The Witcher Quyển 5 – Thử thách của lửa

The Witcher Quyển 5 – Thử thách của lửa

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 7

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Và rồi nữ tiên tri nói với witcher: “Ta sẽ cho ngươi lời khuyên này: hãy đi ủng làm từ sắt, cầm lấy một cây gậy thép. Rồi đi đến tận cùng thế giới. Cùng với cây gậy hãy khám phá những vùng đất trước mắt ngươi và tưới ướt chúng bằng lệ của mình. Hãy đi qua lửa và nước, đừng dừng lại giữa đường, đừng ngoái lại phía sau. Và khi đôi ủng đã mòn, khi cây gậy đã gãy, khi cơn gió và cái nóng đã khiến mắt ngươi không còn nhỏ lệ được nữa, thì ở nơi tận cùng thế giới, ngươi sẽ tìm thấy điều mình muốn và người mà ngươi yêu thương…”

Witcher đi qua lửa và nước, anh không ngoảnh nhìn lại. Anh không đi ủng sắt hay cầm theo cây gậy thép. Anh chỉ mang thanh kiếm của mình.

Anh không nghe theo lời của nữ tiên tri. Và anh làm vậy bởi vì bà ta là một nhà tiên tri dỏm.

Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.

Bụi cây ríu rít tiếng chim.

Sườn của khe suối phủ kín cây, từng bụi mâm xôi và nhân sâm dày đặc, một nơi hoàn hảo để làm tổ và rình mồi. Đâm ra cũng chẳng ngạc nhiên lắm khi nó lúc nhúc chim. Những con hoa mai và chích chòe bướng bỉnh, chíp liên hồi, từng đợt từng đợt. Hoa mai báo hiệu cơn mưa sắp đến, Milva nghĩ, ngửa lên nhìn trời theo bản năng. Không có gợn mây nào. Nhưng những con mai vẫn hót. Khu rừng cũng cần chút mưa.

Phía trước khe suối là một nơi canh gác lý tưởng, có tiềm năng cho một cuộc đi săn thành công, đặc biệt là ở Brokilon này, một khu rừng già đầy những sinh vật hoang dã. Người dryad kiểm soát phần lớn khu rừng nhưng hiếm khi đi săn, và con người thì càng ít dám bén mảng đến đây hơn. Ở đây, người thợ săn cừ khôi nhất cũng có nguy cơ trở thành con mồi. Các dryad của Brokilon không dung thứ chút nào đối với những kẻ xâm phạm. Milva đã tận mắt chứng kiến điều này.

Dù sao thì, Brokilon không thiếu thú vật. Tuy vậy, Milva đã ngồi rình ở đây suốt hai tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa bắn một mũi tên nào. Không thể đi bộ dưới đất mà săn ở đây được – một cơn hạn hán đã kéo dài mấy tháng và để lại rất nhiều cành và lá cây khô dưới đất, mà kêu răng rắc với mỗi bước di chuyển. Với tình trạng như vậy, chỉ có đứng một chỗ chờ đợi mới có thể hy vọng săn được cái gì đó.

Một con bướm duyên dáng đậu xuống cây cung của cô. Không cử động, Milva vừa ngồi quan sát nó gấp rồi lại mở cánh, vừa nhìn cây cung của mình, một vật đẹp đẽ vừa mới sắm được mà cô vẫn chưa thấy chán dùng nó. Cô là một cung thủ, cô yêu một món vũ khí tốt, và cây cung cô đang cầm ở đây là thứ tốt nhất cô từng được dùng từ trước đến giờ.

Milva đã dùng qua rất nhiều cung trong đời. Cô đã học bắn bằng những cây cung thông thường làm từ gỗ thủy tùng, nhưng sớm từ bỏ chúng vì thích cung cán mỏng hơn, mà người dryad và elves hay dùng. Cung của elves ngắn hơn, nhẹ hơn và dễ dùng hơn, và nhờ sử dụng gỗ nhiều lớp và gân động vật, chúng cũng “nhanh hơn” rất nhiều. Một mũi tên bắn ra từ chúng bay đến mục tiêu với khoảng thời gian ngắn hơn và có quỹ đạo thẳng hơn, khiến sức cản của gió gần như bị loại bỏ hoàn toàn. Ví dụ tốt nhất về loại vũ khí này là một cây Zefhar, cái tên đặt theo hình dạng cong của cánh cung. Milva đã dùng một cây Zefhar trong vài năm và nghĩ rằng không có cây cung nào vượt qua được nó.

Nhưng cuối cùng cô đã tìm được một cây cung như vậy. Đương nhiên là tại khu chợ Hrakim ở Cidaris, nổi tiếng vì nguồn hàng dồi dào, những món đồ lạ lùng được các thủy thủ đem đến từ khắp nơi trên thế giới, bất kỳ nơi nào mà tàu chiến có thể với tới được. Mỗi khi có cơ hội, Milva đều đến thăm khu chợ và ngắm nghía hàng hóa. Chính tại nơi đây, cô đã tìm thấy món vũ khí mà cô tưởng sẽ phụng sự mình trong nhiều năm, một cây Zefhar từ Zerrikania, bọc bằng sừng hươu. Cô đã nghĩ đây chính là cây cung hoàn hảo. Nhưng chỉ được một năm, cũng chính tại gian hàng đó, cùng người thương nhân đó, cô đã tìm ra một món kỳ quan.

Cây cung đến từ xa trên phía bắc. Cánh cung dài 2 mét, được làm từ gỗ đào, tay cầm hoàn hảo và sống láng mịn với nhiều lớp gỗ dát mỏng, xương và gân cá voi. Có thể trông thấy rõ ràng rằng so với những cây cung khác nằm bên cạnh, nó không chỉ khác biệt về cách làm và tay nghề, mà còn cả giá cả – và giá của nó chính là điều đã thu hút sự chú ý của Milva. Tuy nhiên, khi cầm cây cung lên tay và thử nó, cô đã trả không chút do dự và không cần mặc cả cái giá mà người thương nhân đề nghị. 400 crown Novigrad. Không cần phải nói, cô không mang trên người số tiền lớn đến vậy. Cô đã thỏa thuận đổi cây Zefhar của mình, một bộ da chồn, một tấm mề đay và một sợi dây chuyền tuyệt đẹp của elves, một cây san hô uốn éo chấm vài viên ngọc trai sông.

Nhưng cô không thấy hối hận. Không bao giờ. Cây cung nhẹ phi thường và được chăm chút đến hoàn hảo. Mặc dù không quá dài, nhưng ẩn trong lớp vật liệu là một số lượng dây rất lớn. Được trang bị sợi tơ gai và nhung kéo dài qua 60 phân tay cầm, để tạo được sức căng chính xác 25 cân. Đúng là có những cây cung có thể cho đến 35 cân, nhưng Milva cho rằng như thế là hơi quá. Một mũi tên bắn ra từ cây cung của cô có thể bay đến 60 mét trong một nhịp tim, và ở khoảng cách 100 thước có đủ lực để xuyên thủng một con hươu và một con người nếu hắn ta không mặc giáp. Milva hiếm khi săn thứ gì đó lớn hơn hươu, hay người mặc áo giáp.

Con bướm bay đi. Những con hoa mai vẫn rúc rích trong bụi cây. Và vẫn chẳng có thứ gì xuất hiện trong tầm bắn. Milva ngồi tựa vào thân cây thông, và bắt đầu nhớ lại chuyện cũ. Để giết thời gian.

***

Lần đầu tiên cô gặp witcher là vào tháng 7, hai tuần sau sự kiện trên đảo Thanedd và cuộc chiến nổ ra ở Dol Angra. Milva quay trở lại Brokilon sau vài ngày vắng mặt, đem theo phần còn lại của một biệt đội Scoia’tael mà đã bị mắc kẹt ở Temeria trong khi cố vượt sang phần lãnh thổ của Aedirn, đang trong thời gian xảy ra đụng độ. Nhóm Sóc đã muốn gia nhập cùng những elves đang nổi dậy ở Dol Blathanna. Họ đã thất bại, và nếu không phải vì Milva, họ đã chết hết rồi. Milva đã đề nghị họ đến Brokilon trú ẩn.

Ngay sau khi quay về, cô đã được thông báo rằng Aglais đang đợi cô ở Col Serrai. Thành thực thì Milva có hơi chút ngạc nhiên.

Aglais là người trông coi việc trị thương ở Brokilon, và những hang động sâu thẳm cùng mạch nước nóng của thung lũng Col Serrai là nơi lý tưởng để chữa bệnh.

Tuy nhiên, cô vẫn tuân theo lời triệu tập, nghĩ rằng chắc có người elves nào đó đang được trị thương muốn liên lạc với đội của mình thông qua cô. Khi cô trông thấy witcher nằm đó và biết anh ta muốn gì, cô lập tức phát điên, chạy ra khỏi hang với đuôi tóc tung bay sau lưng và trút hết cơn giận lên Aglais.

“Hắn đã thấy mặt tôi! Hắn đã thấy mặt tôi! Bà thậm chí có hiểu được điều đó đe dọa đến tôi như thế nào không?”

“Không, tôi không hiểu.” Người trị thương lạnh lùng đáp. “Đây là Gwynbleidd, witcher, một người bạn của Brokilon. Đã 14 ngày trôi qua kể từ khi trăng non. Sẽ phải mất khá lâu cho đến khi anh ta có thể đứng dậy và đi lại bình thường. Anh ta muốn tin tức về thế giới, tin tức về những người thân yêu của mình. Chỉ có cô mới có thể cho anh ta điều đó.”

“Tin tức về thế giới? Tôi nghĩ bà đã mất trí rồi, dryad! Bà có biết chuyện gì đang xảy ra ngoài thế giới không, bên ngoài biên giới khu rừng yên tĩnh này của bà? Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn ở Aedirn! Ở Brugge, Temeria và Redania. Chỉ có hỗn loạn, địa ngục và đàn áp! Những kẻ đã khởi xướng bạo loạn ở Thanedd đang bị truy nã ở khắp nơi! Chỉ cần thốt ra một từ không đúng lúc thôi là sẽ được ở cùng cai ngục với gậy sắt nung ngay! Vậy mà tôi phải đi do thám, hỏi han, thu thập tin tức? Liều cái mạng của mình? Vì một gã witcher dở sống dở chết? Và bà còn nói hắn không phải người lạ, mà là bạn tôi? Bà đã mất trí rồi, Aglais!”

“Nếu cô muốn hét,” người dryad điềm tĩnh ngắt lời, “thì hãy để chúng ta đi sâu hơn vào khu rừng. Anh ta cần yên tĩnh.”

Milva miễn cưỡng liếc mắt vào trong hang, mà trong đó người đàn ông bị thương đang nằm. Đẹp trai, cô nghĩ theo bản năng, mặc dù gầy như que củi…Tóc trắng, nhưng bụng phẳng lỳ như thanh niên, loại mà quen với lao động nặng nhọc, chứ không phải bia và thịt lợn…

“Hắn đã ở trên Thanedd,” Milva nói, không tìm một câu trả lời. “Một kẻ nổi loạn.”

“Tôi không biết.” Aglais nhún vai. “Anh ta đang bị thương và cần giúp đỡ. Còn lại không phải việc của tôi.”

Milva nhăn mặt. Người trị thương nổi tiếng vì tính ít nói. Nhưng Milva đã có đủ thời gian để nghe ngóng từ các dryad ở biên giới phía tây của Brokilon, về sự kiện xảy ra hai tuần trước đó. Về một nữ pháp sư tóc hạt dẻ đã xuất hiện ở Brokilon cùng với một người đàn ông bị thương, tay và chân bị gãy, bấu víu vào cô. Người bị thương là chính witcher, biết đến với cái tên Gwynbleidd, Sói Trắng.

Thoạt tiên, các dryad không biết phải làm gì. Witcher chảy máu, la hét ầm ĩ và ngất xỉu trong khi Aglais băng bó vết thương cho anh ta. Người nữ pháp sư đã đem anh ta đến đây thì cứ đứng nhìn, vừa khóc lóc vừa chửi rủa. Khi nghe thấy điều này, Milva thấy sốc thật sự – đã từng ai nhìn thấy một nữ pháp sư khóc bao giờ? Và rồi có mệnh lệnh đến từ Duen Canell, từ Eithne với đôi mắt bạc, Quý bà của Brokilon. Nữ pháp sư đọc chỉ dụ của người đứng đầu các dryad rừng. Witcher sẽ được chăm sóc ở đây.

Họ chữa lành cho anh ta. Milva đã trông thấy tận mắt. Anh ta nằm trong hang, trong một cái hồ chứa đầy nước ma thuật của Brokilon. Tay để lên thành còn chân được cuốn trong một tấm da cừu dày và dây nho gọi là conynhael. Tóc anh ta trắng như sữa. Anh ta vẫn còn tỉnh, và dù cho những người được chữa bằng conynhael thường hay lảm nhảm những điều vô nghĩa, đôi khi ma thuật cũng nói thông qua họ…

“Không à?” Giọng nói lãnh đạm của người trị thương giật cô ra khỏi dòng suy nghĩ, “Sẽ thế nào đây? Tôi nên nói gì với anh ta?”

“Cứ để hắn đánh bạn với quỷ dữ đi.” Milva làu bàu, giật giật sợi dây lưng đang treo lủng lẳng một cái túi da và một con dao săn, “Và bà cũng thế, Aglais.”

“Đây là ý nguyện của cô. Tôi không ép cô được.” “Bà nói đúng. Bà không thể ép tôi được.”

***

Cô đi vào rừng, bước qua những cây thông. Cô không nhìn lại. Cô đang tức giận.

Milva biết sự kiện đã xảy ra trên đảo Thanedd vào tuần trăng đầu tiên của tháng 7, các đơn vị Scoia’tael cứ luôn mồm nói về nó. Trong buổi họp của các pháp sư đã nổ ra một cuộc bạo loạn, máu đã đổ và đầu đã rơi. Quân đội Nilfgaard ngay lập tức tấn công vào Lyria và Aedirn, chiến tranh nổ ra. Ở Temeria, Kaedwen và Redania, mọi tội lỗi đều đổ lên đầu Sóc. Đầu tiên, bởi vì rõ ràng là Scoia’tael đã tới hỗ trợ các pháp sư và quân nổi loạn trên Thanedd. Thứ hai, bởi vì Vizimir, vua của Redania, đã bị sát hại bằng một con dao dưới tay một người elves hay nửa- elves. Vậy nên con người ghét Sóc. Ở khắp nơi, nỗi căm thù sôi sục, và một dòng sông máu elves tuôn chảy…

Ha, cô nghĩ, có lẽ đó là sự thật, những gì mà các thầy tu suốt ngày lải nhải, rằng tận thế sắp đến và Ngày Phán Xét đang tới gần? Thế giới đang chìm trong biển lửa, và con người trở thành như bầy sói, cắn xé không chỉ với elves, mà còn cả với nhau. Anh em đấu đá lẫn nhau…và một witcher, lẫn lộn vào mớ rắc rối này. Một witcher, mà có sứ mạng bảo vệ con người khỏi quái vật, lại đi sát hại chính con người! Kể từ khi thế giới bắt đầu, chưa từng có một witcher nào dính líu đến chính trị hay chiến tranh. Thậm chí còn có một câu truyện về một vị vua ngu xuẩn, đựng nước bằng rây lọc, chọn một con thỏ làm sứ giả, và một witcher làm thống đốc. Thế mà đây, giờ thì có một witcher bị thương nặng trong cuộc nổi loạn chống lại các vị vua, và trốn tránh hình phạt của mình ở Brokilon. Quả thật là đã đến ngày tận thế!

