The Witcher Quyển 4 – Thời đại khinh miệt

The Witcher Quyển 4 – Thời đại khinh miệt

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 7

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Vedymins, những kẻ được gọi là Witcher theo ngôn ngữ phương Bắc – một tập hợp các chiến binh-thầy tu tinh nhuệ bí ẩn, có lẽ là một nhánh khác của Druid. Theo như truyền thuyết dân gian, họ sở hữu năng lực phép thuật và các khả năng siêu nhiên mà họ dùng để chiến đấu chống lại những linh hồn hắc ám, quái vật và những sinh linh độc ác. Trong thực tế, vì là những bậc thầy kiếm thuật, họ thường được các thủ lĩnh của phương bắc sử dụng trong chiến tranh bộ lạc. Trong trận chiến họ rơi vào một cơn hôn mê, mà có lẽ được gây ra bởi thôi miên và các loại độc dược, giúp họ chiến đấu với sự cuồng nộ mù quáng và hoàn toàn miễn nhiễm trước đau đớn hay kể cả những vết thương nặng nhất – chính điều này đã củng cố thêm sự mê tín đối với các khả năng siêu nhiên của họ. Giả thiết về nguồn gốc do đột biến hay kỹ thuật di truyền của họ vẫn chưa được chứng minh. Đây là những người hùng trong rất nhiều câu truyện dân gian của phương Bắc (dựa theo F.Delannoy, “Những bí ẩn và truyền thuyết của Người phương Bắc”)

Effenberg và Talbot, Đại bách khoa toàn thư về thế giới, Quyển XV.

Để làm cái nghề đưa thư này, Aplegatt thường nói với các tập sự trẻ tuổi rằng cần phải có hai thứ – một cái đầu bằng vàng và một cái mông bằng sắt.

Một cái đầu bằng vàng là cần thiết, như Aplegatt đã dạy, bởi vì bên trong cái túi da dưới đống quần áo của người đưa thư chỉ là những thông điệp tầm thường, loại mà con người ta có thể vô tư viết lên giấy. Những thông điệp thực sự quan trọng, bí mật, loại mà có ý nghĩa rất lớn, người đưa thư phải ghi nhớ và truyền lại cho người nhận. Đúng đến từng từ, và đôi lúc những từ này đâu có đơn giản. Đến phát âm còn khó chứ chưa nói gì đến nhớ. Để có thể nhớ được và không mắc sai lầm, một người thực sự cần một cái đầu bằng vàng.

Còn về cái mông sắt, chà, cái đó thì mỗi người đưa thư khắc tự khám phá ra. Sau khi đã dành ba ngày ba đêm trên yên ngựa và chạy liên tục trong 100 đến 200 dặm đường gồ ghề. Ha, đương nhiên rồi, đâu thể ngồi cả ngày trên yên được, cũng có lúc phải xuống nghỉ chứ. Con người thì có thể chịu đựng được nhiều, nhưng ngựa thì không. Và đến lúc lại phải quay lại yên ngựa, cái mông đôi khi hét lên: “Thần linh ơi, không!”

Nhưng thời buổi này ai mà cần đến người đưa thư nữa chứ, ngài Aplegatt hỏi các tập sự. Từ Vengerberg đến Vizima, ví dụ, một người không thể đi trong ít hơn 4 đến 5 ngày, ngay thậm chí cả trên con ngựa nhanh nhất. Nhưng một pháp sư ở Vengerberg cần bao nhiêu thời gian để truyền thông điệp đến một pháp sư ở Vizima? Nửa giờ là cùng. Ngựa có thể bị què. Cướp hay Sóc có thể bắn người đưa thư, chó sói hay griffin có thể xé xác anh ra làm trăm mảnh. Một phút trước vẫn còn người đưa thư, phút sau anh ta đã chết rồi. Trong khi một thông điệp ma thuật chắc chắn sẽ đến nơi, không lạc đường hay chậm trễ. Ai mà cần người đưa thư trong khi các pháp sư ở khắp nơi, gần mỗi tòa lâu đài?

Những người đưa thư đã thành thừa rồi, ngài Aplegatt.

Trong một thời gian, Aplegatt cũng nghĩ rằng chẳng có ai còn cần đến anh nữa. Anh 36 tuổi, lùn nhưng khỏe mạnh và gân guốc, anh không sợ làm việc nặng nhọc và anh có một cái đầu bằng vàng. Anh có thể tìm một công việc khác để nuôi sống bản thân và vợ, dành dụm chút tiền làm của hồi môn cho hai đứa con gái chưa chồng, và tiếp tục giúp đỡ đứa đã kết hôn, mà tên chồng đần độn có vẻ không được may mắn trong việc làm ăn cho lắm. Nhưng Aplegatt không muốn và không thể tưởng tượng ra mình làm việc gì khác. Anh là Sứ Giả Hoàng Gia.

Và đột nhiên, sau một thời gian dài không hoạt động và ủ dột, người ta lại cần đến Aplegatt. Những móng ngựa lại rầm rập trên con đường. Người đưa thư, như những ngày xưa cũ, lại bắt đầu đi xuyên qua đất nước mang thông điệp từ nơi này đến nơi khác.

Aplegatt biết tại sao. Anh thấy nhiều, và nghe càng nhiều hơn. Nhẽ ra anh phải xóa những thông điệp đã được truyền đi ra khỏi đầu ngay lập tức, để không ai có thể moi móc được chúng từ anh kể cả khi tra tấn. Nhưng Aplegatt vẫn nhớ. Và hiểu tại sao các vị vua lại bỗng dưng ngừng liên lạc với nhau bằng ma thuật và không cần sự trợ giúp của các pháp sư. Những thông điệp mà người đưa thư mang đi là để giữ bí mật khỏi chính họ. Các vị vua đã không còn tin tưởng họ, không còn chia sẻ bí mật với họ nữa.

Nguyên nhân của sự ghẻ lạnh trong quan hệ giữa các vị vua và pháp sư này là gì, Aplegatt không biết và cũng không quan tâm. Cả hai, theo quan điểm của anh, đều là những sinh vật phi thường mà không thể dự đoán trước được hành động – đặc biệt là vào lúc này, trong thời buổi khó khăn như vậy. Và sự thật là thời buổi khó khăn đang đến, rất dễ dàng nhận ra trong khi di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, lâu đài này sang lâu đài khác, vương quốc này sang vương quốc khác.

Những con đường dày đặc lính. Cứ đi một bước là lại nhìn thấy một hàng bộ binh, và tay chỉ huy nào trông cũng có vẻ cáu bẳn, cảnh giác, nghiêm nghị và rất chắc chắn về tầm quan trọng của mình, như thể vận mệnh của cả thế giới đang nằm trong tay họ. Các lâu đài và thành quách cũng đầy lính canh, đông đúc và nhộn nhịp suốt ngày đêm. Các vị bá tước và chủ lâu đài thường ít khi ló mặt ra thì giờ đây tuần hành qua lại trên những bức tường và sân trong, giận dữ như những con ong trước cơn bão, họ la hét, chửi rủa, ra lệnh và đá.

Nói theo cách khác, nguy cơ chiến tranh đang treo trên đầu họ.

Aplegatt đứng dậy và nhìn ngó xung quanh. Bên dưới đồi là một dòng sông và đằng sau nó là khu rừng. Người đưa thư thúc con ngựa. Thời gian đang gấp rút.

Anh đã đang trên đường được hai ngày rồi. Mệnh lệnh của đức vua và những lá thư đã được giao cho anh ở Hagge, nơi anh đang nghỉ ngơi sau chuyến đi từ Tretogor về. Anh rời tòa lâu đài vào ban đêm, phi dọc bờ trái của Pontar, vượt qua biên giới Temeria trước bình minh và giờ, vào trưa ngày hôm sau, anh đã gần đến bờ của Ismena. Nếu vua Foltest mà ở Vizima thì Aplegatt đã chuyển được thông điệp cho ông vào đêm nay rồi. Đen đủi là đức vua lại đang không có ở thủ đô – ông đang ở phía nam đất nước, ở Maribor, cách Vizima 200 dặm. Aplegatt biết điều này, đó là vì sao khi đến gần Cầu Trắng anh đã rời khỏi con đường chính dẫn về phía tây và hướng đến con đường rừng dẫn về Ellander. Có hơi liều lĩnh một chút. Bọn Sóc vẫn đang hoành hành và thật đáng thương cho kẻ nào lọt vào tay chúng, hay ở trong tầm ngắm bắn của chúng. Nhưng người sứ giả hoàng gia phải chấp nhận thôi. Đó là nghề của anh mà.

Anh vượt qua dòng sông mà không gặp khó khăn nào – từ tháng 6 đã không còn mưa nữa và mực nước giảm đáng kể. Anh đến con đường dẫn từ Vizima về phía đông bắc, hướng về các lò rèn và công xưởng của người lùn nằm trong ngọn núi Mahakam. Có rất nhiều các đoàn xe đi trên đường này và Aplegatt thở phào nhẹ nhõm. Scoia’tael thường tránh xa đám đông. Các chiến dịch chống elves đã tiếp tục ở Temeria được một năm, các biệt đội Sóc bị truy đuổi chia ra thành các nhóm nhỏ hơn và các nhóm này tránh xa những con đường bận rộn, không tổ chức mai phục chúng.

Trước khi đêm xuống anh đã ở biên giới phía tây của Ellander, gần làng Zavada, từ đó con đường dẫn đến Maribor thẳng tắp và an toàn. Có một quán rượu gần đấy. Anh quyết định để bản thân và con ngựa được nghỉ ngơi một chút. Anh biết rằng nếu mình khởi hành vào lúc bình minh thì trước khi mặt trời lặn, anh sẽ được trông thấy những lá cờ đen-bạc trên các mái ngói đỏ thẫm của Maribor.

Anh tự mình cởi túi đồ trên yên xuống, yêu cầu cậu bé trông coi chuồng ngựa đi ra chỗ khác. Người sứ giả hoàng gia không bao giờ cho phép ai được động vào ngựa của mình. Anh ăn một bữa no bụng. Uống chút bia. Nghe ngóng tin tức. Có rất nhiều tin để nghe. Đủ loại khách vãng lai dừng chân tại quán rượu, từ mọi nơi trên thế giới.

Ở Dol Angra, Aplegatt nghe được, lại xảy ra sự cố mới. Lại lần nữa, các kỵ binh Lyria giao tranh với lính Nilfgaard trên biên giới. Lại lần nữa, Meve, Nữ hoàng của Lyria, lớn tiếng buộc tội Nilfgaard đã khiêu khích và yêu cầu sự trợ giúp từ Demavend, vua của Aedirn. Ở Tretogor đã xảy ra một vụ hành quyết công khai một nam tước Redania, người mà đã ngấm ngầm thông đồng với các sứ thần của Hoàng đế Nilfgaard, Emhyr. Ở Kaedwen, các biệt đội Scoia’tael tập hợp lại tàn sát pháo đài Leyda. Và để trả đũa, các cư dân của Ard Carraigh đã tổ chức thanh trừng, giết hại gần 400 kẻ không-phải-người đang sống trong thành phố.

Ở Temeria, những người thương nhân đến từ phía nam nói, một bóng tối đang bao trùm lên những người Cintra tị nạn hiện đang tập trung lại dưới ngọn cờ của Nguyên soái Vissegerd. Có vẻ như tin tức về cái chết bi thảm của Sư Tử Con, cháu gái của Calanthe, công chúa Cirilla, đã được xác nhận.

Anh cũng nghe được nhiều lời đồn khủng khiếp hơn nữa. Tại một ngôi làng gần Aldersberg, những con bò không còn cho ra sữa nữa mà là máu, và Trinh Nữ Chết Chóc, điềm báo đại họa, được nhìn thấy vào lúc bình minh trong màn sương. Ở Brugge, gần rừng Brokilon, cấm địa của người dryad, Wild Hunt đã xuất hiện và tất cả mọi người đều biết đó là điềm báo chiến tranh. Người ta cũng trông thấy một con tàu ma lảng vảng gần mũi đất Bremervoord, trên boong tàu là một bóng người – một kỵ sĩ đen với chiếc mũ cánh chim.

Người đưa thư không nghe kỹ lắm, anh đã quá mệt rồi. Anh đổ người xuống giường và ngay lập tức chìm vào giấc ngủ.

Anh thức dậy vào lúc bình minh. Khi bước ra ngoài anh đã gặp một bất ngờ – anh không phải là người đầu tiên chuẩn bị khởi hành và đó là một điều thật sự hiếm hoi. Một con ngựa đen đứng gần cái giếng và cạnh nó là một người phụ nữ mặc quần áo đàn ông đang rửa tay bằng nước trong cái máng. Nghe thấy bước chân Aplegatt lại gần, cô quay lại và vén mái tóc dài, đen nhánh của mình lên. Người đưa thư cúi chào. Người phụ nữ gật đầu.

Bước vào chuồng ngựa, anh gần như đâm phải con chim dậy sớm thứ hai, một cô gái trẻ đội mũ bêrê nhung đang dẫn một con ngựa màu táo. Cô bé xoa mặt và ngáp dài, người tựa vào con thú bên cạnh.

“Ôi trời,” cô bé lầm bầm khi đi qua người đưa thư, “Mình sẽ ngủ gật trên con ngựa mất….thể nào mình cũng sẽ ngủ gật cho mà xem….Uaaaaa ”

“Khi con ngựa bắt đầu đi, cái lạnh sẽ đánh thức cô dậy”, Aplegatt nói. “Chúc thượng lộ bình an, thưa cô.”

Cô bé quay lại và nhìn như thể vừa mới nhận ra anh. Đôi mắt cô to và xanh như một cặp ngọc lục bảo. Aplegatt đặt yên lên lưng ngựa.

“Tôi chúc cô đi an toàn,” anh lặp lại. Thường thì anh không hay nói nhiều, nhưng giờ đây anh cảm thấy nhu cầu muốn được nói chuyện với ai đó, kể cả người đó có là một con nhãi đang mơ ngủ đi chăng nữa. Có lẽ là do những ngày dài đi đường, hay có lẽ là do cô bé gợi anh nhớ đến đứa con thứ hai của mình.

“Cầu cho các vị thần sẽ che chở cho cô,” anh thêm vào. “Cầu cho họ sẽ bảo vệ cô khỏi tai nạn và thời tiết xấu. Các cô chỉ có hai người mà lại còn là phụ nữ nữa………………….. và thời buổi đang khó khăn. Nguy hiểm rình rập khắp nơi.”

