The Witcher Quyển 7 – Nữ thần Hồ
Tác giả: Andrzej Sapkowski
Dịch giả: Tổng hợp
Số chương: 12
Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới
Họ tiếp tục đi cho tới lúc gặp một cái hồ lớn tuyệt đẹp đầy thứ nước trong vắt như thủy tinh, và ở giữa hồ, Arthur trông thấy một cánh tay mặc áo trắng đang giữ một thanh kiếm đẹp tuyệt trần.
“Hãy trông, đó là thanh kiếm mà ta đã nhắc đến,” Merlin chỉ.
Đột nhiên họ trông thấy một cô gái bước đi trên mặt hồ.
“Đó là ai vậy?” Arthur hỏi.
“Đó là Nữ Thần Hồ.” Merlin trả lời.
– Ngài Thomas Malory, Cái chết của vua Arthur.
“Học viên Fitz–Osterlen, anh đã sai. Ngồi xuống đi. Tôi muốn các anh chú ý đến sự thiếu hiểu biết của học viên này đối với những sự kiện quan trọng và nổi bật trong lịch sử đất nước của anh ta, mà đối với mỗi người dân yêu nước thì đều đáng xấu hổ. Nhưng đối với một sĩ quan quân đội tương lai thì đơn giản là không thể chấp nhận được. Và thêm một điều nữa, học viên. Trong 20 năm tôi dạy ở trường này, không một học kỳ nào mà bài thi cuối kỳ không có câu hỏi về trận Brenna. Sự dốt nát chắc chắn đã loại trừ hoàn toàn cơ hội được trở thành một sĩ quan của anh, nhưng khi anh đã là một nam tước thì không bắt buộc phải trở thành sĩ quan nữa, vậy nên anh có thể thử tham gia chính trị. Hay ngoại giao. Tôi chúc anh may mắn, học viên Fitz–Ostelern. Còn tất cả chúng ta sẽ quay trở lại trận Brenna, các quý ngài. Học viên Puttkammer!”
“Có mặt!”
“Hãy chỉ lên bản đồ nào, và tiếp tục. Bắt đầu từ chỗ mà ngài nam tước đã không biết.”
“Tuân lệnh! Khi Nguyên soái Menno Coehoorn nghe báo cáo từ mật vụ xác nhận rằng quân đội phương Bắc đang đến hỗ trợ trận vây hãm pháo đài Mayena, ngài đã quyết định tiến quân nhanh về hướng tây. Kế hoạch của ngài là cắt viện trợ của quân địch và dồn chúng vào một trận chiến sinh tử. Vì mục đích này, ngài đã chia nhỏ Quân Chính Quy ra. Một số lực lượng ngài để lại ở Mayena, số còn lại đã nhanh chóng hành quân…”
“Học viên Puttkammer! Anh là nhà viết tiểu thuyết lịch sử giả tưởng hay là một sĩ quan quân đội tương lai? Tên của “số còn lại” đó là gì? Hãy cho tôi biết chính xác tên các lực lượng tiến công của Nguyên soái Coehoorn! Sử dụng các thuật ngữ quân sự!”
“Vâng, thưa ngài. Nguyên soái Coehoorn tại thời điểm đó, có hai đội quân – Quân Đoàn Kỵ Binh Số 4, chỉ huy bởi Thiếu tướng Marcus Braibant, người sáng lập ra học viện của chúng ta…”
“Rất tốt, học viên Puttkammer!”
“Mẹ kiếp,” học viên Fitz–Ostelern rít lên qua kẽ răng.
“…và Quân Đoàn Số 3, chỉ huy bởi Trung tướng Rhetz de Mellis–Stoke. Quân Đoàn Kỵ Binh Số 4, với khoảng 20 ngàn lính, bao gồm các đơn vị sau đây – sư đoàn Venendal, sư đoàn Magne, sư đoàn Frundsberg, lữ đoàn Vicovaro Số 2, lữ đoàn Daerlan Số 7, lữ đoàn Nauzicaa, và lữ đoàn Vrihedd. Quân Đoàn Số 3 bao gồm sư đoàn Alba, sư đoàn Deithwen và…umm. Sư đoàn…”
***
“Sư đoàn Ard Feainn,” Julia Abatemarco nói. “Nếu người của anh không nhầm lẫn gì. Họ thật sự có quân kỳ với hình mặt trời bạc in trên đó?”
“Vâng, thưa đại tá,” người chỉ huy trinh sát nói không lưỡng lự.
“Vậy là, Ard Feainn,” Mèo Con Xinh Xắn trầm ngâm. “Thú vị thật. Điều này có nghĩa là, trong ba cánh quân đang di chuyển mà anh đã thấy, không chỉ có Quân Đoàn Số 4 đến đánh chúng ta, mà còn gần như là toàn bộ Quân Đoàn Số 3 nữa. Ta không thể tin được, ta phải thấy tận mắt. Đại úy, hãy chỉ huy thay ta một lúc. Gửi ngay điện báo đến đại tá Pangratt…”
“Đại tá Abatemarco, có thật sự hợp lý không khi đại tá…”
“Đó là lệnh!”
“Tuân lệnh.”
“Đây là một canh bạc, đại tá,” người chỉ huy trinh sát hét lên qua tiếng vó ngựa rầm rập. “Chúng ta có thể gặp phải một toán trinh sát elves.”
“Đừng nói nữa! Dẫn đường đi!”
Họ phi qua thung lũng, qua một dòng suối, và vào rừng. Họ phải chậm lại vì ngựa vướng những bụi cây, và cũng bởi nguy cơ gặp phải một đội tuần tra của Nilfgaard. Mặc dù người chỉ huy trinh sát tiếp cận từ bên sườn quân địch, chứ không phải từ phía trước, vẫn có khả năng sườn bên được bảo vệ. Hành động của họ là rất liều lĩnh. Nhưng Mèo Con Xinh Xắn nổi danh vì sự vô tư của mình. Và không có người lính nào, trong toàn bộ Quân Đoàn Tự Do, là không sẵn sàng theo cô – thậm chí có phải xuống địa ngục.
“Ở đây,” người chỉ huy trinh sát nói. “Đây là tòa tháp.”
Julia Abatemarco lắc đầu. Tòa tháp vặn vẹo, đổ nát, đầy những cột chống gãy rời và lỗ hổng vá víu trên tường, rền rĩ như mấy chiếc kèn túi khi gió thổi qua. Không ai biết tại sao và bằng cách nào mà tòa tháp lại được xây tại nơi hoang vu thế này. Người ta chỉ biết rằng nó đã được xây từ rất lâu rồi.
“Nó sẽ không sập đấy chứ?”
“Chắc chắn là không, thưa đại tá.”
Trong Quân Đoàn Tự Do, các chỉ huy không dùng từ “ngài” hay “bà”. Chỉ dùng tước hiệu.
Julia nhanh nhẹn trèo lên đỉnh tháp. Người chỉ huy trinh sát bắt kịp cô sau một lúc, thở hồng hộc như một con trâu. Mèo Con Xinh Xắn đứng trên thành lũy, và quan sát đường chân trời qua một cái ống nhòm, lưỡi thè giữa hai hàm răng và ưỡn bụng ra. Trông thấy cảnh đó, người chỉ huy trinh sát cảm thấy một cơn kích động nhẹ. Tuy nhiên, vì sự an toàn của chính mình, anh ta nhanh chóng làm chủ nó.
“Thề trên linh hồn của tôi, Ard Feainn.” Julia Abatemarco liếm môi. “Ta có thể thấy lữ đoàn Daerlan Số 7, người elves của lữ đoàn Vrihedd, những người bạn cũ của chúng ta đến từ Maribor và Mayena…Aha! Có cả hình đầu lâu nữa, lữ đoàn Nauzicaa lừng danh…Ta còn trông thấy ánh sáng lóe lên từ áo giáp của sư đoàn Deithwen…Và quân kỳ trắng với hình đại bàng đen của sư đoàn Alba.”
“Đại tá nhận ra chúng ư,” người chỉ huy lầm bầm, “như những người bạn cũ vậy…Làm sao mà đại tá biết chúng?”
“Ta tốt nghiệp từ một học viện quân sự,” Mèo Con Xinh Xắn nói vô tư, như thể chẳng có gì to tát cả. “Ta là một sĩ quan chuyên nghiệp. Thôi, ta đã thấy những gì muốn thấy rồi. Hãy quay về doanh trại nào.”
***
“Hắn đã đem cả Quân Đoàn Kỵ Binh Số 4 và Số 3 đến đánh chúng ta.” Julia Abatemarco nói. “Tôi lặp lại, toàn bộ Quân Đoàn Kỵ Binh Số 4 và Quân Đoàn Số 3. Phía sau quân tiên phong, tôi thấy bụi bay mù trời. Ước tính có tầm 40 ngàn con ngựa, thậm chí nhiều hơn. Có thể…”
“Có thể Coehoorn đã chia Quân Chính Quy ra,” Adam ‘Adieu’ Pangratt, được chọn làm chỉ huy tối cao của Quân Đoàn Tự Do, nói nốt. “Có thể hắn chỉ đem theo Số 4 và kỵ binh từ Số 3, không có bộ binh, để hành quân nhanh hết mức có thể…Ha, cô biết tôi sẽ làm gì nếu ở vào vị trí của tổng chỉ huy Natalis hay vua Foltest không…”
“Tôi biết,” đôi mắt của Mèo Con Xinh Xắn ánh lên sự thích thú. “Tôi biết anh sẽ làm gì. Anh đã cử liên lạc viên tới chỗ họ chưa?”
“Đương nhiên.”
“Natalis là một con cáo già. Có thể ngày mai…”
“Có thể,” Adieu nói lại. “Tôi đoán ông ta nghĩ giống tôi. Đi với tôi, Julia, tôi muốn cho cô xem cái này.”
