Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân

Trò chơi vương quyền 3A – Sự trở lại của ngoại nhân

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 28

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Không gian xám xịt và lạnh cóng, đàn chó chẳng đánh hơi được gì.

Con chó đen to sụ khịt khịt mũi trước những dấu vết để lại của con gấu, rồi cúp đuôi, cúi đầu quay lại với bầy. Đàn chó rúc vào nhau một cách tội nghiệp trên bờ sông trong khi gió táp lên chúng liên hồi. Chett cũng cảm nhận được cơn lạnh thấu xương cắt qua lớp áo dày cộp bằng len đen và da thuộc. Trời lạnh quá sức chịu đựng của con người và muông thú, nhưng bọn họ vẫn phải đứng đây. Miệng hắn méo xệch đi, và dường như hắn cảm thấy rất rõ những cục u trên hai má và cổ mỗi lúc một đỏ lựng và nhức buốt. Đáng lẽ giờ này mình phải được an toàn ở Tường Thành, được chăm nom chuồng quạ và nhóm lửa cho Maester Aemon già nua. Chính thằng con hoang Jon Snow cùng thằng bạn Sam Tarly béo ú của nó đã cướp thứ đó khỏi tay hắn. Tại bọn chúng mà giờ hắn phải ở đây, toàn thân tê cóng đến đóng băng cùng với một đàn chó săn trong khu rừng ma này.

“Khốn kiếp!” Hắn giật mạnh xích để lũ chó tập trung. “Lũ khốn kiếp, lần theo dấu vết đi! Dấu vết của gấu ấy. Muốn ăn hay nhịn hả? Tìm đi!” Thế nhưng đàn chó chỉ rúc vào gần nhau hơn rồi rên rỉ. Chett quất roi xuống đầu chúng, và con chó đen nhe nanh lên gầm gừ. “Thịt chó cũng ngon như thịt gấu đấy,” hắn cảnh cáo con, hơi thở thoát ra theo từng lời nói đóng băng ngay lập tức.

Lark đến từ Quần Đảo Sisters đứng khoanh tay trước ngực, hai bàn tay hắn dúi chặt dưới nách. Tuy đã đeo găng tay len nhưng hắn vẫn không ngớt than vãn rằng các ngón tay hắn đang đông cứng. “Lạnh thế này thì đi săn thế nào được,” hắn nói. “Con gấu chết tiệt, nó đâu đáng để ta bị cóng thế này.”

“Lark, chúng ta không thể về tay trắng được,” Paul Nhỏ quát tháo qua bộ râu màu nâu phủ gần kín khuôn mặt. “Tướng chỉ huy sẽ không thích đâu.” Nước mũi hắn đóng băng bên dưới chiếc mũi vừa hếch vừa tẹt. Bàn tay vĩ đại trong chiếc găng dày bằng lông thú siết chặt quanh cán giáo.

“Lão Gấu Già chết tiệt,” gã người Sisters nói. Đó là một tên gầy guộc với nét mặt sắc cạnh và đôi mắt đầy lo âu.

“Mormont sẽ toi đời trước lúc trời sáng, nhớ không hả? Ai quan tâm lão thích gì chứ?”

Paul Nhỏ chớp đôi mắt đen bé xíu. Chắc hắn quên rồi, Chett thầm nghĩ; hắn ngu đến mức gần như quên hết mọi thứ. “Tại sao chúng ta phải giết Gấu Già? Chúng ta cứ đi và mặc kệ ông ta không được sao?”

“Mày tưởng lão sẽ để chúng ta đi à?” Lark nói. “Lão sẽ săn đuổi chúng ta. Mày muốn thế hả thằng đần kia?”

“Không, ” Paul nói nhỏ. “Tao không muốn. Không muốn.”

“Thế mày sẽ giết ông ta chứ?” Lark nói.

“Phải.” Gã đàn ông to lớn đập mạnh cán giáo xuống bờ sông đóng băng. “Tao sẽ giết. Lão sẽ không săn đuổi chúng ta được nữa.”

Gã người Sisters bỏ hai bàn tay ra khỏi nách và quay sang Chett. “Tao nghĩ chúng ta phải giết hết cả đám chỉ huy mới được.”

Chett chán ngấy khi phải nghe điều đó. “Chúng ta đã bàn vụ này kỹ lắm rồi. Gấu Già sẽ phải chết, cả Blane của Tháp Đêm cũng vậy. Grubbs và Aethan phải chết vì phiên gác đen đủi, Dywen và Barmen phải chết vì bọn chúng có khả năng tìm dấu vết, còn Ser Lợn Béo phải chết vì hắn trông đàn quạ. Vậy là xong. Chúng ta sẽ lặng lẽ thủ tiêu chúng trong khi chúng ngủ. Chỉ một tiếng thét thôi là tất cả sẽ làm mồi cho giun bọ ngay, lần lượt từng đứa.” Mấy cái nhọt của hắn đỏ lựng lên vì giận dữ. “Bọn mày chỉ cần làm tròn bổn phận và để ý xem những đứa khác trong nhóm có hoàn thành công việc của chúng nó hay không. Và Paul nữa, cố mà nhớ đó là phiên gác thứ ba, chứ không phải thứ hai đâu.”

“Phiên gác thứ ba,” gã to béo nói qua bộ râu rậm và dòng nước mũi đóng băng. “Hồn Ma và tao. Tao nhớ rồi, Chett.”

Đêm nay không có trăng, và bọn họ đã phân công lại phiên gác để tám người đứng canh một lúc, cùng với hai người nữa canh đàn ngựa. Thời cơ không thể chín muồi hơn. Vả lại, lũ du mục có thể ập đến bất cứ lúc nào. Chett thực tâm muốn tránh xa nơi này trước khi tai họa đến. Hắn phải sống.

Ba trăm anh em của Đội Tuần Đêm đã phi ngựa về hướng bắc, hai trăm người xuất phát từ Hắc Thành và một trăm người xuất phát từ Tháp Đêm. Đây là cuộc hành quân lớn nhất từ trước đến nay, với sự tham gia của gần một phần ba lực lượng của Đội Tuần Đêm. Họ được phái đi để tìm cho ra Ben Stark, Ser Waymar Royce, cùng các lính biệt kích đã mất tích khác, và phải tìm cho ra nguyên nhân tại sao đám dân du mục lại rời bỏ nơi ở của chúng. Đến lúc này, họ vẫn chưa đến gần được Stark và Royce hơn lúc họ rời Tường Thành là bao, nhưng họ đã biết nơi ở của dân du mục – tít trên đỉnh dãy Frostfangs hoang vu lạnh lẽo. Bọn chúng có thể ẩn mình ở đó vĩnh viễn và việc ấy chẳng ảnh hưởng gì đến mấy cái nhọt của Chett cả.

Nhưng không. Bọn chúng đang tới. Xuôi theo dòng Milkwater.