Cô bé mở to mắt ra. Người đưa thư cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng mình. “Nguy hiểm….” cô bé nói bằng một giọng khác thường. “Nguy hiểm rất im lặng. Anh sẽ không nghe thấy nó bay đến trên những chiếc lông chim màu xám. Tôi đã có một giấc mơ. Cát…cát rất ấm dưới ánh mặt trời………………………. ”

“Cái gì?” Aplegatt đông cứng. “Cô đang nói về cái gì vậy? Cát nào?” Cô bé rùng mình và lau mặt. Con ngựa màu táo lúc lắc cái đầu. “Ciri!” người phụ nữ tóc đen đứng bên ngoài la lên. “Nhanh lên đi!”

Cô bé ngáp dài, nhìn Aplegatt như thể ngạc nhiên trước sự hiện diện của anh. Người đưa thư im lặng.

“Ciri,” người phụ nữ lại nói. “Con ngủ ở đó rồi à?” “Con đến đây, cô Yennefer!”

Khi Aplegatt sửa soạn xong yên cương và dắt con ngựa ra ngoài, không thấy bóng dáng người phụ nữ hay cô bé đâu cả. Người đưa thư nhảy lên lưng ngựa và nhớ đến cặp mắt xanh lục của cô bé ngái ngủ, và những lời nói khó hiểu của cô. Nguy hiểm im lặng? Lông chim màu xám?

Cát ấm? Chắc là nó hơi ấm đầu, anh quyết định. Có rất nhiều những kẻ bất hạnh như vậy trong những ngày này, những cô gái phát điên vì bị quân lính hay bọn côn đồ cưỡng bức………………….. Phải, chắc là nó bị điên. Hay có lẽ là vẫn chưa tỉnh ngủ? Đôi lúc con người ta lảm nhảm những điều thật kỳ lạ trong khi mơ màng.

Anh rùng mình cái nữa và cảm thấy một cơn đau trên bả vai. Anh lấy tay xoa lưng.

Ngay khi đặt chân lên con đường dẫn đến Maribor, anh thúc ngựa phi nước đại. Thời gian đang gấp rút.

***

Anh không dừng chân lâu tại Maribor – ngày vẫn chưa hết và những cơn gió đã đang thổi qua tai anh rồi. Con ngựa mới, đến từ chuồng ngựa của Maribor, quét qua con đường bằng cái đuôi của mình. Ngực Aplegatt áp chặt vào túi bưu kiện ngoại giao. Mông anh nhức khủng khiếp.

“Cầu cho mi ngã gãy cổ, đồ điên!” một tay lái xe nào đó sau lưng anh hét lên, trấn an con ngựa đang phát hoảng khi Aplegatt phi qua. “Chạy như thần chết đang liếm ngón chân mình vậy! Mi sẽ không thoát khỏi Thần Chết đâu!”

Aplegatt dụi dụi mắt.

Ngày hôm qua anh đã giao bưu kiện cho vua Foltest và truyền lại thông điệp bí mật từ vua Demavend.

Demavend gửi Foltest. Tất cả đã sẵn sàng ở Dol Angra. Những người đóng kịch đang đợi lệnh. Thời gian hành động: đêm thứ hai của tháng 11, sau trăng non. Những con thuyền phải sang đến bờ bên kia con sông sau hai ngày.

Một đàn quạ bay qua con đường. Chúng bay về hướng đông, về phía Mahakam, Dol Angra và Vengerberg. Người đưa thư nhẩm đi nhẩm lại thông điệp bí mật từ đức vua của Temeria gửi đến người trị vì Aedirn.

Foltest gửi Demavend. Thứ nhất: hoãn kế hoạch lại. Lũ khôn lỏi đang chuẩn bị một buổi triệu tập tại Thanedd. Có thể dẫn đến thay đổi nhiều thứ. Thứ hai: hãy hủy bỏ cuộc săn lùng Sư Tử Con. Thông tin đã được xác nhận. Sư Tử Con đã chết.

Aplegatt thúc con ngựa. Thời gian đang gấp rút.

***

Con đường hẹp bị những chiếc xe hàng chắn ngang. Aplegatt chậm rãi tiến lại đoàn xe dài đằng đẵng. Anh nhận ra ngay lập tức rằng mình sẽ không thể đi qua chỗ kẹt này. Quay lại bây giờ sẽ mất quá nhiều thời gian và ý nghĩ phải đi vòng qua khu rừng vào lúc trời tối không làm anh thấy thích thú chút nào.

“Chuyện gì đã xảy ra ở đây vậy?” anh hỏi những người lái chiếc xe cuối hàng, hai ông già, một người trông ngái ngủ và người kia trông như đã chết rồi. “Cướp à? Hay Sóc? Nói đi! Tôi đang vội lắm ”

Trước khi họ kịp trả lời, những tiếng la ó vang lên từ đầu hàng. Những người lái xe nhanh chóng nhảy lên và quất những con ngựa và bò của mình. Hàng xe bắt đầu di chuyển. Người ngái ngủ thức dậy trong khi ông già trông như chết nhìn chằm chằm Aplegatt.

“Thật thiếu kiên nhẫn làm sao,” ông ta nói. “Này, con trai, cậu may mắn lắm đó. Nếu cậu mà đến đây từ buổi trưa thì đã phải đứng đợi như bọn tôi rồi. Ai mà chẳng vội, nhưng ai cũng phải chờ hết. Nếu không thì làm sao qua được đường cấm?”

“Con đường bị cấm ư? Sao lại thế?”

“Một con quái vật ăn thịt người kinh khủng nào đó đã xuất hiện, con trai à. Tấn công một hiệp sĩ đang đi cùng người hầu của mình. Người ta nói là nó đã bứt đầu vị hiệp sĩ và moi ruột con ngựa ra. Người hầu may mắn chạy thoát được và quay lại cảnh báo con đường tràn ngập máu ”

“Quái vật nào vậy?” Aplegatt hỏi. “Một con rồng à?”

“Không, không phải một con rồng.” Người kia nói. “Họ bảo là một con “mandygore” hay gì đó. Người hầu nói rằng nó là một loại thú biết bay, to khủng khiếp. Và dữ tợn! Chúng ta đã nghĩ: nó sẽ ăn thịt vị hiệp sĩ béo ngậy và bỏ đi, nhưng không! Thằng con hoang đó ngồi yên trên đường, rú rít, nhe nanh nhe vuốt ra Thế nên bất kỳ ai lại gần và nhìn trộm được nó một cái đều bỏ xe lại và chạy như ma đuổi. Kẹt xe đến hơn một dặm và xung quanh thì toàn là đầm lầy, không thể quay lại hay đi vòng. Thế nên chúng ta đợi ”

“Bao nhiêu trai tráng khỏe mạnh!” người đưa thư cười khẩy, “thế mà đứng đực ra ở đây như mấy con lừa. Lẽ ra nên vác rìu đi giết con quái vật luôn rồi.”

“Thì, đã có một số thử rồi,” ông già nói. “Ba người lùn từ đoàn hộ tống của các lái buôn, và đi cùng họ là bốn người lính nghĩa vụ đang trên đường đến lâu đài Carreras để nhập ngũ. Những người lùn bị cấu xé ghê lắm, còn bốn người lính thì ”

“Bọn thỏ đế,” ông già kia nói nốt. “Chạy mất dép ngay khi vừa nhìn thấy con mandygore.

Hình như có thằng còn vãi cả ra quần. Kia kìa, nhìn đi con trai, ngay kia kìa!”

“Tôi không muốn,” Aplegatt làu bàu. “Mấy cái quần bẩn không làm tôi hứng thú cho lắm.” “Không phải! Con quái vật! Con quái vật đã chết rồi! Các chiến binh đang đặt nó lên một cái xe kìa! Thấy không?”

Aplegatt ngẩng đầu lên. Mặc dù đám đông bu kín lại xem, anh vẫn nhìn ra được một cái xác vĩ đại. Các chiến binh nhấc nó dậy và ném lên xe. Những con ngựa bồn chồn vì mùi hôi, hý lên.

“Đừng dừng lại!” người lính chỉ huy hét lên. “Tiến lên phía trước! Không được chặn đường!”

Các ông già thúc mấy con la. Aplegatt đi theo sau.

“Vậy là có vẻ các chiến binh đã giết được con quái vật?”

“Giá mà như vậy,” ông già cười khẩy. “Khi đến nơi, họ chẳng làm gì ngoài la hét với mọi người. Đứng im, tránh ra chỗ khác, làm cái này, làm cái kia. Họ đâu có chạy ra chỗ con quái vật ngay đâu. Họ đã gọi một witcher.”

“Một witcher sao?”

“Chính xác,” ông già kia xác nhận, “Có ai đó nhớ là đã trông thấy một witcher tại một ngôi làng gần đó, vậy nên họ cho gọi anh ta. Anh ta có đi qua chúng tôi. Tóc trắng, xấu xí với một thanh kiếm to đùng. Chưa đầy một tiếng sau, có ai đó hét lên là con đường đã thông, bởi vì witcher đã giết con quái vật. Vậy nên chúng tôi bắt đầu di chuyển. Và đó là lúc mà cậu đến.”

“Ha!” Aplegatt lầm bầm, lạc trong suy nghĩ. “Tôi đã đi khắp thế giới trong bao nhiêu năm mà chưa từng được nhìn một witcher nào. Có ai đã trông thấy anh ta giết con quái vật không?”

“Cháu thấy!” một cậu bé với mái tóc bờm xờm tiến lại gần chiếc xe từ phía bên kia. “Cháu đã thấy toàn bộ sự việc! Thật đó! Bởi vì cháu đã đứng cạnh mấy người lính, ngay hàng đầu tiên.”

“Kể đi nhóc.”

“Nó như thế này này,” cậu nhóc bắt đầu, “witcher lại gần chỗ người chỉ huy. Nói rằng tên ông ấy là Gernant. Chỉ huy nói là tên gì mặc kệ, miễn sao ông ta làm được việc. Rồi ông ta chỉ cho witcher chỗ của con quái vật. Witcher lại gần, quan sát một lúc rồi bảo đây là một con manticore to khác thường và ông ta sẽ giết nó với giá 200 crown.”

“200?” ông già kêu lên. “Hắn ta điên rồi chắc?”

“Người chỉ huy cũng nói tương tự, nhưng có hơi tinh nghịch hơn chút. Và witcher trả lời rằng đây là mức giá cuối cùng và ông ta không quan tâm, con quái vật có thể ngồi đó đến ngày tận thế cũng được. Người chỉ huy nói ông ta sẽ không trả nhiều như vậy, ông ta thà đợi nó bay đi còn hơn. Witcher bảo là nó sẽ không bay đi đâu, nó đang đói và cáu bẳn. Và kể cả nếu có bay đi thì nó cũng sẽ sớm quay lại khu vực săn mòi…m…..mài….mồi ”

“Đừng có lắp bắp nữa thằng nhãi,” ông già làu bàu. “Kể chuyện gì xảy ra tiếp theo đi.” “Cháu đang cố đây! Vậy là witcher nói thế này: con quái vật sẽ không đi mà sẽ ngồi đó cả đêm để ăn thịt vị hiệp sĩ – từ từ, bởi vì ông ta mặc áo giáp, khó để moi ra. Thế là các lái buôn tụ tập lại và đề nghị trả 100 crown. Nhưng witcher nói rằng con quái vật tên là manticore và nó rất nguy hiểm, vậy nên họ đi mà nhét 100 crown đó vào mông mình, bởi vì ông ta sẽ không liều cái mông của ông ta chỉ vì số tiền đó. Người chỉ huy bực lên và quát rằng nghề nghiệp của gái điếm và witcher chính là liều cái mông của họ. Nhưng các lái buôn sợ là witcher cũng sẽ bực thế nên họ đồng ý giá 150. Và rồi witcher rút kiếm và đi ra chỗ con manticore. Và rồi người chỉ huy làm dấu thánh về phía witcher, nhổ nước bọt và bảo rằng lũ dị hợm quái quỷ như vậy không nên tồn tại trên đời. Các lái buôn đáp lại rằng nếu quân đội đi giết con quái vật thay vì đùa giỡn với elves trong rừng suốt ngày, thì đã không cần đến witcher làm gì ”

“Đừng phí thời gian nữa,” ông già cắt ngang. “Nói cho chúng ta biết mày đã trông thấy gì đi.”

“Cháu,” thằng bé nói, “lúc đấy đang bận nhìn con ngựa của witcher, một con ngựa màu hạt dẻ với bờm trắng.”

“Kệ mẹ ngựa! Mày có nhìn thấy witcher giết con quái vật không?”

“Err….cháu không thấy. Cháu bị đẩy ra phía sau. Tất cả mọi người đều la hét và ngựa thì bồn chồn, thế nên……………………… ”

“Đúng như tôi nghĩ,” ông già cười khinh bỉ, “Nó chẳng thấy cái mẹ gì cả, thằng nhãi con.” “Nhưng cháu có thấy witcher quay lại!” Thằng bé cự nự, “và người chỉ huy, mà đã đứng đó xem từ đầu đến cuối, trông tái nhợt như ma và bảo với lính của mình rằng đó chắc hẳn phải là ma thuật hoặc trò bịp bợm nào đó của elves, bởi vì một người bình thường không thể nào nhanh đến vậy được. Witcher lấy tiền của các lái buôn, cưỡi lên ngựa và đi mất.”

“Hmm…. ” Aplegatt lầm bầm, “Anh ta đi về phía nào? Đến Carreras? Nếu vậy thì ta có thể bắt kịp và nhìn anh ta một cái.”

“Không.” thằng bé nói. “Ông ấy đến Dorian. Có vẻ là ông ấy đang vội.”

***

Witcher hiếm khi mơ về thứ gì và nếu có thì nó cũng nhanh chóng bị lãng quên vào buổi sáng hôm sau. Kể cả những cơn ác mộng – và đó là thứ mà anh hay mơ đến nhất.

Lần này nó cũng là một cơn ác mộng, nhưng witcher ít ra cũng nhớ được một chút. Từ những bóng người lạ lùng nhưng mờ ám, những cảnh tượng kỳ dị nhưng nguy hiểm và những âm thanh không thể hiểu được nhưng ác độc hiện lên một hình ảnh rõ ràng. Ciri. Khác với những gì anh nhớ ở Kaer Morhen. Mái tóc xám của cô bé dài hơn – giống lần đầu tiên mà anh gặp cô, ở Brokilon. Khi cô bé đi ngang qua anh, anh muốn gọi cô nhưng không thể lên tiếng. Muốn chạy theo cô nhưng chân như thể ngập trong hắc ín. Và Ciri có vẻ như không để ý thấy anh, cô bé tiếp tục phi nước đại vào màn đêm, giữa những nhành liễu già nua, vặn vẹo và những cây trăn chìa cành ra như thể muốn bắt cô. Và anh có thể thấy cô bé đang bị truy đuổi. Bởi một con ngựa đen với một hiệp sĩ đen, đội chiếc mũ đính một cặp cánh chim săn mồi.