Họ chạy lên phía trước đoàn quân. Mặt trời đã gần chạm đỉnh đồi ở phía tây, khu rừng trở nên tối đi và thung lũng được bao phủ bởi một bóng đen trải dài. Tuy nhiên, trời vẫn còn đủ sáng để Mèo Con Xinh Xắn ngay lập tức nhận ra điều mà Pangratt đang muốn chỉ cho mình xem.
“Đây,” Adieu nói, xác nhận suy đoán của cô. “Nếu tôi chỉ huy lực lượng của chúng ta, đây sẽ là nơi mà tôi tổ chức trận chiến cho ngày mai.”
“Địa hình khá tốt,” Julia công nhận, “Cứng cáp, bằng phẳng, chúng ta có thể bố trí lực lượng ở đây…trên vùng đồng bằng đó. Và ngọn đồi kia là một chốt chỉ huy lý tưởng.”
“Cô nói đúng. Hãy nhìn thẳng vào giữa thung lũng, ở đó có một cái hồ. Chúng ta có thể sử dụng nó, con sông nhỏ ở kia rất thích hợp để dùng làm biên giới, bởi tuy nhỏ nhưng phía bờ rất lầy lội…Con sông tên là gì nhỉ Julia? Mà chúng ta đã đi qua ngày hôm trước ý. Cô có nhớ không?”
“Tôi quên rồi. Cái Thìa thì phải, tôi đoán vậy. Hay gì đó đại loại thế.”
***
“Những ai đã quen thuộc với địa hình khu vực xung quanh có thể dễ dàng hình dung ra toàn cảnh hơn là những người phải dựa vào bản đồ để tìm ra Brenna. Chính tại nơi này, đội quân hoàng gia đã có mặt. Thực ra thì chẳng có ngôi làng nào cả, bởi vì trong một trận chiến một năm về trước, các biệt đội elves đã chôn vùi nó xuống mặt đất. Tại đó, bên phía cánh trái là quân đội Redania, do Bá tước de Ruyter chỉ huy. Ông có 8 ngàn người, bao gồm bộ binh và kỵ binh.
Trung tâm của đội quân nằm dưới chân ngọn đồi, mà sau này được gọi là Đồi Gallow. Trên đỉnh đồi này là tổng chỉ huy của vua Foltest, John Natalis. Tại vị trí đó ông có một tầm nhìn hoàn hảo bao quát chiến trường. Bên dưới ông là lực lượng chính của quân đội chúng ta – 12 ngàn lính bộ binh Temeria và Redania bố trí thành bốn sư đoàn theo hình vuông, được bảo vệ bởi 10 lá quân kỳ của kỵ binh nặng, đứng ngay trên bờ bắc của cái hồ mà dân trong vùng gọi là Hồ Vàng. Trong khi đó, đội hình trung tâm cũng được bổ sung phòng tuyến thứ hai là lực lượng dự bị bao gồm 3 ngàn bộ binh Maribor và Vizima dưới sự chỉ huy của Tổng trấn Bronibor.
Từ bờ phía nam của Hồ Vàng, chạy vòng qua xuống Cholta, là các đơn vị quân cánh phải của chúng ta – trung đoàn Quân Tình Nguyện Mahakam bao gồm tám đơn vị kỵ binh nhẹ, và những người lính đánh thuê của Quân Đoàn Tự Do. Cánh phải được chỉ huy bởi Adam Pangratt và người lùn Barclay Els.
Cách xa quân đội hoàng gia gần hai dặm là quân đội của Nilfgaard đang di chuyển dưới sự chỉ huy của Nguyên soái Menno Coehoorn. Những đơn vị giáp trụ của họ đứng lừng lững như một bức tường sắt, các sư đoàn nối tiếp sư đoàn, lữ đoàn nối tiếp lữ đoàn, tiểu đoàn nối tiếp tiểu đoàn, xa ngút tầm mắt. Và qua những rừng cờ và kích có thể thấy đội hình của họ không những rộng, mà còn rất sâu.
Quân đội của Nilfgaard có khoảng 46 ngàn lính tại thời điểm đó, tuy nhiên chỉ có một số ít người biết điều này. Cũng rất may mắn, bởi vì sự quyết tâm của những người lính của chúng ta đã không lung lay trước sức mạnh đồ sộ của Nilfgaard.
Nhưng kể cả những trái tim quả cảm nhất cũng đập nhanh hơn trong lồng ngực, bởi vì rõ ràng là một trận chiến khốc liệt và đẫm máu sắp sửa diễn ra. Và nhiều người trong số đang đứng đây có thể sẽ không còn được nhìn thấy mặt trời lặn nữa.”
Jarre chỉnh lại cặp kính đang tuột xuống sống mũi của mình, và đọc lại toàn bộ những gì đã viết, thở dài, xoa xoa cái đầu trọc lốc, và xóa câu cuối cùng đi.
Gió thổi qua những tán cây bồ đề và những con ong kêu vo ve. Những đứa trẻ con, như trẻ con vẫn hay làm, cố gắng thi xem ai hét to hơn ai.
Một quả bóng nảy vào tường và đáp xuống gần chân ông già. Trước khi ông kịp cúi xuống, một đứa cháu trai của ông đã chộp lấy quả bóng và chạy mất. Khi thằng bé đi qua, nó đã đụng phải cái bàn. Jarre, tay phải cứu lấy lọ mực khỏi rơi, tay trái giữ lấy những cuộn giấy.
Những con ong vàng dính đầy phấn hoa từ cây bồ đề vo ve phía trên đầu ông già.
Jarre quay trở lại viết tiếp.
“Buổi sáng âm u, nhưng mặt trời chiếu xuyên qua những đám mây để nhắc nhở chúng ta về thời gian đang trôi qua. Gió thổi mạnh hơn, những lá cờ và quân kỳ bay phần phật như một bầy chim chuẩn bị rời tổ. Phía trước chúng ta, quân Nilfgaard không có động tĩnh, và tất cả bắt đầu thắc mắc tại sao Nguyên soái Menno Coehoorn vẫn chưa ra lệnh tấn công…”
***
“Khi nào à?” Menno Coehoorn ngước lên khỏi tấm bản đồ và nhìn vào các chỉ huy. “Các ngươi muốn biết khi nào ta ra lệnh tấn công?”
Không ai trả lời. Menno quan sát các sĩ quan của mình. Những kẻ trông có vẻ căng thẳng và lo âu nhất là những người phải ở lại trong quân dự bị. Elen Trahe, chỉ huy lữ đoàn Daerlan Số 7, và Kees van Lo của lữ đoàn Nauzicaa. Ouder de Wyngalt, phụ tá của Nguyên soái Coehoorn, cũng có vẻ rất lo lắng, mặc dù không phải ra chiến trường.
Trong khi đó những người trực tiếp chỉ huy trận đánh lại cực kỳ bình thản, thậm chí có phần chán chường. Marcus Braibant đang ngáp, Rhetz de Mellis–Stoke đang ngoáy tai bằng ngón tay bé xíu của mình. Đại tá Ramon Tyrconnel, vị chỉ huy trẻ của sư đoàn Ard Feainn, khẽ huýt sáo trong khi mắt lơ đễnh quan sát đường chân trời. Một sĩ quan trẻ có triển vọng khác, Đại tá Liam aep Muir Moss của sư đoàn Deithwen, đang lật qua một trong những tuyển tập thơ yêu thích của anh ta. Chỉ huy của sư đoàn giáo mác Alba, Tibor Eggebracht, đang gãi cằm bằng cán của một cây roi quất ngựa như một người đánh xe.
“Cuộc tấn công sẽ bắt đầu,” Coehoorn nói, “sau khi trinh sát quay lại. Ta cảm thấy lo về ngọn đồi ở hướng bắc. Trước khi chúng ta tấn công, các quý ngài, ta phải biết được có ai hay cái gì đằng sau ngọn đồi đó.”
***
Lamarr Flaut đang rất sợ hãi. Nỗi sợ túm chặt lấy bao tử anh ta, và ruột anh ta có cảm tưởng như những con lươn nhớp nháp chỉ muốn tìm đường thoát ra bên ngoài. Một giờ trước, đội tuần tra đã nhận được lệnh. Flaut, từ sâu trong tâm trí mình, cứ hy vọng rằng nỗi sợ sẽ bị nhấn chìm trong cái lạnh buổi sáng và thói quen, một nghi lễ mà anh ta đã làm mấy trăm lần. Nhưng anh ta đã nhầm. Giờ đây, sau một tiếng đồng hồ và đã đi 5 dặm đường, vào sâu trong lãnh địa của địch, nỗi sợ vẫn gặm nhấm anh ta.
Đội tuần tra dừng lại trên sườn đồi dưới chân khu rừng thông. Những kỵ sĩ được ngụy trang kín đáo nhờ những bụi bách xù rậm rạp. Phía trước họ là một thung lũng trải dài. Những hạt sương sớm vẫn còn đọng lại trên những ngọn cỏ.
“Không có ai.” Flaut nói. “Không một bóng người. Quay về thôi. Chúng ta đã đi quá xa rồi.”
Người trung sĩ liếc xéo anh ta. Xa? Họ mới chỉ đi được chưa đầy một dặm và di chuyển như rùa bò.
“Chúng ta nên,” anh ta nói, “sang phía bên kia ngọn đồi, trung úy. Chúng ta sẽ có tầm nhìn tốt hơn. Đặc biệt là đối với cả hai thung lũng. Từ đó, chúng ta có thể nhìn thấy có ai ở thung lũng bên kia. Ngài nghĩ sao? Chỉ đi thêm vài thước thôi.”
Vài thước, Flaut nghĩ. Trên địa hình trống trải, bằng phẳng như lòng chảo. Những con lươnquằn quại và tìm đường ra khỏi ruột anh ta. Flaut gần như cảm thấy một con đã đi đúng hướng.