Chett ngước mắt nhìn về phía con sông. Hai bờ sông sỏi đá phủ kín băng, từ dãy Frostfangs, dòng nước trắng nhờ nhờ như sữa tuôn trào bất tận. Và lúc này, Mance Rayder và đám du mục của hắn đang tiến tới y như dòng nước ấy. Ba hôm trước, Thoren Smallwood trở về trong nỗi bồn chồn lo lắng. Trong khi Thoren kể với Gấu Già về những gì đội quân trinh sát của ông ta nhìn thấy thì người của ông ta, Kedge Whiteye, kể cho tất cả những người còn lại.

“Tuy vẫn còn dưới chân núi nhưng bọn chúng đang tiến tới,” Kedge vừa nói vừa hơ tay trên lửa. “Harma Đầu Chó dẫn đầu đội quân tiên phong, một con chó cái đê tiện. Goady đã bò vào trại của ả và nhìn thấy rõ ràng ả đang ngồi bên bếp lửa. Thằng ngu Tumberjon đó muốn kết liễu ả bằng một mũi tên, nhưng Smallwood khôn ngoan hơn.”

Chett nhổ nước miếng. “Mày biết bọn chúng có bao nhiêu người không?”

“Nhiều, nhiều lắm. Hai ba chục nghìn người ấy, bọn tao không ở lại để đếm hết được. Đội quân tiên phong của Harma có năm trăm người, và tên nào cũng cưỡi ngựa.”

Đám đàn ông ngồi xung quanh đống lửa nhìn nhau lo lắng. Tìm thấy chục tên du mục cưỡi ngựa đã là điều hiếm thấy, huống hồ tận năm trăm tên…

“Smallwood cử Bannen và tao đi thám thính đội quân tiên phong để nhìn mặt tên cầm đầu,” Kedge kể tiếp. “Dường như đoàn người cứ kéo dài mãi. Bọn chúng di chuyển chậm chẳng khác gì dòng sông băng, chỉ bốn, năm dặm một ngày, nhưng trông chúng không có vẻ gì là sẽ quay lại nơi trú ngụ. Một nửa trong số đó là phụ nữ và trẻ em, chúng còn mang theo cả súc vật nữa. Dê, cừu, thậm chí bò rừng cũng kéo xe trượt tuyết. Trên lưng chúng chất ngổn ngang hàng kiện da, hàng tảng thịt, lồng gà, bơ và xa quay tơ, tất tần tật những gì bọn chúng có. La và ngựa được chất đầy đến mức lưng chúng như muốn gẫy gập xuống. Lưng những người phụ nữ cũng nặng trĩu.”

“Vậy là bọn chúng đi xuôi theo dòng sông Milkwater à?” Lark Đảo Sisters hỏi.

“Không phải tao vừa nói đấy sao?”

Milkwater sẽ đưa bọn chúng đi qua Nắm Đấm của Tiền Nhân, pháo đài hình tròn cổ xưa và cũng là nơi Đội Tuần Đêm dựng trại. Bất cứ ai khôn ngoan đều nhận thấy đã đến lúc phải nhổ trại và rút lui về Tường Thành. Gấu Già đã củng cố Nắm Đấm bằng hàng rào nhọn, hố bẫy và chông sắt, nhưng đối mặt với đám người đông nghịt thế kia thì mọi thứ đều trở nên vô nghĩa. Nếu bọn chúng ở lại đây, họ sẽ bị áp đảo và nhấn chìm.

Vậy mà Thoren Smallwood lại còn muốn tấn công. Donnel Hill Ngọt Ngào là cận vệ của Ser Mallador Locke, và đêm hôm kia Smallwood đã đến lều của Locke. Ser Mallador có chung suy nghĩ với Ser Ottyn Wythers già, đó là phải rút lui về Tường Thành ngay lập tức, nhưng Smallwood lại thuyết phục ông ta điều ngược lại.

“Tên Vua-Ngoài-Tường-Thành này sẽ không bao giờ chờ chúng ta ở mãi tận phương bắc,” Donnel Ngọt Ngào thuật lại lời của Thoren. “Và đạo quân đông đúc của hắn cũng chỉ là đám người lóng ngóng vụng về, một lũ vô dụng không biết cầm kiếm đầu nào cho phải. Chỉ một nhát gươm thôi cũng đủ hạ gục toàn bộ bọn chúng và xua bọn chúng quay trở lại mấy ngôi nhà hoang thêm năm mươi năm nữa.”

Ba trăm đối chọi với ba mươi nghìn. Chett gọi đó là điên rồ, nhưng điên rồ hơn nữa là Ser Mallador đã bị thuyết phục, và hai người bọn họ đang có ý định thuyết phục Gấu Già. “Nếu đợi quá lâu, cơ hội này có thể vuột mất, và không bao giờ có thêm lần thứ hai nữa đâu,” Smallwood nhắc đi nhắc lại điều đó với bất cứ ai chịu lắng nghe. Ser Ottyn Wythers không đồng tình, “Chúng ta là tấm khiên bảo vệ vương quốc loài người. Chẳng ai vứt bỏ tấm khiên của mình khi không có mục đích chính nghĩa.” Nhưng khi nghe đến đó, Thoren Smallwood nói, “Trong một trận đấu kiếm, sự bảo vệ chắc chắn nhất chính là một nhát kiếm mau lẹ hạ gục kẻ địch ngay lập tức, chứ không phải việc núp sau một tấm khiên.”

Dù vậy, cả Smallwood và Wythers đều không có quyền ra lệnh. Nhưng tướng Mormont thì có, và Mormont đang đợi đội quân trinh sát trở về, đợi Jarman Buckwell và những người đã trèo lên Cầu Thang của Người Khổng Lồ, đợi Qhorin Cụt Tay và Jon Snow – hai người được cử đi thăm dò Đèo Skirling. Buckwell và Cụt Tay đến giờ vẫn chưa trở về. Có lẽ họ đã chết. Chett hình dung ra Jon Snow nằm trên đỉnh núi hoang vu lạnh lẽo nào đó, người ngợm xanh lét và cứng đờ với một cây giáo cắm phập vào mông. Ý nghĩ đó khiến hắn mỉm cười. Hy vọng bọn chúng giết luôn cả con sói chết tiệt đó nữa.

“Ở đây không có gấu,” hắn đột nhiên nói. “Chỉ là một vết chân cũ, chấm hết. Quay trở lại Nắm Đấm thôi.” Đàn chó kéo mạnh khiến hắn suýt ngã, chúng cũng hăm hở vì được trở về y như hắn vậy. Có thể chúng nghĩ chúng sẽ được cho ăn no bụng. Chett bật cười ha hả. Ba ngày rồi hắn chưa cho chúng ăn, để chúng tiều tụy và đói khát. Hôm nay, trước khi trời tối, hắn sẽ cho chúng thoải mái đi giữa hàng ngựa, sau khi Donnel Hill Ngọt Ngào và Karl Chân Vẹo cắt dây xích. Khắp Nắm Đấm lũ chó săn sẽ gầm gào, ngựa chiến sẽ hốt hoảng, chạy điên cuồng qua đống lửa, nhảy lên tường bao và giẫm bẹp các túp lều. Trong cảnh hỗn loạn ấy, chắc hẳn phải hàng giờ sau mới có người nhận ra rằng có tới mười bốn người anh em mất tích.