Anh không thể di chuyển, không thể la lên. Anh chỉ có thể đứng nhìn tên hiệp sĩ cánh chim chạy lại gần Ciri, túm lấy tóc cô bé, kéo xuống khỏi ngựa và lôi đi. Anh chỉ có thể đứng nhìn gương mặt cô bé chuyển màu xanh vì đau đớn và miệng cô mở ra thành một tiếng hét câm lặng. Dậy đi, anh tự nói với mình, không thể chịu được cảnh tượng kinh hoàng đó. Dậy đi! Dậy ngay!

Anh thức dậy.

Anh nằm bất động một lúc lâu, nhớ lại giấc mơ. Rồi đứng dậy. Anh lôi cái túi để dưới gối ra và đếm tiền. 150 cho con manticore. 50 cho con fogger anh giết ở Carreras. Và 50 cho con ma sói ở Burdorff.

50 crown cho một con ma sói. Khá nhiều cho một công việc dễ dàng. Con ma sói còn không thèm tự bảo vệ bản thân. Bị dồn vào một góc hang, nó quỳ xuống và chờ đợi nhát kiếm kết liễu. Witcher cảm thấy tiếc cho nó.

Nhưng anh cần tiền.

Chưa đầy một giờ sau, anh đã đang đi trên những con phố của Dorian, tìm kiếm con hẻm quen thuộc và tấm biển quen thuộc.

Tấm biển đề “Codringher và Fenn, tư vấn và dịch vụ pháp lý”. Tuy nhiên Geralt biết quá rõ rằng dịch vụ mà Codringher và Fenn cung cấp liên quan rất ít đến luật pháp và hai người cộng sự này có rất nhiều lý do để tránh xa các đại diện của nó. Anh cũng nghi ngờ liệu có khách hàng nào của họ hiểu được nghĩa của từ “tư vấn” không.

Ở bên dưới tòa nhà không có cái cửa nào, chỉ có một cánh cổng rắn chắc, khóa chặt, có lẽ là dẫn đến chuồng ngựa. Để đến cửa, người ta cần phải ra phía sau nhà, lên cầu thang và đi qua một hành lang tối mù.

Geralt gõ cửa và đứng tránh ra. Anh biết rằng cánh cửa có cài một cơ chế có thể bắn những cái gai dài đến 50 phân ra từ một cái lỗ bí mật. Theo lý thuyết, những cái gai chỉ bắn ra khi có ai đó cố cạy khóa hay khi Codringher hoặc Fenn bấm nút, nhưng Geralt thường hay có cơ hội khám phá ra rằng không có máy móc nào là hoàn toàn đáng tin cậy và đôi lúc chúng có thể hoạt động bất ngờ.

Có lẽ là cũng có một thiết bị nào đó cài trong cửa, chắc hẳn là ma thuật, để nhận dạng khách đến thăm. Không có ai ở trong hỏi tên người đứng ngoài bao giờ. Cánh cửa bật mở và Codringher đứng đó. Luôn là Codringher, không bao giờ là Fenn.

“Xin chào, Geralt.” Codringher nói. “Vào đi. Và không cần phải lo, tôi đã vô hiệu hóa thiết bị rồi. Có cái gì đó bị gãy vài ngày trước. Nó tự hoạt động bất ngờ và kết liễu một người giao hàng. Vào đi! Anh cần tôi giúp gì nào?”

“Không,” witcher bước vào căn phòng chờ âm u và sặc mùi mèo như mọi khi. “Không phải anh, mà là Fenn.”

Codringher cười lớn, xác nhận mối nghi của witcher rằng Fenn chỉ là một nhân vật tưởng tượng, tồn tại chỉ để đánh lạc hướng các vị thị trưởng, đại diện của đức vua, những người thu thuế và các khách không mời khác.

Họ bước vào một căn phòng khác sáng sủa hơn. Geralt ngồi trên ghế dành cho khách. Ngồi ở phía đối diện anh trên chiếc ghế bành là Codringher, người đàn ông yêu cầu rằng mình phải được gọi là “luật sư” và người mà đối với anh ta, không thứ gì là không thể. Bất kể khi ai đó gặp rắc rối hay khó khăn nào đó, họ đều đến gặp Codringher. Và rồi bỗng nhiên họ đều có được bằng chứng không thể chối cãi về sự xảo trá và lừa lọc của các đối tác làm ăn. Được một khoản vay của ngân hàng mà không chậm trễ. Được thừa kế toàn bộ gia tài, cho dù ông bác giàu sụ của họ có đe dọa rằng họ sẽ chẳng được một xu nào hết. Con trai họ được ra tù vì thiếu bằng chứng buộc tội, và nhân chứng rút lại lời khai. Gã bạn trai khả nghi của con gái họ bỗng dưng không còn muốn qua lại nữa. Người tình của vợ họ gặp phải một tai nạn không may. Và bất cứ kẻ thù hay cá nhân nào làm phiền họ đều không còn muốn làm phiền nữa – như thể một quy luật, tất cả những người đó đều biến mất không dấu vết.

Phải, mỗi khi ai đó gặp rắc rối, họ đến Dorian, chạy tới văn phòng “Codringher và Fenn” và gõ lên cánh cửa làm từ gỗ đào. Và rồi họ thấy “luật sư” Codringher, lùn, gầy, với mái tóc xám và nước da nhợt nhạt của một người không mấy khi ra ngoài. Codringher dẫn họ vào căn phòng, ngồi trên chiếc ghế bành, bế con mèo đen-trắng bự chảng lên đùi và khẽ vuốt nó. Cả hai bọn họ – Codringher và con mèo – nhìn chằm chằm người khách với cặp mắt vàng-xanh, ghê rợn của mình.

“Tôi đã nhận được thư của anh,” Codringher và con mèo nhìn witcher bằng đôi mắt vàng- xanh. “Dandelion cũng đã ghé qua thăm tôi. Anh ta có đi ngang qua Dorian mấy tuần trước. Anh ta có nói với tôi về vấn đề của anh. Nhưng rất ít. Rất ít.”

“Thế sao? Ngạc nhiên thật. Đó hẳn phải là lần đầu tiên mà Dandelion tỏ ra ít nói.” “Dandelion,” Codringher không cười, “nói rất ít, bởi vì anh ta biết còn ít hơn. Và anh ta không nói hết tất cả những gì mình biết đơn giản bởi vì anh đã cấm anh ta làm vậy. Sự thiếu tin tưởng này đến từ đâu thế? Thậm chí đối với cả một người đồng nghiệp sao?”

Geralt khịt mũi. Codringher có thể giả vờ không nhận ra nhưng anh ta không thể bởi vì con mèo đã để ý thấy. Nó mở to mắt ra, nhe nanh và rít lên khe khẽ.

“Đừng trêu con mèo của tôi,” người luật sư vừa nói vừa vuốt con vật, “Anh cảm thấy xúc phạm khi bị gọi là đồng nghiệp của tôi sao? Nhưng nó lại là sự thật. Tôi cũng là một witcher. Tôi cũng cứu mọi người khỏi những con quái vật và những vấn đề quỷ quái. Và tôi cũng làm việc này vì tiền.”

“Có sự khác biệt.” Geralt thốt lên, con mèo vẫn đang nhìn anh bằng cặp mắt không mấy thân thiện.

“Đúng thật,” Codringher đồng ý. “Anh là một witcher đã lỗi thời trong khi tôi là một witcher hiện đại. Đó là vì sao anh sẽ sớm thất nghiệp còn tôi thì sẽ thăng tiến. Sớm thôi, sẽ chẳng còn lại con striga, wyvern, endriga và ma sói nào trên thế giới. Còn những thằng khốn thì vẫn luôn tồn tại.”

“Nhưng anh chủ yếu cứu những thằng khốn này khỏi rắc rối, Codringher. Những con người nghèo khó không trả nổi tiền cho dịch vụ của anh.”

“Những con người nghèo khó cũng đâu trả nổi cho dịch vụ của anh. Những kẻ nghèo hèn chẳng bao giờ trả nổi bất cứ thứ gì, đó là lý do vì sao họ bị gọi là nghèo.”

“Thật là một kết luận logic không thể tin được. Và một khám phá vĩ đại.”

“Một trong những khía cạnh của sự thật là vĩ đại. Và đúng thật là nền tảng nghề nghiệp của hai ta đều dựa trên sự hiểm ác. Chỉ khác ở chỗ của anh chỉ là một di vật đang tàn lụi của quá khứ, trong khi của tôi thì vẫn đang là hiện thực và lớn mạnh.”

“Rồi, rồi. Vào việc đi.”

“Cuối cùng,” Codringher gật đầu, vuốt con mèo đang rên ư ử. “Nhưng hãy bắt đầu với vấn đề quan trọng nhất trong mức thang những vấn đề quan trọng. Đầu tiên: lệ phí của tôi, bạn đồng nghiệp thân mến à, là 250 crown Novigrad. Anh có số tiền đó không? Hay anh tự nhận mình thuộc vào những kẻ nghèo hèn?”

“Trước hết, tôi muốn kiểm tra xem liệu anh có xứng đáng với mức phí đó không đã.”

“Kiểm tra” người luật sư lạnh lùng nói, “là thứ mà anh nên làm với túi tiền của mình và làm thật nhanh chóng vào. Và khi làm xong, hãy đặt nó lên bàn. Rồi chúng ta sẽ đi sang những vấn đề kém quan trọng hơn.”

Geralt cởi cái túi buộc trên thắt lưng ra và ném lên bàn. Con mèo đột ngột nhảy khỏi lòng chủ nhân và chạy ra khỏi phòng. Người luật sư cất cái túi vào ngăn kéo, mà không cần kiểm tra những thứ bên trong.

“Anh làm con mèo của tôi sợ chạy mất,” anh ta nói với vẻ không hài lòng.

“Xin lỗi. Tôi cứ tưởng rằng tiếng leng keng của những đồng vàng là thứ cuối cùng có thể làm con mèo của anh sợ được. Nói tôi xem anh đã tìm được gì.”

“Cái gã Rience,” Codringher bắt đầu nói, “mà anh rất quan tâm đến đó, là một nhân vật khá bí ẩn. Tôi chỉ biết rằng hắn theo học tại trường ma thuật Ban Ard được hai năm. Bị đuổi vì có người bắt quả tang hắn ăn cắp vặt. Như thường lệ, đứng trước cổng trường là các đặc vụ Kaedwen đang đợi sẵn, tìm kiếm người mới để thu nạp. Rience đi theo họ. Tôi không biết hắn đã làm gì cho Sở Tình Báo Kaedwen. Nhưng các học viên bị trục xuất của các trường ma thuật thường luôn được huấn luyện để thành sát nhân. Hài lòng chưa?” “Rất hài lòng. Nói tiếp đi.”

“Mẩu thông tin thứ hai đến từ Cintra. Ngài Rience đã dành một khoảng thời gian ngồi trong ngục ở đó. Trong thời kỳ cai trị của Calanthe.”

“Vì tội gì?”

“Nợ nần. Hắn không phải ngồi lâu vì ai đó đã trả đủ tiền chuộc kèm lãi suất. Vụ giao dịch diễn ra qua một ngân hàng, mà người trả tiền hoàn toàn nặc danh. Tôi đã cố truy theo hắn nhưng bỏ cuộc sau khi đuổi qua bốn ngân hàng khác nhau. Người đã bảo lãnh cho Rience đích thực là một kẻ chuyên nghiệp. Và thực sự cần sự nặc danh.”

Codringher ho lớn, lấy khăn che miệng.

“Và rồi bỗng nhiên, ngay sau khi kết thúc chiến tranh, ngài Rience lại ló mặt ra ở Sodden, Angren và Brugge. Hắn tiếp tục thay đổi đến mức không thể nhận ra, ít nhất là về hành vi và số tiền mà hắn vung vãi khắp nơi. Thằng con hoang thậm chí còn không thèm dùng tên mới – vẫn cứ gọi mình là Rience. Và dưới cái tên này, hắn bắt đầu chiến dịch săn lùng gắt gao một người, hay đúng hơn là một đứa trẻ. Hắn đến thăm các thầy druid ở Angren. Xác của một người trong số họ sau đó đã được tìm thấy trong khu rừng bên cạnh, bị sát hại, có dấu hiệu tra tấn. Sau đó Rience xuất hiện ở Transriver ”

“Tôi biết,” Geralt xen vào. “Tôi biết hắn đã làm gì gia đình nông dân ở Transriver. Vì 250 crown tôi trông đợi nhiều hơn thế này. Đến giờ, thông tin mới duy nhất đối với tôi đó là về trường học ma thuật và Sở Tình Báo Kaedwen. Tôi biết những thứ còn lại. Tôi biết Rience là một tên sát nhân máu lạnh. Tôi biết hắn là một gã côn đồ kiêu ngạo đến mức không thèm dùng bí danh. Tôi biết hắn đang hành động theo lệnh của một người khác. Nhưng là của ai mới được, Codringher?”

“Một tay pháp sư nào đó, chắc chắn như vậy. Chắc chắn một pháp sư đã đưa hắn ra khỏi tù. Chính anh đã nói với tôi, và Dandelion cũng đã xác nhận, rằng Rience biết sử dụng ma thuật. Ma thuật thực sự, không phải mấy trò bịp bợm của bọn học viên bị trục xuất. Trong trường hợp đó chắc hẳn phải có ai đó giúp hắn, trang bị bùa chú cho hắn, có lẽ là cũng dạy hắn trong bí mật. Một số các pháp sư đang hoạt động công khai có giữ những học trò và người giúp việc bí mật như vậy, để dùng trong những công việc bẩn thỉu và phi pháp. Trong tiếng lóng của pháp sư nó gọi là làm việc dưới thòng lọng của người khác.”

“Nếu đang làm việc dưới một thòng lọng ma thuật, Rience ắt phải đã dùng đến những câu thần chú ngụy trang rồi. Ấy vậy mà hắn không đổi cả tên lẫn ngoại hình. Hắn thậm chí còn không tìm cách che đi vết bỏng trên mặt mà Yennefer đã tặng cho.”

“Cái đó chỉ xác nhận được rằng hắn đang làm việc dưới một thòng lọng,” Codringher ho. “Ma thuật ngụy trang chẳng ngụy trang được cái gì sất, chỉ có mấy tay nghiệp dư mới dùng những thứ đó. Nếu Rience trốn dưới một ảo ảnh, hắn sẽ bị để ý bởi mọi pháp sư trong thành phố. Các pháp sư có thể nhận ra ảo ảnh một cách hoàn hảo. Ngay cả khi trong một đám đông. Rience sẽ bị một pháp sư chú ý đến như thể có lửa phụt ra từ tai và khói xì ra từ mông hắn vậy. Tôi lặp lại: Rience đang làm việc cho một pháp sư, và làm theo cách để không thu hút sự chú ý của các pháp sư khác.”

“Có một số người tin rằng hắn là gián điệp của Nilfgaard.”