Mình nghe thấy tiếng leng keng. Một con ngựa đang thở mạnh. Kia, ở giữa những cây thông, trên con dốc phủ cát đó. Có phải có thứ gì đó đang di chuyển không? Một bóng người? Chúng ta đang bị bao vây chăng?
Một lời đồn đại đã lan ra khắp đại bản doanh vào hôm qua, rằng các lính đánh thuê của Quân Đoàn Tự Do đã mai phục một nhóm tuần tra từ lữ đoàn Vrihedd và bắt sống được một người elves. Người ta đồn rằng hắn đã bị thiến, cắt lưỡi, và cắt luôn tất cả các ngón tay…Cuối cùng, chúng móc mắt hắn ra.
Và rồi họ cười đùa, nói rằng giờ đây hắn không thể vui vẻ với lũ điếm người elves của hắn nữa. Và hắn cũng chẳng thể xem người khác vui vẻ được.
“Thế nào, thưa ngài?” người trung sĩ nói bằng giọng khàn khàn. “Chúng ta có tiếp cận ngọn đồi không?”
Lamar Flaut nuốt nước bọt.
“Không,” anh ta nói. “Không nên phí thời gian nữa. Chúng ta không tìm thấy gì cả, không có kẻ địch nào ở đây. Chúng ta phải quay lại và báo cáo với chỉ huy. Đi thôi!”
***
Menno Coehoorn nghe bản báo cáo và ngước nhìn lên khỏi tấm bản đồ.
“Ra trận,” ông ta ra lệnh ngắn gọn. “Ngài Braibant, ngài Mellis–Stoke. Tấn công!”
“Hoàng đế vạn tuế!” Tyrconnel và Eggebracht hô lên. Menno nhìn họ với vẻ kỳ lạ.
“Ra trận,” ông ta lặp lại. “Cầu cho Mặt Trời Vĩ Đại sẽ soi sáng vinh quang của các ngươi.”
***
Milo Vanderbeck, một halfling và là một bác sĩ thực địa mà được biết đến nhiều hơn với cái tên Rusty, hít vào mùi iốt, amoniac, cồn, và thần dược đang lởn vởn trong căn lều. Ông muốn tận hưởng bầu không khí này, trong khi nó vẫn còn đang sạch sẽ, thuần khiết, và tiệt trùng. Ông biết nó sẽ không còn được như thế lâu nữa.
Ông nhìn vào cái bàn phẫu thuật, vẫn trắng như tuyết, và đồ nghề của mình, những dụng cụ tỏa ra sự tôn trọng và tin tưởng với chất thép lạnh lẽo, vô hồn và đe dọa. Hoàn toàn sạch sẽ, ngăn nắp và rất có thẩm mỹ.
Tập trung xung quanh chiếc bàn là dàn phụ tá nhộn nhịp của ông – 3 người phụ nữ. Không, Rusty tự đính chính lại trong đầu. Một người phụ nữ và hai cô gái. Không. Một người phụ nữ trung niên nhưng trông vẫn rất trẻ và xinh đẹp. Và hai đứa trẻ con.
Người nữ pháp sư và trị thương tên là Marti Sodegren. Và hai tình nguyện viên. Shani, một sinh viên đến từ Oxenfurt. Và Iola, một nữ tu đến từ Đền thờ Melitele ở Ellander.
Ta biết Marti Sodegren, Rusty nghĩ, ta đã từng làm việc cùng người đẹp này vài lần rồi. Hơi cuồng dâm một chút, cũng có triệu chứng thần kinh, nhưng chỉ cần cô ta vẫn làm phép được là ổn. Những câu thần chú gây mê, khử trùng và ngăn chảy máu trong.
Iola là một nữ tu, hay chính xác hơn là một học viên. Một cô gái với vẻ đẹp giản dị, như một tấm vải lanh, và đôi bàn tay to, khỏe của nông dân. Ngôi đền đã ngăn bàn tay đó khỏi lấm bẩn đất phù sa. Nhưng vẫn không thể che giấu được xuất thân của chúng.
Không, Rusty nghĩ, về nguyên tắc, ta không có gì phải sợ con bé cả. Đó là đôi bàn tay của người nông dân, đôi bàn tay có thể tin tưởng được. Thêm nữa, những cô gái đến từ đền thờ hiếm khi thất vọng, và trong những lúc căng thẳng không gục ngã, mà dựa vào tôn giáo của họ, vào niềm tin thần thánh của họ. Rất thú vị là nó lại có ích.
Ông nhìn vào Shani tóc đỏ, đang khéo léo xâu chỉ cho kim khâu vết thương.
Shani, một đứa trẻ xuất thân từ một nơi tồi tàn nhưng được nhận vào học tại trường nhờ niềm đam mê, khao khát trí thức vô tận và sự hy sinh không kể xiết của những bậc cha mẹ nghèo khó. Một cô nữ sinh. Con bé có thể làm gì đây? Xâu chỉ? Quấn băng?Giữ cặp? Ha, câu hỏi ở đây phải là khi nào thì con bé tóc đỏ ngất xỉu, đánh rơi cặp và ngã chúi mũi vào ổ bụng đang mổ của bệnh nhân?
Con người không được cứng cáp cho lắm, ông nghĩ. Ta đã bảo họ hãy đem cho ta một elf.
Hoặc ai đó cùng giống loài với ta. Nhưng họ không làm. Họ không tin chúng ta. Hay chỉ riêng ta cũng vậy. Ta là một halfling. Không phải con người. Một kẻ xa lạ.
“Shani!”
“Vâng, thưa ông Vanderbeck?”
“Rusty. Đối với cô thì là “ông Rusty”. Cái này là cái gì hả Shani? Nó dùng để làm gì?”
“Có phải ông đang kiểm tra tôi không, thưa ông Rusty?”
“Trả lời đi, cô gái!”
“Đây là một cái nạo. Dùng để vét vỏ xương trong lúc cưa chi! Để vỏ xương không bị vỡ dưới lưỡi cưa và khiến nhát cưa được gọn ghẽ! Ông đã hài lòng chưa? Tôi đã được ông chấp thuận chưa?”
“Trật tự, cô gái.”
Ông luồn tay qua mái tóc.
Thú vị thật, ông nghĩ. Có 4 bác sĩ ở đây. Và tất cả đều có tóc đỏ! Là định mệnh hay gì đây?
“Làm ơn hãy ra đứng trước lều”. Ông ra hiệu với các phụ tá của mình.
Họ vâng lời. Nhưng mỗi người đều lầm bầm cái gì đó trong mồm.
Phía trước lều là một nhóm quân y đang ngồi, tận hưởng những giây phút thư thái cuối cùng. Rusty nhìn nghiêm khắc và ngửi xem họ có say rượu không.
Người thợ rèn, một thanh niên cơ bắp, đang ngồi xếp lại những dụng cụ để trên ghế dùng để gỡ người bị thương ra khỏi những chiếc áo giáp hay mũ trụ bị giập nát và cong queo.
“Ở đó,” Rusty bắt đầu nói mà không chào hỏi, chỉ về phía chiến trường, “sắp sửa diễn ra một trận tắm máu. Và chỉ giây lát nữa thôi, chúng ta sẽ tiếp nhận người bị thương đầu tiên. Tất cả đã biết phải làm gì, vị trí của mình, và trách nhiệm của mình như thế nào rồi. Nếu cứ thực hiện đúng theo như vậy thì sẽ không có vấn đề gì cả. Đã rõ chưa?”
Các cô gái nghe lời ông mà không bình luận gì.
“Ở đó”, Rusty lại chỉ về hướng như lúc trước, “sắp sửa có hàng trăm ngàn con người cố gắng giết nhau. Bằng nhiều cách tinh vi khác nhau. Ở đây, và hai bệnh viện nữa, có tổng cộng 12 bác sĩ. Chúng ta không thể nào cứu được hết tất cả mọi người. Thậm chí không thể cứu được một phần nhỏ trong số đó. Và nói để tất cả biết sự thật, không ai trông đợi điều đó từ chúng ta cả. Nhưng chúng ta vẫn sẽ cứu họ. Bởi vì đó, xin lỗi có hơi sến một chút, chính là lý do mà chúng ta tồn tại. Đối với những người cần chúng ta.”
Các thính giả của ông tiếp tục im lặng. Rusty nhún vai.
“Chúng ta không thể làm nhiều hơn những gì có thể,” ông nói, chậm rãi hơn và nồng ấm hơn. “Nhưng chúng ta sẽ làm hết tất cả những gì có thể, và không ít hơn.”
***
“Chúng đang tấn công,” Tổng chỉ huy Natalis nói trong khi chùi mồ hôi túa ra từ lòng bàn tay lên quần. “Quân Nilfgaard đang tấn công, thưa ngài, chúng đang đến chỗ chúng ta!”
Vua Foltest kiểm soát con ngựa đang nhảy múa của mình, một con bạch mã với hình huệ trắng trang trí trên yên, và quay gương mặt quý phái, xứng đáng với hình khắc trên những đồng vàng, về phía tổng chỉ huy.
“Chúng ta phải chuẩn bị tiếp đón chu đáo, ngài tổng chỉ huy! Các sĩ quan!”
“Cái chết cho bọn Áo Đen!” Adam “Adieu” Pangratt và Bá tước de Ruyter hô to. Ngài tổng chỉ huy ngồi thẳng dậy trên yên ngựa và hít vào một hơi thật sâu.
“Ra trận!”
Tiếng trống và kèn trận vang lên. Mặt đất rung chuyển bên dưới hàng trăm ngàn vó ngựa.