Lark còn muốn con số ấy nhiều gấp đôi nữa kia, nhưng biết trông mong gì ở gã người Sisters ngu si hôi hám đó? Chỉ cần nói sai một lời thôi là cả bọn sẽ đầu lìa khỏi cổ trước khi kịp nhận ra điều gì. Được rồi, mười bốn là con số đẹp, đủ để làm việc cần làm nhưng không nhiều đến mức bại lộ cả bí mật. Chett là người chọn hầu hết bọn họ. Paul Nhỏ là một trong số đó; gã đàn ông khỏe mạnh nhất Tường Thành, mặc dù hắn chậm chạp hơn cả một con sên. Hắn đã từng bẻ gẫy lưng một tên man di chỉ bằng một cái ôm. Họ còn có Dao Găm, cái tên được đặt theo loại vũ khí hắn ưa thích, và cả người đàn ông nhỏ thó tóc hoa râm tên là Hồn Ma nữa – hồi thanh niên, lão từng hiếp dâm cả trăm phụ nữ, và lão thường ba hoa rằng không nạn nhân nào kịp nhìn hay nghe thấy lão ta cho đến khi lão nhét được của quý của mình vào trong bọn họ.

Kế hoạch đó là của Chett. Hắn là một gã thông minh; hắn vốn là quản gia của Maester Aemon già suốt bốn năm êm đềm, trước khi thằng con hoang Jon Snow khốn kiếp đẩy hắn ra để thằng bạn béo ú như lợn của gã thay vào vị trí đó. Tối nay khi giết Sam Tarly, hắn định sẽ thì thầm vào tai gã béo rằng, “Gửi tình yêu của tao cho Lãnh chúa Snow nhé,” hắn sẽ nói thế trước khi rạch toang họng Ser Lợn Béo cho máu gã trào ra qua các tảng mỡ dày. Chett biết đàn quạ, vì vậy hắn sẽ không gặp khó khăn gì với chúng, cũng như với thằng Tarly. Chỉ cần kề dao vào cổ là tên hèn ấy sẽ vãi tè ra quần và gào khóc xin tha. Cứ để gã cầu xin, sẽ chẳng có ích gì đâu. Sau khi cứa đứt họng Tarly, hắn sẽ mở cửa chuồng và xua đàn quạ đi để tin tức không đến được Tường Thành nữa. Hồn Ma và Paul Nhỏ sẽ giết Gấu Già, Dao Găm sẽ hạ thủ Blane, còn Lark và anh em họ của hắn sẽ bịt miệng Bannen và Dywen già để bọn chúng không thể lần theo dấu vết. Bọn họ đã giấu thức ăn đủ cho nửa tháng, còn Donnel Ngọt Ngào và Karl Chân Vẹo cũng đã chuẩn bị ngựa sẵn sàng. Khi Mormont chết rồi, mệnh lệnh sẽ được giao cho Ser Ottyn Wythers, một gã già nua yếu ớt. Lão sẽ phi về Tường Thành trước khi mặt trời lặn, và cũng sẽ không lãng phí nhân lực mà cử người đuổi theo chúng ta.

Đàn chó kéo hắn xềnh xệch khi bọn họ đi ngang qua rừng cây. Chett thấy đỉnh Nắm Đấm vươn lên giữa rừng cây xanh. Trời tối đến mức Gấu Già phải cho thắp đuốc – một vòng tròn lửa vĩ đại cháy dọc theo tường bao trên đỉnh ngọn đồi đá dốc đứng. Ba người bọn họ lội qua một con suối nước lạnh buốt, từng mảng băng trải ra trên mặt nước. “Bọn tao sẽ ra biển,” Lark đến từ Đảo Sisters bật mí. “Tao và anh em họ của tao. Bọn tao sẽ làm một con thuyền, và giương buồm quay về Đảo Sisters.”

Rồi về đến nhà người ta sẽ biết chúng mày là lũ đào tẩu, rồi chặt béng cái đầu ngu si của mày đi, Chett thầm nghĩ. Trong Đội Tuần Đêm, một khi đã tuyên thệ thì không được ra đi. Bọn họ sẽ tìm ra và giết kẻ đào tẩu ngay lập tức, dù kẻ đó ở bất cứ nơi nào của Bảy Phụ Quốc.

Bây giờ đến lượt Ollo Lophand, gã đang nói về việc chèo thuyền quay trở lại Tyrosh. Gã nói ở đó dù có trộm cắp cũng không bị chặt tay, hoặc nếu có bị bắt gặp ăn nằm với vợ của một hiệp sĩ nào đó cũng không bị đi đày. Chett đã từng cân nhắc việc đi cùng gã ta, nhưng hắn không nói được cái giọng ẻo lả ẽo uột của bọn họ. Và hắn có thể làm gì ở Tyrosh chứ? Trước hết là hắn không có nghề nghiệp, và hắn lớn lên ở Hag’s Mire. Cha hắn suốt đời chỉ biết đào bới ruộng nương nhà người khác để bắt đỉa. Ông thường chẳng mặc gì ngoài một chiếc khố bằng da dày và lội xuống bùn lầy. Khi trèo lên bờ, đỉa sẽ bám đầy người ông từ ngực đến gót chân. Thỉnh thoảng ông nhờ Chett giúp ông lôi đỉa ra. Có lần một con đỉa bấu chặt vào lòng bàn tay hắn, khiến hắn sợ hãi đập con đỉa vào tường nát bét. Hắn được trận đòn thừa sống thiếu chết vì vụ đó. Các học sĩ mua đỉa với giá một đồng mười hai con.

Lark có thể về quê hương nếu hắn muốn, và cả gã người Tyrosh khốn kiếp nữa, nhưng Chett thì không. Hắn không muốn nhìn thấy Hag’s Mire thêm một lần nào nữa. Hắn thích pháo đài của Craster. Ở đó, Craster sống sung sướng như một lãnh chúa, vậy thì tại sao hắn không thể sống như vậy? Nực cười thật. Chett – con trai người bắt đỉa – lại là lãnh chúa với cả một pháo đài. Vậy cờ hiệu của hắn có thể là một tá đỉa trên nền hồng. Nhưng cớ gì phải dừng ở vị trí lãnh chúa thôi? Hắn phải làm vua mới đúng. Mance Rayder ban đầu chỉ là một anh em trong Đội Tuần Đêm. Mình cũng sẽ làm vua giống ông ta, và lấy vài cô vợ. Craster có tới mười chín vợ, đấy là chưa tính những đứa con gái nhỏ mà lão chưa kịp ăn nằm cùng. Một nửa các bà vợ của lão đã già và xấu y như lão, nhưng điều đó không quan trọng. Chett sẽ bắt mấy bà vợ già nấu nướng, lau dọn, dỡ cà rốt và tắm táp cho lợn, còn mấy cô vợ trẻ sẽ phục vụ hắn trên giường và chăm lo cho con cái. Craster sẽ không thể phản đối, một khi được Paul Nhỏ thưởng cho một cái ôm.