“Chào con, Maria.”

Cô rùng mình. Người dryad đang đứng dựa vào một cây thông, đôi mắt và mái tóc bà ánh bạc. Ánh mặt trời đang lặn tạo nên một vầng hào quang trên đầu bà, phản chiếu trên bức tường lấm chấm của khu rừng. Milva quỳ xuống, đầu cúi thấp.

“Xin chào quý bà Eithné.”

Người cai trị rừng Brokilon dắt một con dao vàng có dạng một lưỡi hái vào thắt lưng. “Đứng lên đi,” bà nói. “Chúng ta cùng đi dạo nào. Ta muốn nói chuyện với con.”

Trong một khoảng thời gian dài, họ đi dạo qua khu rừng ẩn trong bóng tối, người dryad cao ráo đầu bạc và cô gái với mái tóc gai. Không ai muốn phá vỡ sự yên tĩnh.

“Đã lâu quá rồi con chưa về Duén Canell nhỉ, Maria.”

“Không có thời gian thưa quý bà Eithné. Bởi vì Duén Canell nằm cách xa so với con đường, và con…người biết mà.”

“Ta biết. Con có mệt không?”

“Những người elves cần giúp đỡ. Vậy nên con giúp họ, đúng như lệnh của người.” “Đúng như yêu cầu của ta.”

“Chính xác là như vậy, đúng như yêu cầu của người.” “Ta có một yêu cầu nữa.”

“Đúng như con nghĩ. Là về witcher phải không?” “Hãy giúp anh ta.”

Milva dừng lại, quay đầu, và với một chuyển động chớp nhoáng bẻ gãy một cành kim ngân đang chắn đường cô. Cô xoay nó trên tay, trước khi ném xuống đất.

“Trong nửa năm nay,” cô khẽ nói, nhìn vào đôi mắt bạc của người dryad, “con đã đánh liều cái đầu của mình, con đã mang các biệt đội elves tới Brokilon…..Khi họ đã nghỉ ngơi và khi người đã chữa lành cho họ, con lại đưa họ về nhà Như thế vẫn còn là quá ít hay sao? Con làm vẫn chưa đủ hay sao? Với mỗi kỳ trăng mới con lại dấn bước trên con đường trong đêm thâu….con sợ ánh mặt trời như dơi hay cú ”

“Không ai biết rõ khu rừng như con.”

“Ở trong rừng con sẽ không nghe được gì cả. Witcher muốn con thu thập tin tức, muốn con trà trộn vào đám đông. Hắn là một kẻ phản loạn, và nói tên hắn ra sẽ khiến lũ an’givare vểnh tai lên tức thì. Con không thể xuất đầu lộ diện trong thành phố. Nếu có ai đó nhận ra con thì sao? Những ký ức sống động vẫn còn trong tâm trí con, máu trên áo con vẫn chưa khô….Bởi vì rất nhiều máu đã đổ, thưa Eithné.”

“Rất nhiều,” đôi mắt bạc già nua của người dryad thật kỳ lạ, lạnh lùng và khó hiểu. “Quả thật là rất nhiều.”

“Người biết con mà. Con sẽ bị xiên lên một cây cọc.”

“Con rất khôn ngoan. Con thận trọng và cảnh giác.”

“Với những tin tức mà witcher muốn biết, người có thể vứt sự thận trọng sang một bên, con sẽ cần phải hỏi những câu hỏi. Những ngày này thậm chí tỏ ra tò mò cũng là quá nguy hiểm. Nếu chúng bắt được con ”

“Con có nhiều đầu mối… ”

“Chúng sẽ tra tấn con. Giết con. Hoặc con sẽ mục xác trong ngục Drakenborg…. ”

“Con nợ ta.”

Milva quay đầu đi, cắn môi.

“Vâng,” cô nói cay đắng. “Con không được phép quên.”

Cô nhắm mắt lại, gương mặt đột nhiên nhăn nhúm, môi run rẩy, răng nghiến chặt. Bên dưới mí mắt nhợt nhạt thấm đẫm ánh trăng là những ký ức ma mị về đêm đó. Lại lần nữa cảm thấy cơn đau bất chợt trên mắt cá chân, kẹt trong sợi dây da, cơn đau bắn lên đầu gối. Âm thanh của cây cối xào xạc rung rinh bên tai cô   những tiếng kêu, rên rỉ, hoang dại và hoảng loạn, nỗi sợ

túm chặt lấy cô khi cô nhận ra rằng mình không thể thoát được   gào thét và hoảng sợ, sợi dây thừng đen đúa và xoắn vặn, đung đưa, cảnh vật lộn ngược, cơn đau, máu dồn lên thái dương cô…..

Và tới bình minh, các dryad đứng thành một vòng tròn…..Những tiếng cười đùa từ xa… Một

con rối đung đưa trên dây! Quay đi, quay đi rối, đầu chúi xuống…. Và tiếng khóc của chính  cô, thật lạ lùng. Và rồi bóng tối.

“Đúng, con vẫn mắc nợ,” cô nói qua hàm răng nghiến chặt. “Đúng, con đã được cứu nhờ bàn tay rộng lượng của người. Con thấy là trong khi mình vẫn còn sống, con sẽ không thể trả hết được món nợ này.”

“Ai cũng đều mắc nợ,” Eithné nói. “Cuộc sống là vậy đó, Maria Barring. Nợ nần, trách nhiệm, làm gì đó cho ai đó. Hay cho chính bản thân mình? Bởi vì trong thực tế, ta luôn tự trả giá cho bản thân ta, chứ không phải ai khác. Mỗi món nợ đều trả cho ta. Trong mỗi chúng ta đều là người mắc nợ và chủ nợ. Điều quan trọng là chúng ta đã đồng ý với cái giá đó. Chúng ta đến với thế giới này với chút sinh mạng trong tay, và rồi tất cả những gì ta làm là mắc nợ và trả nợ. Cho chúng ta. Vì chúng ta. Cho đến khi món nợ kết thúc.”

“Người đàn ông này…witcher.. anh ta có quan trọng với người không, Eithné?”

“Có. Mặc dù anh ta không nhận ra. Hãy trở về Col Serrai, Maria Barring. Đi đi và làm những gì anh ta yêu cầu.”

***

Từ một bụi cây, có tiếng cành gãy. Những con chim bắt đầu ríu rít, “check-check”. Từng đàn mai và sẻ bay lên, những chiếc lông đuôi trắng lập lòe. Milva thở gấp. Cuối cùng.

“Check-check”, một con sẻ ríu rít. “Check-check-check.” Lại lần nữa, tiếng cành gãy.

Milva chỉnh lại băng cổ tay, được buộc bằng một bó sợi dây da. Cô đưa tay vào ống tên để trên đùi. Theo bản năng, cô kiểm tra đầu và đuôi mũi tên. Đầu mũi tên cô mua ở chợ – cô luôn chọn bừa một trong mười cái được chào mời – nhưng lại luôn tự đính lông vũ cho từng mũi tên của mình. Những mũi tên làm sẵn luôn có phần lông vũ quá ngắn và xếp thẳng theo trục mũi tên, trong khi Milva luôn xếp theo hình xoắn ốc và không có cái nào ngắn hơn 10 phân.

Cô tra một mũi tên vào cung, và nhìn ra ngoài con suối nằm giữa một đám nhân sâm tươi và một bụi dâu đỏ nổi bật lên so với cây cối xung quanh.

Những con mai bay không quá xa, lại tiếp tục bài hát của chúng.

Lại đây nào, hươu con, cô nghĩ, nhấc cao cây cung và kéo dây. Lại đây nào, ta sẵn sàng rồi.

Nhưng con hươu chạy ra xa khỏi bờ suối, hướng về phía con mương lầy lội chảy vào dòng Ribbon. Con hươu nổi bật trên nền thung lũng. Một con vật tuyệt đẹp. Qua một cái liếc có thể thấy nó nặng tầm 20 cân. Nó ngẩng đầu dậy, vểnh tai lên, sau đó quay ra phía bụi cây và dẫm nát vài chiếc lá.

Bắn nó từ phía sau sẽ dễ hơn. Nếu không phải vì cái cây đang chắn tầm nhìn của Milva thì cô đã bắn luôn rồi. Kể cả khi cắm vào bụng con thú, đầu mũi tên vẫn có thể xuyên qua tim, phổi hay thận. Khi cắm vào đùi, nó có thể cắt đứt động mạch, và con thú sẽ sớm khuỵu xuống. Cô chờ đợi, chưa vội bắn.

Con hươu lại ngẩng đầu lên, bước vài bước, đi ra sau cái cây, tiến lại gần thật chậm rãi. Milva, vẫn giữ dây cung căng hết mức, nguyền rủa khe khẽ. Phát bắn từ đằng trước có thể không hiệu quả: thay vì chọc thủng phổi, mũi tên sẽ chỉ xuyên qua bụng. Cô chờ đợi, nín thở, cảm thấy vị mặn của lông vũ ở khóe miệng. Đây là một lợi thế gần như vô giá của cây cung này – với một cây cung nặng hơn, cô không thể giữ dây căng được lâu đến vậy mà không ảnh hưởng đến lực cổ tay và độ chính xác.

May mắn thay, con hươu cúi đầu xuống, gặm vài ngọn cỏ, quay sang bên. Milva thở điềm tĩnh, nhắm vào ngực nó, và nhẹ nhàng thả dây cung.

Nhưng cô không nghe thấy tiếng xương sườn vỡ vụn như đã tưởng. Con hươu nhảy lên, đá chân sau và biến mất với âm thanh của cành gãy và lá rụng.

Milva ngồi bất động trong vài giây, như bức tượng cẩm thạch của một nữ thần rừng. Chỉ khi mọi âm thanh đã lắng xuống, cô mới bỏ tay phải ra khỏi má, hạ cung xuống. Ghi nhớ lại đường đi của con thú, cô ngồi yên ở đó, tựa lưng vào thân cây. Cô là một thợ săn dày dạn, đã đi dạo hết cả khu rừng từ khi còn nhỏ, bắn con nai đầu tiên năm 11 tuổi, và một con hươu 14 sừng – một điềm báo cực kỳ may mắn đối với thợ săn – vào sinh nhật thứ 14. Và kinh nghiệm đã dạy cô rằng đuổi theo một con thú đang bị thương là vô nghĩa. Nếu bắn chuẩn, con vật sẽ ngã xuống sau 200 bước chân. Nếu bắn tồi – thực ra cô cũng không thể loại bỏ khả năng này – thì đuổi theo chỉ làm cho mọi việc tệ hơn. Khi đã hoảng loạn, một con thú bị thương nếu không bị truy đuổi, sẽ đi chậm lại. Trong khi một con vật bị bám đuôi sẽ chạy thục mạng và không dừng lại trong một thời gian dài.

Milva có ít nhất nửa giờ. Cô dứt một ngọn cỏ trên mặt đất và lại chìm vào ký ức.

***

Sau 12 ngày, cô quay lại Brokilon, witcher đã bắt đầu đi lại. Anh ta hơi cà nhắc và lết chân, nhưng vẫn đi được. Milva không thấy ngạc nhiên – cô biết rõ khả năng chữa trị kỳ diệu của nước rừng và conynhael. Cô cũng biết cả tài năng của Aglais, vì đã từng không chỉ một lần chứng kiến quá trình hồi phục chớp nhoáng của các dryad bị thương. Và, dĩ nhiên là những lời đồn về sức khỏe và khả năng chịu đựng phi thường của các witcher không hề là bịa đặt tí nào.

Khi trở về, người dryad đã không ngay lập tức đến Col Serrai, mặc dù biết rằng Gwynbleidd đang nóng lòng chờ đợi. Cô chủ đích trì hoãn cuộc gặp, vẫn không hài lòng về nhiệm vụ mình đã được giao và muốn bày tỏ sự khó chịu. Cô hộ tống các biệt đội Scoia’tael về trại, và làm một bài diễn văn dài kể lại những sự kiện đã xảy ra, cảnh báo các dryad về vành đai ngăn chặn xung quanh biên giới của Ribbon, do con người lập ra. Chỉ khi được nhắc đến lần thứ ba, Milva mới đi tắm, thay đồ và đến gặp witcher.

Anh ta ngồi đợi cô bên rìa một khoảng rừng thưa, nơi những cây bách hương mọc cao vút. Anh ta thỉnh thoảng đi lại, ngồi xuống, rồi chỉnh trang quần áo. Rõ ràng là Aglais đã gợi ý nên vận động một chút.

“Có tin gì?” Anh ta hỏi ngay khi họ gặp mặt. Tuy nhiên, sự lạnh lùng trong giọng nói đó không thể đánh lừa được Milva.

“Chiến tranh đang đến hồi hết, có lẽ vậy,” cô bắt đầu, nhún vai. “Họ nói Nilfgaard gần như đã phá hủy hoàn toàn Lyria và Aedirn. Verden đã xin hàng và đức vua của Temeria đã ký một thỏa thuận với Nilfgaard. Những người elves của Thung Lũng Ngàn Hoa đã thiếp lập một vương quốc riêng của họ. Nhưng các đơn vị Scoia’tael ở Temeria và Redania đã không định cư ở đó. Họ tiếp tục chiến đấu…”

“Đó không phải thứ mà tôi muốn biết.”

“Không sao?” cô giả vờ ngạc nhiên. “Ừ thì… được rồi. Tôi đã tới Dorian, như anh yêu cầu, mặc dù đường đi khá xa. Và các con đường giờ không an toàn… ”

Cô ngừng lại. Lần này anh giục cô tiếp tục.

“Cái tay Codringher này,” cuối cùng cô hỏi, “mà anh nhờ tôi đến thăm, có phải là bạn anh không?”

Gương mặt của witcher không thay đổi, nhưng Milva biết là anh ta hiểu. “Không.”

“Tốt,” cô tiếp tục. “Bởi vì anh ta không còn ở trong số những người đang sống nữa. Anh ta cùng toàn bộ nơi làm việc đã bị thiêu ra tro, những gì còn lại chỉ là ống thông khói và một phần bức tường. Cả thị trấn Dorian đều xôn xao bàn tán. Có người nói tay Codringher này đã thực hành phép phù thủy và giao kèo với quỷ dữ, vậy nên hắn bị lửa địa ngục thiêu đốt. Có kẻ nói anh ta đã chõ mũi vào không đúng nơi đúng lúc như mọi khi, đương nhiên là đã chọc giận một vài thành phần vô lại, nên chúng đơn giản giết anh ta và phóng hỏa để che dấu vết. Vậy còn anh, anh nghĩ sao?”

Cô không nhận được phản hồi nào, và cũng không thể đọc được nét mặt của witcher, trông hoàn toàn lãnh cảm. Thế nên cô tiếp tục, mà không đánh mất chất giọng nham hiểm và kiêu ngạo của mình.

“Kỳ lạ là cái chết của Codringher xảy ra vào tuần trăng đầu tiên của tháng 7, chính xác cùng thời điểm với cuộc nổi loạn trên đảo Thanedd. Như thể có người đã đoán rằng Codringher biết gì đó về chuyện này, và sẽ bị xét hỏi sau khi vụ việc kết thúc. Như thể có người muốn bịt miệng anh ta vĩnh viễn, trước khi anh ta kịp mở mồm hé lộ ra điều gì đó. Anh nói sao hả? Ha, tôi thấy là anh không muốn nói gì. Vì anh đã thờ ơ như vậy, tôi sẽ nói luôn: cái trò nghịch dại nho nhỏ của anh, cái trò rình mò và do thám này của anh rất là nguy hiểm. Họ rồi sẽ muốn khâu miệng và cắt tai những kẻ như Codringher. Chí ít ra thì, bản thân tôi thấy vậy.”