***
“Giờ thì,” halfling Andy Biberveldt nói, vén những lọn tóc của mình ra khỏi tai, “trận chiến đã bắt đầu…”
Tara Hildebrandt, Didi Hofmeier, và những người còn lại đang vây xung quanh chiếc xe gật đầu. Họ có thể nghe thấy tiếng vó ngựa thình thịch từ phía sau ngọn đồi và khu rừng. Họ có thể cảm nhận mặt đất đang rung chuyển.
Và rồi, từ đằng xa sau cánh rừng, bắt đầu xuất hiện những tiếng kêu la. Và âm lượng ngày càng lớn dần lên.
“Loạt tên đầu tiên từ các cung thủ,” Andy, người mà đã từng nhìn thấy – hay đúng hơn là nghe kể về – nhiều trận chiến, nói một cách chuyên nghiệp. “Rồi sẽ có một đợt nữa.”
Anh ta đã đúng.
“Và giờ, họ sẽ đâm vào nhau.”
“Có…có thể…chúng ta…có thể trốn…dưới gầm xe.” William Hardbottom đề nghị, lắp bắp và rên rỉ.
Biberveldt và những người khác nhìn gã halfling với ánh mắt thương hại. Dưới gầm xe? Để làm gì? Nơi họ đang ở cách xa trận chiến đến gần một phần tư dặm. Và kể cả nếu có một toán tuần tra đến đây, trốn dưới gầm xe thì cứu được mạng của ai?
Âm thanh từ trận đánh ngày càng tăng dần.
“Ngay bây giờ,” Andy Biberveldt dự đoán và lại chính xác. Từ cách xa gần một phần tư dặm qua cánh rừng vọng lại tiếng quân đội hoàng gia va chạm với sắt thép và một âm thanh làm dựng tóc gáy.
Những tiếng rên rỉ tuyệt vọng , khủng khiếp và hoang dại của những con thú đang bị cắt xén.
“Kỵ binh…” Biberveldt liếm môi. “Kỵ binh bị xiên trên giáo…”
***
Nhà chép sử già nua dùng miếng tẩy và xóa câu tiếp theo, không hài lòng với những gì mà mình viết. Ông nhắm mắt, cố nhớ lại ngày hôm đó. Khoảnh khắc mà hai đoàn quân va vào nhau. Khi hai đội quân, dữ tợn như những con chó ngao, nhảy vào họng nhau, khóa chặt trong một cái ôm chết chóc.
Jarre cố tìm từ để diễn tả điều đó.
Trong vô vọng.
***
Một chiếc dùi đã đục vào bên sườn của bộ binh Temeria. Một cây cọc sống khổng lồ của sư đoàn Alba, nghiền nát mọi thứ bảo vệ thân thể những người lính bộ binh – giáo, chĩa, khiên, và kích.
Sư đoàn Alba đâm như một con dao vào một cơ thể sống và làm nó chảy máu. Những con ngựa trượt ngã trên nền đất trơn tuột. Nhưng mặc dù đầu mũi dao đâm vào rất sâu, nó vẫn chưa làm bị thương trái tim hay bất cứ cơ quan nội tạng quan trọng nào cả. Chiếc dùi của sư đoàn Alba, thay vì nghiền nát và chặt đứt bộ binh Temeria, lại đâm vào và bị kẹt trong đó. Họ kẹt giữa hàng ngàn bộ binh dày đặc.
Ban đầu, trông không có vẻ đe dọa lắm. Đầu và hai cánh của chiếc dùi được tạo nên từ các đơn vị quân tinh nhuệ mang giáp nặng. Những đòn tấn công bật ra khỏi áo giáp và khiên của họ như những chiếc búa thợ rèn bật khỏi đe. Họ cũng đã trang bị rất chắc chắn cho thú cưỡi. Và tuy rằng thỉnh thoảng lại có một người ngã xuống cùng với con ngựa của mình, những đường kiếm và lưỡi rìu của họ vẫn rơi giữa hàng bộ binh như một vụ gặt đẫm máu. Bị bao vây tứ phía, sư đoàn bắt đầu tiến vào sâu hơn.
“Albaaa!” Thiếu úy Delvin aep Meara nghe thấy tiếng hô xung trận của đại tá Eggebracht, vang lên phía trên những tiếng va chạm của vũ khí, tiếng người hét và tiếng ngựa hý. “Tiến lên, Alba! Vì hoàng đế!”
Họ tiến về phía trước, chặt, đâm và chém. Bên dưới những vó ngựa miễn cưỡng có thể nghe thấy máu chảy, giáp trụ vỡ nát và người rên rỉ.
“Albaaa!”
Chiếc dùi lại kẹt lần nữa. Lực lượng bộ binh, tuy bị nghiền nát và chảy máu, vẫn không chịu nhường bước và bao vây lấy kỵ binh. Mặt đất rung chuyển. Bên dưới những mũi kích và lưỡi búa, lớp đầu tiên của chiếc dùi đã tan rã. Bị đâm bởi giáo, đập bởi chùy, bị kéo khỏi ngựa bằng móc câu, các hiệp sĩ của sư đoàn Alba bắt đầu chết.
Con dao kẹt trong bộ binh Temeria mà vừa phút trước còn như mũi sắt đâm vào cơ thể sống, thì giờ giống một chỏm băng trong bàn tay người nông dân.
“Temeriaaa! Vì đức vua! Giết bọn Áo Đen!”
Không dễ dàng chút nào cho bộ binh. Sư đoàn Alba đã không tan tác ra. Kiếm và rìu giơ lên rồi hạ xuống, và cho mỗi một kỵ sĩ ngã xuống, những người lính bộ binh can trường phải trả một cái giá bằng máu.
Một đầu mũi giáo đã tìm được đường vào khe hở trên áo giáp của Eggebracht và đâm vô đó. Người đại tá kêu lên và lắc lư trên yên ngựa. Và trước khi lính của ông kịp giúp, trận chiến đã kéo ông xuống dưới mặt đất và bộ binh tràn qua người ông.
Lá quân kỳ đại bàng đen lung lay và đổ xuống. Các kỵ binh hạng nặng, trong số đó có thiếu úy Delvin aep Meara, tăng tốc về phía đó, chặt, chém, giẫm đạp và la hét.
Mình tự hỏi, Delvin aep Meara nghĩ, trong khi rút thanh kiếm ra khỏi hộp sọ vỡ nát của mộtngười lính Temeria. Mình tự hỏi, anh ta nghĩ, trong khi chặn lại một cú đánh nhằm vào người, mục đích của tất cả những việc này là gì? Và ai phải chịu trách nhiệm?
***
“Ờ…và sau đó, các Pháp Sư Vĩ Đại đã họp tại…Đức mẹ đáng kính của chúng ta…ờ…mà sẽ sống mãi trong ký ức của chúng ta…bởi vì…à…những nhà vô địch vĩ đại của Hội đầu tiên…đã bàn bạc…và quyết định…”
“Em đã không chuẩn bị bài, học viên Abonde. Trượt. Ngồi xuống đi.”
“Nhưng em có học mà. Thật đó…”
“Ngồi xuống.”
“Tại sao họ lại phải dạy mấy thứ vớ vẩn cũ kỹ này chứ,” Abonde lầm bầm trong lúc ngồi xuống. “Thời buổi bây giờ ai thèm quan tâm đến nó…Và có được cái tích sự gì đâu…”
“Trật tự đi! Học viên Nimue!”
“Có mặt, thưa cô.”
“Em có thể trả lời được câu hỏi không? Nếu không thì ngồi thẳng lên và đừng làm tốn thời gian của tôi.”
“Em có.”
“Vậy thì tôi nghe đây.”
“Vậy là như đã ghi trong biên niên sử, rằng cuộc họp của các pháp sư đã diễn ra ở Lâu Đài Núi Trọc và họ đã nhất trí là sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh hủy diệt giữa Hoàng đế và các Vua phương Bắc. Đức Mẹ Assire, đức thánh nữ, đã quyết định rằng các nhà cai trị sẽ không dừng tranh chấp lại cho đến khi kiệt sức hoàn toàn. Trong khi đó, Đức Mẹ Philippa, đức thánh nữ, đã quyết định: “Hãy cho họ một trận chiến kinh hoàng, tàn ác và đẫm máu ngoài sức tưởng tượng. Một trận chiến chưa từng có. Và quân đội đế chế cùng binh lính của các vị vua sẽ tắm trong máu của trận chiến đó, và rồi chúng ta, Hội Pháp Sư Vĩ Đại, sẽ bắt họ phải làm hòa.” Và đó chính xác là những gì đã diễn ra. Các Đức Mẹ đã tạo ra Trận Brenna. Để các nhà cai trị buộc phải ký kết Hiệp ước Cintra sau này.”
“Tốt lắm, học viên Nimue. Tôi lẽ ra đã cho em một điểm A…nếu không vì từ “vậy là” ở đầu câu nói. Đừng có bắt đầu một câu bằng từ “vậy là”. Ngồi xuống đi. Và giờ, chúng ta sẽ nói đến Hiệp ước Cintra…”
Chuông reo báo giờ ra chơi. Nhưng các học viên không vội đứng lên và bỏ chạy. Họ giữ bình tĩnh và phẩm hạnh của mình, một vẻ bình thản đặc trưng.
Họ không phải những cô nhóc năm nhất nữa. Họ đã là năm thứ ba rồi. Họ đã gần 14 tuổi rồi. Và đó là điều quan trọng.
***
“Đây là giải pháp duy nhất,” Rusty đánh giá tình hình vết thương của bệnh nhân đầu tiên, người đang nằm chảy hết máu ra cái bàn phẫu thuật sạch sẽ. “Xương đùi đã gãy. Động mạch vẫn chưa bị cắt, nếu không thì người ta đã mang một cái xác vào đây rồi. Trông có vẻ như là một vết rìu chặt. Chiếc yên ngựa đã đóng vai trò như một cái thớt. Các cô có thể thấy ở đây…”
Iola và Shani cúi xuống người lính bị thương, Rusty xoa hai lòng bàn tay vào với nhau.