“Tôi cũng biết việc đó. Đó là ý kiến của Dijkstra, tổng tham mưu của Sở Tình Báo Redania. Dijkstra hiếm khi nhầm, vậy chúng ta cũng nên cho rằng ông ta đã đúng trong trường hợp       này nhưng cái này không loại trừ được cái kia. Người giúp việc của một pháp sư cũng có thể là một gián điệp của Nilfgaard.”

“Nói theo cách khác, một pháp sư công khai nào đó đang do thám cho Nilfgaard thông qua người giúp việc bí mật của hắn.”

“Nhảm nhí,” Codringher ho và cẩn thận nhìn vào chiếc khăn tay. “Một pháp sư do thám cho Nilfgaard ư? Để làm gì? Tiền? Lố bịch. Hy vọng có được quyền lực to lớn nào đó dưới tay hoàng đế Emhyr? Thậm chí còn lố bịch hơn. Ai cũng biết là Emhyr var Emreis rất ghét các pháp sư của mình. Ở Nilfgaard, họ được đối xử tương tự như những cậu bé trông chuồng ngựa. Và có ảnh hưởng cũng nhiều như những cậu bé trông chuồng ngựa. Liệu có tay pháp sư kiêu ngạo nào của chúng ta muốn làm việc cho một vị hoàng đế mà đối với ông ta, họ chỉ như những thằng nhãi trông ngựa không? Philippa Eilhart, người mà bắt Vizima của Redania phải ra những quyết định và chỉ dụ hoàng gia theo ý cô ta? Sabrina Glevissig, người mà cắt ngang bài phát biểu của Henselt xứ Kaedwen bằng cách giộng nắm tay xuống bàn và bảo ông ta hãy im miệng lại và lắng nghe? Vilgeforzt của Roggeveen, người mà mới gần đây nói với vua Demavend của Aedirn rằng anh ta không có thời gian tiếp ông trong lúc này?”

“Vậy còn Rience?”

“Không có gì đặc biệt. Tình Báo Nilfgaard muốn tiếp cận các pháp sư bằng cách tuyển mộ những người giúp việc của họ. Rience sẽ chẳng ngại phản bội lại chủ nhân mình để đổi lấy một đống vàng của Nilfgaard đâu.”

“Giờ thì anh mới là người nói nhảm nhí. Ngay thậm chí cả các pháp sư kiêu ngạo của chúng ta cũng sẽ nhận ra rằng họ đã bị phản bội và Rience sẽ phải bước ra giá treo cổ ngay. Đó là nếu hắn may mắn.”

“Anh đúng là một đứa trẻ, Geralt. Các gián điệp bại lộ sẽ không bị treo cổ, mà lợi dụng.

Mớm cho những lời nói dối và biến thành điệp viên hai mang.”

“Đừng châm chọc đứa trẻ này, Codringher. Tôi không hứng thú với chính trị hay công việc của các cơ quan tình báo. Rience đang làm phiền tôi và tôi muốn biết tại sao, và theo lệnh ai? Những mệnh lệnh mà dường như đến từ một pháp sư. Là ai?”

“Tôi chưa biết. Nhưng sẽ sớm biết thôi.”

“Sớm,” witcher lầm bầm “sẽ không sớm đủ với tôi đâu.”

“Tôi cũng nghĩ vậy,” Codringher nói. “Anh đúng là đã dính vào một rắc rối nghiêm trọng đấy, Geralt. Thật may mắn là anh lại tìm đến tôi, tôi biết cách kéo người ta ra khỏi rắc rối. Thật ra thì tôi đã kéo anh ra rồi đó.”

“Vậy sao?”

“Đúng vậy,” người luật sư che khăn lên miệng và ho. “Anh thấy đấy, đồng nghiệp, ngoại trừ Nilfgaard và pháp sư, cũng có một bên thứ ba tham gia vào trò chơi này. Cách đây không lâu tôi đã được các đặc vụ của vua Foltest viếng thăm. Họ có một rắc rối. Đức vua yêu cầu họ truy lùng một cô công chúa bị mất tích. Công việc tỏ ra khó khăn hơn tưởng tượng nên họ quyết định nhờ đến một chuyên gia chuyên giải quyết các công việc khó khăn……………… Trong khi mô tả vấn đề, họ cũng gợi ý với chuyên gia rằng có một witcher biết khá nhiều về cô công chúa này. Anh ta thậm chí còn có thể biết hiện cô bé đang ở đâu.”

“Và người chuyên gia đã làm gì?”

“Ban đầu, anh ta tỏ ra ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì tay witcher được nhắc đến này vẫn chưa bị tống xuống hầm ngục, nơi mà những cách tra hỏi thông thường có thể được áp dụng để buộc anh ta phải nói hết những gì mình biết và thậm chí không biết nhưng sẵn sàng bịa ra để làm hài lòng người tra khảo. Các đặc vụ nói rằng nhà vua đã cấm họ làm vậy. Như họ giải thích, witcher có hệ thống dây thần kinh mỏng manh đến mức khi bị tra tấn sẽ vỡ tung và gây ra cái chết tức thì. Thay vào đó, họ được lệnh phải theo đuôi witcher, nhưng việc này xem chừng cũng rất khó khăn. Người chuyên gia tán dương trí thông minh của họ và mời họ quay lại sau hai tuần.”

“Họ có quay lại không?”

“Đương nhiên rồi. Và rồi, người chuyên gia mà đã coi anh như khách hàng của mình cho họ xem bằng chứng không thể chối cãi rằng witcher Geralt không có, chưa bao giờ có, và không thể nào có liên quan gì đến cô công chúa mất tích. Bởi vì người chuyên gia đã tìm thấy những nhân chứng đã trông thấy cái chết của công chúa Cirilla, con gái của Pavetta và cháu gái của Nữ hoàng Calanthe. Có vẻ như Cirilla đã chết vì bệnh bướu cổ ba năm về trước trong trại tị nạn ở Angren. Đứa trẻ đã phải chịu đau đớn và khổ sở trước khi qua đời. Tin hay không thì tùy, các đặc vụ Temeria đã ứa nước mắt khi nghe lời khai từ các nhân chứng của tôi.”

“Tôi cũng đang ứa nước mắt đây. Tôi đoán là các đặc vụ Temeria đã không thể hoặc không muốn trả anh nhiều hơn 250 crown?”

“Sự mỉa mai của anh làm trái tim tôi tan nát, witcher à. Tôi đã kéo anh ra khỏi rắc rối, và thay vì cảm ơn thì anh lại làm tan nát trái tim tôi.”

“Cảm ơn anh và hãy thứ lỗi cho tôi. Tại sao vua Foltest lại ra lệnh cho người của mình đi tìm Ciri hả Codringher? Họ định làm gì sau khi tìm thấy con bé?”

“Thật ngây thơ. Đương nhiên là giết nó rồi. Con bé có quyền thừa kế ngai vàng của Cintra và đang có những kế hoạch khác liên quan đến cái ngai này.”

“Codringher, chuyện này chẳng hợp lý chút nào. Ngai vàng của Cintra đã bị thiêu rụi cùng với tòa lâu đài hoàng gia, thành phố và cả cái vương quốc đó rồi. Nilfgaard hiện đang nắm quyền ở đó. Foltest biết rất rõ điều này, và các vị vua khác cũng vậy. Ciri có quyền thừa kế nào đối với một cái ngai không còn tồn tại kia chứ?”

“Đi nào,” Codringher đứng dậy. “Hãy cùng nhau đi tìm câu trả lời. Tôi sẽ cho anh thấy bằng chứng về sự tin tưởng của tôi Anh thấy bức tranh này có gì đặc biệt?”

“Rằng nó có nhiều lỗ hơn cả một cái lưới đánh cá.” Geralt nói trong khi nhìn vào bức vẽ đóng khung vàng treo trên tường đối diện với bàn làm việc của người luật sư. “Và nó vẽ một thằng đần không thể tin nổi nào đó.”

“Người cha quá cố của tôi.” Codringher nhăn mặt. “Đúng thật là một thằng đần không thể tin nổi. Tôi treo ông ta ở đó như một lời cảnh tỉnh đối với bản thân. Đi nào, witcher.”

Họ bước vào phòng chờ. Khi nhìn thấy witcher, con mèo đang ngồi giữa thảm liếm láp móng vuốt ngay lập tức phóng ra ngoài hành lang tối tăm.

“Tại sao mèo lại ghét anh thế hả Geralt? Có phải vì ”

“Phải, đúng vậy.”

Phía sau một tấm ván làm từ gỗ đào là một lối đi bí mật. Codringher bước vào trước. Tấm ván, chắc chắn là hoạt động bằng ma thuật, đóng lại sau lưng họ. Có ánh sáng ở phía cuối hành lang. Căn phòng ở đó lạnh lẽo và bầu không khí sặc mùi nến và bụi.

“Hãy gặp đối tác của tôi, Geralt.”

“Fenn ư?” witcher mỉm cười. “Không thể nào.”

“Có thể chứ. Thú nhận đi, anh đã nghĩ rằng Fenn không có thật phải không?” “Không hề.”

Một tiếng rít có thể nghe được từ giữa những giá sách và sau đó, một phương tiện di chuyển kỳ lạ xuất hiện. Nó là một cái ghế bành có gắn bánh xe. Một người đàn ông bé xíu với cái đầu to đùng đặt không cân xứng trên đôi vai gầy guộc ngồi trên đó. Ông ta không có chân.

“Hãy để tôi giới thiệu với anh,” Codringher nói. “Jacob Fenn, một luật sư tài năng, đối tác và người bạn đồng nghiệp vô giá của tôi. Và đây là khách hàng của chúng ta ”

“Witcher Geralt xứ Rivia,” người đàn ông tàn tật nói nốt với một nụ cười. “Tôi biết rồi. Sau cùng thì tôi đã xử lý bản hợp đồng của anh được khá lâu rồi đó. Đi theo tôi nào, các quý ngài.”

Họ đi theo sau cái ghế bành kêu cọt kẹt vào một mê cung các giá sách, mà lớn đến nỗi khiến cho thư viện của Đại Học Oxenfurt cũng phải thấy xấu hổ. Geralt đoán những quyển sách ở đây có lẽ đã được thu thập qua mấy đời Codringher và Fenn. Anh cảm thấy vui vì sự tin tưởng dành cho mình và cơ hội được gặp Fenn. Tuy nhiên, anh biết rằng mặc dù là một người sống hẳn hoi, Fenn vẫn có chút gì đấy thần bí. Bản thể khác của Codringher này thường xuyên được báo cáo là xuất hiện trong thành phố, cho dù người luật sư tài ba có lẽ chưa bao giờ rời khỏi tòa nhà hay chiếc ghế bành lần nào.

Trung tâm của căn phòng được chiếu sáng rất cẩn thận. Có một cái bàn thấp chồng đống sách, những cuộn giấy da, mực, cả tá lông vũ, và hàng ngàn dụng cụ bí ẩn trên đó. Nhưng không phải tất cả đều bí ẩn. Geralt nhận ra những mẫu tem giả và một cái nạo làm bằng kim cương dùng để xóa những ghi chép trong các công văn chính thức. Ở giữa cái bàn là một cái nỏ bé xíu và bên cạnh nó, ở dưới một lớp nhung phủ là một cái kính phóng đại làm từ thủy tinh bóng. Một món đồ như vậy quả là rất quý hiếm và đắt tiền.

“Tìm được gì mới không, Fenn?”

“Không nhiều lắm,” người tàn tật mỉm cười. Nụ cười ấm áp và dễ chịu. “Tôi đã thu hẹp danh sách những kẻ có thể là sếp của Rience xuống còn 28 pháp sư ”

“Hãy tạm gác cái đó lại một lúc,” Codringher cắt ngang. “Chúng tôi đang hứng thú với một vấn đề khác. Làm ơn hãy giải thích cho Geralt tại sao cô công chúa bị mất tích Cirilla lại là tâm điểm chú ý của các đặc vụ từ Bốn Vương Quốc.”

“Trong huyết quản của con bé là dòng máu của Nữ hoàng Calanthe”, Fenn nói bằng một giọng tỏ rõ sự ngạc nhiên vì phải giải thích một sự thật đơn giản như vậy. “Nó là hậu duệ cuối cùng của dòng tộc hoàng gia. Cintra sở hữu một giá trị về chiến lược và chính trị rất quan trọng. Một người kế vị ngai vàng mà thất lạc đâu đó xa khỏi vòng ảnh hưởng là rất phiền toái, thậm chí còn là rất nguy hiểm nếu lọt vào tay kẻ xấu nào đó. Như Nilfgaard chẳng hạn.”

“Như tôi nhớ,” Geralt nói. “Luật kế vị của Cintra loại trừ phụ nữ ra.”

“Đúng,” Fenn xác nhận và lại mỉm cười. “Nhưng một người phụ nữ luôn có thể trở thành vợ của ai đó và mẹ của một người thừa kế nam. Sở Tình Báo của cả Bốn Vương Quốc đã biết được về cuộc săn lùng điên cuồng mà Rience đã khởi xướng và cho rằng đây chính là lý do. Sau đó họ đã quyết định ngăn công chúa trở thành vợ hay mẹ của ai đó. Theo cách đơn giản và đáng tin cậy nhất.”

“Nhưng công chúa đã chết rồi,” Codringher nhanh chóng thêm vào khi nhìn thấy sự thay đổi trên gương mặt của Geralt gây ra bởi lời nói của Fenn. “Các đặc vụ đã nhận ra điều đó và ngừng cuộc truy lùng lại.”

“Trong lúc này thôi,” witcher cố gắng tỏ ra bình tĩnh. “Một trong những khía cạnh của lời nói dối đó là nó không có tác dụng lâu dài. Vả lại, các đặc vụ hoàng gia chỉ là một phe trong trò chơi này. Các đặc vụ, như anh đã nói, chỉ đi tìm Ciri nhằm lật đổ âm mưu của những thợ săn khác. Những kẻ khác này có thể sẽ không dễ dàng chấp nhận những thông tin như vậy đâu. Tôi thuê anh để anh có thể tìm cách giữ con bé an toàn. Anh có đề nghị gì đây?”

“Chúng tôi có một ý tưởng,” Fenn liếc mắt về phía người đồng nghiệp, nhưng không thấy yêu cầu giữ im lặng nào cả. “Chúng tôi muốn phát tán một lời đồn, kín đáo nhưng rộng rãi, rằng không chỉ công chúa Cirilla, mà kể cả những người hậu duệ nam của con bé cũng không có quyền thừa kế nào đối với ngai vàng của Cintra.”

“Ở Cintra, bên ngoại không được phép tham gia vào việc kế vị,” Codringher giải thích, vật lộn với một cơn ho. “Chỉ có bên nội thôi.”

“Chính xác,” Fenn gật đầu. “Chính Geralt cũng đã nói vậy. Đó là một điều luật cổ xưa, mà ngay cả Calanthe cũng không thể xóa bỏ được, mặc dù đã cố gắng.”