“Tôi xin lỗi,” anh ta lên tiếng sau một lúc. “Cô nói đúng. Tôi đã khiến cô phải liều lĩnh. Đây là một công việc quá nguy hiểm đối với ”

“Một người phụ nữ, có phải không?” Cô lắc đầu, hất mái tóc vẫn đang ẩm ướt ra đằng sau. “Đó có phải điều anh đang định nói không? Trời ơi, tôi đã gặp được một quý ông đích thực đây nhỉ! Anh có bị ngu không? Mặc dù tôi phải ngồi xuống để đái, nhưng áo tôi vẫn làm từ da sói, không phải thỏ! Đừng coi tôi là một kẻ hèn nhát, anh chẳng biết gì về tôi hết!”

“Tôi biết,” anh ta nói khẽ và điềm tĩnh, có vẻ không màng đến cơn giận của cô, “Cô, Milva, đã giúp các đội Sóc thoát khỏi cái chết và mang họ đến Brokilon. Tôi biết cô can đảm. Nhưng vẫn liều lĩnh và ích kỷ ép cô phải ”

“Đồ ngu!” Cô cáu kỉnh ngắt lời. “Anh đừng có lo cho tôi, mà lo cho cái thân mình đi kìa.

Càng sớm càng tốt!”

Cô cười khinh khỉnh, bởi vì lần này, nét mặt anh ta đã thay đổi. Cô cố ý giữ im lặng, chờ đợi được hỏi thêm.

“Cô biết những gì?” Cuối cùng anh ta lên tiếng. “Và từ ai?”

“Anh có Codringher của anh,” cô khịt mũi, tự hào ngẩng cao đầu. “Tôi có các mối liên lạc của tôi. Những người tinh mắt và thính tai.”

“Nói đi. Làm ơn, Milva.”

“Theo sau cuộc nổi loạn trên đảo Thanedd,” cô bắt đầu sau một lúc im lặng, “sự việc nóng lên ở khắp mọi nơi. Cuộc săn lùng những kẻ phản bội bắt đầu. Đặc biệt là các pháp sư đã gia nhập cùng Nilfgaard, và vài tên lính đánh thuê khác nữa. Một số bị bắt. Số còn lại biến mất, như đá chìm xuống đáy hồ. Cũng chẳng cần phải là thiên tài mới biết họ trốn đi đâu, đang nấp dưới vòng tay che chở của ai. Nhưng không chỉ có pháp sư và kẻ phản bội bị săn đuổi. Cuộc nổi loạn đã được tiếp tay bởi một nhóm Sóc, được chỉ huy bởi chính Faoiltiarna lừng danh. Ông ta cũng đang bị truy nã. Một mệnh lệnh đã được ban ra rằng bất kỳ người elves nào bị bắt sống đều phải bị tra tấn và hỏi cung về Faoiltiarna.”

“Cái tay Faoiltiarna này là ai?”

“Một người elves, Scoia’tael. Ông ta đã khiến cuộc sống của khá nhiều người trở nên khó khăn. Đầu ông ta được treo một cái giá khá cao. Và đó không chỉ là cái đầu duy nhất đang bị truy lùng. Họ cũng đang săn một hiệp sĩ Nilfgaard nào đó, mà đã ở trên Thanedd. Thế nhưng ”

“Nói đi.”

“Lũ an’givare cũng đang hỏi về một witcher tên Geralt xứ Rivia và một đứa bé gái tên Cirilla. Chúng được lệnh bắt sống hai người đó. Bất kỳ kẻ nào động đến một sợi tóc hay cái cúc áo trên người họ đều sẽ bị xử tử. Ha! Anh chắc hẳn rất thân thương với họ bởi vì họ quan tâm đặc biệt đến sức khỏe của anh”

Cô ngừng lại, nhìn thấy biểu cảm trên gương mặt anh ta, mà bỗng nhiên trở nên điềm tĩnh đến mức bất thường. Cô nhận ra rằng mặc dù cố gắng, cô vẫn không làm anh ta sợ được. Ít ra là về cái mạng của mình. Đột nhiên, cô thấy xấu hổ.

“Chà, cuộc săn của họ sẽ vô ích thôi.” Cô nói mềm mỏng hơn, nhưng vẫn giữ một nụ cười mỉa mai trên khóe môi. “Anh sẽ được an toàn ở Brokilon. Và họ sẽ không bắt sống được đứa bé gái đâu. Khi lục soát đống tàn tích trên Thanedd, tòa tháp ma thuật đó, mà đã sụp đổ hoàn      toàn Này! Có chuyện gì thế?”

Witcher lảo đảo, dựa vào một cây bách hương, rồi nặng nề gục xuống một gốc cây đổ.

Milva nhảy dựng lên, hoảng loạn vì sắc trắng bỗng bao trùm lên gương mặt anh ta.

“Aglais! Sirssa! Fauve! Lại đây nhanh! Chết tiệt, cái chết đang đến tìm anh ta! Nhanh lên!” “Đừng gọi họ….tôi không sao đâu. Nói đi, tôi muốn biết………………… ”

Milva đột nhiên hiểu ra.

“Họ không tìm thấy gì cả!” Cô la lên, cảm thấy giờ đến lượt mình nhợt nhạt. “Không gì cả!

Họ đã lật tung từng hòn đá và thực hiện mọi câu thần chú, nhưng không tìm ra… ”

Cô lau mồ hôi trên trán, và ra hiệu với các dryad đang chạy lại. Cô ôm lấy vai witcher, vẫn đang ngồi dưới đất, và tựa vào người anh, mái tóc vàng dài của cô vuốt lên mặt anh.

“Anh hiểu nhầm rồi,” cô nhắc lại thật nhanh, vụng về, cảm thấy khó để lựa chọn đúng từ để nói trong cơn lũ câu chữ có vẻ đang dâng lên trong miệng. “Tôi chỉ muốn nói là……………….. anh đã hiểu sai ý tôi. Bởi vì tôi….làm sao tôi biết được anh lại….không…. tôi không chủ đích làm vậy. Tôi chỉ nói

là đứa bé gái…..họ sẽ không tìm thấy cô bé, bởi vì cô bé đã biến mất không dấu vết, như các pháp sư. Tôi xin lỗi.”

Anh không trả lời. Anh nhìn sang bên. Milva cắn môi, tay nắm chặt.

“Ba ngày nữa tôi sẽ rời Brokilon.” Cô nhẹ nhàng tuyên bố sau một khoảng thời gian thật dài im lặng. ‘Đến khi hết trăng rằm, khi đêm tối hơn một chút. Sau mười ngày tôi sẽ quay lại, có thể sớm hơn. Ngay sau Lammas, ngày đầu tiên của tháng 8. Đừng lo. Kể cả có phải dời non lấp bể, tôi cũng sẽ tìm cho ra mọi thứ. Nếu có bất cứ ai biết về cô bé, anh cũng sẽ biết.”

“Cảm ơn, Milva.”

“Mười ngày… Gwynbleidd.”

“Tôi là Geralt.” Anh nói, chìa tay ra.

Cô bắt lấy nó thật chặt, không ngần ngại. “Tôi là Maria Barring.”

Với một cái gật đầu và một nụ cười mỉm trên mặt, anh cảm ơn cô vì sự thành thực. Cô biết anh rất trân trọng điều đó.

“Làm ơn hãy cẩn thận. Hãy để ý mình đang nói chuyện với ai trước khi đặt câu hỏi.” “Đừng lo cho tôi.”

“Mối liên lạc của cô…. Cô có tin họ không?”

“Tôi không tin ai hết.”

***

“Witcher đang ở Brokilon. Cùng với các dryad.”

“Phải, ta cũng nghĩ vậy.” Dijkstra gấp hai tay trước ngực. “Nhưng được xác nhận hẳn hoi cũng tốt.”

Ông ta im lặng trong một lúc lâu. Lennep liếm môi. Chờ đợi.

“Chà, được xác nhận hẳn hoi thật là tốt.” Người đứng đầu cơ quan tình báo của Redania lặp lại, trầm ngâm, như thể đang nói với chính mình. “Biết chắc luôn tốt hơn. Eh, nếu hóa ra Yennefer lại ở cùng với anh ta Không có nữ pháp sư nào ở cùng anh ta sao, Lennep?”

“Cái gì?” gã gián điệp giật mình. “Không, thưa ngài. Không có nữ pháp sư nào hết. Mệnh lệnh là gì đây? Nếu ngài muốn hắn sống, tôi sẽ lùa hắn ra khỏi Brokilon. Tuy nhiên, nếu hắn chết mà được nhiều tiền hơn thì ”

“Lennep,” Dijkstra nhìn gã gián điệp với cặp mắt lạnh lùng, lấp lánh. “Đừng hăm hở như thế. Trong cái nghề của chúng ta, nóng vội không được ích gì cả. Mà lại luôn khiến ta có vẻ đáng nghi ngờ.”

“Nhưng thưa ngài,” Lennep hơi tái đi. “Tôi chỉ muốn…. ”

“Ta biết. Ngươi chỉ đang hỏi mệnh lệnh của ta là gì. Nó đây: hãy để mặc witcher.” “Như ngài yêu cầu. Vậy còn Milva?”

“Cũng để mặc cả cô ta nữa. Trong lúc này…. ”

“Như ngài yêu cầu. Tôi lui được chưa?” “Ngươi có thể.”

Gã gián điệp rời khỏi phòng, cẩn thận và khẽ khàng đóng lại cánh cửa gỗ sồi. Dijkstra im lặng trong một lúc lâu, nhìn chằm chằm vào đống giấy tờ, bản đồ, thư từ, cáo trạng, thông tư và lệnh tử hình vứt lộn xộn trên bàn.

“Ori!”

Người thư ký ngẩng đầu lên và ho một tiếng, hắng giọng, nhưng vẫn giữ im lặng. “Witcher đang ở Brokilon.”

Ori Reuven lại ho lần nữa, liếc nhìn cái bàn theo bản năng, và hạ tầm mắt xuống cặp chân thò ra bên dưới nó. Dijkstra cũng nhìn theo.

“Đúng thế đó. Tôi vẫn chưa tha cho hắn đâu.” Ông ta làu bàu. “Hai tuần, tôi không thể đi lại được. Hắn khiến tôi mất mặt trước Philippa – tôi đã phải rên rỉ như một con chó và cầu xin đến mấy trò phù phép quái quỷ của cô ta, nếu không thì tôi vẫn đang lê lết rồi. Chà, đáng ra bản thân tôi cũng không nên đánh giá thấp hắn. Nhưng phần tệ nhất là, tôi thậm chí còn chẳng thể đập cho hắn một trận để trả thù, tôi không có thời gian, và cũng không thể sử dụng nhân lực để dàn xếp ân oán cá nhân được. Tôi không thể, đúng không Ori?” “Hem, hem ”

“Không cần phải nói. Tôi biết. Ah, chết tiệt, thứ quyền lực đó mới cám dỗ ra làm sao! Tôi rất ngứa ngáy muốn được dùng nó. Rất dễ quên là nó hiện hữu ở đó, nhưng nếu ông dùng, sẽ chẳng có giới hạn nào cả Philippa Eilhart vẫn đang chui nhủi ở Montecalvo à?”

“Phải.”

“Hãy lấy giấy và mực. Tôi sẽ viết một lá thư cho cô ta.  Viết là…. chết tiệt, tôi chẳng thể nào

tập trung được. Mấy cái tiếng la hét quái quỷ nào vậy, Ori? Đang xảy ra chuyện gì ở quảng trường thế?”

“Sinh viên đang ném đá vào nhà riêng của đại sứ Nilfgaard. Chúng ta đã trả tiền cho chúng để làm vậy, hem, hem, tôi nghĩ thế.”

“Aha. Được rồi. Đóng cửa sổ lại đi. Ngày mai chúng sẽ đi quăng bom ngân hàng của gã người lùn Giancardi. Lão đã từ chối tiết lộ cho tôi ai có tài khoản ở đấy.”

“Giancardi, hem, hem, chi trả một phần rất lớn chi phí chiến tranh.”

“Ha. Vậy thì để lũ sinh viên đi ném đá mấy cái ngân hàng chẳng chịu cho cái khỉ khô gì hết.”

“Tất cả bọn họ đều đã cho một cái gì đấy.”

“Ah, nói chuyện với ông chán bỏ mẹ, Ori. Viết đi, tôi đọc. “Phil thân yêu của tôi, mặt trời của… ”. Chết tiệt, dạo này tôi hay lú lẫn quá. Lấy một tờ giấy mới đi. Sẵn sàng chưa?”

“Rồi, hem, hem.”

“Philippa thân mến. Cô Triss Merigold chắc chắn là đang rất lo lắng cho số phận của witcher, mà cô ấy đã dịch chuyển từ Thanedd đến Brokilon. Việc cô ấy giữ kín chuyện này ngay cả với chính tôi, khiến tôi đau lòng vô cùng. Nhưng cứ việc trấn an cô ấy. Witcher hiện giờ đang rất khỏe. Anh ta thậm chí còn bắt đầu cử một sứ thần của Brokilon ra ngoài với mục đích tìm kiếm tung tích của công chúa Cirilla, người mà tất cả các cô đều đang rất có hứng thú muốn gặp mặt. Tuy nhiên, anh bạn Geralt của chúng ta có vẻ như không biết rằng Cirilla hiện giờ đang ở Nilfgaard, chuẩn bị làm lễ kết hôn với Hoàng đế Emhyr. Witcher chắc hẳn đang rất nóng ruột khi ngồi không như vậy ở Brokilon, nên tôi sẽ cố gửi tin này đến cho anh ta.” Ông viết xong chưa?”

“Hem, hem,… gửi tin này đến cho anh ta.”

“Xuống dòng. “Tôi tự hỏi….” Chết tiệt, Ori, gạch câu đó đi! Chúng ta đang viết cho Philippa, không phải hội đồng hoàng gia, lá thư nhìn phải thật đẹp mắt! Sang đoạn mới. “Tôi tự hỏi tại sao witcher vẫn chưa liên lạc với Yennefer. Tôi thấy khó có thể tin rằng tình cảm gần như đến mức ám ảnh mà anh ta dành cho nữ pháp sư bỗng dưng tan thành mây khói, dù cho quan điểm về chính trị có khác biệt nhau như thế nào đi chăng nữa. Mặt khác, nếu Yennefer chính là người đã dẫn Cirilla đến cho Emhyr và nếu tôi tìm ra được chứng cứ ủng hộ giả thiết này, tôi cũng rất sẵn lòng chuyển thông tin đó tới cho witcher. Vấn đề sẽ được tự giải quyết, tôi chắc chắn cái đồ phản bội tóc đen xinh đẹp đó sẽ không thể đoán được ngày hay giờ tận mạng. Witcher không thích có người động vào cô con gái bé nhỏ của anh ta, Artaud Terranova đã nhận ra điều đó trên Thanedd. Tôi muốn tin rằng cô không giữ kín bằng chứng nào về sự phản bội của Yennefer cũng như nơi ở hiện giờ của cô ta, Phil. Tôi sẽ rất bực mình nếu phát hiện ra lại có người muốn giữ bí mật với mình. Tôi không giữ bí mật nào với cô cả….” Ông cười cái gì hả, Ori?”

“Không có gì! Hem, hem.”

“Viết đi! Tôi không giữ bí mật nào với cô cả, và tôi hy vọng cô cũng như vậy. Chúc sức khỏe, vân vân và vân vân.” Đây, để tôi ký.”