“Như tôi đã nói, chẳng có gì để chữa ở đây cả. Chúng ta phải cắt bỏ nó thôi. Làm việc nào. Iola, lấy nẹp ra. Kẹp chặt vào nữa đi. Shani, dao mổ. Không phải cái đó. Cái to hơn dùng để cưa ý.”
Người đàn ông bị thương tiếp tục bắn về phía bàn tay họ những ánh mắt khiếp đảm, theo dõi họ qua đôi mắt của một con thú bị bẫy trong chuồng.
“Một chút ma thuật nào, Marti.” Người halfling cúi gần xuống bệnh nhân để thu hẹp tối đa tầm nhìn lại.
“Tôi sẽ phải cưa nó thôi, con trai.”
“Khôôôông!” người đàn ông bị thương nói, lắc đầu quầy quậy, có gắng thoát ra khỏi đôi tay của Marti Sodergren. “Tôi không muốn!”
“Tôi phải cưa nó đi không anh sẽ chết!”
“Tôi thà chết…” Cử động của người đàn ông trở nên chậm dần dưới tác dụng của ma thuật. “Tôi thà chết còn hơn bị cắt xén…hãy để tôi chết…tôi xin ông…hãy để tôi chết!”
“Tôi không thể,” Rusty nhấc cao con dao và nhìn vào lưỡi thép nguyên chất sáng loáng. “Tôi không thể để anh chết. Tôi là một bác sĩ.”
Ông ấn mạnh con dao vào trong da và cắt sâu xuống. Người đàn ông tru lên. Âm thanh man rợ nghe không giống người.
***
Người liên lạc viên dừng con ngựa lại đột ngột đến nỗi có tia lửa tóe ra bên dưới móng của nó. Hai người phụ tá giữ dây cương và trấn an con vật. Người liên lạc viên quỳ xuống đất.
“Ngươi là ai?” John Natalis hỏi. “Ai đã cử ngươi đến?”
“Lãnh chúa de Ruyter…” người liên lạc viên thở khò khè. “Chúng tôi đã chặn được bọn Áo Đen, nhưng tổn thất quá lớn. Lãnh chúa de Ruyter đang yêu cầu cứu viện.”
“Không,” Tổng chỉ huy trả lời sau một phút im lặng. “Các ngươi phải cầm cự thôi. Các ngươi bắt buộc phải cầm cự!”
***
“Nhìn đây,” Rusty nói, tay chỉ như một người sưu tầm đang giới thiệu bộ sưu tập của mình. “Hãy nhìn vết cắt tạo nên từ một nhát chém vào bụng. Có ai đó đã nhanh chân hơn chúng ta và thực hiện ca mở bụng nghiệp dư này. May là anh ta đã được cẩn thận đưa vào đây và chưa mất bộ phận nội tạng quan trọng nào…Ít ra thì tôi hy vọng thế…Sao vậy, Shani? Mặt cô làm sao thế?
Đến giờ phút này mà cô mới chỉ nhìn thấy bên ngoài của một người đàn ông hay sao?”
“Ruột đã bị hư hại, thưa ông Rusty…”
“Một chẩn đoán chính xác đến mức dĩ nhiên! Tôi chả cần phải nhìn, ngửi thôi là biết rồi. Đưa tôi một cái khăn, Iola. Marti, anh ta vẫn mất nhiều máu quá, hãy tốt bụng và cho chúng tôi chút ma thuật quý báu của cô nào. Shani, kẹp vào đây, cô có thể thấy anh ta đang mất rất nhiều máu. Iola, dao mổ.”
“Ai thắng?” người lính khá tỉnh táo, đôi mắt anh ta lồi ra. “Nói cho tôi biết…ai thắng?”
“Cậu trai à,” Rusty nói, cúi người xuống bên cái lỗ to đùng, máu me trên bụng anh ta. “Đó sẽ là thứ mà tôi ít quan tâm đến nhất nếu tôi là cậu.”
***
“Phía bên cánh trái và trung tâm, một cuộc giao tranh dữ dội vẫn đang tiếp tục, nhưng dù cho quân Nilfgaard có mạnh và kiên cường đến đâu, họ vẫn tan tành trước quân đội của các vị Vua như cơn sóng đánh vào những tảng đá. Bởi vì nơi đó được trấn giữ bởi những người lính can trường đến từ Maribor, Vizima, và Tretogor. Và đối với những bộ binh hung tợn, những lính đánh thuê chuyên nghiệp, các kỵ binh không làm họ sợ hãi.
Và họ đã chiến đấu, đúng như biển cả đánh vào những tảng đá, và tiếp tục chiến đấu, và không thể nào đoán được ai sẽ thắng, vì mặc cho những cơn sóng cứ vỗ liên tiếp, tảng đá vẫn không hề suy chuyển. Và nó cứ đứng đó giữa biển cả thét gào.
Như một con diều hâu khôn ngoan, biết khi nào thì tấn công và khi nào thì rút lui, Nguyên soái Menno Coehoorn biết chính xác phải đánh vào đâu. Với nắm tay sắt được tổng hợp nên từ sư đoàn Deithwen và sư đoàn Ard Feainn, ông đã tấn công vào hàng ngũ quân địch ngay phía trên Hồ Vàng. Nơi đó được bảo vệ kiên cường bởi những người lính đến từ Brugge, nhưng họ được trang bị kém hơn và sĩ khí thấp hơn. Họ chỉ suýt soát chặn được bước tiến của quân Nilfgaard. Trong một hơi thở nhẹ nhõm, hai lá cờ của Quân Đoàn Tự Do, dưới sự chỉ huy của Adam Pangratt, đã đến cứu nguy và đập tan mũi tiến công của Nilfgaard. Song cả hai bên đều đã tổn thất quá nhiều.
Tuy nhiên, những người lùn của trung đoàn Quân Tình Nguyện đang phải đối mặt với sự vây hãm khủng khiếp và nguy cơ bị chọc xuyên qua, đe dọa sẽ làm vỡ đội hình của quân đội hoàng gia.”
Jarre chấm bút vào lọ mực. Những đứa cháu của ông đang chơi ngoài vườn, tiếng cười đùa của chúng vang lên như những tiếng nhạc chuông.
“Nhìn thấy mối đe dọa, John Natalis ngay lập tức hiểu được chuyện gì đang diễn ra. Và không chần chừ, ông gửi tin báo đến đại tá Els…”
***
Trong sự ngây thơ tuổi 17 của mình, Aubrey, người cầm cờ, nghĩ rằng cậu có thể chạy xuống cánh phải, đưa tin, và quay trở lại đỉnh đồi trong vòng chưa đến 10 phút. Chắc chắn không hơn! Chắc chắn không phải trên Chiquita, con ngựa nhanh nhẹn của cậu.
Ngay cả trước khi kịp đến Hồ Vàng, người cầm cờ nhận ra hai điều – cậu không biết khi nào mình sẽ đến đó và khi nào mình sẽ quay lại. Và đôi chân thoăn thoắt của Chiquita sẽ rất có ích cho cậu. Phía bờ đông của Hồ Vàng, chiến trận vỡ ra. Bọn Áo Đen đấu lại kỵ binh từ Brugge, đang bảo vệ bộ binh. Trước mắt người cầm cờ, từ trung tâm trận chiến, những kỵ sĩ mặc áo choàng xanh, vàng và đỏ đang phi nước đại về phía dòng sông. Đằng sau họ, như một dòng nước đen, la liệt xác lính Nilfgaard đổ rạp xuống.
Aubry giật dây cương, dừng con ngựa lại, sẵn sàng tránh ra khỏi đường của những kẻ trốn chạy và những người truy đuổi. Nhưng ý thức nghĩa vụ của cậu đã chiến thắng. Người cầm cờ bám vào cổ con ngựa và phi nước đại.
Xung quanh cậu là những tiếng la hét và hỗn loạn, những bóng hình lẫn lộn với nhau như nhìn qua lăng kính vạn hoa, những ánh thép lóa lên từ những thanh kiếm.
Một vài người từ Brugge bắt đầu lui về phía hồ và chiến đấu tuyệt vọng, quây quần xung quanh lá cờ hình mỏ neo chéo của họ. Trên trận địa, bọn Áo Đen đang giết lính bộ binh giờ đây đã không còn được hỗ trợ nữa.
Một tấm áo choàng đen in hình mặt trời bạc bay trước mắt cậu.
“Evgyr, Nordling!”
Aubry hét lên và Chiquita, bị kích động bởi tiếng hét, lao lên phía trước, cứu thoát cậu khỏi tầm với của thanh kiếm của tên Nilfgaard. Phía trên đầu cậu, những mũi tên huýt sáo và nháng lên giữa những bóng người mờ nhạt.
Mình đang ở đâu đây? Chúng ta đang ở đâu đây? Kẻ địch ở phía nào?
“Evgyr, Norling!”
Tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng ngựa hý vang, tiếng vũ khí va chạm, tiếng la hét.
“Dừng lại, thằng nhãi kia! Không phải lối đó!”
Một giọng nữ. Một người phụ nữ ngồi trên một con ngựa màu hạt dẻ, bận giáp, mái tóc rối bù và gương mặt đầy máu. Phía sau cô là những kỵ sĩ khác.
“Ngươi là ai?” cô hỏi, chùi máu trên mặt bằng mu bàn tay đang cầm thanh kiếm.
“Lính cầm cờ Aubry, thiếu úy dưới quyền tổng chỉ huy Natalis…Truyền lệnh đến cho đại tá Pangratt và Els…”
“Ngươi không thể nào đi xuyên qua chiến trường đến chỗ của “Adieu” được. Chúng ta sẽ đến chỗ người lùn. Ta là Julia Abatemarco…Mẹ kiếp! Chúng đang thọc sườn chúng ta! Đi thôi!”