“Bà ấy đã cố lật đổ nó bằng một kế,” Codringher nói. “Một mưu kế khá phi pháp. Kể cho anh ta đi, Fenn.”

“Calanthe là đứa con gái duy nhất của vua Dagorad và nữ hoàng Adalia. Sau khi họ qua đời, bà ấy đã chống lại các nhà quý tộc, mà vốn chỉ coi bà như một người vợ cho vị vua mới. Bà muốn cai trị một mình. Bà đồng ý với việc có một hoàng tử nhiếp chính, chỉ để bảo đảm sự tiếp nối vương triều, nhưng vị trí và quyền lực của anh ta chỉ như một con bù nhìn mà thôi. Các dòng họ quý tộc cổ xưa phản đối kịch liệt. Lựa chọn khác của Calanthe bao gồm nội chiến, nhường ngôi, hoặc một cuộc hôn nhân với Roegner, hoàng tử của Ebbing. Bà đã chọn giải pháp thứ ba. Bà vẫn có quyền cai trị đối với đất nước, nhưng phải cùng với Roegner. Dĩ nhiên là bà không bao giờ để mình bị lệ thuộc hay gạt ra bên rìa. Bà là Sư Tử Cái của Cintra. Nhưng theo danh nghĩa thì Roegner mới là người trị vì, mặc dù chẳng có ai gọi ông ta là Sư Tử.”

“Và Calanthe,” Codringher thêm vào, “đã chật vật để sinh được con trai. Trong vô vọng. Bà đã sinh ra một cô con gái, Pavetta, sau đó xẩy thai hai lần và rõ ràng là không thể sinh thêm nữa. Tất cả kế hoạch của bà trôi tuột xuống cống hết. Phụ nữ là vậy đó, Geralt à. Mọi tham vọng bị hủy hoại bởi một cái tử cung hư.” Geralt nhăn nhó.

“Anh tầm thường đến kinh tởm, Codringher.”

“Tôi biết. Sự thật cũng có thể tầm thường. Bởi vì không lâu sau đó Roegner bắt đầu đi tìm một cô công chúa trẻ trung hơn, với bờ hông nở nang, tốt nhất là đến từ một gia đình mà chữ “mắn đẻ” in rõ lên phả hệ luôn cũng được. Và Calanthe gặp rắc rối to. Mọi bữa ăn, mọi cốc rượu đều có thể đem đến cái chết cho bà, mọi chuyến đi săn đều có thể bất ngờ gặp tai nạn. Do đó nên không có gì là ngạc nhiên khi Sư Tử Cái của Cintra quyết định hành động trước. Roegner chết. Vương quốc vào lúc đó lại đang bị dịch đậu mùa, nên cái chết của ông ta không làm dấy lên sự nghi ngờ nào cả.”

“Tôi nghĩ tôi bắt đầu hiểu rồi,” witcher nói, có vẻ thờ ơ. “Lời đồn mà anh định phát tán đó là Ciri là cháu gái của một kẻ âm mưu và sát nhân?”

“Đừng nóng vội quá, Geralt. Tiếp đi Fenn.”

“Calanthe,” người tàn tật mỉm cười. “Có thể đã giữ được mạng, nhưng không giữ được ngai vàng mà đang ngày càng trôi xa dần. Sau cái chết của Roegner, Sư Tử Cái lại lần nữa tiếp quản toàn bộ quyền lực và các nhà quý tộc lại bắt đầu phản đối. Ngai vàng của Cintra là để dành cho một vị vua, chứ không phải nữ hoàng. Do đó nó đã được quyết định: ngay khi công chúa Pavetta bắt đầu có dáng dấp của một người phụ nữ, cô ta sẽ phải được gả cho một người chồng sẽ là vị vua tương lai. Cuộc hôn nhân với một nữ hoàng vô sinh chắc không cần phải nói đến. Sư Tử Cái của Cintra hiểu rằng cơ hội tốt nhất của bà đó là làm Thái Hậu. Tệ hơn nữa, chồng của Pavetta có thể sẽ tước đoạt hết toàn bộ quyền lực của bà mẹ vợ của mình.”

“Cho phép tôi được tầm thường lần nữa,” Codringher nói. “Calanthe đã làm mọi việc có thể để trì hoãn cuộc hôn nhân của Pavetta. Bà đã hủy bỏ kế hoạch khi cô được 10 tuổi, và cả khi cô đã 13 tuổi. Giới quý tộc đã nhìn thấu âm mưu của bà và yêu cầu rằng sinh nhật thứ 15 của Pavetta sẽ là sinh nhật cuối cùng mà cô còn là trinh nữ. Calanthe buộc phải tuân theo. Nhưng trước khi chuyện đó diễn ra, bà đã đạt được điều mà mình muốn. Pavetta đã là trinh nữ quá lâu. Cô ta bấn đến nỗi đã ngủ với một người hoàn toàn xa lạ, mà cũng tình cờ bị biến thành một con quái vật. Có vài sự kiện siêu nhiên diễn ra, vài lời tiên tri, bùa chú, hứa hẹn vân vân Điều Luật

Bất Ngờ lừng danh? Đúng không Geralt? Anh chắc là biết chuyện gì xảy ra tiếp theo mà. Calanthe cho mời một witcher đến Cintra, và witcher đó đã gây ra một vụ lùm xum không hề nhỏ. Không ý thức được rằng mình đang bị lợi dụng, anh ta đã giải lời nguyền khỏi con quái vật Hedgehog ghê tởm, giúp hắn ta cưới được Pavetta. Bằng việc đó, witcher đã giúp Calanthe tiếp cận ngai vàng dễ dàng hơn. Mối quan hệ của Pavetta với con quái vật, đối với các nhà quý tộc, là một cú sốc lớn đến nỗi họ chấp nhận cuộc hôn nhân bất ngờ của Sư Tử Cái với Eist Tuirseach. Lãnh chúa của Quần đảo Skellige, theo họ thì là một đối tác tuyệt vời hơn rất nhiều so với tay Hedgehog lang thang nào đó. Eist, như mọi người dân đảo, quá tôn trọng Sư Tử Cái của Cintra để chống đối lại bà trong bất kỳ vấn đề gì, và đằng nào đi nữa thì ông ấy cũng không thích làm vua. Vậy nên ông đã trao cho bà toàn bộ quyền lực. Và Calanthe, nốc đầy thần dược và thuốc thang, kéo chồng mình vào phòng ngủ cả ngày lẫn đêm. Bà muốn được cai trị cho đến ngày cuối cùng. Và kể cả nếu bà có phải làm Thái Hậu, thì đó sẽ phải là với chính con trai của mình. Nhưng, như tôi đã nói, mọi tham vọng đều ”

“Như anh đã nói. Không cần phải nhắc lại làm gì.”

“Còn về phần công chúa Pavetta, vợ của tay Hedgehog kỳ dị đó, thì ngay trong lễ cưới đã mặc một chiếc váy rộng đáng ngờ rồi. Calanthe đành phải thay đổi kế hoạch. Bà quyết định, nếu không phải con trai của mình thì ít ra phải là con trai của Pavetta. Nhưng Pavetta lại sinh ra con gái. Một lời nguyền hay gì đây? Tuy nhiên, công chúa vẫn có thể sinh thêm con. Hay đúng hơn là đã có thể sinh thêm con. Bởi vì sau đó một tai nạn kỳ lạ đã xảy ra. Cả cô và Hedgehog đều chết trong một thảm họa không thể lý giải nổi.”

“Anh có ý gì đây, Codringher?”

“Tôi chỉ đang cố giải thích tình huống, không gì hơn. Sau cái chết của Pavetta, Calanthe tỏ ra suy sụp, nhưng cũng không lâu. Cháu gái của bà là hy vọng cuối cùng: con gái của Pavetta, Cirilla. Ciri bé bỏng, chạy nhảy trong tòa lâu đài. Được yêu mến trong con mắt của một số người, nhất là những người già, vì cô bé rất giống với Calanthe hồi còn trẻ. Đối với những kẻ khác…là một quái nhân, đứa con gái của một con quái vật, được hứa trao cho một witcher nào đó. Và đây là điểm mấu chốt: cô gái vàng của Calanthe, không nghi ngờ gì sẽ là người kế vị của bà, được đối xử như thể chính Calanthe đầu thai vậy, Sư Tử Con mang dòng máu của Sư Tử Cái, ngay từ hồi đó một số kẻ đã cho rằng nên bị loại ra khỏi cuộc chay đua đến ngai vàng. Cirilla là một đứa trẻ sinh ra trong hoàn cảnh thấp hèn. Pavetta đã không môn đăng hộ đối. Cô ta đã trộn lẫn dòng máu hoàng gia với dòng máu của một kẻ lang thang không rõ nguồn gốc.”

“Khá mưu mẹo đấy, Codringher. Nhưng không ổn. Cha của Ciri không phải là một kẻ tầm thường. Anh ta là một hoàng tử.”

“Thật sao? Tôi không biết đấy. Của vương quốc nào?”

“Đâu đó dưới phía nam….Maecht… Phải, chắc chắn là Maecht.”

“Thú vị đây,” Codringher lầm bầm. “Maecht đã nằm dưới ách đô hộ của Nilfgaard từ lâu rồi. Giờ đây nó đã là một phần của Tỉnh Metinna.”

“Nhưng nó là một vương quốc,” Fenn phản đối. “Người cai trị ở đó là một vị vua.”

“Người cai trị ở đó là Emhyr var Emries,” Codringher đốp lại. “Ai làm vua ở đó sẽ do Emhyr quyết định. Nhưng sẵn tiện nói đến, hãy kiểm tra xem Emhyr đặt ai ngồi lên ngai vàng ở đó. Tôi không nhớ được.”

“Ngay đây,” người tàn tật lấy tay đẩy bánh xe và di chuyển về phía một giá sách. Ông ta lấy ra một nùi những cuộn giấy da và xem xét, vứt những cái không quan trọng xuống sàn. “Hmm….đây rồi. Vương quốc Maecht. Quốc kỳ: cá bạc và vương miện trên nền đỏ-xanh ”

“Kệ mẹ mấy lá cờ đi. Ai là vua?”

“Hoet Chính Trực. Lựa chọn qua một cuộc bầu cử… ”

“… được tổ chức bởi Emhyr của Nilfgaard,” Codringher lạnh lùng nói nốt.

“… chín năm về trước.”

“Không phải người này.” Người luật sư nhanh chóng bác bỏ. “Tay này không có gì đáng quan tâm với chúng ta cả. Ai là vua trước ông ta?”

“Đợi tôi một lát. Đây. Akerspaark. Chết bởi… ”

“Viêm phổi cấp tính gây ra do một con dao thuộc về thủ hạ của Emhyr, hoặc cái tay Chính Trực kia.” Codringher lại lần nữa thể hiện trí thông minh của mình. “Geralt, cái tên Akerspaark có gợi cho anh điều gì không? Liệu đây có thể là cha của gã Hedgehog của chúng ta không?”

“Phải,” Geralt gật đầu. “Akerspaark. Tôi nhớ Duny có nhắc đến cái tên này.” “Duny?”

“Đó là tên anh ta. Anh ta là một hoàng tử, con trai của ngài Akerspaark này…”

“Không,” Fenn cắt ngang, nhìn vào cuộn giấy. “Đây là danh sách các con của ông ta. Con trai hợp pháp: Orm, Gorm, Torm, Horm và Gonzalez. Con gái hợp pháp: Alia, Valia, Nina, Paulina, Mamna và Argentina ”

“Tôi xin rút lại lời cáo buộc đối với Nilfgaard và Hoet Chính Trực,” Codringher nói với vẻ nghiêm túc. “Akerspaark không bị ám sát. Ông ta chỉ đơn giản lao lực đến chết mà thôi. Tôi cho rằng ông ta cũng có con hoang nữa, phải không Fenn?”

“Đúng vậy. Khá nhiều là đằng khác. Nhưng không có ai tên Duny cả.”

“Và tôi cũng không mong đợi anh ta sẽ xuất hiện ở đó. Geralt, tay Hedgehog của anh chẳng phải hoàng tử gì sất. Kể cả nếu có được sinh ra trong một cái xó xỉnh nào đó bởi ngài Akerspaark này, giữa anh ta và tước hiệu cũng vẫn bị ngăn cách không chỉ bởi Nilfgaard, mà còn bởi một hàng dài các Orm, Gorm hay Gonzalez hợp pháp nào đó, cùng với, theo tôi nghĩ, một đống các con cháu của họ nữa. Vậy nên Pavetta vẫn không môn đăng hộ đối.”

“Và Ciri, kết quả của cuộc hôn nhân lệch lạc này, không có chút quyền thừa kế nào đối với ngai vàng?”

“Chính xác.”

Fenn lăn xe trở lại chiếc bàn.

“Lý luận được đấy,” ông ta nói, nghiêng cái đầu bự chảng của mình sang bên. “Nhưng chỉ là một lý luận mà thôi. Geralt, hãy nhớ rằng chúng ta đang không đấu tranh vì vương quyền. Những lời đồn chỉ nhằm mục đích làm sáng tỏ rằng Ciri không thể bị sử dụng làm một công cụ để chiếm lấy Cintra. Và nếu cố gắng thì cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Cô bé sẽ không còn là một nhân vật trong trò chơi chính trị nữa, mà chỉ là một con tốt không mấy quan trọng trên bàn cờ. Do đó ”

“Cô bé sẽ được sống,” Codringher nói nốt.

“Khách quan mà nói,” Geralt hỏi, “anh nghĩ lập luận này chắc ăn đến mức nào?” Fenn nhìn vào Codringher, và sau đó là witcher.

“Không chắc lắm,” ông ta thừa nhận. “Cirilla vẫn mang trong mình dòng máu của Calanthe, kể cả nếu có hơi bị loãng một chút. Trong hoàn cảnh bình thường cô bé chắc chắn sẽ bị ném ra ngoài ngay nhưng hoàn cảnh bây giờ không bình thường tí nào. Máu của Sư Tử Cái có ý nghĩa về mặt chính trị ”

“Máu… ” Geralt xoa tay lên mặt. “Codringher, cụm từ “Đứa Trẻ Mang Dòng Máu Cổ Xưa” có ý nghĩa gì?”

“Tại sao anh lại hỏi? Có ai đó dùng nó để nói về Ciri à?” “Phải.”

“Ai?”

“Đừng bận tâm. Nó có nghĩa là gì?”