Ori Reuven rải cát lên bức thư. Dijkstra ngồi thoải mái, tay xếp trên bụng, và bắt đầu xoay xoay ngón cái.

“Cái cô Milva đang do thám cho witcher này,” Dijkstra hỏi, “ông có thể cho tôi biết gì về cô ta?”

“Cô ta, hem, hem,” người thư ký hắng giọng, “chịu trách nhiệm cho việc đưa những người

còn sống từ các băng nhóm Scoia’tael đã bị truy sát bởi quân đội Temeria tới Brokilon. Cô ta giúp những người elves trốn thoát, cho họ nghỉ ngơi và giúp họ gia nhập lại với đội của mình ”

“Đừng nói với tôi những thông tin mà ai cũng biết,” Dijkstra ngắt lời. “Tôi biết rất rõ những hoạt động của Milva, và vẫn còn muốn thu thập thêm thông tin từ chúng. Nếu không thì tôi đã quẳng cô ta cho người Temeria từ lâu rồi. Ông còn có thể cho tôi biết thêm gì về cô ta nữa? Về đời sống cá nhân?”

“Tôi tin là cô ta đến từ một ngôi làng hẻo lánh nào đó trên Upper Sodden. Tên thật của cô ta là Maria Barring. Milva là một bí danh, được đặt cho cô ta bởi người dryad. Trong Cổ Ngữ nó nghĩa là ”

“Cánh diều.” Dijkstra ngắt lời. “Tôi biết.”

“Cô ta xuất thân trong một gia đình thợ săn. Nghiệp săn bắn được truyền từ đời cha đến con trai. Khi người con trai cả đã mất trong một tai nạn, ông già Barring quyết định truyền lại nghệ thuật đi rừng cho đứa con gái. Khi ông ta chết, bà mẹ cô ta đã lấy chồng khác. Hem, hem Maria không ưa cha dượng của mình và đã chạy khỏi nhà. Khi đó, tôi nghĩ là cô ta mới 16 tuổi. Cô ta lên phía bắc, sống nhờ vào việc săn thú và hái lượm, nhưng cuộc sống đơn độc trong rừng không dễ chút nào. Nên cô ta bắt đầu mon men đến gần Brokilon, và ở đó, những người dryad đã bắt được cô ta.”

“Và thay vì giết, họ đã để cô ta đi,” Dijkstra lầm bầm, “coi cô ta như người của mình. Còn về Milva……………… cô ta phải đáp trả lại ân huệ. Cô ta đã lập một giao kèo với Phù thủy rừng Brokilon, với quý bà Eithne Mắt Bạc. Maria Barring đã chết, Milva muôn năm…. Cô ta đã thực hiện được bao nhiêu chuyến đi trước khi người của ông ở Verden và Kerack phát hiện ra sự thật? Ba?”

“Hem, hem,….bốn, tôi nghĩ thế,….” mặc dù có một trí nhớ tuyệt hảo, Ori Reuven vẫn sợ nhầm lẫn. “Tổng cộng khoảng 500 con người, bao gồm những kẻ săn lùng dryad ráo riết nhất. Chúng ta đã không hiểu được chuyện gì xảy ra trong một khoảng thời gian dài bởi vì đôi lúc Milva tự tay cõng một kẻ sống sót nào đó ra khỏi trận thảm sát, và ơn trời, những ai sống sót đều ca tụng lòng dũng cảm của cô ta. Chỉ đến lần thứ tư, tôi nghĩ là ở Verden, cuối cùng mới có người vỗ tay lên trán: “Sao lại thế nhỉ?”, họ đột nhiên hiểu ra, hem, hem, “ả đàn bà đã tụ tập con người lại để truy lùng dryad, lại luôn là người duy nhất còn sống?” Và thế là cô ta bị phát giác, đúng là cô ta đã dẫn dắt họ thật, nhưng mà là thẳng vào một cái bẫy, bên dưới những mũi tên của dryad đang phục sẵn…………. ”

Dijkstra đẩy một bản cáo trạng ra mép bàn, có vẻ như tờ giấy vẫn còn sặc mùi của phòng tra tấn.

“Và rồi,” ông ta đoán, “Milva biến mất vào Brokilon không một dấu vết. Những ngày này ở

Verden đúng là rất khó để tìm người tình nguyện dẫn đoàn đi truy lùng dryad. Già và trẻ, Eithne và Milva là một cặp ăn ý đó chứ. Thế mà họ dám nói chỉ con người mới phát minh ra những mưu kế bẩn thỉu. Nhưng có lẽ ”

“Hem, hem?” Ori lầm bầm, ngạc nhiên vì sự im lặng kéo dài của cấp trên.

“Có lẽ họ đã bắt đầu học tập từ các phương pháp của ta rồi cũng nên.” Người gián điệp lạnh lùng kết thúc, nhìn vào những xấp cáo trạng, biên bản điều trần và lệnh tử hình để trên bàn.

***

Không thấy máu ở đâu, Milva bắt đầu lo lắng. Cô đột nhiên nhớ lại rằng con hươu đã nhảy lên trước một bước khi cô thả dây cung. Nếu nó đã làm thế, hoặc có ý định làm thế, kết quả đều như nhau cả. Nếu con hươu đã di chuyển, mũi tên có thể đã cắm vào bụng nó. Milva nguyền rủa. Một phát bắn vào bụng, lời nguyền và sự ô nhục đối với một thợ săn! Điềm gở! Quỷ tha ma bắt!

Cô nhanh nhẹn chạy lên sườn đồi, lục soát kỹ càng từng bụi mâm xôi, rêu mốc và dương xỉ. Cô tìm mũi tên của mình. Trang bị với đầu móc câu bốn lưỡi, sắc đến mức cạo được cả lông trên tay cô, bắn từ khoảng cách 50 thước, nó sẽ xuyên thủng con hươu.

Milva trông thấy, cô đã tìm được nó. Cô thở phào nhẹ nhõm và nhổ ba lần, để xua đi vận rủi. Cô không cần lo lắng, mọi việc tốt hơn mong đợi. Mũi tên đã không dính đầy những thứ nhớp nháp và bốc mùi trong ruột. Trên đó không bám cái chất hồng hồng xốp xốp đặc trưng của phổi. Đầu mũi tên bao phủ bởi một lớp máu đặc, đỏ quạch. Mũi tên đã bắn trúng tim. Milva sẽ không cần phải nhón chân hay rình rập quanh khu rừng một lúc lâu. Con hươu chắc chắn đã nằm chết trong một bụi cây nào đó, cách không quá 100 bước chân từ khoảng rừng thưa, nơi mà vết máu sẽ dẫn đến. Một con hươu bị bắn trúng tim sẽ chết sau vài bước nhảy, và cô biết mình có thể lần theo nó dễ dàng.

Sau khoảng một chục bước chân, cô tìm thấy dấu vết con mồi và đi theo nó, lại hòa mình vào dòng ký ức và suy tư.

***

Giữ đúng lời hứa với witcher, cô quay trở lại Brokilon còn sớm hơn đã hẹn, năm ngày sau lễ thu hoạch, năm ngày sau tuần trăng mới, bắt đầu của tháng 8 theo lịch của con người, ngày Lammas đối với người elves.

Cô vượt qua dòng Ribbon vào lúc hừng đông, cùng với 5 người elves. Biệt đội Sóc mà cô dẫn đi ban đầu có 9 con ngựa, nhưng lính đánh thuê Brugge đã săn lùng họ trong suốt cả quãng đường. Có ba nhóm tấn công ở khoảng 500 thước từ bờ sông, quấy rối họ cho đến tận sáng, khi họ bắt đầu trông thấy Brokilon ở phía bên kia bờ sông. Những kẻ tấn công sợ Brokilon. Chính điều này đã cứu Milva và nhóm của cô. Họ vượt qua sông. Mệt mỏi, thương tích đầy mình. Và không phải mọi người đều sống sót.

Cô có tin cho witcher, và cô cho rằng Gwynbleidd vẫn đang ở Col Serrai. Cô định đi gặp anh sau buổi trưa, sau khi đã đánh một giấc. Cô đã rất ngạc nhiên khi thấy anh hiện ra từ màn sương như một bóng ma. Không nói câu nào, anh ngồi xuống gần đó, quan sát cô chuẩn bị giường chiếu, phủ chăn lên một đống lá và cành khô.

“Sao, anh đang vội à?” cô mỉa mai, “witcher, tôi cũng biết mệt đó chứ. Cả ngày lẫn đêm trên yên ngựa, tôi thậm chí chẳng còn cảm giác gì ở mông nữa rồi, và người tôi ướt đến tận rốn, bởi vì chúng tôi phải lội qua suối vào lúc sáng ”

“Làm ơn hãy kể cho tôi. Cô có biết được gì mới không?”

“Có.” cô khịt mũi, tháo đôi giầy ướt sũng ra. “Cũng chẳng khó khăn lắm, bởi vì có vẻ như cô bé đã gây ra một vụ lùm xum không nhỏ. Anh đã không nói là quý cô này quan trọng đến vậy! Tôi cứ tưởng con bé là con nuôi của anh, hẳn phải là một trong mấy đứa trẻ mồ côi tội nghiệp tối ngày bị đánh đập. Thế mà hóa ra chúng ta lại có hẳn công chúa của Cintra! Ha! Và có lẽ anh cũng là một hoàng tử đang giả trang chăng?”

“Làm ơn, hãy kể cho tôi.”

“Có vẻ như các vị vua đều muốn sờ vào con bé, bởi vì Cirilla bé bỏng của anh, từ những gì mà tôi được nghe, đã được cứu khỏi Thanedd và đưa thẳng đến Nilfgaard, cùng với những tên pháp sư tạo phản. Ở Nilfgaard con bé được Hoàng đế Emhyr chào đón nồng nhiệt. Và anh biết gì không? Có vẻ như ông ta đã quyết định sẽ cưới con bé. Và giờ thì để tôi thở cái đã. Nếu anh muốn, chúng ta có thể tiếp tục cuộc trò chuyện này sau khi tôi nghỉ ngơi xong.”

Witcher im lặng. Milva treo tất lên một cành cây, để ánh mặt trời có thể sấy khô chúng, rồi cởi thắt lưng ra.

“Tôi ước là anh không đứng đó với vẻ khó chịu như vậy,” cô làu bàu, “Anh còn muốn tin tốt lành nào nữa đây? Không có gì đe dọa anh, không ai hỏi han về anh và lũ gián điệp đã không còn quan tâm đến anh nữa rồi. Còn về cô nương của anh, con bé đã thoát khỏi tay các vị vua, và sẽ được trở thành Nữ hoàng ”

“Cô có chắc thông tin này chính xác không?”

“Chẳng có gì là chắc chắn vào thời buổi này,” cô đáp lại với một cái ngáp dài, ngồi lên giường. “Ngoại trừ việc mặt trời mọc đằng đông và lặn đằng tây. Nhưng những gì mà họ nói về Hoàng đế Nilfgaard và công chúa Cintra chắc đúng là sự thật. Người ta đang bàn tán khắp nơi về nó.”

“Tại sao chuyện này lại đột nhiên nổi như vậy?”

“Cứ như là anh không biết ý! Nghĩ đi con bé sẽ đem cho Emhyr một mảnh đất ngon lành với vai trò một người vợ! Không chỉ Cintra, mà còn cả những vùng nằm ở phía bên này của Yaruga nữa! Ha, con bé thậm chí có thể trở thành nữ hoàng của tôi nữa không chừng, bởi vì tôi xuất thân từ Upper Sodden, và toàn bộ vùng Sodden rồi sẽ trở thành địa phận của ông ta. Rồi một ngày, tôi sẽ săn một con hươu trong khu rừng của họ, và rồi tôi sẽ bị treo cổ theo lệnh của con bé….cái thế giới tàn nhẫn khốn khiếp! Ah, mẹ kiếp, mắt tôi mỏi lắm rồi ”

“Chỉ một câu hỏi nữa thôi. Mấy nữ pháp sư đó trong số những tay pháp sư đã tạo phản đó, một số đã bị bắt phải không?”

“Không. Nhưng họ nói có một người đã tự vẫn, Sau khi Vengerberg thất thủ, và quân đội Nilfgaard tiến vào Aedirn và Kaedwen. Có lẽ là do đau buồn hay sợ bị tra tấn ”

“Biệt đội mà cô mang tới đây có dư ngựa, liệu những người elves có cho tôi một con được không?”

“Aha, tôi có thể thấy là anh nóng lòng muốn lên đường,” cô lầm bầm, quấn người trong chăn. “Và tôi nghĩ là tôi biết ”

Cô ngừng lại, ngạc nhiên trước biểu cảm trên gương mặt anh. Đột nhiên cô nhận ra rằng tin tức mình đem đến không tốt lành tí nào cả, cô chẳng hiểu gì hết. Cô bỗng dưng muốn ngồi xuống bên cạnh anh, dìm anh trong hàng đống câu hỏi, lắng nghe anh, cho anh lời khuyên Cô dụi mắt

bằng mu bàn tay. Mình mệt quá rồi, cô nghĩ, chết chóc, bị truy sát cả đêm. Mình cần phải nghỉ ngơi. Sau cùng thì mình quan tâm quái gì đến những vấn đề của anh ta? Có ý nghĩa gì không? Và đứa bé gái đó? Kệ xác anh ta và con bé! Mẹ kiếp, mình lại đi mất ngủ vì ba cái chuyện vớ vẩn này”

Witcher đứng dậy.

“Liệu những người elves có cho tôi một con ngựa không?” Anh hỏi lại.

“Cứ lấy bất kỳ con nào anh muốn.” Cô nói sau một lúc. “Chỉ cần đảm bảo là họ không trông thấy anh. Đám lính đánh thuê tấn công chúng tôi gần bờ sông, máu me khắp nơi….À, và đừng động vào con Moreau, nó là của tôi Sao anh vẫn còn đứng đây?”

“Cảm ơn sự giúp đỡ của cô. Cảm ơn vì tất cả.” Cô không đáp lại.

“Tôi nợ cô. Làm sao tôi có thể đền đáp được đây?”

“Làm sao ư? Anh có thể biến đi là được rồi!” Cô la lên, kéo chăn trùm kín đầu. “Tôi… Tôi

muốn ngủ! Hãy cứ lấy một con ngựa….đi đi…. đến Nilfgaard, xuống địa ngục, tôi đếch quan tâm!

Biến đi! Để tôi yên thân!”

“Tôi sẽ trả lại những gì đã nợ cô,” anh nói nhẹ nhàng. “Tôi sẽ không quên đâu. Có lẽ một ngày nào đó, cô mới là người cần giúp đỡ, cần một bờ vai, một bờ vai để tựa. Vậy thì hãy gọi, gọi vào màn đêm. Và tôi sẽ tới.”

***

Con hươu nằm dưới chân dốc, cặp mắt thủy tinh của nó hướng lên bầu trời. Đất xung quanh khá xốp và ẩm ướt, phủ đầy dương xỉ. Milva trông thấy một con rận to đùng đậu trên cái bụng phẳng lỳ của con thú.

“Mi sẽ phải tìm một nạn nhân khác thôi, đồ côn trùng bé nhỏ của ta à,” cô lầm bầm, xắn tay áo lên và rút dao ra. “Bởi vì con này đã lạnh ngắt rồi.”

Bằng những động tác nhanh nhẹn, điêu luyện, cô rạch bộ da từ xương ngực cho đến đuôi, khéo léo tránh qua bộ phận sinh dục. Cô cẩn thận tách ra lớp mỡ, cắt cuống họng và với máu ngập lên tận cùi chỏ, cô lục lọi qua mớ ruột và túi mật để tìm sỏi. Cô không tin tưởng lắm vào công dụng ma thuật của sỏi thận, nhưng có không ít những gã khờ khác tin sái cổ và sẵn sàng trả rất nhiều tiền cho chúng.