Cậu không có thời gian để phản đối. Và kể cả thế thì nó cũng không có ý nghĩa là bao.
Sau một hồi phi điên dại, họ xuất hiện từ sau làn bụi ra phía trước tiểu đoàn bộ binh, lúc này đang phải tự bảo vệ bản thân mình, như những con rùa, với một bức tường khiên tua tủa giáo giống lưng một con nhím. Phía trên tiểu đoàn là một lá cờ khổng lồ với hình hai chiếc búa bắt chéo bên cạnh một đống xương sọ và đuôi ngựa.
Tiểu đoàn, di chuyển và bay nhảy xung quanh như một con chó cố thoát khỏi một lão già cầm gậy, đang bị tấn công bởi Nilfgaard. Bởi sư đoàn Ard Feainn, những người với hình mặt trời bạc in trên áo choàng, khiến họ không thể bị nhầm lẫn với ai khác.
“Tấn công, Quân Đoàn Tự Do!” người phụ nữ hét lên, giơ cao thanh kiếm. “Hãy bắt chúng trả giá!”
Các kỵ sĩ – cùng với Aubry – xông vào quân Nilfgaard.
Trận chiến chỉ diễn ra vỏn vẹn vài phút. Nhưng vô cùng ác liệt.
Và rồi bức tường khiên mở ra trước họ. Họ đang ở bên trong khối vuông, bên trong một vòng tròn người lùn bận giáp sắt và mũ trụ, giữa bộ binh Redania, kỵ binh Brugge và các lính đánh thuê mang giáp nhẹ.
Julia Abatemarco – Mèo Con Xinh Xắn, Chỉ huy của lực lượng lính đánh thuê – người mà đến lúc này Aubry mới nhận ra – dẫn cậu đến trước một người lùn mập mạp đội một chiếc mũ gắn một chiếc lông chim màu đỏ, ngồi trên một con ngựa giống Nilfgaard chiến lợi phẩm với bộ yên cương cao, mà nhờ vậy ông ta có thể nhìn qua đầu lính của mình để quan sát trận địa.
“Đại tá Barclay Els?”
Người lùn gật gù cái đầu, nhìn vào những vệt máu bê bết trên người đưa tin và con ngựa của cậu ta. Aubry bỗng dưng đỏ mặt. Đó là máu của một người Nilfgaard mà một trong các lính đánh thuê đi cùng đã giết ngay bên cạnh cậu. Cậu thậm chí còn chưa rút kiếm ra khỏi vỏ.
“Lính cầm cờ Aubry…”
“Con trai của Anzelm Aubry?”
“Con út.”
“Ha! Ta biết cha ngươi! Ngươi mang đến cho ta tin gì từ Natalis và Foltest nào, lính cầm cờ?”
“Đội hình trung tâm đang có nguy cơ bị chọc thủng, tổng chỉ huy đã ra lệnh cho ngài đưa quân về giữa Hồ Vàng và bờ sông Cholta…Để hỗ trợ…”
Những lời tiếp theo của cậu bị nhấn chìm bởi những tiếng la hét và ngựa hý vang lên điếc tai. Aubry nhận ra mệnh lệnh mà cậu mang đến đây vô dụng như thế nào. Rằng những mệnh lệnh này có ý nghĩa gì đối với Barclay Els, đối với Julia Abatemarco, đối với người lùn đang cầm lá cờ với hình búa bắt chéo, những người mà đang bị quân Nilfgaard bao vây từ mọi phía.
“Tôi đã đến trễ…” cậu rên lên. “Tôi đã đến quá trễ.”
Mèo Con Xinh Xắn xù lên như một con mèo thật. Barclay Els nghiến răng.
“Không, lính cầm cờ à.” ông ta nói. “Nilfgaard đã đến quá sớm.”
***
“Xin chúc mừng, các quý cô, và cả tôi nữa, vì cuộc giải phẫu thành công ruột non, ruột già, cắt lá lách và khâu gan. Hãy chú ý là chúng ta đã phải mất bao lâu để đảo ngược lại hậu quả đã gây ra đối với bệnh nhân chỉ tích tắc trên chiến trường. Tôi muốn cung cấp điều này làm tư liệu cho triết học. Khâu bệnh nhân lại nào, cô Shani.”
“Nhưng tôi chưa làm việc này bao giờ, ông Rusty!”
“Thì bây giờ là lúc cô bắt đầu làm. Khâu chỉ đỏ với chỉ đỏ, chỉ vàng với chỉ vàng, và chỉ trắng với chỉ trắng. Và rồi mọi thứ sẽ ổn.”
***
“Ngươi nói cái gì?” Barclay Els hỏi, lúc lắc chòm râu. “Ngươi vừa nói cái gì hả con trai út của Anzelm Aubry? Ngươi nghĩ chúng ta đang ngồi chơi ở đây sao? Chúng ta đang bị Nilfgaard tấn công! Không phải lỗi tại chúng ta mà những người lính đến từ Brugge không thể trụ nổi!”
“Nhưng mệnh lệnh…”
“Ta chẳng quan tâm mẹ gì đến lệnh nào cả!”
“Nếu chúng ta không đóng khoảng trống lại,” cậu hét lên qua những âm thanh ầm ĩ, “bọn Áo Đen sẽ chọc xuyên qua chiến tuyến! Chúng sẽ chọc xuyên qua chiến tuyến và mở toang đội hình của chúng ta, Barclay! Ngài phải đến đó!”
“Chúng ta sẽ bị tàn sát hết trước khi đến nơi! Chúng ta sẽ chết không vì cái gì cả!”
“Vậy ngài đề nghị sao đây?”
Người lùn chửi rủa điên cuồng, cởi mũ ra và ném xuống đất. Đôi mắt ông ta hoang dại, khủng khiếp và đỏ ngầu. Chiquita, hoảng hốt vì tiếng gầm, giật giật sợi dây cương.
“Đưa Yarpen Zigrin và Dennis Cranmer đến đây cho ta! Nhanh lên!”
Hai người lùn bước ra từ nơi ác liệt nhất trên chiến trường. Có thể thấy rõ ràng bởi vì cả hai đều bê bết máu. Áo giáp của một người bị một vết chém cắt vào rất sâu. Người còn lại thì quấn một dải băng đỏ thẫm trên đầu.
“Anh có ổn không, Zigrin?”
“Tôi thắc mắc,” người lùn thở dài, “tại sao ai cũng hỏi mình câu đấy thế nhỉ?”
Barclay quay đầu nhìn về phía người đưa tin của tổng chỉ huy.
“Đây là con trai út của Anzelm. Tổng chỉ huy và đức vua đã ra lệnh cho chúng ta di chuyển ra phía trước để hỗ trợ. Hãy mở to mắt ra mà xem nhé, lính cầm cờ. Bởi vì sẽ có thứ để xem đấy!”
***
“Chết tiệt!” Rusty nguyền rủa, bước ra xa khỏi bàn phẫu thuật, vung vẩy con dao mổ. “Tại sao? Tại sao lại phải như vậy?”
Không ai trả lời. Marti Sodergren chỉ xòe tay ra. Shani cúi đầu và Iola khẽ sụt sịt.
Đôi mắt của bệnh nhân vừa chết nhìn lên trần nhà, trống rỗng và vô hồn.
***
“Đánh! Giết! Giết lũ chó đẻ này!”
“Theo nhịp!” Barclay Els hét lên. “Di chuyển cùng một hướng! Giữ chặt đội hình! Đứng thành nhóm! Nhóm!”
Sẽ không ai tin mình, lính cầm cờ Aubry nghĩ trong đầu. Khi mình kể lại chuyện này, sẽ không ai tin cả. Tiểu đoàn đã mở được đường máu ra khỏi một cuộc vây hãm…Bị kỵ binh bao vây tứ phía, bị đánh đập, hành hạ…Vậy mà họ vẫn tiến lên. Di chuyển cùng một nhịp, trong đội hình chặt chẽ, khiên giáp khiên. Tiến về phía trước, giẫm đạp trên xác chết, đẩy lùi sư đoàn Ard Feainn tinh nhuệ…Họ đang tiến lên.
“Đánh!”
“Giữ nhịp! Di chuyển cùng một hướng!” Barclay Els lại hét lên. “Giữ đội hình! Hát lên, lũ con hoang này, hát lên! Bài ca của chúng ta! Tiến lên, vì Mahakam!”
Từ cổ họng của hàng ngàn người lùn vang lên bài ca xung trận của Mahakam.
Hoooouuu! Hoooouuuu! Hou!
Đợi đã, các anh em!
Rồi các ngươi sẽ sớm xuống địa ngục!
Căn nhà thổ này sẽ sập đổ!
Sập xuống tận nền móng!
Hooouuuuu! Hooooouuuuu! Hou!
“Đánh, Quân Đoàn Tự Do!” Giữa những tiếng hò reo vang dội của người lùn là chất giọng lanh lảnh sắc nhọn của Julia Abatemarco, cất lên như một lưỡi dao nhân từ mỏng manh. Người nữ chiến binh đã rời đội hình và tổ chức phản công lại kỵ binh Nilfgaard. Đó quả thực là một hành động tự sát – vì không được bảo vệ bởi kích, giáo, và khiên của người lùn, các lính đánh thuê hoàn toàn sơ hở trước đòn tấn công của Nilfgaard. Tiếng đập phá, la hét và ngựa hý làm người cầm cờ co lại trên yên ngựa theo bản năng. Có cái gì đó đã đánh vào lưng cậu. Cậu cảm thấy con ngựa của mình như kẹt giữa một cái cối xay và bị kéo lê ra giữa trung tâm của sự hỗn loạn và chết chóc. Cậu nắm chắc chuôi kiếm, mà giờ đây có vẻ trơn tuột và vướng víu một cách kỳ lạ.