“Luned aep Hen Ichaer,” Fenn bất chợt lẩm bẩm, di chuyển khỏi cái bàn. “Theo nghĩa đen không phải là “đứa trẻ” mà là “con gái” của Dòng Máu Cổ Xưa. Hmm….Dòng Máu Cổ Xưa   tôi đã bắt gặp cụm từ này rồi. Tôi không nhớ được là ở đâu    hình như là liên quan gì đó đến  những

lời tiên tri của người elves. Trong một vài phiên bản cũ hơn về lời tiên tri của Ithlinne, tôi nghĩ vậy, có nhắc đến Dòng Máu Cổ Xưa của Elves, hay Aen Hen Ichaer. Nhưng chúng ta không có bản hoàn chỉnh ở đây, chúng ta sẽ phải đi hỏi người elves ”

“Kệ đi,” Codringher lạnh lùng cắt lời. “Có quá nhiều vấn đề phải lo rồi, quá nhiều chim ác là bị túm đuôi, quá nhiều những lời tiên tri và bí mật. Thế là đủ rồi. Cảm ơn ông và tạm biệt. Đi nào, Geralt. Chúng ta sẽ quay lại phòng khách.”

“Vẫn chưa đủ nhỉ?” witcher đặt câu hỏi ngay khi họ ngồi xuống những chiếc ghế bành. “Tiền công quá thấp chứ gì?”

Codringher cầm lên một vật hình ngôi sao làm bằng sắt từ trên bàn và xoay xoay nó bằng các ngón tay.

“Quá thấp, Geralt. Đào bới những lời tiên tri của elves rất tốn thời gian và công sức. Rất khó để tìm thấy một đầu mối với người elves bởi vì không ai khác có thể hiểu được hoàn toàn ngôn ngữ của họ. Những văn bản của elves thường ẩn chứa rất nhiều hình tượng, các phép ẩn dụ, hay đôi lúc thậm chí là mật mã. Cổ Ngữ luôn luôn có thể hiểu theo hai nghĩa khi nói và khi viết thì thậm chí còn có thể hiểu theo cả tá nghĩa khác nhau. Elves chưa bao giờ thích giúp người khác giải mã những lời tiên tri của họ. Và trong thời buổi này, khi mà đang diễn ra một cuộc chiến đẫm máu với lũ Sóc và thanh trừng xảy ra liên miên trong các thành phố, việc tiếp cận họ không được an toàn cho lắm. Rủi ro nhân đôi. Elves sẽ nghĩ anh là kẻ gây rối, còn con người sẽ nghĩ anh là kẻ phản bội ”

“Bao nhiêu, Codringher?”

Người luật sư im lặng trong một lúc, tay nghịch ngợm ngôi sao bằng sắt. “10 phần trăm,” cuối cùng anh ta nói.

“10 phần trăm của cái gì?”

“Đừng xúc phạm tôi, witcher. Đây là một vấn đề hệ trọng. Tôi ngày càng cảm thấy không chắc chắn về những điều đang xảy ra, và khi mọi thứ không chắc chắn thì tiền sẽ là thứ chắc chắn nhất. Thế nên tôi muốn phần trăm hơn là một lượng nhất định. Anh sẽ đưa tôi 10 phần trăm những gì anh kiếm được từ vụ này, trừ đi số đã trả rồi. Chúng ta có thỏa thuận không?”

“Không. Tôi không muốn anh bị lỗ. 10 phần trăm của không gì cả tương đương với không gì cả, Codringher. Tôi, thưa bạn đồng nghiệp thân mến à, chẳng kiếm được gì từ vụ này hết.”

“Tôi đã bảo là đừng xúc phạm tôi mà lại. Tôi không tin là anh làm việc này không phải vì tiền. Tôi không tin là đằng sau nó không có ”

“Tôi đếch quan tâm anh tin cái gì. Chẳng có thỏa thuận nào cả. Và không phần trăm gì hết.

Hãy quyết định giá cả cho thông tin đi.”

“Nếu phải một người khác,” Codringher ho, “thì tôi đã quẳng ra ngoài cửa vì tội dám lừa tôi rồi. Nhưng sự hào phóng ngây thơ và cao quý đến vậy rất thích hợp với một witcher cổ lỗ sĩ như anh. Thật đúng là anh, cổ điển một cách đẹp đẽ và thảm hại….liều mạng chẳng để làm gì…”

“Đừng phí thời gian nữa. Bao nhiêu, Codringher?” “Gấp đôi. Tổng cộng là 500.”

“Rất tiếc,” Geralt lắc đầu, “là tôi không có số tiền đó. Ít nhất là trong lúc này.”

“Nếu vậy, tôi xin đề nghị lại lời mời ban đầu của tôi khi chúng ta gặp nhau,” người luật sư nói điềm tĩnh, vẫn đang chơi với ngôi sao. “Hãy làm việc với tôi và anh sẽ trả được tất cả. Thông tin và những thứ xa xỉ khác.”

“Không, Codringher à.” “Tại sao không?”

“Anh sẽ không hiểu được đâu.”

“Lần này thì anh không làm tổn thương trái tim tôi, mà là lòng tự kiêu của tôi. Bởi vì tôi tự hào là mình luôn hiểu được mọi thứ. Nền tảng công việc của chúng ta là sự hiểm ác, vậy mà anh vẫn cứ thích những quan điểm lỗi thời hơn là hiện đại.”

Witcher mỉm cười. “Chính xác.”

Codringher lại bắt đầu ho, lau miệng và mở đôi mắt màu vàng-xanh ra.

“Anh đã ngó qua danh sách các pháp sư để trên bàn chưa? Những kẻ mà có thể là sếp của Rience ý?”

“Tôi xem rồi.”

“Tôi sẽ không đưa nó cho anh cho đến khi kiểm tra thật kỹ lưỡng đã. Đừng quá tin những gì viết trên đó. Dandelion bảo tôi có thể Philippa Elihart biết ai đang đứng sau Rience, nhưng đã từ chối chia sẻ thông tin đó với anh. Philippa sẽ không nhọc công để bảo vệ bất kỳ thằng khốn ất ơ nào đâu. Chắc hẳn phải là một ai đó rất vai vế đứng sau chuyện này.”

Witcher im lặng.

“Hãy cẩn thận đấy, Geralt. Anh đang gặp nguy hiểm trầm trọng. Ai đó đang chơi trò chơi với anh. Ai đó đang theo dõi từng bước di chuyển của anh, thậm chí là chỉ hướng cho chúng nữa. Đừng để sự kiêu ngạo và tự tin làm mờ mắt. Kẻ đang đùa giỡn với anh chẳng phải là một con striga hay ma sói đâu. Chẳng phải anh em nhà Michelet. Thậm chí chẳng phải là Rience. Đứa Trẻ Mang Dòng Máu Cổ Xưa cái mẹ gì chứ. Như thể ngai vàng, pháp sư, các vị vua rồi Nilfgaard vẫn còn chưa đủ, giờ còn thêm cả elves nữa. Hãy dừng trò chơi này lại đi, witcher. Hãy phá hỏng kế hoạch của chúng bằng cách làm gì đó bất ngờ. Ngay lập tức chấm dứt mối quan hệ điên khùng này lại, đừng để ai liên hệ anh với Cirilla. Cứ mặc cô bé cho Yennefer, quay trở lại Kaer Morhen đi và đừng ló mặt ra ngoài. Hãy trốn trên núi trong khi tôi kiểm tra các văn bản của elves, cẩn thận, từ từ, không vội vàng. Và một khi tôi đã có thông tin về Dòng Máu Cổ Xưa và tên pháp sư, anh đã có đủ tiền và chúng ta sẽ trao đổi.”

“Tôi không đợi được. Con bé đang gặp nguy hiểm.”

“Quả thật. Nhưng tôi cũng biết rằng có kẻ tin anh là một vật cản trên đường tới chỗ cô bé. Một chướng ngại vật phải bị hủy bỏ. Vì thế nên anh mới là người đang gặp nguy hiểm ở đây. Chúng chỉ có thể tóm được cô bé sau khi đã trừ khử anh.”

“Hoặc là sau khi tôi dừng cuộc chơi và rút lui về Kaer Morhen. Tôi đã trả anh quá nhiều tiền, Codringher à, không có lời khuyên nào hữu ích hơn sao?”

Người luật sư xoay ngôi sao trên tay lại.

“Vì số tiền mà anh đã trả cho tôi hôm nay. Tôi đã làm việc tích cực trong một thời gian dài rồi đấy, witcher.” anh ta vừa nói vừa ho. “Những lời khuyên tôi cho anh đã được cân nhắc rất cẩn thận. Trốn ở Kaer Morhen đi, hãy biến mất. Và rồi những kẻ đang lùng sục Ciri sẽ tóm được con bé.”

Đôi mắt của Geralt nheo lại và anh mỉm cười. Gương mặt Codringher không hề biến sắc. “Tôi biết mình đang nói cái gì,” anh ta nói, nhìn thẳng vào mắt Geralt. “Kẻ thù của Ciri sẽ

tìm thấy con bé và làm những gì mà chúng muốn. Trong khi cả anh và con bé đều an toàn.” “Làm ơn hãy giải thích đi. Nhưng nhanh lên.”

“Tôi đã tìm thấy một đứa bé gái. Một trẻ mồ côi do chiến tranh từ một gia đình quý tộc ở Cintra. Con bé đã ở trại tị nạn một thời gian và bây giờ đang may vá quần áo ở Brugge, được một thợ may nhận nuôi. Con bé không có gì đặc biệt lắm. Ngoại trừ một điều. Nó khá giống với một người trong bức chân dung của Sư Tử Con của Cintra anh có muốn xem ảnh con bé không?”

“Không, Codringher à. Tôi không muốn. Và tôi sẽ không đồng ý với việc này đâu.” “Geralt.” người luật sư nhắm mắt lại. “Nói tôi nghe đi, điều gì đã khiến anh quyết định như vậy? Nếu muốn cứu Ciri của mình….thì anh không thể tỏ ra khinh miệt. Không, xin lỗi. Anh

không thể khinh miệt sự khinh miệt. Thời đại khinh miệt đang đến, bạn đồng nghiệp à, một thời đại khinh miệt khủng khiếp và không giới hạn. Anh bắt buộc phải hòa nhập với nó. Đề nghị của tôi rất đơn giản. Một người phải chết, để kẻ khác được sống. Một kẻ mà anh yêu thương. Một cô bé khác sẽ chết, một đứa trẻ mà anh không quen biết, chưa nhìn thấy bao giờ, người mà ”

“Người mà tôi có thể khinh miệt?” witcher cắt lời. “Tôi phải trả giá cho những gì mà tôi yêu quý bằng sự khinh rẻ của bản thân hay sao? Không, Codringher à. Hãy để mặc đứa trẻ đó, cứ để cô bé tiếp tục may vá quần áo. Phá hủy bức ảnh. Hãy đốt nó đi. Và với 250 crown mà anh đã cất vào ngăn kéo, hãy cho tôi thứ gì đó khác. Thông tin. Yennefer và Ciri đã rời Ellander. Tôi chắc là anh biết điều đó. Tôi chắc là anh biết họ đang đi đâu. Tôi chắc là anh biết ai đang bám theo họ.”

Codringher gõ gõ ngón tay lên bàn và ho sù sụ.

“Con Sói, không hề suy chuyển bởi lời cảnh báo, vẫn muốn đi săn,” anh ta nói. “Không thể thấy rằng mình mới là kẻ bị săn, rằng mình đang chạy thẳng vào cái bẫy được những thợ săn đích thực đặt ra.”

“Đừng bóng gió làm gì. Nói thẳng vào vấn đề đi.”

“Như anh muốn. Không khó để biết rằng Yennefer đang trên đường đến đại hội các pháp sư, sẽ được tổ chức ở Garstang trên đảo Thanedd vào đầu tháng 7. Cô ấy đang di chuyển rất từ tốn, không dùng đến ma thuật, nên rất khó để theo dấu. Yennefer vẫn còn ở Ellander một tuần trước nên tôi đoán cô ấy sẽ phải mất 3 đến 4 ngày để tới Gors Velen, chỉ cách Thanedd mấy bước chân. Trên đường đến Gors Velen cô ấy sẽ phải đi qua làng Anchor. Nếu anh khởi hành ngay bây giờ thì sẽ có thể loại được những kẻ đang bám đuôi cô ấy. Bởi vì quả thực là cô ấy đang bị bám đuôi.”

“Tôi hy vọng,” Geralt mỉm cười độc địa, “rằng đó không phải là các đặc vụ hoàng gia?” “Không,” người luật sư nói, ngắm nghía ngôi sao sắt. “Đó không phải là các đặc vụ. Nhưng cũng không phải là Rience, kẻ mà thông minh hơn anh nhiều bởi vì hắn đã không còn chường mặt ra nơi công cộng sau vụ anh em nhà Michelet nữa. Yennefer đang bị ba tên lính đánh thuê bám theo.”

“Tôi đoán là anh biết chúng là ai?”

“Tôi biết tất cả mọi người. Thế nên lời khuyên của tôi như sau: đừng động đến chúng. Đừng đến Anchor. Tôi sẽ tận dụng các mối quan hệ của mình. Tôi sẽ cố mua chuộc bọn chúng và đảo ngược lại hợp đồng. Nói theo cách khác, tôi sẽ cử chúng đi theo dõi Rience. Nếu thành công ”

Anh ta ngừng lại bất chợt và ném ngôi sao sắt. Món vũ khí rít lên trong không trung và cắm thẳng vào bức tranh, ngay giữa trán của ngài Codringher Cha.

“Hay nhỉ?” người luật sư cười. “Nó gọi là phi tiêu. Một phát minh đến từ phía bên kia đại dương. Tôi đã tập trong suốt một tháng rồi và gần như luôn trúng. Có thể rất hữu dụng. Trong khoảng 30 mét nó có thể rất lợi hai và còn dễ giấu trong găng tay hay mũ. Đặc Nhiệm của Nilfgaard bắt đầu sử dụng chúng từ năm ngoái. Ha ha, nếu quả thực là Rience đang do thám cho Nilfgaard thì sẽ rất mỉa mai nếu xác hắn được tìm thấy với một cái phi tiêu cắm vào sọ Anh có nghĩ vậy không?”

“Tôi không. Anh mới là người phải suy nghĩ ở đây. Anh mới là người với 250 crown cất trong ngăn kéo.”

“Chắc rồi,” Codringher gật gù. “Tôi cho rằng anh sẽ để tôi tùy ý hành động trong chuyện này. Vậy thì hãy tưởng niệm cái chết của Rience bằng một phút im lặng nào. Sao lại cau có thế, mẹ kiếp? Anh không tôn trọng cái chết à?”

“Tôi không đứng yên nổi trong khi mấy thằng ngốc khác đang chế giễu nó. Anh đã bao giờ suy ngẫm về cái chết của mình chưa, Codringher?”

Người luật sư lại ho và nhìn vào cái khăn tay.

“Rồi,” anh nói khẽ. “Rất nhiều là đằng khác. Nhưng đó không phải việc của anh, witcher.

Anh có định đến Anchor không?” “Có.”