Cô vác xác con hươu lên và đặt nó nằm xuống một khúc gỗ, bụng phơi ra ngoài để máu chảy ra hết. Cô lấy lá dương xỉ chùi tay và ngồi xuống cạnh con mồi.

“Anh chắc bị điên hoặc ma nhập rồi, witcher.” Cô nói khẽ, lơ đãng nhìn bức tường thông của Brokilon, tán của chúng cao cả trăm mét phía trên đầu cô. “Đến tận Nilfgaard để tìm đứa bé gái đó. Đến tận cùng thế giới, để băng qua lửa, và thậm chí còn chẳng thèm tích trữ nhu yếu phẩm. Tôi biết là anh sống vì con bé, nhưng có nhất thiết phải như vậy không?”

Những cái cây, đương nhiên là không bình phẩm hay cắt ngang màn độc thoại của cô.

“Tôi đang nghĩ,” Milva tiếp tục, lấy dao cạo máu khô ra khỏi móng tay, “Anh chẳng có chút cơ hội nào để giải cứu quý cô bé nhỏ của mình đâu. Anh sẽ chẳng thể đến nổi Nilfgaard, hay thậm chí là sông Yaruga. Ở trong tình trạng này, anh còn chẳng đến nổi Sodden nữa là. Cái chết của anh đã được viết sẵn rồi. Nó đã viết sẵn trên cái gương mặt bướng bỉnh của anh, anh có thể nhìn thấy nó bằng chính đôi mắt kinh hãi của anh. Cái chết sẽ bất ngờ đến với anh, witcher, sớm thôi. Nhưng nhờ vào con hươu nhỏ này, anh sẽ không chết đói. Và đó là một điều tốt. Ít ra        thì tôi nghĩ vậy.”

***

Trông thấy đại sứ của Nilfgaard bước vào phòng, Dijkstra khẽ thở dài. Shilard Fitz- Osterlen, sứ thần của Hoàng đế Emhyr var Emreis, có sở thích nói toàn thuật ngữ ngoại giao và biến thứ ngôn ngữ kệch cỡm và câu từ mâu thuẫn thành một loại giao tiếp chỉ có các nhà thông thái và học giả mới hiểu nổi. Dijkstra đã theo học ở Học viện Oxenfurt và mặc dù không có bằng thạc sĩ, ông ta cũng biết căn bản cái thứ tiếng thổ dân của mấy tay học giả này. Tuy nhiên ông ta rất miễn cưỡng phải dùng nó, bởi vì bản tính vốn không thể chịu nổi những trò khoe mẽ và hình thức, hay bất cứ thể loại giả tạo nào như vậy.

“Xin chào mừng, đại sứ.”

“Ngài bá tước,” Shilard Fitz-Osterlen cúi chào theo nghi lễ. “Ah, làm ơn bỏ quá cho tôi. Hay có lẽ giờ tôi nên nói là đại công tước nhỉ? Vương công cao quý và tôn kính? Quốc trưởng của quốc gia? Xin thề có trời, thưa ngài, rằng những lời ca tụng đang đổ xuống đầu ngài nhiều tới nỗi tôi không biết nên dùng tước hiệu nào cho phải đây.”

“Cứ gọi “điện hạ” là tốt nhất rồi.” Dijkstra khiêm tốn. “Ông biết mà, sau cùng thì, triều đình mới tạo nên một vị vua. Và chắc ông cũng đã quen với sự thật rằng mỗi khi tôi nói “nhảy!”, thì cả triều đình Tretogor đều hỏi “cao bao nhiêu?”

Người đại sứ biết là Dijkstra đang nói chơi, nhưng cũng không hẳn là quá khác xa so với sự thật. Hoàng tử Radovid chỉ là một thằng nhãi, nữ hoàng Hedwig thì đang suy sụp vì cái chết bi thảm của chồng, các nhà hiền triết thì hoảng loạn, trở nên ngu đần, chia bè kết phái.

Sự thật thì đúng là Redania được cai quản bởi Dijkstra. Ông ta có thể có được bất cứ vinh quang nào mà mình muốn. Nhưng ông ta lại chẳng muốn gì cả.

“Ngài đã có nhã ý cho gọi tôi,” người sứ giả nói sau một hồi. “Mà không cần sự có mặt của Bộ trưởng Ngoại giao. Xin hỏi cớ làm sao tôi lại có được vinh hạnh này?”

“Ngài bộ trưởng,” Dijkstra ngước mắt lên trần nhà, “đã xin từ chức vì lý do sức khỏe.”

Ngài đại sứ gật đầu nghiêm trang. Ông ta biết rất rõ rằng bộ trưởng ngoại giao hiện giờ đang ngồi trong nhà giam, và chắc chắn chỉ cần liếc sơ qua những dụng cụ tra tấn là đủ để ông ta khai ra hết tất cả mối liên hệ của mình với sở mật vụ của Nilfgaard, bởi vì ông ta là một thằng ngu và một tên hèn. Ngài đại sứ biết rằng mạng lưới gián điệp được tổ chức bởi Vattier de Rideaux, trưởng cơ quan tình báo của đế chế, đã bị đập tan, và giờ tất cả những sợi dây còn lại đều nằm trong tay Dijkstra. Ông ta cũng biết rằng những sợi dây này có thể dẫn trực tiếp đến mình.   Nhưng quyền miễn trừ ngoại giao bảo vệ ông ta, và truyền thống cùng trách nhiệm    buộc ông ta phải chơi cho đến cùng.

Đặc biệt là sau bức mật thư kỳ lạ mà Vattier và “thanh tra” Stefan Skellen, đặc vụ hoàng gia chuyên đảm nhận những chiến dịch đặc biệt, mới gửi đến đại sứ quán gần đây.

“Vì người kế vị hiện vẫn chưa được chọn,” Dijkstra bắt đầu, “nên trách nhiệm khó khăn này đổ lên đầu tôi. Tôi rất tiếc phải thông báo rằng ngài đại sứ không còn được chào đón tại vương quốc Redania nữa.”

Ngài đại sứ cúi chào.

“Quả đúng là rất tiếc,” ông ta nói, “rằng sự thiếu tin tưởng dẫn đến việc trục xuất đại sứ của hai bên này lại xuất phát từ những sự thật mà không liên can trực tiếp đến vương quốc Redania, hay đế chế Nilfgaard. Đế chế đã không hề có hành động gây hấn nào với Redania.”

“Ngoại trừ vành đai cấm vận ở cửa sông Yaruga và Quần đảo Skellige dành cho tàu và hàng hóa của chúng tôi? Ngoại trừ tiếp vũ khí và hỗ trợ các băng nhóm Scoia’tael?”

“Đó chỉ là những lời vu khống.”

“Vậy còn trại tập trung của quân đội đế chế nằm ở Verden và Cintra thì sao? Những cuộc công kích của các băng nhóm vũ trang ở Sodden và Brugge? Sodden và Brugge đều là những vùng đất nằm dưới sự bảo hộ của Temeria, và trong khi chúng tôi đang ở cùng một liên minh với Temeria, thưa ngài đại sứ, tấn công vào họ cũng đồng nghĩa là vào chúng tôi. Cuộc nổi loạn trên đảo Thanedd và vụ ám sát vua Vizimir cũng đều là những vấn đề liên can trực tiếp đến Redania. Tôi vẫn đang thắc mắc về vai trò của đế chế trong những sự kiện này.”

“Về sự cố trên đảo Thanedd,” ngài đại sứ xòe tay ra, “tôi không được quyền đưa ra bình luận nào. Ngoại trừ những người trực tiếp phục vụ mình, Hoàng đế Emhyr var Emreis không hề dính dáng đến các pháp sư khác. Tôi lấy làm tiếc về hậu quả không nhỏ gây ra bởi những động thái của chúng tôi, nhằm phản đối chiến dịch tuyên truyền đang phát tán những thông tin hoàn toàn sai sự thật. Chiến dịch tuyên truyền được tiếp tay, tôi xin mạo muội, bởi chính người cầm quyền cao nhất của Redania.”

“Những động thái phản đối của ông đã làm tôi ngạc nhiên. Và tôi xin nói là rất ngạc nhiên là đằng khác.” Dijkstra mỉm cười nhẹ nhàng. “Sau cùng thì, Hoàng đế đâu có giấu diếm sự thật rằng Công chúa của Cintra, người đã bị bắt cóc khỏi Thanedd, hiện đang ở trong triều đình của ngài ấy.”

“Cirilla, Nữ hoàng của Cintra,” Shilard Fitz-Osterlen sửa lại ngay lập tức, “đã không bị bắt cóc, mà xin được trú ẩn tại Đế chế. Nó không dính dáng gì với sự kiện trên đảo Thanedd cả.”

“Thật sao?”

“Sự cố trên Thanedd,” ngài đại sứ tiếp tục với một gương mặt lạnh như đá, “đã khiến Hoàng đế thực sự ghê tởm. Và cuộc tấn công hèn hạ bởi một kẻ điên khùng nhằm vào vua Vizimir đã khơi dậy trong ngài một nỗi căm thù sâu sắc. Tuy nhiên, nó đã lên đến đỉnh điểm khi những lời đồn khủng khiếp lan trong đại bộ phận quần chúng, những người dám nhìn Đế chế như thủ phạm đích thực của tội ác này.”

“Hy vọng khám phá ra hung thủ đích thực,” Dijkstra tiếp lời thật từ tốn, “sẽ chấm dứt những lời đồn này. Kẻ gây án sẽ bị bắt, và công lý sẽ được thực thi, chỉ là vấn đề thời gian thôi.”

Justitian Est Fundamentum Regnorumb,” Shilard Fitz-Osterlen trả lời nghiêm túc. “Crimen horribilis non potest non esse punibile. Tôi cũng nghĩ là điện hạ muốn được nhìn thấy điều đó thành sự thật.”

“Sức mạnh để biến điều đó thành sự thật hoàn toàn nằm trong tay Hoàng đế.” Dijkstra điềm nhiên thêm vào, tay bắt chéo trước ngực. “Một trong số những kẻ đầu não của âm mưu, Enid an Gleanna, cho đến gần đây, được biết đến với chức danh nữ pháp sư Francesca Findabair, đang ngồi chơi trò nữ hoàng elves của vương quốc bù nhìn Dol Blathanna, từ trên băng ghế của Đế chế.”

“Hoàng đế tối cao,” ngài đại sứ cúi đầu cứng nhắc, “không thể can thiệp vào nội vụ của Dol Blathanna, một quốc gia độc lập có chủ quyền được công nhận bởi tất cả các vương quốc láng giềng.”

“Ngoại trừ Redania. Đối với Redania, Dol Blathanna vẫn là một phần của vương quốc Aedirn, mặc dù các ông đã cắt xẻ Aedirn và Lyria ra thành từng mảnh vụn với sự trợ giúp của người elves và Kaedwen. Các ông đã xóa tên những vương quốc này ra khỏi bản đồ sớm quá. Sớm quá, ngài đại sứ à. Tuy nhiên, đây không phải nơi cũng như lúc để bàn chuyện đó. Hãy cứ để Francesca Findabair cầm quyền trong lúc này, thời khắc dành cho công lý sẽ đến sau. Vậy còn những tên phản loạn khác, và kẻ chủ mưu vụ ám sát Vua Vizimir? Vilgefortz vùng Roggeveen, và Yennefer thành Vengerberg? Có đủ mọi lý do để tin rằng sau khi sự việc bại lộ, cả hai đều đã trốn đến Nilfgaard.”

“Tôi xin đảm bảo với ngài,” người sứ giả ngẩng đầu lên, “rằng chúng không hề. Và kể cả nếu có thật, tôi xin cam đoan rằng chúng sẽ không thoát khỏi sự trừng phạt thích đáng.”

“Chúng đã không phạm tội chống lại các ông, vậy nên các ông không có quyền trừng phạt chúng. Bằng cách giao nộp chúng ra, Hoàng đế Emhyr sẽ cung cấp được bằng chứng chân thành nhất cho khát khao công lý của ngài. Sau cùng thì, Justitia Est Fundamentum Regnorum.”

“Không thể phản bác lại sự khôn ngoan trong yêu cầu của ngài,” Shilard Fitz-Osterlen thừa nhận, giả bộ cười hổ thẹn. “Đầu tiên, những kẻ này không nằm trong phạm vi lãnh thổ của Đế chế. Thứ hai, kể cả khi chúng có đi chăng nữa, vẫn có một chút vấn đề. Việc dẫn độ sẽ phải được thi hành bởi một cơ quan hành pháp chính thức, trong trường hợp này, là Hội đồng Hoàng gia. Xin hãy cân nhắc điều này, thưa điện hạ, việc trục xuất đại sứ là một hành động gây hấn từ phía Redania. Thế nên sẽ là phi logic nếu Hội đồng lại chấp thuận một yêu cầu dẫn độ từ một vương quốc thù địch. Sẽ là một thông lệ chưa từng có….trừ phi ”

“Trừ phi cái gì?”

“Ngài tạo ra một tiền lệ.” “Tôi không hiểu.”

“Nếu vương quốc Redania sẵn sàng giao nộp ra một cá nhân được coi là tội phạm đối với

Đế chế, thì Hoàng đế và Hội đồng sẽ có lý do để cân nhắc động thái hợp tác này.” Dijkstra im lặng trong một lúc lâu, trông như đang lạc trong suy nghĩ.

“Các ông muốn ai?”

“Tên của kẻ tội phạm này ư?” ngài đại sứ ra vẻ cố nhớ lại cái tên, và cuối cùng thì thò tay vào trong cặp và lấy ra xấp tài liệu. “Xin thứ lỗi cho trí nhớ của tôi. Tôi có nó đây rồi. À, phải, một người tên Cahir Mawr Dyffryn aep Caellach. Không thể phủ nhận là các cáo buộc chống lại hắn là vô cùng nghiêm trọng. Hắn bị truy nã vì tội giết người, đào ngũ, bắt cóc, cưỡng bức, trộm cắp và làm giả tài liệu. Hắn đã trốn thoát khỏi cơn thịnh nộ của hoàng đế bằng cách chuồn ra nước ngoài.”

“Đến Redania sao? Hắn đã chọn một con đường xa đấy.”

“Thưa ngài,” Shilard Fitz-Osterlen mỉm cười, “hắn không nhất định là đang ở trong lãnh thổ Redania. Nhưng tôi không nghi ngờ là nếu tên phạm nhân bị phát hiện ở bất kỳ vương quốc nào nằm trong liên minh của ngài, ngài sẽ ngay lập tức được thông báo nhờ vào những mối liên hệ cá nhân.”

“Ông nói tên của kẻ này là gì?” “Cahir Mawr Dyffryn aep Caellach.”

Dijkstra trầm ngâm một lúc lâu, giả bộ lục lọi trí nhớ.

“Không.” Cuối cùng ông ta nói. “Chúng tôi chưa bắt được ai có tên như vậy cả.” “Thật sao?”

“Lần này thì trí nhớ của tôi rất minh mẫn. Xin thứ lỗi, ngài đại sứ.”

“Tôi cũng vậy,” Shilard Fitz-Osterlen lạnh lùng đáp. “Đặc biệt là có vẻ như trong hoàn cảnh này, việc tổ chức hợp tác dẫn độ sẽ là bất khả thi. Tôi sẽ không làm phiền điện hạ nữa. Xin chúc ngài mạnh khỏe và thành công trong công việc.”