Sau một lúc, cậu bị kéo qua hàng khiên và bắt đầu chặt chém xung quanh như thể bị ma nhập.
“Lần nữa!” cậu lại nghe thấy tiếng hét hoang dại của Mèo Con Xinh Xắn. “Đánh một lần nữa! Giữ vững, các chàng trai! Giết! Giết! Vì những đồng vàng sáng chói như mặt trời! Theo ta, Quân Đoàn Tự Do!”
Một kỵ binh Nilfgaard không đội mũ, mặc tấm áo choàng in hình mặt trời bạc, vượt qua hàng khiên. Đứng trên bàn đạp, hắn cắm chiếc rìu vào một người lùn đang không được bảo vệ bởi khiên, bửa vỡ đầu một người lùn khác. Aubry quay người trên yên ngựa và phạt một nhát ngang. Đầu của tên Nilfgaard rơi xuống. Cùng lúc đó, người cầm cờ nhận một cú đập vào trán và ngã khỏi yên ngựa. Đám đông xung quanh đã đỡ cậu khỏi rơi xuống đất ngay lập tức, và trong một khoảnh khắc, cậu lơ lửng giữa thiên đàng và trái đất. Mặc dù vô cùng sợ hãi, song cậu không phải chịu đau đớn lâu. Ngay khi chạm xuống đất, đầu của cậu bị vó ngựa nghiền nát.
***
Sau 65 năm, mỗi khi được hỏi về ngày hôm đó, về trận chiến ở Brenna, về tiểu đoàn bộ binh đã hành quân qua xác kẻ thù và bạn bè, tiến về phía Hồ Vàng, người phụ nữ già nua lại mỉm cười, làm những nếp nhăn trên khuôn mặt bà càng nhăn nheo hơn. Thiếu kiên nhẫn – hoặc giả vờ là thiếu kiên nhẫn – bà vẫy bàn tay run rẩy, xương xẩu, vặn vẹo vì viêm khớp của mình.
“Không phe nào,” bà ngọng nghịu, “có lợi thế hơn cả. Chúng ta đang ở giữa và bị bao vây tứ phía. Họ tấn công chúng ta từ mọi bên. Chúng ta chỉ biết giết thôi. Họ giết ta, và ta giết họ…họ giết ta, và ta giết họ…”
Người phụ nữ kiểm soát cơn ho một cách khó khăn. Những người ngồi gần đấy nhất trông thấy bà lau đi một giọt nước mắt, đang lăn xuống mê cung tạo nên từ những nếp nhăn và vết sẹo trên gương mặt bà.
“Họ đã dũng cảm như chúng ta,” bà thì thầm. “…và chúng ta cũng mạnh mẽ và hung tợn và can trường như họ. Chúng ta và họ…”
Bà ngừng lại. Trong một thời gian dài. Những người ngồi nghe giục bà, và nhìn bà mỉm cười khi nhớ lại những ký ức hào hùng đó. Mỉm cười với những gương mặt phai mờ đã sống sót qua làn sương mù của lãng quên. Những gương mặt mà không thể bị giết đi bởi rượu, thuốc lá hay bệnh lao phổi.
“Chúng ta đã dũng cảm như nhau,” Julia Abatemarco kết thúc. “Không bên nào mạnh đến mức có thể dũng cảm hơn. Nhưng chúng ta…chúng ta đã giữ được lòng dũng cảm của mình lâu hơn họ một phút.”
***
“Marti, tôi xin cô, hãy cho chúng tôi thêm một chút ma thuật kỳ diệu đó đi nào! Chỉ thêm một chút thôi! Ruột của anh bạn này, rất đáng tiếc, là một mớ hổ lốn, lẫn lộn rất nhiều mảnh giáp! Tôi không thể làm gì cả nếu anh ta cứ giãy dụa như cá ra khỏi nước! Shani, chết tiệt, giữ chặt cái kẹp vào! Iola! Cô đang ngủ đấy à, chết tiệt? Chặt hơn nữa!”
Iola, thở hồng hộc, nuốt nước bọt khó khăn. Mình sẽ ngất, cô nghĩ thầm. Mình không thể chịu nổi. Mình không thể chịu nổi cái mùi này, một hỗn hợp kinh khủng của máu, nôn mửa, phân, nước tiểu, các chất trong ruột, mồ hôi, sợ hãi, và cái chết. Mình không thể chịu lâu hơn nữa, những tiếng la hét liên hồi, những tiếng tru tréo, những bàn tay trơn tuột, vấy máu bám vào mình, như thể mình là đấng cứu thế của họ, là nơi trú ẩn của họ, là mạng sống của họ… Mình không thể chịu nổi sự phi lý, những gì mà chúng ta đang làm ở đây. Bởi vì nó thật phi lý. Một sự phi lý to đùng. Mình không thể chịu nổi sự căng thẳng và mệt mỏi…Họ cứ liên tiếp đưa thêm người vào đây…Mình không thể chịu nổi. Mình không thể chịu nổi. Mình sẽ nôn mất. Nếu ngất, mình sẽ bị chế nhạo…
“Băng! Khăn lau! Kẹp! Không phải ở đây! Hãy cẩn thận xem cô đang làm cái gì! Nếu cô mà làm sai một lần nữa, tôi sẽ tát vào cái đầu đỏ choét của cô! Nghe rõ chưa? Tôi sẽ tát vào đầu cô!”
Melitele Vĩ Đại, hãy giúp con. Hãy giúp con, hỡi nữ thần.
“Nhìn xem! Anh ta đang khá dần lên rồi! Đưa một cái kẹp nữa đây, nữ tu. Đây, kẹp vào huyết quản! Tốt lắm Iola, cứ thế phát huy! Marti, lau mắt và mặt đi. Cả tôi nữa…”
***
Cơn đau này đến từ đâu vậy? Tổng chỉ huy John Natalis nghĩ trong đầu. Cái gì đang làm ta đau thế nhỉ?
Oh.
Ông bỏ bàn tay đang nắm chặt ra.
***
“Tấn công!” Kees van Lo la lên, vẫy tay. “Hãy tấn công, thưa Nguyên soái! Đội hình của chúng đang tách rời! Nếu không ngần ngại, chúng ta có thể phá vỡ thế trận của chúng! Mặt Trời Vĩ Đại sẽ nghiền nát chúng!”
Menno Coehoorn cắn móng tay. Ông ta nhận ra đang có người nhìn mình và vội bỏ tay ra khỏi mồm.
“Tấn công,” Kees van Lo điềm tĩnh nhắc lại. “Nauzicaa đã sẵn sàng.”
“Nauzicaa phải sẵn sàng,” Menno cộc cằn nói. “Daerlan nữa, cũng cần phải sẵn sàng. Ngài Faoiltiarna!”
Người chỉ huy của lữ đoàn Vrihedd, Isengrim Faoiltiarna, được mệnh danh là “Sói Sắt”, quay về phía nguyên soái, gương mặt của ông ta bị méo mó bởi một vết sẹo dài cắt ngang qua trán, lông mày và sống mũi, và kéo đến tận má.
“Ông sẽ tấn công vào đó,” Menno Coehoorn chỉ cây baton. “Ở đó, nơi mà quân Temeria và Redania tiếp giáp nhau. Ngay tại đó.”
Người elves cúi chào. Gương mặt bị biến dạng không cử động, ngay thậm chí cả đôi mắt lớn, sâu cũng không thay đổi ánh nhìn.
Đồng minh của chúng ta, Menno nghĩ thầm. Đồng minh của chúng ta. Chúng ta đã chiến đấu cùng nhau. Chống lại một kẻ thù chung. Nhưng ta không thể hiểu được lũ elves này. Họ thật kỳ lạ. Quá khác biệt.
***
“Tò mò thật,” Rusty cố lău mặt bằng khuỷu tay, nhưng khuỷu tay của ông dính đầy máu. Iola chạy lại giúp ông. “Thú vị thật,” người bác sĩ nói, “bệnh nhân bị đâm bởi một cái chĩa…một trong những cái răng của nó đã xuyên qua tim. Ồ, nhìn này, buồng tim đã bị thủng và động mạch chủ gần như đứt lìa…Nhưng anh ta vẫn còn thở trước đó một chút. Đây, đặt lên bàn. Trên chiến trường, anh ta đã bị đâm vào tim vậy mà vẫn còn sống cho đến tận lúc lên bàn mổ của tôi…”
“Ý ông là anh ấy đã chết à?” một thành viên của đội kỵ binh trông có vẻ hung tợn nói. “Chúng tôi đã mang anh ấy đến đây vô ích sao?”
“Không bao giờ là vô ích cả,” Rusty nhìn vào mắt người kỵ binh. “Nhưng anh nói đúng, anh ta đã chết rồi. Bệnh nhân đã chết rồi. Đem anh ta đi…chết tiệt! Lại đây nhìn cái này đi, các cô gái!”
Marti, Iola và Shani cúi xuống nhìn người lính đã chết. Rusty vạch mí mắt anh ta lên.
“Các cô đã bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này chưa?”
Cả ba bắt đầu run lẩy bẩy.
“Rồi,” cả ba đồng loạt trả lời. Họ ngạc nhiên nhìn lẫn nhau.
“Tôi cũng đã từng nhìn thấy rồi,” Rusty nói. “Anh ta là một witcher. Một người đột biến. Đó có lẽ là lý do vì sao anh ta có thể sống lâu đến vậy…Anh ta là đồng đội của các anh à? Hay là các anh tình cờ đem anh ta đến đây?”
“Anh ấy là đồng đội của chúng tôi, thưa bác sĩ.” một người lính thứ hai, một người nhỏ thó với dải băng quấn trên đầu nói với vẻ phiền muộn. “Ở trong đại đội của chúng tôi, một người tình nguyện. Một bậc thầy kiếm thuật. Tên anh ấy là Coen.”
“Các anh có biết anh ta là một witcher không?”
