt, tìm kiếm khắp các ngóc ngách và khe kẽ. Thảm trang trí, tranh treo tường bị giật xuống. Dao găm xé rách rèm cửa và nệm trải giường.

“Hắn không có ở đây!” một tên la to, chạy vào phòng văn thư. “Hắn không có ở đây!”

“Hắn đâu rồi?” tên thủ lĩnh khò khè, cúi xuống Ori, nhìn ông ta qua khe hở trên chiếc mặt nạ. “Con chó khát máu đó đâu rồi?”

“Ông ta không ở đây,” Ori Reuven điềm tĩnh trả lời. “Các ngài có thể tự nhìn.”

“Hắn đâu rồi? Nói mau! Dijkstra đâu?”

“Tôi là người hầu cho em trai tôi chắc?” Ori ho.

“Chết đi, lão già!”

“Tôi già rồi. Bệnh tật. Và rất yếu. Hem, hem. Tôi không sợ các người hay dao của các người.”

Lũ sát thủ chạy ra khỏi phòng. Chúng biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện.

Chúng không giết Ori Reuven. Chúng là sát thủ cho thuê. Và cái tên Ori Reuven không được nhắc đến chút nào trong mệnh lệnh của chúng.

Oribasius Gianfranco Paolo Reuven dành 6 năm trong các nhà tù khác nhau, liên tục bị tra hỏi bởi nhiều thám tử khác nhau, về đủ vấn đề tưởng chừng như vô nghĩa.

Ông ta được thả sau 6 năm. Vào lúc đó ông ta đã rất yếu. Chứng hoại huyết đã lấy đi bộ răng, thiếu máu đã lấy đi mái tóc, glaucoma lấy đi đôi mắt, và hen suyễn lấy đi hơi thở. Cả mười ngón tay đã gãy nát vì bị tra khảo.

Ông ta sống được chưa đến một năm sau khi tự do. Ông ta chết tại một nhà tế bần của đền thờ. Trong khổ sở. Quên lãng.

Bản thảo của cuốn sách Những con người trong bóng đêm, Lịch sử của Mật vụ Hoàng gia biến mất không dấu vết.

***

Bầu trời phía đông bừng sáng. Thứ ánh sáng mờ xuất hiện bên trên những ngọn đồi, sứ giả của bình minh.

Sự im lặng ngự trị khu trại một lúc lâu. Người hành hương, gã elf và người truy dấu dõi theo ngọn lửa trong im lặng.

Sự im lặng ngự trị Elskerdeg. Những bóng ma tru tréo đã rời đi, chán nản trước những tiếng tru vô ích. Chúng cuối cùng đã hiểu rằng ba người đàn ông ngồi quanh đống lửa đã chứng kiến quá nhiều tội ác man rợ để lo lắng về bất kỳ hồn ma nào đó.

“Nếu dự định du hành cùng nhau, chúng ta phải gạt bỏ sự nghi ngờ,” Boreas Mun bất chợt lên tiếng, nhìn vào ánh lửa hồng. “Hãy để lại sau lưng quá khứ. Thế giới đã thay đổi. Cuộc đời mới đang chờ đón phía trước. Thứ gì đó kết thúc, thứ gì đó bắt đầu. Phía trước chúng ta…”

Ông ta ngưng giữa câu và ho. Ông ta không quen phát biểu như vậy, và sợ ra vẻ lố bịch. Nhưng các bạn đồng hành bất đắc dĩ không cười. Boreas thậm chí còn cảm thấy sự thân thiện toát ra từ họ.

“Khe núi Elskerdeg ở phía trước,” cuối cùng ông ta kết thúc bằng chất giọng tự tin hơn, “và đằng sau là Zerrikania và Hakland. Một chặng đường dài và nguy hiểm. Nếu du hành cùng nhau…hãy gạt bỏ sự nghi ngờ. Tôi là Boreas Mun.”