Những người phụ nữ duy nhất mà Chett từng biết chỉ là gái điếm mà hắn mua ở thị trấn Mole. Hồi hắn còn trẻ, đám con gái cùng làng chỉ cần nhìn khuôn mặt đầy mụn nhọt của hắn một lần là đã kinh tởm quay đi. Khốn nạn nhất là Bessa, con đàn bà bẩn thỉu. Nó sẵn sàng dạng chân cho mọi gã trai ở Hag’s Mire, nên hắn tự hỏi tại sao hắn lại không thể? Thậm chí khi nghe nói cô ả thích hoa dại, hắn còn bỏ cả buổi sáng đi hái cho ả, vậy mà ả chỉ cười nhạo vào mặt hắn và nói rằng ả thà lên giường với đàn đỉa của cha hắn còn hơn là lên giường với hắn. Ả chỉ thôi cười khi nhận được một nhát dao. Nét mặt cô ta lúc ấy mới hấp dẫn làm sao, hắn rút dao ra và đâm một lần nữa. Khi người ta bắt được hắn gần Sevenstreams, Lãnh chúa Walder Frey già thậm chí còn không thèm đến xét xử. Ông ta cử một trong những thằng con hoang của mình đến, là Walder Rivers, và sau đó tất cả những gì Chett biết là hắn phải đến Tường Thành với lão già Yoren đen đúa, quỷ quyệt và hôi hám. Để trả giá cho một khoảnh khắc ngọt ngào bọn chúng tước đi cả cuộc đời của hắn.

Nhưng giờ hắn sẽ lấy lại, và lấy cả lũ đàn bà của Craster nữa. Lão man di già nua đồi bại có quyền đó. Muốn lấy ả đàn bà nào làm vợ thì cứ việc, vả lại cũng chẳng có hoa hoét gì nên chắc cô ta sẽ không để ý đến đám mụn nhọt khốn kiếp trên mặt hắn. Chett không định sẽ lặp lại sai lầm ấy thêm lần nữa.

Rồi sẽ ổn thôi, hắn tự hứa với mình cả trăm lần. Chỉ cần chúng ta trốn thoát trót lọt. Ser Ottyn sẽ đi về phương nam để đến Tháp Đêm, vốn là con đường ngắn nhất đến Tường Thành. Ông ta sẽ chẳng để tâm đến chúng ta đâu, không phải Wythers, tất cả những gì ông ta muốn là quay trở về nguyên vẹn. Bây giờ vấn đề là Thoren Smallwood, ông ta muốn tấn công, nhưng Ser Ottyn là người cẩn trọng, và lại có vị trí cao hơn. Dẫu sao cũng không còn quan trọng nữa. Một khi chúng ta đã thoát, Smallwood cứ mặc sức tấn công bất kì ai ông ta muốn. Chúng ta quan tâm làm gì chứ? Nếu không một ai sống sót quay lại Tường Thành thì thậm chí sẽ chẳng có ai đi tìm chúng ta, bọn họ sẽ nghĩ chúng ta đã bỏ mạng cùng với những người khác. Đây là một ý tưởng mới mẻ, và trong giây lát, ý tưởng ấy cám dỗ hắn. Nhưng bọn họ cần phải giết cả Ser Ottyn và Ser Mallador Locke để trao quyền chỉ huy cho Smallwood, và cả hai người đó đều được bảo vệ chắc chắn suốt cả ngày lẫn đêm… Không được, như thế thì mạo hiểm quá.

“Chett,” Paul Nhỏ nói khi bọn họ khó nhọc lê bước trên con đường mòn đầy đá qua rừng thông, “còn con chim thì sao?”

“Chim nào?” Điều cuối cùng hắn cần lúc này là một tên đần hỏi han này nọ về chim chóc.

“Quạ của Gấu Già ấy,” Paul Nhỏ nói. “Nếu chúng ta giết ông ta, ai sẽ cho quạ của ông ta ăn?”

“Ai thèm quan tâm? Cứ giết cả con quạ nếu mày muốn.”

“Tao không muốn làm đau bất kì con quạ nào,” gã to béo nói. “Nhưng con quạ ấy biết nói. Nếu nó phun ra mấy chuyện chúng ta làm thì sao?”

Lark Đảo Sisters phá lên cười. “Paul Nhỏ Bé ơi, mày ngây thơ quá đấy,” hắn nhạo báng.

“Câm họng ngay,” Paul Nhỏ điên tiết phản kháng.

“Paul này,” Chett nói trước khi gã béo điên lên vì giận dữ, “nếu người ta tìm thấy một ông già nằm trong vũng máu và họng bị đâm toạc, người ta sẽ không cần con chim nào nói cho họ biết ai đã giết ông ta đâu.”

Paul Nhỏ mất một lúc để ngẫm nghĩ về điều đó. “Đúng rồi,” gã công nhận. “Thế tao giữ con quạ nhé? Tao thích nó.”

“Nó là của mày đấy,” Chett nói cốt để cho gã béo câm mồm.

“Chúng ta có thể ăn nó nếu đói,” Lark gợi ý.

Paul Nhỏ lại gân cổ lên. “Lark, mày đừng có cố ăn thịt con quạ của tao. Tốt nhất là đừng nên.”

Chett nghe thấy tiếng nói từ xa vọng lại qua các thân cây. “Hai đứa mày im mồm đi. Gần đến Nắm Đấm rồi đấy.”

Họ xuất hiện gần phía tây của ngọn đồi, và đi về phía nam nơi con dốc thoai thoải hơn. Gần bìa rừng có khoảng chục người đang tập bắn cung. Người ta khắc bia bắn lên thân cây và tập bắn tên vào đó. “Nhìn kìa,” Lark nói. “Một con lợn cầm cung.”

Đúng rồi, cung thủ gần nhất chính là Ser Lợn Béo, thằng nhóc béo ú đã cướp trắng vị trí của hắn bên cạnh Maester Aemon. Chỉ cần nhìn thấy Samwell Tarly thôi cũng khiến hắn đủ điên tiết rồi. Được phục vụ Maester Aemon vốn là cuộc sống sung sướng nhất của hắn từ trước đến nay. Người đàn ông mù lòa ấy rất dễ tính, và Clydas đảm nhiệm hầu hết mọi yêu cầu của ông ta. Nhiệm vụ của Chett rất đơn giản: tắm rửa cho bầy quạ, thỉnh thoảng nhóm lửa, đôi khi nấu nướng… và Aemon chưa một lần đánh hắn. Mày nghĩ có thể đến và đẩy tao ra đơn giản như vậy, chỉ vì mày thuộc dòng dõi cao quý và biết đọc hay sao. Tao sẽ bắt mày đọc con dao của tao trước khi dùng nó để rạch toang họng mày ra. “Chúng mày đi tiếp đi,” hắn nói với những người khác, “tao muốn trông chừng lũ này.” Đàn chó giật xích hăng hái muốn đi theo bọn họ, đi lên đỉnh đồi nơi chúng nghĩ thức ăn đang chờ đợi chúng. Chett đá mũi giày vào con chó cái, và hành động ấy cũng trấn an được chúng một lúc.