“Ralf Blunden, còn được gọi là “Giáo Sư”. Heimo Kantor. Yaxa “lùn”. Những cái tên đó có quen không?”

“Không.”

“Tất cả bọn chúng đều rất giỏi. Giỏi hơn anh em nhà Michelet. Tôi gợi ý một loại vũ khí tốt hơn. Như những ngôi sao của Nilfgaard. Tôi có thể bán cho anh mấy cái. Tôi có rất nhiều.”

“Tôi không hứng thú. Chúng không thực tế lắm. Quá nhiều tiếng động.”

“Tiếng động có thể gây ra tổn thương tâm lý. Chúng có thể làm nạn nhân tê liệt vì sợ.” “Có thể. Nhưng chúng cũng có thể báo động. Tôi có thể né được.”

“Nếu anh nhìn thấy cú ném thì có thể. Tôi biết anh né được lao….nhưng từ sau lưng thì…. ”

“Kể cả từ sau lưng.” “Nhảm nhí.”

“Thế cá đi,” Geralt lạnh lùng nói. “Tôi sẽ quay mặt về phía ông già đần độn của anh và anh sẽ ném cái phi tiêu về phía tôi. Nếu trúng thì anh thắng, nếu không thì anh thua. Nếu thua, anh sẽ phải giải mã các văn bản của elves. Anh sẽ tìm thông tin về Đứa Trẻ Mang Dòng Máu Cổ Xưa. Nhanh chóng. Và được trả tiền.”

“Thế nếu thắng?”

“Anh cũng cứ làm như vậy và đưa kết quả cho Yennefer. Cô ấy sẽ trả anh tiền. Đằng nào thì anh cũng có lợi.”

Codringher mở ngăn kéo và lấy ra một cái phi tiêu khác.

“Anh hy vọng rằng tôi sẽ không chấp nhận thử thách.” Đó là một câu tường thuật, không phải câu hỏi.

“Không.” Witcher mỉm cười. “Tôi chắc chắn là anh sẽ nhận.”

“Anh quả là liều lĩnh đấy. Anh quên rồi sao? Tôi làm gì có lương tâm.”

“Tôi không quên. Sau cùng thì, thời đại khinh miệt đang đến và anh lúc nào chả đi theo xu thế. Nhưng tôi cũng nhớ những gì anh nói về sự ngây thơ cổ lỗ sĩ của tôi nên lần này tôi sẽ đánh liều mà không được cái gì cả. Thế nào?”

“Được thôi.” Codringher cầm ngôi sao và đứng dậy. “Trí tò mò của tôi luôn thắng lý lẽ và lòng nhân từ. Quay lại đi.”

Witcher quay đi. Anh nhìn vào bức chân dung rồi nhắm mắt lại. Ngôi sao rít lên và cắm vào bức tường cách khung tranh 10 phân.

“Trời ơi!” Codringher la lên. “Đồ con hoang, anh thậm chí còn không giật mình!” Geralt quay lại và mỉm cười. Một cách nham hiểm.

“Tại sao tôi lại phải giật mình? Tôi có thể nghe thấy anh cố tình nhắm trượt mà.”

***

Quán trọ hoang vắng. Trên một cái ghế trong góc nhà là một người phụ nữ với cặp mắt thâm quầng đang ngồi. Khẽ quay sang một bên, cô ta đu đưa đứa trẻ trong tay. Một người đàn ông, rất có thể là chồng cô ta, ngủ gật bên cạnh, vai tựa vào tường. Trong bóng tối phía sau lò sưởi, một bóng người ngồi đó mà Aplegatt không thể nhìn rõ được.

Người chủ quán trọ ngẩng đầu lên, trông thấy Aplegatt và sau khi nhận ra đồng phục cùng với quốc kỳ của Aedirn trên ngực anh thì nhăn mặt một lúc. Aplegatt đã quá quen với kiểu chào mừng này rồi. Anh là một sứ giả hoàng gia, và vì thế nên có quyền đòi hỏi một con ngựa hoàn toàn mới. Sắc lệnh của nhà vua rất rõ ràng: ở mọi ngôi làng, thị trấn và quán rượu, các sứ giả hoàng gia đều có quyền đòi một con ngựa mới, và thật bất hạnh cho kẻ nào dám trái lệnh. Các sứ giả, đương nhiên là sẽ để con ngựa cũ của họ lại và trình ra một tờ hóa đơn cho con ngựa mới mà các chủ quán có thể đem đến cho thị trưởng để đòi bồi thường. Nhưng mọi việc có thể diễn ra rất khác. Do vậy, các sứ giả luôn bị nhìn với ánh mắt ghê sợ và nghi hoặc: anh ta có làm hay không? Liệu anh ta có đem Precious của mình vào chỗ chết không? Hay con Sparrow bé nhỏ, chỉ vừa mới cai sữa? Hay con Quạ Nhỏ yêu dấu? Aplegatt đã nhìn thấy rồi, trẻ con nức nở khi con ngựa yêu thích của chúng bị đeo yên cương và dẫn ra khỏi chuồng, bám dính lấy bạn chơi của mình. Anh đã thấy quá nhiều gương mặt của những người lớn biến sắc trước sự bất công, và bất lực của họ.

“Tôi không cần một con ngựa mới,” anh nói cộc cằn, có cảm giác người chủ quán vừa mới thở phào nhẹ nhõm. “Tôi chỉ cần ăn thôi, bởi vì đi đường mệt quá. Có món gì trong cái nồi đó không?”

“Còn lại một ít súp, tôi sẽ mang ra ngay, ngồi xuống đi. Anh có định ở lại không? Trời sắp tối rồi đó.”

Aplegatt suy nghĩ một lát. Hai ngày trước anh đã gặp Hansom, một sứ giả khác mà anh quen biết, và như mọi khi, họ trao đổi về công việc. Hansom đang mang các lá thư và thông điệp đến cho vua Demavend, và anh ta đang đi rất nhanh xuyên qua Temeria và Mahakam, về phía Vengerberg. Còn về phần Aplegatt, đang phải mang thư đến cho vua Vizimir của Redania, anh tiếp tục hướng về Oxenfurt và Tretogor. Anh vẫn còn phải đi hơn 300 dặm đường nữa.

“Tôi sẽ ăn và sau đó lên đường luôn,” anh quyết định. “Đang đêm trăng tròn và đường đi rất sáng sủa.”

“Tùy anh thôi.”

Món súp rất loãng và nhạt, nhưng người đưa thư không để ý lắm. Ở nhà, anh tận hưởng những món ăn của vợ mình, còn khi đi làm, anh ăn những gì có thể ăn được. Anh dùng bữa từ tốn, tay giữ chiếc thìa một cách kỳ quặc vì các ngón tay vẫn còn cứng do phải cầm dây cương khá lâu.

Con mèo đang ngủ trên chiếc ghế bành gần lò sưởi bỗng ngẩng đầu dậy và rít lên. “Sứ giả của đức vua à?”

Aplegatt rùng mình. Câu hỏi đến từ một người đàn ông mà phút trước vẫn đang ngồi trong bóng tối, giờ đây đã ở ngay cạnh anh. Mái tóc anh ta trắng như sữa, được buộc bằng một dải băng da, và anh ta mặc một chiếc áo khoác đen đính bạc, cùng một đôi ủng đi đường. Phía trên vai phải ló ra chuôi thanh kiếm mà anh ta đeo sau lưng.

“Anh đi về đâu?”

“Bất cứ đâu mà đức vua bảo tôi đi,” Aplegatt lạnh lùng đáp lời.

Anh chưa bao giờ trả lời những câu hỏi như vậy theo cách nào khác.

Người đàn ông tóc trắng im lặng trong một lúc, chăm chú quan sát người đưa thư. Gương mặt anh ta trắng bệch một cách dị thường với đôi mắt đen lạ lùng.

“Đức vua,” cuối cùng anh ta nói, giọng có đôi chút khó chịu, khàn khàn, “chắc hẳn yêu cầu anh phải khẩn trương. Không nghi ngờ gì là anh rất nóng lòng để lên đường.”

“Và thế thì có liên quan gì đến anh? Anh là ai mà giục tôi?”

“Tôi không là ai cả,” người đàn ông tóc trắng đáp lời với một nụ cười khinh khỉnh. “Và tôi không có giục anh. Nhưng nếu tôi là anh thì tôi sẽ rời khỏi đây nhanh nhất có thể. Tôi không muốn có chuyện gì xấu xảy ra với anh.”

Với một câu nói như vậy, Aplegatt có một câu trả lời nữa mà anh cũng đã dùng rất nhiều. Ngắn gọn và nhẹ nhàng. Điềm tĩnh, và không gây bất kỳ hiểu lầm nào từ cấp trên của người đưa thư và hình phạt sẽ đổ xuống đầu bất kỳ kẻ nào dám đụng đến một sợi tóc của anh ta. Nhưng có thứ gì đó trong giọng nói của người đàn ông tóc trắng thuyết phục Aplegatt không nên dùng câu trả lời đó.

“Tôi phải để ngựa của mình nghỉ một lát đã, thưa ngài. Một hoặc hai giờ.”

“Tôi hiểu.” Người đàn ông tóc trắng gật đầu, sau đó quay đi như thể nghe thấy gì đó ở bên ngoài. Aplegatt cũng nghe, nhưng âm thanh duy nhất anh nhận ra được là tiếng dế mèn. “Hãy cứ nghỉ ngơi đi,” người đàn ông tóc trắng nói trong khi sửa lại dây đeo kiếm buộc qua ngực, “nhưng đừng có đi ra ngoài sân. Dù bất kể chuyện gì xảy ra, hãy cứ ở trong đây.”

Aplegatt không hỏi gì cả. Bản năng của anh bảo rằng tốt nhất là đừng nên nói gì. Anh tiếp tục cúi xuống bát súp và múc vài miếng thịt đang nổi lềnh bềnh trên mặt. Khi anh nhìn lên, người đàn ông tóc trắng đã biến mất.

Một lúc sau, có tiếng ngựa hý và tiếng gõ móng ngoài sân.

Ba người đàn ông bước vào. Khi nhìn thấy họ, người chủ quán bắt đầu chùi cái cốc thật nhanh. Người phụ nữ với đứa con sát lại gần chồng mình và đánh thức anh ta dậy bằng một cái huých cùi chỏ. Aplegatt khẽ khàng kéo cái ghế mà anh đã đặt thắt lưng và con dao của mình trên đó lại gần hơn.

Khi tiến lại quầy, họ đưa mắt dõi qua một lượt những người đang ngồi trong phòng. Họ bước từ tốn, khiến vũ khí đeo trên người kêu leng keng.

“Xin chào, các quý ngài.” Người chủ quán hắng giọng và nói. “Tôi có thể lấy gì cho các ngài đây?”

“Rượu,” một người nhỏ thó, với cánh tay dài trông như khỉ nói. Hắn ta đeo hai thanh đao Zerrikania sau lưng. “Muốn một ít không, Giáo Sư?”

“Rất vui lòng,” người thứ hai nói trong khi chỉnh lại cặp kính làm từ thủy tinh đánh bóng, với mắt kính xanh lục và gọng vàng, đang nằm trên cái mũi khoằm của hắn ta. “Miễn là nó không bị pha tạp.”

Người chủ quán mang rượu ra cho họ. Aplegatt để ý thấy bàn tay ông ta hơi run. Những người đàn ông đứng quay lưng lại quầy, từ tốn uống thứ chất lỏng trong những chiếc cốc làm từ đất sét.

“Ngài chủ quán thân mến của tôi,” người đàn ông đeo kính bỗng dưng nói, “tôi có để ý thấy rằng có hai quý cô đã đi qua nơi này trước đây không lâu lắm, họ đang hướng đến Gors Velen.”

“Có rất nhiều người đi qua đây,” người chủ quán ấp úng.

“Ông không thể nào quên được hai người này đâu.” người đàn ông đeo kính nói chậm rãi. “Một người có mái tóc đen, và xinh đẹp tuyệt trần. Cô ấy cưỡi một con ngựa đen. Người kia trẻ hơn, với mái tóc xám và mắt xanh lục, cưỡi một con ngựa đốm. Họ có đi qua đây không?”

“Không.” Aplegatt cảm nhận một cơn ớn lạnh dọc sống lưng mình, nói trước chủ quán. “Họ không đi qua đây.”

Anh nhớ lại lời của cô bé: mối nguy hiểm với sợi lông màu xám, cát ấm….

“Sứ giả à?” Aplegatt gật đầu.

“Anh từ đâu đến và đang đi đâu?” “Bất cứ đâu mà đức vua bảo tôi đi.”

“Hai quý cô mà tôi vừa nhắc đến, anh có tình cờ bắt gặp họ không?” “Không.”

“Anh từ chối nhanh quá nhỉ,” người đàn ông thứ ba gầm gừ, gầy và cao như một cái que. Tóc hắn ta đen và óng ánh, như thể bôi mỡ vậy. “Và tôi thấy có vẻ anh không lục lọi trí nhớ kỹ cho lắm.”

“Kệ anh ta đi, Heim.” Người đàn ông đeo kính ra hiệu. “Anh ta là sứ giả hoàng gia. Không phải người gây rối. Nơi này có tên là gì vậy, chủ quán?”

“Anchor.”

“Và từ đây đến Gors Velen là bao xa?” “Cái gì?”

“Bao nhiêu dặm?”

“Tôi không bao giờ tính theo dặm. Nhưng chắc là mất ba ngày đường… ”

“Đi bằng ngựa ư?” “Bằng xe hàng.”

“Này!” Tay lùn tịt bất chợt lên tiếng. Hắn ta đứng dậy và nhìn qua cánh cửa đang mở. “Nhìn kìa, Giáo Sư. Ai kia? Có phải………………………… ”

Người đàn ông đeo kính cũng nhìn ra ngoài và gương mặt trở nên khắc nghiệt.

“Phải,” hắn ta thì thầm. “Chính là hắn đó. Chúng ta đang gặp may rồi, tất cả mọi thứ đều diễn ra theo đúng kế hoạch.”

“Chúng ta đợi hắn vào sao?”

“Hắn sẽ không vào đâu. Hắn đã trông thấy ngựa của chúng ta rồi.” “Im đi, Yaxa. Hắn đang nói gì kìa.”

“Các ngươi có một lựa chọn.” Một giọng nói vọng vào từ bên ngoài, khàn khàn và âm vang mà Aplegatt ngay lập tức nhận ra. “Hoặc là một trong các ngươi ra ngoài này và nói với ta ai đang thuê các ngươi, và rồi các ngươi sẽ được đi khỏi đây mà không hề hấn gì. Hoặc là cả ba người các ngươi cùng ra. Ta đang đợi đây.”

“Khốn khiếp….” người đàn ông với mái tóc đen gầm gừ. “Hắn biết rồi. Chúng ta làm gì đây?”