“Chúc sức khỏe và chúc may mắn.” “Tôi cũng vậy. Tạm biệt, thưa điện hạ.”

Ngài đại sứ bước ra ngoài, sau khi thực hiện xong vài nghi lễ cúi chào phức tạp.

“Đi mà hôn cái sempitemum meam của ta ý, đồ khôn lỏi.” Dijkstra lầm bầm, bắt chéo tay trước ngực. “Ori!”

Người thư ký, mặt đỏ lựng vì ho và khục khặc, hiện ra từ sau bức màn. “Philippa vẫn đang ở Montecalvo phải không?”

“Phải, hem, hem. Cùng với các bạn của cô ta, Laux-Antille, Merigold và Metz.”

“Bất kỳ ngày nào thôi, chiến tranh sẽ nổ ra, biên giới tại Yaruga sẽ tan tành, thế mà họ lại đi nhốt nhau trong một cái pháo đài hoang dã nào đó! Lấy giấy bút ra đi, và viết. “Phil thân yêu…………………. ”

Mẹ kiếp!”

“Tôi đã viết là: Philippa thân mến.”

“Tốt, tiếp tục: “Cô có thể sẽ hứng thú khi biết rằng, cái gã kỳ dị đội chiếc mũ cánh chim mà đã biến mất bí hiểm cũng như khi xuất hiện trên Thanedd, tên là Cahir Mawr Dyffryn và là con trai của quan nhiếp chính Caellach. Ngạc nhiên thay là không chỉ có mình chúng ta là đang tìm kiếm nhân vật lạ lùng này, mà cả Vattier de Rideaux và cấp dưới của thằng con hoang đó ”

“Quý cô Philippa, hem, hem, không thích ngôn từ như vậy đâu. Tôi viết là: tên vô lại đó.” “Rồi, thì tên vô lại Stefan Skellen đó. “Và cô cũng biết rõ như tôi, Phil thân mến, rằng sở mật vụ của Emhyr đang khẩn trương tìm kiếm các đặc vụ và sứ giả đó, những kẻ mà Emhyr đã thề sẽ xé xác ra làm trăm mảnh. Những kẻ đáng ra phải thực hiện ý nguyện của ông ta trong thành phố đêm hôm đó hoặc là chết, nhưng đã tạo phản, và để lại mệnh lệnh của mình chưa được thực thi. Mọi việc có vẻ khó hiểu, tuy nhiên chúng tôi tự tin rằng Cahir đã được lệnh bắt sống công chúa Cirilla và áp tải cô ta đến Nilfgaard.” Sang đoạn mới. “Vấn đề này đã dấy lên sự nghi ngờ không hề nhỏ trong tôi và mặc dù nghe có vẻ kỳ lạ, tôi đã nghĩ ra được vài giả thiết khá bất ngờ. Tuy nhiên, chúng không hoàn toàn là vô nghĩa, và tôi muốn bàn luận về chúng cùng cô một cách riêng tư. Chúc sức khỏe, vân vân và vân vân.”

***

Cô xuống phía nam, thẳng đường như một mũi tên, đến bờ sông Ribbon, và sau đó qua sông, vượt những khe suối nhỏ ẩm ướt, bao phủ bởi một lớp lớp thảm rêu xanh mướt. Cô cho rằng witcher, không nắm rõ được địa hình như mình, sẽ không dám vượt sang bên địa phận của con người. Bằng cách cắt ngang qua ngã rẽ khổng lồ của con sông, mà một phần ăn vào Brokilon, cô có cơ hội để bắt kịp anh. Nếu đi nhanh và không nghỉ, cô thậm chí còn có thể vượt qua anh.

Những con mai líu lo, không hề lẫn lộn chút nào. Bầu trời phía nam trở nên âm u trông thấy.

Không khí dày đặc và nặng nề, và lũ muỗi trở nên đặc biệt khó chịu.

Khi cô nhận ra mình đang ở một cánh đồng lầy lội, mọc tua tủa những cây trăn đen ngòm trang hoàng bởi vài bụi hồ đào xanh lục, cô cảm nhận được sự hiện diện của ai đó. Cô không nghe thấy gì, nhưng cảm giác có người ở quanh đây. Cô biết họ là elves.

Cô dừng ngựa lại, để tay cung thủ núp trong lùm cây có cơ hội nhìn mình thật kỹ. Cô nín thở, hy vọng rằng mình không làm họ kinh động.

Một con ruồi trâu vo ve trên xác của con hươu, đang vắt vẻo trên lưng con ngựa của cô.

Xào xạc. Một tiếng huýt sáo khe khẽ. Một tiếng khác đáp lại. Các Scoia’tael hiện ra từ bụi rậm như bóng ma, và chỉ khi đó Milva mới thở nhẹ nhõm hơn. Cô biết họ. Họ thuộc về biệt đội của Coinneach Dá Reo.

Hael.” Cô nói, xuống ngựa. “Que’ss va?”

“Ne’ss,” người elves nói cung kính, mà tên cô không nhớ được. “Caemm.”

Những người khác cắm trại cách đó không xa, trong một quãng rừng thưa. Có ít nhất 30 người, nhiều hơn là biệt đội Coinneach. Milva thấy ngạc nhiên, quân số của Sóc đang bắt đầu giảm. Các biệt đội mà cô trông thấy gần đây đều bê bết máu, tả tơi và đau ốm, không ngồi vững nổi trên yên ngựa. Nhưng biệt đội này thì khác.

Cead, Coinneach.” Cô chào người thủ lĩnh đang tiến lại.

“Ceadmil, sor’ca.”

Sor’ca. Em gái. Cô tặng cái tên này cho những người mà cô coi như bạn bè, để bày tỏ sự tôn trọng và cảm thông, và đúng thật là đa số họ đều đã trải qua nhiều mùa đông hơn cô nhiều. Đầu tiên, cô được biết đến là dh’oine đối với người elves, con người. Sau đó, sau nhiều lần giúp đỡ, họ bắt đầu gọi cô là Woedbeanna Aen, “người phụ nữ của rừng”. Sau đó nữa, khi họ bắt đầu hiểu cô rõ hơn, họ gọi cô như người dryad gọi cô. Milva, nghĩa là cánh diều. Tên thật của mình, mà cô chỉ tiết lộ với những người thân thiết nhất với điều kiện họ cũng phải đáp trả tương tự, nghe không hay lắm trong tiếng elves. Họ đọc là Mear’ya, với một cái nhăn mặt, như thể nó gợi lên điều gì đó không dễ chịu trong ngôn ngữ của họ. Thế là họ quyết định gọi cô là sor’ca.

“Các anh đang đi đâu?” Milva nhìn xung quanh thật chậm, nhưng không thấy người nào bị thương hay bệnh tật. “Dặm Tám? Đến Brokilon?”

“Không.”

Cô không hỏi thêm nữa, cô biết rõ họ. Cô chỉ cần quan sát gương mặt họ, bất động, tập trung, để ý vẻ điềm tĩnh giả mạo khi họ thu xếp đồ đạc và vũ khí. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt sâu thẳm, không đáy của họ là đủ hiểu. Cô biết là họ đang chuẩn bị ra trận.

Từ phía nam, từng cột khói đen bốc lên. Bầu trời trở nên tối mịt.

“Và em đang đi đâu vậy, sor’ca?” Coinneach hỏi, liếc nhanh một cái con hươu vắt trên lưng ngựa của cô, và mỉm cười.

“Phía nam,” cô lạnh lùng đáp lời, để tránh bất cứ hiểu lầm nào. “Đến Drieschot.” Nụ cười trên gương mặt người elves biến mất.

“Trên địa phận của con người?”

“Ít ra là cho đến Ceann Treis.” Cô nhún vai, “em sẽ đi tắt qua con đường cắt ngang thác Brokilon, bởi vì…………………….. ”

Cô quay đầu lại khi nghe tiếng khịt mũi của một con ngựa. Các Scoia’tael mới đang đến gia nhập cùng với biệt đội đã đang rất lớn rồi. Những người này thì Milva biết rõ hơn.

“Ciaran!” Cô thốt lên, không che giấu vẻ kinh ngạc. “Toruviel! Hai người đang làm gì ở đây? Em vừa mới đưa hai người đến Brokilon mà giờ đã quay lại rồi sao……………………… ”

Ess’creasa, sor’ca.” Ciaran aep Dearbh ngắt lời. Dải băng quấn quanh đầu người elves thấm đẫm máu.

“Vâng,” Toruviel lặp lại theo anh ta, xuống ngựa thật cẩn thận để tránh đụng vào cánh tay đang đeo nẹp. “Chúng tôi đã nghe tin mới. Chúng tôi không thể cứ mắc kẹt mãi ở Brokilon trong khi từng mũi tên đều đáng giá.”

“Nếu em biết trước,” Milva hậm hực, “thì đã chẳng nhọc công như vậy vì hai người. Em đã chẳng liều mạng vượt sông.”

“Tin tức đến từ tối qua.” Toruviel khẽ giải thích. “Chúng tôi không thể…. chúng tôi không thể bỏ mặc đồng đội vào lúc này. Không thể được, em hiểu mà, sor’ca.”

Bầu trời càng tối đen hơn. Lần này, Milva nghe rõ ràng tiếng sấm từ xa vọng lại.

“Đừng xuống phía nam, sor’ca.” Coinneach Dá Reo lên tiếng. “Một cơn bão đang đến.” “Và một cơn bão thì làm được gì……………………. ” cô ngừng lại, nhìn anh ta thật gần. “Ha! Vậy hóa ra là tin đó? Nilfgaard, đúng không? Binh lính của Đế chế đang hành quân qua Sodden để xuống

Yaruga? Họ sẽ tấn công Brugge? Có phải đó là nơi các anh định đến không?” Anh ta không trả lời.

“Phải rồi, y hệt như ở Dol Angra.” Cô nhìn vào đôi mắt đen láy của anh ta. “Hoàng đế của Nilfgaard sẽ lại lợi dụng các anh, cũng như trước. Người của các anh sẽ bảo vệ sườn để họ có thể tự do tàn sát với kiếm và lửa. Và sau đó, khi Hoàng đế đã làm hòa với các vị vua, họ sẽ nghiền nát các anh. Các anh sẽ bị thiêu rụi trong chính ngọn lửa của mình.”

“Lửa thanh tẩy. Và làm chai sạn con người. Chúng tôi phải đi qua nó. Aenyel Fhael, ell’ea, sor’ca? Hay như trong ngôn ngữ của em: thử lửa.”

“Em thì thích loại lửa khác hơn.” Milva lôi con hươu từ trên lưng ngựa và ném nó xuống dưới chân người elves. “Loại mà nổ tanh tách khi bị nhổ vào đó. Đây, các anh sẽ cần nó hơn em đấy.”

“Em sẽ xuống phía nam à?” “Đúng.”

Em phải đi, cô nghĩ. Em phải đi thật nhanh. Em phải cảnh báo cái tên witcher ngốc nghếch đó, em phải cảnh báo anh ta về mớ rắc rối mà anh ta định dính vào. Em phải khiến anh ta đổi ý.

“Đừng đi, sor’ca.”

“Cứ để mặc em, Coinneach.”

“Một cơn bão đang nổi lên ở phương nam.” Người elves nhắc lại. “Một cơn bão hung bạo. Và một ngọn lửa vĩ đại. Hãy trú ẩn ở Brokilon, em gái, đừng đi về phía nam. Em đã làm hết những gì có thể cho chúng tôi rồi. Em không cần phải đi. Chúng tôi thì phải. Ess’Tedd, esse crease! Đã đến lúc chúng tôi phải đi rồi. Tạm biệt.”

Bầu không khí nặng nề.

***

Thần chú liên lạc khá rắc rối, các nữ pháp sư phải nói như một người, bằng cách nắm tay và hòa chung suy nghĩ. Nhưng ngay cả khi như vậy, nó vẫn chứng tỏ là một công việc rất nặng nhọc, một phần bởi vì khoảng cách quá lớn. Mí mắt của Philippa Eilhart run rẩy, Triss Merigold thở dốc, và từng giọt mồ hôi chảy xuống vầng trán cao của Keira Metz. Chỉ có gương mặt của Margarita Laux-Antille là không có bất cứ dấu hiệu mệt mỏi nào cả.

Căn phòng nhỏ chìm vào trạng thái mờ ảo. Đột nhiên, một tia sáng bắt đầu nhảy múa trên những tấm ván gỗ. Viền xung quanh là sắc trắng, một quả cầu hiện lên bên trên chiếc bàn tròn. Trong khi Philippa Eilhart niệm nốt câu thần chú cuối cùng, quả cầu bay đến đối diện trước mặt cô ta, lơ lửng phía trên một trong 12 chiếc ghế xếp xung quanh bàn. Một bóng người hiện dần lên bên trong nó. Hình ảnh không được rõ nét lắm, cứ liên tục chập chờn, nhưng dần dần ổn định.

“Quỷ thần thiên địa ơi,” Keira lầm bầm, lau trán. “Ở Nilfgaard họ không biết đến glamarye hay bất kỳ câu thần chú sắc đẹp nào à?”

“Có vẻ là không.” Triss nói qua khóe miệng. “Rõ ràng là họ cũng chưa nghe qua về thời trang nữa.”

“Hay là mĩ phẩm.” Philippa khẽ lên tiếng. “Nhưng đừng nói gì cả, các cô. Và đừng có há hốc mồm như thế. Chúng ta phải ổn định hình ảnh và chào khách. Giúp tôi nào, Rita.”

Margarita Laux-Antille lặp lại câu thần chú và ra dấu về phía Philippa. Hình ảnh chập chờn thêm vài lần, rồi bắt đầu mất đi vẻ lờ mờ và ánh sáng không tự nhiên, tông màu dần trở nên sắc nét hơn. Các nữ pháp sư giờ bắt đầu quan sát cẩn thận bóng người đang đứng quay mặt về phía mình. Triss cắn môi và liếc mắt sang Keira.

Người phụ nữ trong quả cầu trông nhợt nhạt và dáng người thô kệch. Cô ta có cặp mắt vô hồn, chẳng thể hiện chút cảm xúc gì, đôi môi hẹp thâm tím và cái mũi hơi hếch. Cô ta đội một cái mũ chóp nhọn kỳ dị và có vẻ nhàu nát. Những sợi tóc đen mảnh mai và trông như bôi mỡ thò ra bên dưới. Cái áo thụng của cô ta rộng thùng thình và chẳng có hình dạng gì cả, đen tuyền với viền bạc, và sờn ở trên vai làm cô ta trông xấu xí và cẩu thả. Nó được thêu một vòng tròn với ngôi sao bên trong, hình trang trí duy nhất mà các nữ pháp sư Nilfgaard được mặc.

Philippa Eilhart đứng lên, cố để không phô ra sợi dây chuyền, ren áo và khe ngực.

“Quý cô Assire đáng kính,” cô ta nói. “Chào mừng đến Montecalvo. Chúng tôi rất vui là cô đã chấp nhận lời mời.”

“Tôi chấp nhận chỉ vì tò mò.” Người nữ pháp sư Nilfgaard lên tiếng với chất giọng dễ chịu và du dương bất ngờ, sửa lại chiếc mũ theo bản năng. Bàn tay cô ta gầy guộc, lấm chấm vàng. Móng tay không đều và vài cái bị gãy, rõ ràng là đã bị cắn.

“Chỉ vì tò mò.” Cô ta lặp lại. “Tuy nhiên hậu quả của việc này có thể sẽ rất thảm khốc đối với tôi. Tôi cầu xin một lời giải thích.”