Hắn đứng trong lùm cây quan sát gã béo vật lộn với cây cung cao bằng người, khuôn mặt tròn xoe đỏ ửng nhăn lại vì tập trung. Ba mũi tên cắm dưới nền đất trước mặt gã. Tarly đặt tên và kéo dây cung, giữ hồi lâu để nhắm mục tiêu, và thả tên ra. Mũi tên biến mất trong rừng cây xanh. Chett phá lên cười và khịt mũi đầy khinh bỉ.

“Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy mũi tên ấy đâu, và tôi sẽ bị mắng cho mà xem,” Edd Tollett nói. Gã là một cận vệ lầm lì với mái tóc muối tiêu mà mọi người vẫn gọi là Edd U Sầu. “Hễ mất cái gì người ta cũng quay sang nhìn tôi, kể từ khi tôi đánh mất con ngựa. Làm thế thì có lợi lộc gì? Con ngựa thì màu trắng, mà tuyết thì rơi, bọn họ hy vọng điều gì chứ?”

“Gió đẩy mũi tên đi đấy,” Grenn nói. Gã là một người bạn nữa của Lãnh chúa Snow. “Sam, cố cầm cung chặt vào.”

“Nó nặng lắm,” gã béo phàn nàn, nhưng vẫn kéo dây cung lần nữa. Lần này mũi tên bay cao, sượt qua các cành cây và cao hơn đích nhắm tới ba mươi mét.

“Tôi tin là cậu đã bắn rơi một chiếc lá,” Edd U Sầu nói. “Mùa thu đang trôi qua nhanh lắm, cậu không cần giúp lá rơi nữa đâu.” Hắn thở dài. “Và chúng ta đều biết sau mùa thu điều gì sẽ tới. Thánh thần ơi, con lạnh lắm. Samwell, bắn mũi tên cuối cùng đi, lưỡi tôi đang đông cứng trong miệng rồi.”

Ser Lợn Béo hạ thấp cung tên, và Chett thầm nghĩ hắn sắp sửa khóc lóc om sòm. “Khó quá.”

“Lắp tên, kéo dây cung và thả tay ra,” Grenn nói. “Bắn đi nào.”

Gã béo nghe lời nhổ mũi tên cuối cùng từ dưới đất lên, đặt vào cây cung dài, kéo dây cung, và thả. Gã làm rất nhanh mà không cần nheo mắt ngắm bắn cẩn thận như hai lần trước. Mũi tên cắm vào bên dưới ngực hình người vẽ bằng chì than và rung lên. “Tôi bắn trúng rồi.” Ser Lợn Béo có vẻ sửng sốt. “Grenn, cậu nhìn thấy không? Này Edd, nhìn đi, tôi bắn trúng hắn rồi!”

“Có thể nói là bắn xuyên qua hai dẻ sườn,” Grenn nói.

“Thế tôi đã giết được hắn chưa?” Gã béo hỏi

Tollett nhún vai. “Có thể là thủng phổi, nếu cây có phổi. Nhưng bình thường thì chẳng cây nào có cả.” Hắn lấy cây cung khỏi tay Sam. “Tuy nhiên tôi từng chứng kiến những lần bắn kém hơn thế này nhiều. Hừm, và cũng tự mình thực hiện vài cú bắn tồi.”

Ser Lợn Béo cười tươi rói. Nhìn gã chắc hẳn người ta nghĩ gã vừa làm được việc gì ghê gớm lắm. Tuy nhiên, khi nhìn thấy Chett và đàn chó, nụ cười của gã xẹp xuống và tắt hẳn.

“Mày bắn trúng một cái cây,” Chett nói. “Để xem mày bắn thế nào nếu đó là người của Mance Rayder. Bọn chúng sẽ không đứng dang hai tay ra để cho lá bay xào xạc đâu, ồ, không đâu. Bọn chúng sẽ chạy thẳng đến trước mặt mày, cười vào mặt mày, và tao cá là mày sẽ đái ra quần ấy. Rồi một tên sẽ cắm rìu vào giữa đôi mắt lợn bé ti hí của mày. Điều cuối cùng mày nghe thấy sẽ là tiếng phập khi chiếc rìu cắm vào sọ mày đấy.”

Gã béo run bần bật. Edd U Sầu đặt một tay lên vai Chett. “Người anh em,” hắn trịnh trọng nói, “sự việc xảy ra như thế với mày không có nghĩa là Samwell cũng phải chịu chung số phận đó.”

“Mày vừa nói gì, Tollett?”

“Về cái rìu bổ đôi đầu mày ấy. Có phải đúng là một nửa trí thông minh của mày đã rơi xuống đất và bị lũ chó ăn mất rồi không?”

Gã Grenn tròn lẳn cục mịch cười hô hố, và ngay cả Samwell Tarly cũng cố nở một nụ cười yếu ớt. Chett đá con chó gần nhất, kéo mạnh dây dắt và leo lên đồi. Cứ cười nếu mày muốn, Ser Lợn Béo ạ. Tối nay chúng ta sẽ cùng xem ai mới là người cười. Giá như hắn có đủ thời gian để giết luôn cả gã Tollett nữa. Đồ mặt ngựa u ám.

Núi dốc đứng, ngay cả phía mặt đồi ít dốc nhất này của đỉnh Nắm Đấm. Đi được một đoạn, đàn chó bắt đầu sủa ầm ĩ và kéo hắn, có lẽ chúng nghĩ chúng sắp được cho ăn. Thay vào đó, hắn cho chúng thưởng thức mùi giày, và một cái quất roi dành cho con chó xấu xí to béo dám đớp hắn. Ngay khi đàn chó được buộc lại, hắn bắt đầu báo cáo. “Đúng là có dấu vết như Khổng Lồ nói, nhưng đàn chó không tìm ra dấu vết,” hắn nói với Mormont ngoài túp lều to lớn đen kịt. “Xuôi theo dòng sông như thế, có thể là dấu vết cũ.”

“Tiếc thật.” Tướng chỉ huy Mormont hói đầu và có bộ râu xám bờm xờm rậm rạp, trông có vẻ mệt mỏi. “Có lẽ tốt hơn chúng ta nên ăn chút thịt tươi.” Con quạ trên vai ngài gật gật đầu và nói, “Thịt. Thịt. Thịt.”