Người hành hương trong chiếc mũ rộng vành đứng dậy, ưỡn thẳng thân hình vĩ đại, và bắt bàn tay đang chìa ra phía mình. Người elves cũng đứng lên. Gương mặt dị dạng khiếp đảm nhăn nhó một cách kỳ lạ.

Sau khi bắt tay người truy dấu, người hành hương và gã elf chìa tay ra với nhau.

“Thế giới đã thay đổi,” người hành hương nói. “Thứ gì đó kết thúc. Tôi là…Sigi Reuven.”

“Thứ gì đó bắt đầu.” Gã elf vặn vẹo gương mặt thành một thứ mà dựa theo mọi bằng chứng thì là một nụ cười. “Tôi là…Wolf Isengrim.”

Họ bắt tay nhau, nhanh, mạnh, gần như bạo lực. Trong một lúc trông nó như màn khởi động của một trận ẩu đả hơn là cử chỉ làm hòa. Nhưng chỉ trong chốc lát.

Khúc gỗ lửa trại bắn lên tia lửa, ăn mừng sự kiện bằng một màn pháo hoa vui tươi.

“Thần linh đánh chết tôi đi,” Boreas Mun nhoẻn miệng cười, “nếu đây không phải là khởi đầu của một tình bạn tuyệt vời.”

…cùng với các thánh nữ khác, Thánh Philippa cũng bị vu khống là phản quốc, reo rắc hỗn loạn và kích động người dân âm mưu lật đổ. Willemer, một tên dị giáo và tự bổ nhiệm là tư tế tối cao, đã ra lệnh bắt giữ đức Thánh, ném vào nhà ngục tăm tối, hôi hám và lạnh lẽo, dụ dỗ người thú nhận tội lỗi của mình. Nhiều dụng cụ tra tấn đã được trưng ra để bẻ gãy tinh thần của người, nhưng Thánh Philippa chỉ đơn giản nhổ vào mặt hắn và buộc tội hắn thông dâm.

Tên dị giáo ra lệnh lột y phục của người và quất roi da, đóng đinh dưới móng tay. Rồi hắn yêu cầu người từ bỏ đức tin và Nữ thần. Nhưng đức Thánh chỉ cười và khuyên hắn nên đi chữa cho cái đầu bệnh hoạn của mình.

Rồi Willemer ra lệnh kéo người tới phòng tra tấn và trói vào giá, hành hạ thân thể người bằng móc sắt và đốt cháy da dẻ người bằng sáp nến. Và dù cho bị tra tấn, đức Thánh trong cơ thể phàm trần đã thể hiện sức chịu đựng và kháng cự của đấng bất diệt. Những kẻ tra tấn mất tinh thần và rút lui trong kinh hoàng, nhưng Willemer đe dọa chúng và ra lệnh cho chúng phải tiếp tục. Chúng bắt đầu thiêu đốt Thánh Philippa bằng sắt nung đỏ, đập gãy tứ chi của người và kéo vú người bằng kìm thép. Và trong sự đày ải, người vẫn không thú nhận gì hết, và qua đời.

Và kẻ dị giáo Willemer vô lương tri, mà ta có thể tìm đọc trong các tác phẩm của Đức Cha, đã phải hứng chịu hình phạt bị chấy rận và giòi bọ ăn sống, lòng phèo thối rữa và chết một cách khổ sở. Và xác hắn bốc mùi tới nỗi phải bị ném xuống sông mà không thể đem chôn.

Và Thánh Philippa nhận được chiếc vương miện xứng đáng của kẻ tử vì đạo, và vinh quang vĩnh hằng cho Đức Mẹ Vĩ Đại, và với tất cả chúng ta, một bài học và một lời cảnh tỉnh. Amen.

– Cuộc đời của Thánh Philippa, thánh nữ tử vì đạo của Mons Calvus, trích từ ghi chép về các thánh nữ tổng hợp trong Kinh Cầu Nguyện Tretogor, dành cho các đức cha và đức mẹ linh thiêng.

About The Author

Ngo David

Power is Power