“Tôi sẽ làm vậy trong giây lát,” Philippa gật đầu, ra hiệu với các nữ pháp sư khác. “Nhưng trước đó, xin hãy để tôi gọi lên ảnh của những người tham dự còn lại của cuộc họp và làm một bài trình chiếu chéo. Tôi xin một chút kiên nhẫn.”

Các nữ pháp sư lại nắm tay nhau và tiếp tục câu thần chú. Bầu không khí trong căn phòng căng như dây cước và lại phát ra một thứ ánh sáng lờ mờ, lấp đầy căn phòng với bóng tối chớp lóe. Phía trên ba chiếc ghế trống, những quả cầu ánh sáng bắt đầu hiện ra, và những bóng người bên trong trở nên rõ nét. Đầu tiên xuất hiện là Sabrina Glevissig, mặc một chiếc váy ngọc lam khiêu gợi xẻ ngực với cổ ren xếp thẳng, tạo nên một bệ đỡ tuyệt đẹp cho mái tóc cuộn sóng trang trí bằng một chiếc mũ miện. Bên cạnh cô ta, hiện ra trong làn sương mờ ảo, là Síle de Tanserville trong một bộ váy nhung đen đính cườm, cổ quấn một chiếc khăn lông cáo. Người nữ pháp sư Nilfgaard lo lắng liếm đôi môi mỏng dính. Cứ đợi đến lượt Francesca mà xem, Triss nghĩ. Khi trông thấy Francesca mắt cô sẽ lồi luôn ra khỏi tròng, con chuột đen bé nhỏ à.

Francesca Findabair đã không gây thất vọng. Chiếc váy ôm sát của cô ta đỏ như máu, làm nổi bật thân hình quyến rũ. Cô ta đeo một sợi dây chuyền ruby, mái tóc tạo kiểu, và cặp mắt to tròn được trang điểm theo kiểu elves.

“Các quý cô, tôi xin chào mừng tất cả đến Montecalvo,” Philippa lên tiếng. “Tôi đã mạo muội mời các cô tới đây để thảo luận vài vấn đề hết sức hệ trọng. Tôi lấy làm tiếc là chúng ta lại chỉ gặp nhau thông qua ảo ảnh, tuy nhiên, vì thời gian và khoảng cách giữa chúng ta, một cuộc gặp trực tiếp có lẽ là bất khả thi. Tôi, Philippa Eilhart, nữ chủ của tòa lâu đài này, với tư cách chủ trì và khởi xướng cuộc họp, sẽ lo phần giới thiệu. Bên phải tôi đây là Margarita Laux-Antille, hiệu trưởng của Học viện Aretuza. Bên trái tôi là Triss Merigold đến từ Maribor, và Keira Metz vùng Carreras. Tiếp đến, chúng ta có Sabrina Glevissig của Ard Carraigh và Síle de Tanserville của Creyden, đại diện cho Kovir. Rồi tới Francesca Findabair, được biết đến là Enid an Gleanna, người trị vì hiện tại của Thung Lũng Ngàn Hoa. Cuối cùng là Assire var Anahid vùng Vicovaro, đến từ Đế chế Nilfgaard. Và giờ ”

“Và giờ tôi sẽ nói tạm biệt!” Sabrina Glevissig la lên, chỉ bàn tay đầy nhẫn vào Francesca. “Chị đã đi quá xa rồi, Philippa! Tôi sẽ không ngồi cùng bàn với ả elf khốn khiếp kia, kể cả có là ảo ảnh đi chăng nữa! Cô ta vẫn chưa lau sạch hết được máu bắn lên tường và sàn của Garstang. Máu mà cô ta và Vilgefortz đã làm đổ!”

“Tôi xin cô hãy quan sát và giữ bình tĩnh.” Philippa chống lên cạnh bàn bằng cả hai tay. “Hãy nghe những gì tôi sắp nói. Tôi không đòi hỏi gì hơn thế cả. Khi tôi nói xong, mỗi người có thể tự quyết định sẽ ở lại hay đi. Ảnh chiếu là tự nguyện, nó có thể được ngắt bất cứ lúc nào. Điều duy nhất tôi yêu cầu ở những người bỏ đi đó là hãy giữ bí mật cuộc họp này.”

“Tôi biết mà!” Sabrina di chuyển đột ngột đến nỗi có cảm giác cô ta đã nhảy ra khỏi ảnh chiếu trong giây lát. “Một cuộc họp bí mật! Lén lút tụ tập! Nói ngắn gọn, một âm mưu! Và ý đồ của nó đã rất rõ. Chị đem chúng tôi ra làm trò cười đấy à, Philippa? Đầu tiên, chị yêu cầu chúng tôi giữ kín chuyện này khỏi các vị vua và đồng nghiệp của chúng tôi, những người mà chị đã coi là không đủ tư cách để mời. Và giờ thì còn có cả Enid Findabair ngồi đó, người trị vì của Dol Blathanna nhờ ân phước của Emhyr var Emreis, kẻ ngang nhiên hỗ trợ và cung cấp vũ trang cho Nilfgaard. Đấy cũng không có nghĩa là tôi không thấy ngạc nhiên hơn bởi sự hiện diện của một nữ pháp sư Nilfgaard trong căn phòng này. Từ khi nào mà các pháp sư của Nilfgaard đã thôi mù quáng và ngoan ngoãn tuân theo sức mạnh của Đế chế vậy? Và bí mật nào chúng ta đang bàn tới ở đây? Việc cô ta có mặt cũng đồng nghĩa với sự cho phép của Emhyr! Cô ta ở đây theo lệnh ông ta! Cô ta là tai mắt của Hoàng đế!”

“Tôi nghi ngờ điều đó đấy.” Assire var Anahid điềm tĩnh lên tiếng. “Không ai biết tôi có mặt tại cuộc họp này. Tôi đã được mời bí mật, bí mật mà tôi cẩn thận giữ gìn. Tôi làm vậy cũng vì lợi ích bản thân. Nếu sự hiện diện của tôi bị phát giác, tôi sẽ mất đầu. Đó cũng là nguyên nhân cho sự ngoan ngoãn của các pháp sư tại Đế chế, họ được lựa chọn giữa nô lệ và nơi hành quyết. Tôi đã liều lĩnh khi chấp nhận lời mời của cô. Tôi không tới đây để do thám và tôi chỉ có một cách duy nhất để chứng minh, đó là cái chết của chính mình. Cứ việc bỏ ngoài tai yêu cầu của cô Eilhart. Nếu thông tin về cuộc họp của chúng ta thoát ra ngoài những bức tường này, tôi sẽ mất mạng.”

“Đối với tôi, phản bội lại bí mật này cũng đem lại những hậu quả không mấy dễ chịu,” Francesca cười duyên dáng. “Cô có một cơ hội tuyệt vời để báo thù đấy, Sabrina.”

“Tôi sẽ báo thù bằng cách khác, người elves.” Cặp mắt đen của Sabrina sáng lên nham hiểm. “Nếu bí mật bị lộ, sẽ không phải là do lỗi của tôi. Không phải của tôi!”

“Cô đang ngụ ý điều gì à?”

“Đương nhiên rồi,” Philippa Eilhart chen ngang. “Đương nhiên là Sabrina đang khéo léo nhắc nhở chúng ta về công việc hiện tại của tôi với Sigimund Dijkstra. Như thể cô ấy chưa bao giờ có bất cứ liên hệ nào với các đặc vụ của vua Henselt.”

“Có sự khác biệt,” Sabrina gầm gừ. “Tôi đã không phải là người tình của Henselt trong ba năm liền, chứ chưa nói là gián điệp của ông ta.”

“Quá đủ rồi! Trật tự hết đi!”

“Tôi đồng ý.” Síle de Tanserville đột nhiên nói to. “Cô đã nói đủ rồi, Sabrina. Đã quá đủ với Thanedd, tình báo và chuyện riêng tư. Tôi không tới đây để tham gia thảo luận những thứ đó hay nghe các cô lan truyền nỗi thù hận của mình và sỉ nhục chúng tôi. Tôi không có hứng thú với vai trò người hòa giải, và nếu cô mời tôi đến đây vì mục đích đó, tôi xin nói rằng nó không có tác dụng. Quả thực, tôi đã nghi ngờ rằng mình sẽ tốn thời gian vô ích, thời gian quý báu để giành cho công việc nghiên cứu của tôi. Tuy nhiên, tôi sẽ không tùy tiện đưa ra những giả định như vậy. Cuối cùng, tôi đề nghị chúng ta hãy để Philippa Eilhart bắt đầu, để tất cả đều biết mục đích của cuộc gặp mặt này là gì. Chúng ta sẽ biết vai trò của mỗi người trong cuộc chơi. Sau đó, bỏ qua những cảm xúc không cần thiết, chúng ta sẽ tự quyết định nên tiếp tục show diễn hay hạ màn. Sự bí mật mà chúng ta được yêu cầu giữ kín, đương nhiên là bắt buộc với tất cả mọi người. Và tôi, Síle de Tanserville, sẽ đích thân có những hành động phù hợp chống lại bất kỳ ai đe dọa đến điều này.”

Không một nữ pháp sư nào di chuyển hay nói một từ. Triss không nghi ngờ lời cảnh báo của Síle chút nào hết. Người pháp sư Kovir không dọa chơi.

“Chúng tôi nhường sân khấu lại cho cô, Philippa. Tôi xin yêu cầu các đại biểu vinh dự của cuộc họp giữ trật tự cho đến khi cô kết thúc.”

Philippa Eilhart đứng lên, chiếc váy của cô ta lạo xạo.

“Thưa các chị em thân mến,” cô ta bắt đầu. “Tình hình đang hết sức nghiêm trọng. Phép thuật đang bị đe dọa. Sự kiện bi thảm trên Thanedd, mặc dù tôi rất miễn cưỡng và hối hận khi buộc phải nhớ lại, đã cho thấy kết quả của hàng trăm năm hợp tác và hòa bình có thể bị vứt bỏ chỉ trong nháy mắt, một khi tham vọng và lợi ích cá nhân xen vào. Ngày hôm nay chúng ta đứng trên bờ vực của hỗn loạn, đổ vỡ, của thù địch và ngờ vực. Đây là điều sẽ xảy ra khi mọi chuyện vượt khỏi tầm kiểm soát. Để chiếm lại quyền kiểm soát đó, để ngăn chặn thảm họa lại xảy ra lần nữa, chúng ta cần phải có một bàn tay cứng rắn lèo lái con tàu này qua cơn bão. Cô Laux-Antille, cô Metz, cô Merigold và tôi đã cùng bàn luận vấn đề này và đã đi đến thống nhất. Xây dựng lại Giáo Phái và Hội Đồng là chưa đủ. Vả lại, không ai có đủ khả năng để thực hiện được điều này, và không có gì đảm bảo là chúng sẽ không bị ảnh hưởng bởi căn bệnh đã phá hủy những người tiền nhiệm. Chúng tôi xin đề xuất một tổ chức bí mật hoàn toàn khác, chỉ phục vụ cho lợi ích của phép thuật, sẽ làm tất cả những gì trong khả năng của nó để ngăn ngừa thảm họa. Bởi vì nếu phép thuật chết đi, thế giới này sẽ lụi tàn. Cũng như hàng thế kỷ trước, một thế giới không có phép thuật sẽ chìm vào bóng tối và hỗn mang, nó sẽ ngập trong máu và sự man rợ nguyên thủy. Tất cả các quý cô có mặt ở đây đều được chào mừng vào tổ chức mới này của chúng tôi. Chúng tôi đã mời các cô đến đây để nghe ý kiến của các cô về vấn đề này. Tôi xin hết.”

“Cám ơn cô, Philippa.” Síle de Tanserville gật đầu. “Nếu các quý cô cho phép, tôi xin được bắt đầu. Câu hỏi đầu tiên của tôi, Philippa: tại sao lại là tôi? Tại sao tôi lại được mời? Tôi đã liên tục từ chối vị trí ứng cử của mình trong Giáo Phái và Hội Đồng. Thứ nhất, công việc của tôi đòi hỏi rất nhiều thời gian. Thứ hai, tôi đã nghĩ hồi đó và cũng như bây giờ, ở Kovir, Hengfors và Poviss, rất nhiều người khác xứng đáng với vinh dự này. Tôi xin hỏi, tại sao tôi lại được mời mà không phải Carduin? Không phải Istredd của Aedd Gynvael, hay Tugdual của Zangenis?”

“Bởi vì họ là đàn ông,” Philippa trả lời. “Tổ chức mà tôi vừa mới đề cập chỉ nên bao gồm toàn phụ nữ. Còn cô, Assire?”

“Tôi rút lại câu hỏi của mình.” Người nữ pháp sư Nilfgaard mỉm cười. “Nó cũng giống câu hỏi của cô de Tanserville. Câu trả lời đã thỏa mãn tôi.”

“Mấy trò ca tụng chủ nghĩa nữ quyền này,” Sabrina Glevissig nói kháy, “đặc biệt là từ mồm chị mà ra, Philippa, sau sự thay đổi về……………….. sở thích giới tính của chị. Tôi không thù oán gì đàn ông.

Thực ra, tôi yêu họ và không thể tưởng tượng ra cuộc sống nếu thiếu họ sẽ ra sao. Nhưng…. nghĩ

lại thì…. tôi cũng tin rằng đây là một ý tưởng khôn ngoan. Đàn ông rất bất ổn về tâm lý, quá nhạy cảm và ta không thể dựa vào họ trong thời khắc khủng hoảng.”

“Đúng là như vậy,” Margarita Laux-Antille điềm tĩnh thừa nhận. “Chúng tôi thường xuyên so sánh kết quả học tập của các nữ sinh Aretuza với các nam sinh đến từ Ban Ard, và kết quả luôn luôn nghiêng về phía các cô gái. Phép thuật yêu cầu lòng kiên trì, khéo léo, trí khôn, óc xét đoán thông thường và sự bền bỉ. Người ta cần phải điềm tĩnh và khiêm nhường chấp nhận thất bại hay bước thụt lùi của mình. Đàn ông luôn vướng phải tham vọng. Họ luôn muốn những điều bất khả thi và không thể đạt được, và không biết cái gì mới là có thể.”

“Đủ rồi, đủ rồi, đủ rồi.” Síle nhăn mặt, mặc dù không thèm che đi nụ cười trên khóe môi. “Không có gì là tệ hơn mấy trò tung hô dựa trên khoa học hay số liệu, cô nên thấy hổ thẹn, Rita! Tuy nhiên….tôi cũng đồng ý với kết cấu giới tính của tổ chức này hay, nếu thích, Hội này. Như

chúng ta đều hiểu, đây là vì tương lai của phép thuật, và phép thuật là một vấn đề quá hệ trọng để tin tưởng vào bàn tay của đàn ông.”

“Nếu tôi được phép,” Francesca Findabair lên tiếng bằng chất giọng du dương của mình, “tôi muốn chúng ta ngừng lảm nhảm xét đoán về bản chất ưu việt của phái nữ, phạm trù này không có gì đáng bàn luận cả. Thay vào đó hãy tập trung vào những vấn đề liên quan trực tiếp đến sáng kiến đã được đề xuất, mà mục đích thật sự vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ đối với tôi. Việc căn thời gian này không phải là ngẫu nhiên, và rõ ràng là có liên quan đến cuộc chiến. Nilfgaard đã xâm lược và dồn các vương quốc phương bắc vào chân tường. Vậy nên đằng sau câu khẩu hiệu mơ hồ mà tôi đã được nghe này, có ẩn chứa mong muốn đảo ngược tình thế và đánh bại Nilfgaard, có phải không? Và sau đó là lột da lũ elves táo tợn? Nếu vậy thì chúng ta không tìm được điểm chung nào rồi, Philippa.”