Chúng ta sẽ chén thịt mấy con chó chết tiệt, Chett trộm nghĩ, nhưng hắn giữ im lặng cho đến khi Gấu Già cho hắn lui. Và đó sẽ là lần cuối cùng mình phải cúi đầu trước mặt lão, hắn hài lòng nghĩ bụng. Trời dường như mỗi lúc một lạnh hơn. Đàn chó khổ sở chúi đầu vào nhau trong vũng bùn đóng băng cứng đờ, và Chett cũng muốn được chúi đầu vào cùng với chúng cho ấm. Nhưng thay vào đó, hắn chỉ quấn chiếc khăn len đen kín mít, để lộ một khe hở cho mồm miệng chống chọi với những cơn gió. Nếu liên tục di chuyển chắc người sẽ ấm hơn, nên hắn cứ đi vòng tròn, tay cầm một nắm lá chua để ăn cùng các anh em mặc đồ đen trong đội đang đứng canh gác và nghe ngóng những điều họ nói. Trong đội canh hôm nay, không ai nằm trong kế hoạch của hắn; nhưng dù vậy, hắn nhận thấy cũng thú vị khi biết bọn họ nghĩ gì.

Phần lớn những điều họ đang nghĩ đến là cơn lạnh cắt da cắt thịt.

Gió nổi lên khi bóng tối dần buông xuống. Gió rin rít khi đập vào các tảng đá của tường thành. “Tao ghét âm thanh đó,” Khổng Lồ nhỏ nói. “Nghe như tiếng trẻ con đang rên rỉ đòi sữa trong bụi cây ấy.”

Khi đi xong một vòng và quay trở lại với đàn chó, hắn thấy Lark đang đợi mình. “Mấy tên chỉ huy đang trong lều của Gấu Già nói chuyện gì kinh khủng lắm.”

“Bọn nó vẫn vậy mà,” Chett nói. “Trừ Blane, bọn nó đều sinh ra trong dòng dõi quý tộc, vậy nên tụi nó nghiện nói hơn nghiện rượu.”

Lark rụt rè tiến gần hơn. “Thằng béo nói riết về con quạ ấy,” hắn cảnh báo và liếc mắt nhìn để chắc chắn không có ai đứng gần. “Giờ thì hắn đang hỏi xem liệu chúng ta có cất ít hạt nào cho con chim khốn kiếp ấy không.”

“Đấy là quạ,” Chett nói. “Quạ chỉ ăn xác chết thôi.”

Lark nhe răng cười. “Xác chết của tên đó hả?”

Hoặc của mày đấy. Với Chett, có vẻ như hắn cần tên béo kia hơn cần Lark. “Đừng có cằn nhằn về Paul Nhỏ nữa. Làm việc của mày đi, mặc xác nó.”

Trời chạng vạng len lỏi quanh khu rừng khi hắn tự giải thoát mình khỏi lão người Đảo Sisters và ngồi mài gươm. Đeo găng thế này mài gươm rất khó, nhưng hắn không có ý định tháo ra. Thằng ngu nào chạm tay trần vào sắt vào lúc trời lạnh thế này đều có thể đứt tay như chơi.

Đàn chó rên rỉ khi mặt trời lặn. Hắn cho chúng uống nước, miệng lầm rầm nguyền rủa. “Chỉ cần nửa đêm nữa thôi, rồi tụi bay sẽ được ăn uống linh đình.” Lúc đó hắn sẽ được ăn đêm.

Vào giờ nhóm lửa, Dywen đang đi tới trước trong khi Chett nhận được bánh mỳ cứng, một bát đậu và súp thịt muối từ đầu bếp Hake. “Rừng tĩnh lặng quá,” gã người rừng vẫn nói. “Không có ếch gần sông, không có cú trong bóng tối. Chưa bao giờ tao thấy khu rừng nào chết chóc hơn thế này.”

“Răng mày chết thì có,” Hake nói.

Dywen tặc lưỡi vào hàm răng gỗ của mình. “Cả sói cũng thế. Hồi trước cũng có, nhưng giờ thì chẳng thấy con nào. Mày đoán coi tụi nó biến đâu hết cả?”

“Đâu đó ấm áp,” Chett nói.

Trong số mười hai anh em đang rảnh rỗi ngồi cạnh đống lửa, có tới bốn người nằm trong kế hoạch trốn chạy của hắn. Hắn liếc nhìn từng người trong khi ăn, để xem có dấu hiệu làm phản không. Dirk có vẻ đủ bình tĩnh, gã ngồi im mài lưỡi kiếm như mọi tối. Donnel Hill Ngọt Ngào vẫn tào lao đủ thứ chuyện. Hàm răng gã trắng bóc, đôi môi dày hồng hào, mớ tóc vàng được cột lung tung kiểu nghệ sĩ nửa mùa trên vai, và gã tuyên bố mình là con hoang của một người Nhà Lannister. Có thể là thế. Chett không ưa mấy gã điển trai, cũng không ưa mấy đứa con hoang, nhưng Donnel Ngọt Ngào lại có vẻ chiếm được cảm tình của hắn.

Hắn không chắc chắn lắm về tay người rừng tên Sawwood, vì tiếng ngáy của gã hơn là vì bất cứ điều gì liên quan đến cây cối. Lúc này, sự bồn chồn chắc sẽ khiến gã khó có thể ngáy được. Và Maslyn còn tệ hơn. Chett thấy mồ hôi đang lấm tấm trên mặt gã, mặc dù gió đang thổi vù vù. Những giọt mồ hôi nhấp nhánh trong ánh lửa, rất giống những viên đá quý nho nhỏ. Maslyn cũng không ăn uống gì, gã chỉ ngồi nhìn món súp như thể mùi súp khiến gã muốn ói. Mình phải theo dõi gã đó, Chett thầm nghĩ.

“Tập hợp!”

Tiếng hét bất chợt vang lên từ hơn chục cái cổ họng, và nhanh chóng lan tỏa khắp doanh trại trên đỉnh đồi. “Các anh em trong Đội Tuần Đêm! Tập hợp tại đống lửa trung tâm!”

Cau mày lại, Chett ăn nốt súp và đi theo những người khác.

Gấu Già đứng trước đống lửa với Smallwood, Locke, Wythers và Blane đứng sau lão thành một hàng. Mormont mặc áo khoác lông thú đen dày cộp, con quạ đậu trên vai lão đang rỉa rỉa bộ lông đen sì của nó. Không hay rồi. Chett đứng nép vào giữa Bemarr Nâu và mấy gã đến từ Tháp Đêm. Khi mọi người tụ tập đông đủ, trừ lính canh gác trong rừng và lính bảo vệ thành, Mormont hắng giọng và nhổ nước miếng. Nước bọt ông ta đông cứng trước khi rơi cộp xuống đất.

“Hỡi anh em,” lão nói, “những đấng nam nhi của Đội Tuần Đêm.”

“Nam nhi!” con vẹt của lão hét lên. “Nam nhi! Nam nhi!”