Chậm rãi, người đàn ông đeo kính đặt chiếc cốc xuống quầy. “Những gì mà chúng ta được trả công để làm.”

Hắn khạc vào hai tay, xoa xoa và rút kiếm ra. Ngay lập tức, hai người kia cũng rút vũ khí theo. Người chủ quán mở miệng như muốn hét lên, nhưng nhanh chóng ngậm lại khi thấy ánh nhìn lạnh lẽo từ người đàn ông đeo kính.

“Tất cả mọi người ngồi xuống, và ngậm mồm lại.” Người đàn ông nói. “Heim, khi trận chiến bắt đầu, cố gắng vòng ra sau hắn. Đi nào các anh em, sắp sửa gay go rồi đây!”

Ngay khi họ bước ra ngoài, trận chiến bắt đầu: những tiếng rên rỉ, giậm chân, tiếng gươm kiếm va chạm nhau. Và rồi một tiếng hét. Một tiếng hét làm dựng tóc gáy.

Người chủ quán trắng bệch ra, người phụ nữ với cặp mắt thâm quầng nén lại một tiếng kêu và ôm chặt đứa trẻ vào lòng. Con mèo trên chiếc ghế bành đứng dậy, cong lưng và vểnh đuôi. Aplegatt vẫn còn đang đứng, nhanh chóng lủi vào một góc. Con dao để trên đùi anh, nhưng anh vẫn chưa rút nó ra khỏi vỏ.

Ở bên ngoài, lại có tiếng sột soạt, tiếng vũ khí va chạm.

“Ngươi!” Ai đó hét lên man dại, nhưng tiếng hét này, kể cả khi đi kèm với một lời nguyền rủa ác hiểm, vẫn chỉ là một tiếng kêu tuyệt vọng. “Ngươi!”

Những thanh kiếm huýt sáo. Rồi bỗng nhiên một âm thanh như xé tan bầu không khí vang lên. Như thể một bao cát vĩ đại đổ xuống sàn. Từ chỗ mấy cây cột buộc ngựa, có thể nghe thấy tiếng vó giậm, cũng như tiếng hý hoảng loạn của chúng.

Lại lần nữa, có thứ gì đó to lớn đổ xuống sàn. Những tiếng bước chân nặng nề của ai đó chạy nhanh qua sân trước. Người phụ nữ với đứa con sán lại gần chồng mình hơn, người chủ quán lùi lại ra sau. Aplegatt rút con dao ra, vẫn giấu nó dưới gầm bàn. Người đàn ông đang chạy về phía quán trọ, rõ ràng là có thể xuất hiện ở cửa vào bất kỳ lúc nào đó. Nhưng trước khi hắn ta kịp chạy đến, có tiếng một lưỡi dao rít qua không trung.

Người đàn ông la lên và ngay sau đó, lảo đảo bước vào căn phòng. Hắn chực ngã ở cửa, nhưng vẫn cố đứng được. Hắn bước vài bước lên phía trước, chậm rãi, và đổ gục xuống nền nhà ngay giữa căn phòng, làm một lớp bụi bay lên. Hắn ngã đập mặt xuống đất, tay để hai bên, chân cong queo. Cặp kính của hắn rơi xuống sàn và vỡ tan thành muôn mảnh nhỏ xíu. Một vũng nước đen ngòm, lấp lánh bắt đầu lan ra từ thân hình giờ đây đã nằm bất động của hắn.

Không ai di chuyển. Thậm chí không có một tiếng kêu nào. Người đàn ông tóc trắng bước vào căn phòng.

Anh ta tra thanh kiếm đang cầm trên tay vào bao đeo sau lưng một cách dễ dàng. Anh tiến lại phía quầy, không thèm nhìn cái xác đang nằm trên nền nhà. Người chủ quán rụt lại.

“Chúng là người xấu,” người đàn ông tóc trắng nói bằng giọng khàn khàn. “Và giờ chúng đã chết. Khi đại diện của nhà vua đến, ông ta có thể nhắc đến một chút tiền thưởng cho cái đầu của chúng. Cứ để ông ta thích làm gì thì làm.”

Người chủ quán gật đầu lia lịa.

“Có thể,” người đàn ông tóc trắng tiếp tục sau một lúc, “một vài đồng nghiệp hay bạn bè của những kẻ này sẽ thắc mắc chuyện gì đã xảy ra với chúng. Chủ quán, hãy cứ nói rằng Con Sói đã ăn thịt chúng. Sói Trắng. Và hãy bảo bọn chúng rằng lo mà nhìn phía sau đi. Một ngày nào đó, chúng có thể sẽ thấy Con Sói đuổi ngay theo sau.”

***

Khi Aplegatt đến cổng Tretogor ba ngày sau thì cũng đã quá nửa đêm. Anh tức giận vì đã tốn quá nhiều thời gian bên hào nước, anh phải hét gần như rách cổ họng để đánh thức lính canh: họ ngủ say như chết và cũng chẳng vội vã mở cổng thành cho lắm. Aplegatt không bỏ lỡ cơ hội để chửi rủa họ thậm tệ, ít nhất là ba đời. Sau đó, anh hài lòng khi nghe thấy người chỉ huy, sau khi đã thức dậy, hoàn tất danh sách xúc phạm mà anh đã nêu ra bao gồm mẹ, bà và cụ kị của những kẻ vô dụng này. Chắc chắn là không thể gặp được vua Vizimir vào lúc nửa đêm thế này rồi. Đằng nào thì anh cũng đã từ bỏ ý định đó. Anh hy vọng được ngủ đến sáng. Hay là anh tưởng vậy thôi. Thay vì được đưa đến chỗ nào đó để nghỉ, anh lại được dẫn đến trạm gác. Không phải là cảnh vệ đang đợi anh bên trong, mà là một kẻ khác, một kẻ rất lớn, vĩ đại. Aplegatt biết ông ta, đó là Dijkstra, trưởng cơ quan tình báo của vua Vizimir. Aplegatt biết là Dijkstra vẫn thường nghe những thông điệp chỉ được dành riêng cho hoàng gia. Aplegatt đưa ông ta lá thư.

“Ngươi có thông điệp nào không?” “Dạ có, thưa ngài.”

“Ta đang nghe đây.”

“Demavend gửi Vizimir,” Aplegatt nhắm mắt lại lẩm nhẩm. “Đầu tiên, những người đóng kịch đã đợi sẵn cho đêm thứ hai sau lúc trăng tròn vào tháng 7. Thứ hai, ta sẽ không tham dự cuộc hội ngộ trên đảo Thanedd, và ta khuyên ông cũng nên làm vậy. Thứ ba, Sư Tử Con đã chết.”

Dijkstra hơi nhăn mặt và gõ ngón tay lên mặt bàn.

“Đây là những lá thứ gửi cho vua Demavend. Còn thông điệp…hãy nghe kỹ và ghi nhớ đây. Ngươi sẽ truyền đạt lại cho vua của ngươi, đúng đến từng câu chữ. Chỉ cho ông ta nghe thôi, và không ai khác cả. Không ai khác cả, đã rõ chưa?”

“Dạ rồi, thưa ngài.”

“Thông điệp như sau: “Vizimir gửi Demavend. Hãy giam giữ những người đóng kịch lại. Đã có kẻ phản bội. Ngọn Lửa đã triệu tập một đội quân ở Dol Angra và đang chờ một cái cớ.” Hãy nhắc lại đi.”

Aplegatt nhắc lại.

“Tốt.” Dijkstra gật đầu. “Ngươi sẽ đi vào lúc trời sáng.”

“Tôi đã ở trên đường được 5 ngày, thưa ngài.” Người đưa thư xoa xoa cái mông. “Nếu tôi có thể ngủ đến giữa trưa…Có được không ạ?”

“Đức vua của ngươi, Demavend, có đang ngủ không? Và ta, ta có đang ngủ không? Đáng nhẽ ra ta phải cho ngươi một đấm vào mặt vì dám hỏi như vậy. Ngươi sẽ được ăn, và có thể duỗi chân một chút trên đám cỏ. Sau đó, ngươi sẽ khởi hành khi mặt trời lên. Ta đã chuẩn bị cho ngươi một con ngựa giống rồi. Rồi ngươi sẽ thấy, nó chạy như vũ bão vậy. Và đừng có ủ ê nữa. Vẫn có túi vàng này cho ngươi đây, một chút thưởng thêm. Để ngươi khỏi cằn nhằn rằng Vizimir keo kiệt.”

“Cảm ơn ngài.”

“Khi ngươi đến khu rừng dọc Pontar, hãy cẩn thận. Người ta thấy có lũ Sóc ở đó. Và nơi ấy cũng chẳng thiếu bọn cướp đường.”

“Ồ vâng! Tôi biết điều đó, thưa ngài. Ôi trời! Chỉ cần nghĩ về chuyện đã xảy ra ba hôm trước thôi là cũng đủ!”

“Chuyện gì?”

Aplegatt nhanh chóng thuật lại sự kiện đã diễn ra ở Anchor. Dijkstra lắng nghe, hai tay bắt chéo nhau.

“Giáo Sư….”, ông ta lẩm bẩm. “Heimo Kantor và Yaxa Lùn. Bị giết bởi một witcher. Tại Anchor, trên đường đến Gors Velen, hoặc Thanedd, Garstang Và Sư Tử Con đã chết ư?”

“Ngài đang nói gì vậy?”

“Không quan trọng.” Dijkstra ngẩng lên. “Ít ra thì đối với ngươi. Hãy nghỉ ngơi đi. Và khởi hành vào lúc bình minh.”

Aplegatt ăn những thứ được đưa cho mình, và duỗi người một chút. Anh mệt đến nỗi chẳng chớp mắt nổi. Trước khi bình minh lên, anh đã đi qua cổng thành rồi. Con ngựa của anh rõ ràng là rất phấn khởi, nhưng không được tự nguyện cho lắm. Aplegatt không thích kiểu ngựa như vậy.

Trên vai anh, chỗ giữa bả vai trái và cột sống rất ngứa ngáy, chắc hẳn là đã có con rận nào đấy cắn anh khi đang gật gù trong chuồng ngựa. Và chẳng có cách nào để gãi cả.

Con ngựa giống giậm giậm chân và hý vang. Người đưa thư thúc vào hông nó và phi nước đại. Thời gian đang gấp rút.

***

Gar’ean”, Cairbre thì thầm. Nấp dưới một nhành cây, quan sát con đường. Hắn rướn người lên. “En Dh’oine aen evall a stráede!”

Toruviel ngồi bật dậy, nắm lấy thanh kiếm và chỉnh lại nó, cô ta đá Yaevinn một cái bằng mũi giày, lúc này đang ngủ gật ngay cạnh. Gã elf nhảy dựng lên và nguyền rủa, làm bỏng tay khi chống xuống nền cát nóng rẫy.

Que suecc’s?”

“Một con ngựa trên đường.”

“Một con ngựa sao?” Yaevinn với lấy cây cung và ống tên. “Cairbre? Chỉ có một thôi sao?” “Phải. Hắn đang lại gần.”

“Chà! Xử hắn thôi. Bớt được thêm một tên Dh’oine.”

“Kệ đi.” Toruviel túm lấy tay áo hắn ta. “Để làm gì? Chúng ta chỉ phải đi tuần tra, sau đó về báo cáo lại với chỉ huy. Có cần phải giết thường dân trên đường không? Chẳng lẽ cuộc đấu tranh vì tự do lại trở thành như thế này sao?”

“Chính xác là vậy. Tránh ra đi.”

“Nếu chúng ta để lại một cái xác trên đường, toán tuần tra tiếp theo đi qua sẽ báo động. Quân đội sẽ đuổi theo chúng ta. Chúng sẽ trông chừng pháo đài. Chúng ta có thể sẽ gặp khó khăn khi vượt qua con sông.”

“Làm gì có ai đi qua đây. Khi mà có người phát hiện ra cái xác thì chúng ta cũng đã cao chạy xa bay rồi.”

“Kẻ này cũng đã đi xa rồi,” Cairbre nói từ trên cành cây. “Thay vì tán gẫu thì lẽ ra anh nên bắn từ trước. Giờ thì anh không thể bắn trúng hắn được nữa rồi. Hắn cách ít nhất cũng phải 200 thước.”

“Với cây 66 của tôi?” Yaevinn khẽ vuốt ve cây cung. “Với cánh cung 6 mét đáng yêu của tôi? Đằng nào thì đó cũng không phải 200 thước. Cùng lắm thì là 150. Mire, que spar aen’le.”

Yaenvinn, bỏ đi… ”

Thaess aep, Toruviel.”

Người elf xoay ngược cái mũ lại để chiếc đuôi sóc đính vào nó không làm cản trở tầm nhìn của hắn nữa, kéo dây cung đến tận mang tai, ngắm chuẩn xác và thả ra.

Aplegatt không thể nghe thấy mũi tên. Đó là một mũi tên im lặng, được đính những sợi lông vũ dài, hẹp và xám. Mũi tên được xẻ rãnh để làm nó nhẹ hơn và cứng cáp hơn. Đầu mũi tên với ba lưỡi dao nhọn, nhanh chóng cắm vào mục tiêu ở lưng, giữa bả vai trái và cột sống. Những lưỡi dao được thiết kế để khi xuyên vào, chúng sẽ bật ra, xoay như một đinh ốc, cắt nát thịt và đập vỡ xương. Aplegatt đổ người ra phía trước, sau đó tuột xuống đất, nằm bất động.

Trên mặt đất, cát rất ấm dưới ánh mặt trời nóng bỏng. Nhưng người đưa thư không thể cảm thấy nó. Anh đã chết ngay tức khắc.

Nói tôi biết cô ấy là hơi quá. Tôi nghĩ rằng không có ai, ngoại trừ Witcher và Nữ pháp sư ra, có thể thực sự hiểu được cô ấy. Lần đầu tiên gặp mặt, cô ấy không để lại cho tôi ấn tượng gì nhiều lắm, dù cho hoàn cảnh chúng tôi gặp mặt là khá dị thường. Tôi biết có những người nói rằng ngay từ giây phút đầu tiên khi họ nhìn thấy cô ấy, họ đã cảm nhận được hơi thở của thần chết đi theo sau cô. Tuy nhiên, đối với tôi thì cô ấy trông có vẻ bình thường mặc dù tôi hoàn toàn biết là không phải vậy – đó là vì sao tôi cố gắng nhìn ra, cảm nhận, tìm hiểu sự dị thường của cô ấy. Nhưng tôi không thể nhìn hay cảm nhận được gì cả. Bất kỳ điều gì có thể là dấu hiệu, điềm gở báo trước những sự kiện bi thảm sẽ xảy ra trong tương lai. Những sự kiện xảy ra vì cô ấy. Hay chính cô ấy gây nên.

Dandelion, Nửa thế kỷ thơ ca.

About The Author

Ngo David

Power is Power