“Đây có phải là lý do mà tôi đã được mời đến đây không?” Assire var Anahid hỏi. “Tôi không để tâm nhiều lắm đến chính trị, nhưng tôi biết quân đội của Đế chế đang chiếm ưu thế hơn so với lính của các cô. Ngoại trừ cô Francesca và cô de Tanserville là đến từ các quốc gia trung lập, các quý cô ở đây đều đại diện cho các vương quốc thù địch với Đế chế Nilfgaard. Có phải các cô đang trông đợi tôi coi sự đoàn kết này là lời mời phản quốc không? Tôi xin lỗi, nhưng tôi không thể tưởng tượng ra mình trong vai trò đó.”

Sau khi kết thúc bài phát biểu của mình, Assire nghiêng sang bên, như thể đang đặt tay lên thứ gì đó không nằm trong ảnh chiếu. Triss nghĩ cô nghe thấy một tiếng meo.

“Cô ta có một con mèo!” Keira Metz thì thầm. “Tôi cá là nó màu đen… ”

“Đừng có nói lớn thế.” Philippa rít lên. “Francesca thân mến, Assire thân mến. Tổ chức của chúng ta sẽ phi chính trị hoàn toàn, đó là nguyên tắc căn bản của nó. Chúng ta sẽ không để bị ảnh hưởng bởi lợi ích dân tộc, các vương quốc, vua chúa hay hoàng đế, mà sẽ chỉ chuyên tâm đến phép thuật và tương lai của nó.”

“Chuyên tâm đến phép thuật,” Sabrina Glevissig mỉm cười chế nhạo, “nhưng vẫn quên đảm bảo quyền lợi của các pháp sư? Trong khi chúng ta đều biết các chị em pháp sư được đối xử thế nào ở Nilfgaard. Chúng ta nói về phi chính trị, nhưng khi Nilfgaard thắng và tất cả đều nằm dưới quyền lực của Đế chế, chúng ta sẽ như…”

Triss cựa quậy lo lắng, Philippa khẽ thở dài một cái. Keira cúi mặt xuống, Síle giả vờ chỉnh lại chiếc khăn quàng cổ. Francesca cắn môi. Gương mặt của Assire var Anahid không co giật, nhưng hơi có chút đỏ.

“Tôi chỉ muốn nói là….một số phận buồn thảm đang chờ đợi chúng ta.” Sabrina nhanh chóng dứt lời. “Philippa, Triss và tôi, cả ba chúng tôi đều đã ở Sodden. Emhyr sẽ bắt chúng tôi trả giá, cũng như chúng tôi sẽ trả giá cho Thanedd. Nhưng đây chỉ là một trong những lý do ngăn tôi đồng ý với quyết định phi chính trị của hội. Có phải tham gia cũng đồng nghĩa với việc ngay lập tức chấm dứt phục vụ cho các vị vua không? Hay chúng tôi sẽ ở nguyên vị trí và tuân theo hai chủ nhân cùng lúc: phép thuật và quyền lực?”

“Mỗi khi ai đó nói với tôi họ phi chính trị,” Francesca cười. “Tôi đều hỏi anh ta đang nói tới cái nào?”

“Và cô đều biết chắc chắn đó sẽ không phải là cái mà anh ta đang đi theo.” Assire var Anahid lên tiếng, nhìn vào Philippa.

“Tôi phi chính trị.” Margarita Laux-Antille ngẩng cao đầu. “Và trường của tôi cũng phi chính trị. Mọi loại chính trị đang tồn tại!”

“Thưa các quý cô,” Síle cất lời. Cô ta đã giữ im lặng trong một khoảng thời gian rất dài. “Hãy nhớ rằng chúng ta là giới tính ưu việt hơn. Thế nên đừng hành xử như một lũ con gái đang đấu đá nhau tranh giành bát kẹo để trên bàn. Nguyên tắc mà Philippa đã đưa ra rất rõ ràng. Ít nhất là đối với tôi, và tôi vẫn còn chưa đủ lý do để coi các quý cô đây kém thông minh hơn mình. Bên ngoài căn phòng này, hãy cứ là ai mà các cô muốn, phục vụ bất cứ ai mà các cô muốn và vì bất cứ lý do nào mà các cô chọn, trung thành hết mức mà các cô thích. Nhưng khi hội được triệu tập, chúng ta sẽ chỉ tập trung vào phép thuật và tương lai của nó.”

“Đây chính xác là điều mà tôi đã hình dung.” Philippa Eilhart xác nhận. “Tôi biết là có rất nhiều vấn đề, cũng như nhiều mối quan ngại và mập mờ. Chúng ta sẽ bàn thêm vào buổi họp tiếp theo, mà tất cả sẽ đều đích thân tham dự. Sự có mặt của các cô sẽ được coi như không chỉ là lời đồng ý gia nhập hội, mà còn là một hành động thể hiện thiện chí. Chúng ta sẽ cùng nhau quyết định có nên thành lập một tổ chức như vậy không. Tất cả chúng ta. Một cách công bằng.”

“Tất cả chúng ta sao?” Síle nhắc lại. “Tôi thấy vẫn còn ghế trống, tôi cho rằng chúng không tình cờ nằm ở đó?”

“Chúng tôi đã thống nhất là hội sẽ bao gồm 12 nữ pháp sư. Tôi muốn quý cô Assire sẽ đề cử một ứng viên để có mặt trong buổi họp tiếp theo. Chắc hẳn rằng Đế chế Nilfgaard cũng có người khác xứng đáng. Vị trí thứ hai tôi muốn để dành cho cô quyết định, Francesca, vì là người elves thuần chủng duy nhất ở đây, cô không nên cảm thấy bị cô lập. Người thứ ba ”Enid an Gleanna ngẩng đầu lên.

“Tôi muốn xin hai vị trí. Tôi có hai ứng cử viên.”

“Có quý cô nào phản đối yêu cầu này không? Không à? Tôi cũng vậy. Hôm nay là ngày thứ năm của tháng 8, ngày thứ năm sau trăng non. Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào ngày thứ hai sau trăng rằm, thưa các chị em thân mến, sau 14 ngày nữa.”

“Đợi chút đã,” Síle de Tanserville cắt ngang. “Vẫn còn một ghế bỏ trống. Ai sẽ là nữ pháp sư thứ 12?”

“Đây sẽ là vấn đề đầu tiên mà Hội phải đối mặt.” Philippa mỉm cười bí hiểm. “Trong hai tuần nữa tôi sẽ cho các cô biết ai nên ngồi trên chiếc ghế thứ 12. Và rồi chúng ta sẽ cùng bàn cách để đưa người đó đến đây. Danh tính của ứng cử viên này có thể sẽ làm các cô ngạc nhiên. Bởi vì đây không phải là một con người bình thường, thưa các chị em thân mến. Đây là Sự Sống hay Cái Chết, Hủy Diệt hay Tái Sinh, Trật Tự hay Hỗn Mang. Tùy vào cách nhìn nhận của mỗi người.”

***

Cả ngôi làng ùa ra hàng rào để xem đoàn diễu hành đi ngang qua. Tuzik cũng đi cùng những người khác. Tuy có việc phải làm, nhưng anh ta không thể cưỡng lại được. Gần đây đã nổi lên rất nhiều tin tức về băng Rats. Thậm chí có lời đồn rằng tất cả bọn chúng đã bị bắt và treo cổ, mà rõ ràng là láo khoét, bởi vì chúng đang đi ngang qua làng ngay vào lúc này. Ngang nhiên, từ tốn, trước con mắt của cả làng.

“Lũ vô lại xấc xược.” Có ai đó thì thầm đằng sau Tuzik. “Chúng dám đi qua làng…” “Ăn mặc như thể đi dự đám cưới…”

“Và nhìn mấy con ngựa xem! Anh không thể thấy bất kỳ con ngựa nào như vậy ở Nilfgaard cả!”

“Bah, chúng đều là của ăn cắp đó! Lũ Rats ăn trộm ngựa của tất cả mọi người. Vào thời

buổi này rất dễ dàng để bán ngựa ở mọi nơi. Nhưng chúng giữ lại những con đẹp nhất cho riêng mình…”

“Cái tên đi đầu, nhìn hắn kìa, đấy là Giselher…. đại loại là thủ lĩnh.”

“Và người phụ nữ trên con ngựa màu hạt dẻ đi bên cạnh là một người elves… Tên cô ta là

Spark… ”

Một con chó xuất hiện từ sau hàng rào và bắt đầu sủa, nó nhảy nhót phía trước con ngựa của Spark. Ả elves lắc mái tóc đen tươi tốt, quay đầu con ngựa, nghiêng sang bên và vụt con chó bằng cây roi của mình. Con thú ẳng ẳng đau đớn và xoay người ba lần tại chỗ. Spark nhổ vào nó. Tuzik lầm bầm nguyền rủa.

Những người dân làng đứng xung quanh anh ta tiếp tục rì rầm, kín đáo chỉ trỏ vào những tên Rats khác đang đi qua. Tuzik lắng nghe, anh ta không đừng được. Anh ta cũng biết những lời đồn đại và buôn dưa lê chẳng kém người khác. Anh ta đoán rằng người với mái tóc vàng rơm dài đến ngang vai, đang cắn một quả táo, chính là Kayleigh, người với bờ vai rộng là Asse, và người khoác bộ da cừu là Reef.

Hai cô gái đi ở cuối hàng, cạnh nhau, tay nắm tay. Người cao nhất, ngồi trên con ngựa màu be, có mái đầu cạo trọc như bệnh nhân sốt rét, những chiếc cúc áo không cài để lộ ra chiếc áo ren trắng, sợi dây chuyền, vòng tay và hoa tai lấp lánh.

“Người cạo đầu là Mistle….” Tuzik nghe họ nói. “Cô ta đeo nhiều đồ trang trí như cây thông giáng sinh ở Yule vậy.”

“Họ nói cô ta đã giết nhiều người hơn cả số lần cô ta từng thấy mùa xuân… ”

“Còn kẻ còn lại? Với thanh kiếm đeo trên lưng?”

“Tên cô ta là Falka. Cô ta đã đi cùng với băng Rats từ mùa hè. Cô ta mới đến….. ”

Người mới đến, Tuzik đánh giá, cũng không già hơn cô con gái Milenka của anh ta nhiều lắm. Mái tóc màu tro của cô ta thò ra bên dưới chiếc mũ bê rê nhung đỏ, trên đỉnh gắn một bó lông công. Quanh cổ cô ta là một dải khăn lụa màu anh túc, buộc với một chiếc nơ hoa mĩ.

Trong số những người dân làng đã chui ra khỏi nhà, đột nhiên xuất hiện một sự náo loạn. Giselher dừng ngựa lại, và ném một túi tiền xuống chân Mẹ già Mykitka, đang đứng tựa vào cây gậy.

“Cầu cho các vị thần sẽ che chở cho con, con thân mến!” Mẹ già Mykitka kêu lên. “Cầu cho con luôn được mạnh khỏe, người bảo vệ của chúng ta,…”

Tiếng cười của Spark nhấn chìm giọng nói của người phụ nữ già nua.

Người elves đứng trên bàn đạp, với tay vào trong túi và ném một nắm tiền về phía đám đông. Asse và Reef làm theo cô ta. Một cơn mưa bạc rơi trên con đường cát sỏi. Kayleigh, cười khúc khích, ném quả táo cắn dở vào đám người đang xoắn xít xung quanh.

“Thật hảo tâm!” “Chim ưng bé nhỏ!”

“Cầu cho định mệnh sẽ đối tốt với mọi người!”

Tuzik không chạy như những người khác, anh ta không quỳ xuống và đào bới từng đồng xu giữa đống cát sỏi và cứt gà. Anh ta chỉ đứng cạnh hàng rào, nhìn hai cô gái đang đi ngang qua.

Người trẻ hơn, với mái tóc màu tro, bắt gặp ánh mắt và biểu cảm trên gương mặt anh. Cô ta bỏ bàn tay đang nắm với người phụ nữ trọc ra, thúc ngựa và đi đến trước Tuzik, đẩy anh ta đến chân bờ rào và gần như chạm vào anh ta bằng bàn đạp. Tuzik nhìn vào đôi mắt xanh của cô ta và run rẩy. Chúng lạnh lẽo, chứa đầy cái ác và lòng căm hận.

“Để mặc anh ta đi, Falka.” Cô gái trọc lên tiếng. “Chẳng có ích gì đâu.”

Tên cướp mắt xanh nhìn Tuzik thêm một lần nữa, rồi đi theo băng Rats mà không ngoảnh đầu lại.

“Người bảo hộ!” “Chim ưng bé nhỏ!” Tuzik khạc một bãi.

Đến giữa trưa, bọn Áo Đen, các kỵ binh với vẻ hăm dọa đi từ pháo đài Fen Aspra tới ngôi làng. Móng ngựa rầm rập, tiếng ngựa hý vang và vũ khí leng keng. Thị trưởng và các dân làng bị xét hỏi đều nói dối như điên, và chỉ sai đường cho quân lính. May mắn thay, không ai tra hỏi Tuzik.

Khi trở về nhà và đi xuống vườn, anh ta nghe thấy giọng nói. Anh ta nhận ra tiếng the thé của cặp song sinh Stelmach và Zgarba, hai đứa nhóc hàng xóm. Sau đó anh ta nghe thấy tiếng Milenka. Chắc chúng đang chơi, Tuzik nghĩ. Anh ta đi ra phía sau nhà kho. Và đông cứng lại.

“Milenka!”

Milenka, đứa con gái duy nhất mà anh ta quý trọng như mạng sống, đang đeo một cây gậy sau lưng để giả làm kiếm. Cô bé thả tóc tự do, đính trên chiếc mũ len đang đội là một sợi lông gà thò ra, quanh cổ cô bé là chiếc khăn của mẹ cô Được buộc bởi một chiếc nơ kỳ lạ, hoa mĩ.

Đôi mắt cô bé màu xanh.

Tuzik chưa bao giờ đánh con gái mình. Anh ta chưa bao giờ sờ đến cây roi. Đó là lần đầu tiên.

***

Phía đường chân trời nháng lên một tia chớp, và tiếng sấm nổ đùng ở xa. Một cơn gió thổi qua dòng Ribbon. Sắp có bão rồi, Milva nghĩ, và có bão là có mưa. Mấy con hoa mai đã không lầm. Cô thúc ngựa. Nếu muốn bắt kịp witcher trước cơn bão, cô cần phải khẩn trương.

Tôi đã quen biết nhiều quân nhân trong đời. Nguyên soái, đại tướng và tổng trấn, những người chỉ huy nhiều chiến dịch và thắng nhiều trận đánh. Tôi lắng nghe câu truyện và hồi ức của họ. Tôi thấy họ nhìn bản đồ, kẻ đường màu, lên kế hoạch, vạch chiến lược. Trong cuộc chiến trên giấy tờ này, mọi thứ đều hiệu quả, mọi thứ đều rõ ràng và diễn ra theo trật tự nhất định. “Nó phải như vậy,” các quân nhân giải thích. “Quân đội là phải kỷ luật và răm rắp tuân lệnh. Nó không thể tồn tại nếu thiếu hai cột trụ đó.”

Vậy nên càng ngạc nhiên hơn, khi chiến tranh thực sự – và tôi đã biết nhiều hơn là một cuộc chiến – nếu xét về tuân lệnh và kỷ luật, thì chẳng khác lắm so với một cái nhà thổ đang bốc   hỏa.

Dandelion, Nửa thế kỷ thơ ca.

About The Author

Ngo David

Power is Power