“Đám dân du mục đang hành quân, chúng đi theo dòng chảy của Milkwater dưới chân núi. Thoren tin rằng đội quân tiên phong của chúng sẽ giáp mặt chúng ta trong mười ngày tới. Đội đột kích giàu kinh nghiệm của bọn chúng sẽ là đội tiên phong với tên cầm đầu là Harma Đầu Chó. Đám còn lại rất có thể sẽ bọc hậu, hoặc cưỡi ngựa đồng hành với Mance Rayder. Các chiến binh của chúng sẽ dàn mỏng khắp mọi nơi. Bọn chúng có bò, la, ngựa… nhưng ít thôi. Hầu hết chúng phải đi bộ, được trang bị vũ khí thô sơ và không được huấn luyện. Vũ khí của chúng rất có thể là xương và đá chứ không phải sắt thép. Bọn chúng còn mang theo phụ nữ, trẻ con, bò, cừu, và vô số đồ đạc lỉnh kỉnh khác. Nói tóm lại, mặc dù đông nhưng bọn chúng rất yếu… và bọn chúng không biết chúng ta đang ở đây. Hoặc chúng ta nên cầu mong là như vậy.”

Chúng biết đấy, Chett nghĩ. Lão già béo ạ, chúng biết cả đấy. Qhorin Cụt Tay không trở về, đúng không? Jarman Buckwell cũng vậy. Nếu một trong hai gã đó bị bắt, lão biết thừa lúc này đám man di đã moi được ít nhiều thông tin từ hai gã đó.

Smallwood bước lên phía trước. “Mance Rayder muốn phá vỡ Tường Thành và đem cuộc chiến đẫm máu đến Bảy Phụ Quốc. Hừ, đó là một cuộc chiến mà hai bên phải tham gia. Sáng mai chúng ta sẽ đem chiến tranh đến cho hắn.”

“Rạng sáng chúng ta sẽ cưỡi ngựa hết tốc lực,” Gấu Già nói khi những tiếng rì rầm nổi lên giữa đám quân. “Chúng ta sẽ cưỡi ngựa theo hướng bắc, và vòng quanh về hướng tây. Đội quân tiên phong của Harma sẽ đi qua Nắm Đấm đúng lúc chúng ta quay lại. Chân núi Frostfangs đầy rẫy những thung lũng hẹp xoắn ốc rất thuận tiện cho chúng ta phục kích. Bộ binh của chúng sẽ dài nhiều dặm. Chúng ta sẽ cùng lúc ập vào bọn chúng, và để chúng tin rằng chúng ta có tới ba ngàn người, chứ không phải ba trăm.”

“Chúng ta sẽ đánh nhanh, rút nhanh trước khi đội cưỡi ngựa kịp trở tay và đối mặt với chúng ta,” Thoren Smallwood nói. “Nếu bọn chúng vẫn quyết đuổi, chúng ta sẽ để chúng tha hồ rượt, sau đó chúng ta sẽ quay theo hình vòng tròn và đánh đoàn đi sau. Chúng ta sẽ đốt xe ngựa, đuổi cho bò dê chạy tán loạn, và chém giết càng nhiều càng tốt. Cả Mance Rayder nữa, nếu chúng ta thấy hắn. Nếu đội của chúng tan rã và quay trở lại mấy túp lều dơ dáy của chúng, vậy là chúng ta thắng. Nếu không, chúng ta sẽ cướp bóc bọn chúng trên khắp đoạn đường đến Tường Thành, và hàng loạt xác chết của chúng sẽ đặt dấu chấm hết cho cuộc viễn chinh.”

“Có đến hàng ngàn người,” có người nói sau lưng Chett.

“Quân ta sẽ chết mất thôi.” Đó là giọng Maslyn, nghe tím tái vì sợ hãi.

“Chết,” con quạ của Mormont hét lên và đập đập đôi cánh đen kịt của nó. “Chết, chết, chết.”

“Rất nhiều trong số chúng ta,” Gấu Già nói. “Thậm chí có thể là tất cả chúng ta. Nhưng như một vị tướng đã nói cách đây ngàn năm rằng, đó là nguyên nhân khiến chúng ta mặc bộ đồ đen như thế này. Các anh em, hãy nhớ lời tuyên thệ của mình. Vì chúng ta là những thanh kiếm trong bóng đêm, là người canh gác những bức tường thành…”

“Là ngọn lửa xua tan băng giá.” Ser Mallador Locke rút thanh gươm dài ra.

“Là ánh sáng gọi bình minh,” những người khác nói, và nhiều thanh gươm hơn được kéo ra khỏi bao.

Rồi tất cả bọn họ cùng rút gươm, và có tới gần ba trăm thanh gươm được giơ lên cao, với rất nhiều giọng nói hét lên, “Là chiếc tù và đánh thức người say ngủ! Là tấm khiên bảo vệ cả vương quốc loài người!” Chett không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cất giọng hòa vang cùng với những người khác. Không khí ẩm lên rõ rệt vì hơi thở của họ, và ánh lửa lóe lên cùng với những lưỡi gươm. Hắn hài lòng khi thấy Lark, Hồn Ma và Donnel Hill Ngọt Ngào cũng hòa cùng đám đông, như thể bọn họ cũng ngu muội như đám người còn lại. Như thế lại hay. Không ai còn hơi sức để quan tâm gì tới thời khắc của họ đã đến.

Khi tiếng hô vang dứt, hắn lại lần nữa nghe thấy tiếng gió rít ngoài tường bao. Ngọn lửa cuồn cuộn, như thể đang rùng mình vì giá rét, và trong sự tĩnh lặng đột ngột ấy, con quạ của Gấu Già lại kêu toáng lên, “Chết.”

Con quạ thông minh đấy, Chett nghĩ khi các binh lính giải tán, bảo nhau tối nay phải ăn no nê và ngủ cho đã. Chett chui vào bộ quần áo lông gần đàn chó, đầu hắn đầy rẫy ý nghĩ về việc chẳng may sự chẳng lành. Sẽ thế nào nếu lời thề chết tiệt ấy khiến hắn thay đổi? Hoặc nếu Paul Nhỏ đãng trí và giết Mormont trong phiên canh gác thứ hai, thay vì thứ ba? Hay nếu Maslyn nhụt chí, hay nếu ai đó biến thành kẻ chỉ điểm, hay…

Hắn lặng người lắng nghe bóng tối. Gió vẫn rít như một đứa trẻ đòi sữa, và thi thoảng hắn nghe thấy giọng nói của con người, tiếng khúc gỗ được ném vào lửa. Nhưng chỉ vậy thôi. Rất im ắng.

Hắn nhìn thấy nét mặt Bessa lơ lửng trước mắt. Không giống con dao mà tao định đâm mày đâu, hắn muốn nói vậy với ả. Tao đã mất cả buổi sáng hái hoa, hoa hồng dại, cả cúc ngải nữa. Tim hắn đập thùm thụp như trống nện, to đến nỗi hắn sợ sẽ đánh thức cả doanh trại. Băng phủ lên ria mép hắn. Nó đến từ đâu nhỉ, cùng với Bessa chăng? Trước đây, mỗi khi nghĩ về ả, hắn chỉ nhớ đến vẻ mặt lúc ả đang hấp hối. Chuyện gì đang xảy ra với hắn thế này? Hắn gần như không thở nổi. Có phải hắn vừa ngủ gật không? Hắn đứng lên, nhưng có gì đó ươn ướt và lành lạnh chạm vào mũi hắn. Chett ngẩng lên nhìn.

Tuyết đang rơi.

Hắn cảm thấy nước mắt đóng băng trên má. Không công bằng, hắn muốn hét lên. Tuyết sẽ hủy hoại mọi việc mà hắn đã miệt mài chuẩn bị, những kế hoạch chi li của hắn. Tuyết rơi dày, những bông tuyết trắng dày cộp phủ khắp người hắn. Làm sao họ tìm được nơi giấu đồ ăn trong tuyết, hay con đường mòn để bọn họ đi về phía đông? Chúng ta cũng không cần Dywen hay Bannen mất công lùng tìm, sẽ không cần nếu chúng ta để lại dấu vết trong lớp tuyết mới. Và tuyết che giấu hình hài của mặt đất, nhất là vào buổi đêm. Ngựa có thể vấp phải rễ cây, hoặc phi vào đá gẫy chân. Thế là xong, hắn nhận thấy như vậy. Kết thúc ngay cả khi chưa bắt đầu. Không còn cuộc sống vương giả cho con trai của gã bắt đỉa, không có quản gia để sai bảo, không vợ, và cũng không có miện vàng miện bạc. Chỉ có thanh gươm của một tên man di trong bụng hắn, và kế tiếp là một ngôi mộ không tên tuổi. Tuyết đã cướp hết mọi thứ của ta… đám tuyết khốn kiếp…

Trước đây tuyết cũng đã một lần hủy hoại hắn. Tuyết và con lợn kia.

Chett đứng lên. Chân hắn cứng đờ, và những bông tuyết đang rơi khiến những ngọn đuốc đằng xa chuyển thành đốm lửa màu cam mờ ảo. Hắn có cảm giác như thể mình vừa bị một bầy rệp lạnh giá tấn công. Chúng đậu trên vai, đầu, rồi bay xuống mũi và mắt hắn. Vừa chửi thề hắn vừa phủi tuyết. Samwell Tarly, hắn vẫn nhớ. Ta vẫn có thể xử Ser Lợn Béo. Hắn quàng khăn quanh mặt, kéo mũ trùm đầu, và sải bước trong doanh trại để đến chỗ ngủ của thằng hèn kia.

Tuyết vẫn rơi dày đặc, đến nỗi hắn lạc đường giữa các túp lều, nhưng cuối cùng, hắn nhận thấy hàng rào chắn gió nho nhỏ mà thằng béo tự làm cho mình, giữa một hòn đá và chuồng quạ. Tarly nằm sụp bên dưới một đống chăn len đen và da xù xì. Tuyết bay vào để che phủ lên gã. Trông nó như một ngọn núi tròn trĩnh mềm mại. Thép khẽ cọ vào da khi Chett lấy kiếm ra khỏi bao. Một con quạ kêu. “Tuyết,” một con quạ khác càu nhàu và hé đôi mắt đen qua chấn song. Con quạ trước lại nói “Tuyết.” Hắn đi ngang qua chúng, bước từng bước cẩn trọng. Hắn sẽ ấn nắm tay vào mồm thằng béo để bóp nghẹt tiếng khóc của nó, và sau đó….

Uuuuuuuuuuuuuuuuhooooooooo.

Hắn dừng bước giữa chừng và chửi thề khi tiếng tù và rung lên khắp doanh trại, nghe yếu ớt và xa xôi lắm, nhưng không thể nhầm được. Thần thánh ơi, không phải lúc này, khốn nạn, không phải LÚC NÀY! Gấu Già đã cử người theo dõi trên cây quanh đỉnh Nắm Đấm, để cảnh báo nếu có kẻ đến gần. Chett đoán có thể là Jarrman Buckwell quay trở về từ Cầu Thang của Người Khổng Lồ, hoặc Qhorin Cụt Tay từ Đèo Skirling. Một hồi tù và nghĩa là có anh em trở về. Nếu là Cụt Tay thì có thể Jon Snow đi cùng gã, và vẫn còn sống.

Sam Tarly ngồi bật dậy, hai mắt sưng húp và hoang mang nhìn tuyết rơi. Đàn quạ kêu ầm ĩ, và Chett nghe thấy tiếng đàn chó sủa. Một nửa số lều trại chết tiệt đã tỉnh giấc. Các ngón tay đeo găng của hắn siết chặt cán dao găm khi hắn đợi âm thanh đó dứt. Nhưng khi vừa dứt, tiếng tù và lại vang lên, to hơn và lâu hơn.

Uuuuuuuhooooooooooooooooooooooooo.

“Thần thánh ơi,” hắn nghe tiếng Sam Tarly rên rỉ. Thằng béo lảo đảo đứng lên, chân loạng quạng trong áo choàng và chăn đệm. Nó đá chăn đi và với lấy áo giáp có các vòng kim loại lồng vào nhau được treo trên tảng đá gần đó. Khi mặc áo, một đống vải vóc ập lên đầu nó và trong khi đang chui đầu vào áo, nó nhận thấy Chett đang đứng đó. “Hai phải không?” nó hỏi. “Tao mơ thấy là tao nghe thấy hai hồi tù và…”

“Không phải mơ đâu,” Chett nói. “Hai hồi tù và giục Đội Tuần Đêm trang bị vũ khí. Hai hồi tù và cho thấy kẻ thù đang tới. Ở đó có một chiếc rìu có khắc chữ Lợn Béo đấy, heo ạ. Hai hồi tù và nghĩa là bọn du mục đang tới.”

Nỗi sợ hãi trên khuôn mặt tròn xoe khiến hắn muốn phá lên cười. “Cút hết lũ khốn ấy xuống địa ngục đi. Harma khốn kiếp. Mance Rayder khốn kiếp. Smallwood khốn kiếp nữa, lão bảo là tụi nó sẽ không đến được với chúng ta trong…”

Uuuuuuuuuuuuuuuuuhooooooooooooooooooooooooooooooo.

Tiếng tù và tiếp tục vang lên không ngừng. Đàn quạ vỗ cánh phần phật và kêu rền, bay tứ tung trong chuồng và đập cánh ầm ầm vào chấn song. Khắp doanh trại các anh em Đội Tuần Đêm đều đã dậy, mặc áo khoác, đeo đai gươm, lấy rìu chiến và cung. Samwell Tarly đứng run cầm cập, mặt nó trắng bệch như tuyết dưới chân họ.

“Ba,” nó rít lên với Chett, “ba hồi, tao nghe thấy ba hồi. Người ta chưa bao giờ thổi ba hồi kèn. Cả trăm, cả ngàn năm nay không như vậy rồi. Ba hồi nghĩa là…”

“Ngoại Nhân.” Chett cất tiếng nửa cười nửa thổn thức, và đột nhiên, chiếc quần ống túm của hắn ươn ướt, và hắn cảm thấy nước tiểu chảy xuống chân, và hơi nước bốc lên khỏi quần.

About The Author

Ngo David

Power is Power