“Chúng tôi có. Nhưng anh ấy là một người bạn tốt.”
“Ah,” Rusty thở dài, trông thấy 4 người lính đang khiêng vào một người bị thương quấn trong một tấm áo choàng đẫm máu. Một thanh niên, dựa theo vẻ bề ngoài gầy guộc. “Thật tệ quá…Tôi muốn được giải phẫu witcher đáng kính này. Đây đáng lẽ ra là một cơ hội lý tưởng, tôi thậm chí có thể viết một bài luận án, hoặc có thể được xem các bộ phận nội tạng của anh ta. Nhưng không có thời gian, đem anh ta khỏi bàn đi! Shani, mang nước đến đây. Marti, khử trùng. Iola…Này cô gái, cô lại khóc đấy à? Lần này là vì cái gì đây?”
“Không có gì, ông Rusty. Không có gì cả. Tôi sẽ ổn thôi.”
***
“Tôi cảm thấy như bị lừa gạt, cướp đoạt và dối trá,” Triss Merigold nói.
Nenneke không trả lời trong một lúc lâu, bà hướng mắt nhìn ra khu vườn của ngôi đền bên dưới sân thượng, nơi mà các nữ tu đang bận công việc làm vườn mùa xuân.
“Cô đã lựa chọn,” cuối cùng bà nói. “Cô đã chọn con đường của mình, Triss. Số phận của riêng mình. Một cách tự nguyện. Bây giờ không phải lúc để buồn bực.”
“Nenneke,” nữ pháp sư nhìn xuống. “Tôi không thể nói cho bà biết nhiều hơn những gì đã kể. Hãy tin tôi, và tha thứ cho tôi.”
“Ta là ai mà được quyền tha thứ? Cô được lợi lộc gì từ sự tha thứ của ta?”
“Tôi có thể thấy,” Triss bùng nổ, “đôi mắt bà đang nhìn tôi! Bà và các nữ tu của bà. Tôi có thể thấy ánh mắt của họ đang tra xét tôi. Cô đang làm gì ở đây hả nữ pháp sư? Tại sao cô lại không ở đó cùng với Iola, Eurneid, Katye, Myrrha, Jarre?”
“Cô đang nói quá lên thôi, Triss.”
Nữ pháp sư nhìn xa xăm, về phía khu rừng nằm bên ngoài những bức tường của ngôi đền, về phía những đám khói ở xa. Nenneke im lặng, nghĩ ngợi, và tâm trí bà cũng đang ở rất xa. Nơi mà trận chiến đang nổ ra dữ dội, máu me. Bà nghĩ về những cô gái mà bà đã cử đến đó.
“Họ,” Triss nói, “đã từ chối tôi.”
Nenneke im lặng.
“Họ từ chối tôi mọi thứ,” Triss lặp lại. “Thật thông minh làm sao, thật hợp lý làm sao, thật logic làm sao…Làm sao tôi lại có thể không tin khi họ giải thích rằng có những thứ quan trọng và những thứ kém quan trọng, và những thứ kém quan trọng phải bị gạt bỏ mà không cần suy nghĩ, phải bị hy sinh vì những thứ quan trọng mà không cần đau buồn? Rằng cứu những người mà mình biết đến và yêu thương là vô lý, bởi vì họ chỉ là những cá nhân, và số phận của những cá nhân này là hoàn toàn không liên quan đến vận mệnh của thế giới. Rằng bảo vệ danh dự và lý tưởng là vô nghĩa, bởi vì chúng chỉ là những khái niệm trống rỗng? Rằng trận chiến thực sự vì vận mệnh của thế giới đang diễn ra ở nơi nào đó khác, và do những người khác chiến đấu? Và tôi cảm thấy bị cướp đoạt. Cướp đoạt mất khả năng để làm những điều ngu ngốc. Tôi không thể rồ dại đuổi theo Ciri để giúp con bé, tôi cũng không thể chạy như điên đến cứu Geralt và Yennefer. Không chỉ vậy, mà còn đang diễn ra một trận chiến, một trận chiến mà bà đã gửi những cô gái của mình đến…Một trận chiến mà Jarre đã bỏ trốn để gia nhập, và tôi lại bị từ chối cái quyền để thậm chí được đứng trên một ngọn đồi. Biết rằng lần này, tôi đã lựa chọn đúng đắn.”
“Ai cũng có những lựa chọn của riêng mình, và những ngọn đồi của riêng mình, Triss.” Người nữ tu nói khẽ. “Tất cả mọi người. Cô cũng không thể trốn thoát khỏi lựa chọn của cô.”
***
Cửa ra vào căn lều rất đông đúc. Họ lại mang một người bị thương khác vào. Được khá nhiều người tháp tùng. Một trong số họ, một kỵ sĩ mặc giáp kín từ đầu đến chân, đang la ó ra lệnh.
“Nhanh lên, lũ lười biếng này! Nhanh nữa lên! Đặt ông ấy xuống đây, đây! Này ngươi! Tên bác sĩ kia!”
“Tôi đang bận,” Rusty thậm chí không thèm nhìn lên. “Làm ơn hãy để ông ta lại với những người bị thương trên võng đằng kia. Tôi sẽ chữa cho ông ta ngay khi xong việc.”
“Ngươi sẽ chữa cho ông ấy ngay bây giờ, đồ lang băm khốn khiếp! Đây chính là bá tước của Garramone!”
“Bệnh viện này,” Rusty cao giọng, tức giận, bởi vì trong ruột người bệnh nhân là một đầu mũi tên, mà vừa mới trượt ra khỏi cái nhíp của ông, “có rất ít dân chủ. Các người mang đến đây chủ yếu là các nam tước, bá tước, hầu tước. Những người lính vô danh trên chiến trường thì chẳng ai thèm ngó ngàng đến. Nhưng ở đây, tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau. Ít nhất là trên bàn mổ của tôi.”
“Cái gì?”
“Đừng bận tâm,” Rusty nói, quay trở lại vết thương với cái nhíp, “chẳng khác biệt gì khi tôi gắp một mảnh kim loại ra khỏi một người nông dân hay một triết gia. Ai đã nằm trên bàn tôi thì đều như ăn mày hết cả.”
“Cái gì?”
“Bá tước của các anh phải đợi đến lượt.”
“Mẹ cái lão halfling này!”
“Giúp tôi nào, Shani. Cầm lấy cái kẹp khác. Cẩn thận động mạch! Marti, một chút ma thuật! Chúng ta đang có người bị chảy máu ở đây!”
Vị hiệp sĩ bước lên một bước, áo giáp của ông ta kêu lạo xạo.
“Ta sẽ treo cổ ngươi!” ông ta la lên. “Ngươi sẽ bị treo cổ, đồ không–phải–người đáng nguyền rủa!”
“Im mồm đi, Paperbrock,” nhà quý tộc bị thương nhẹ lên tiếng. “Im mồm đi và để ta lại đây. Quay lại chiến trường đi.”
“Nhưng thưa ngài, tôi không thể…”
“Đó là lệnh!”
Từ bên ngoài tấm vải bạt là những tiếng gầm, tiếng ngựa hý và những âm thanh la hét hoang dại. Những người bị thương nằmg trong bệnh viện thì lại la hét theo kiểu khác.
“Hãy nhìn đây,” Rusty giơ cái nhíp lên, cuối cùng cũng đã gắp được cái đầu mũi tên ra, “đây chắc chắn đã được một người thợ rèn rất giỏi làm ra, để nuôi sống một gia đình lớn. Nó cho thấy kỹ năng và sự khéo léo tuyệt vời. Cái cách mà thứ này cắm vào ruột con người quả là thiên tài. Tiến bộ khoa học muôn năm.”
Ông ném cái đầu mũi tên đầy máu vào xô và nhìn vào bàn mổ, người lính bị thương đã ngất đi trong cuộc phẫu thuật.
“Khâu anh ta lại và đem đi,” ông gật gù. “Nếu may mắn, anh ta sẽ sống. Mang người tiếp theo đến nào. Người mà đầu bị đập vỡ ý.”
“Anh ta,” Marti Sodergren nói điềm tĩnh, “vừa mới bỏ lượt của mình rồi.”
Rusty hít vào một hơi thật sâu, không bình luận gì thêm, bước ra khỏi cái bàn và tiến về phía người bá tước đang bị thương. Bàn tay của ông ta vấy đầy máu như của một người đồ tể. Daniel Etcheverry, bá tước của Garramone, ngày càng tái nhợt đi.
“Chà,” Rusty nói, “đến lượt ngài rồi đó, bá tước. Nhấc ông ta lên bàn nào. Chúng ta có gì đây? Ôi, cái khớp này không cứu được nữa rồi, nó đã nát hết cả. Các ngài đã dùng cái gì để nện nhau mà thành ra thế này được? Bây giờ thì, sẽ đau lắm đây, nhưng không sao đâu, nó cũng chỉ giống như trên chiến trường thôi. Băng, dao mổ, cưa. Chúng ta sẽ phải cắt bỏ nó, thưa ngài.”
Daniel Etcheverry, bá tước của Garramone, người mà đến giờ phút này đã dũng cảm chịu đựng cơn đau, tru lên như một con sói. Trước khi ông ta có thể nghiến răng lại, Shani, nhanh như cắt, nhét một cái que gỗ vào giữa hai hàm răng ông ta.
***
“Thưa đức vua! Thưa tổng chỉ huy!”
“Nói đi, chàng trai!”
“Quân Tình Nguyện và Quân Đoàn Tự Do đang ở gần Hồ Vàng…Những người lùn và các lính đánh thuê đang đứng vững, mặc dù chịu tổn thất rất lớn. Người ta nói rằng Adam “Adieu” Pangratt đã chết, Frontino đã chết, và Julia Abatemarco đã chết…Tất cả các chỉ huy. Lữ đoàn Dorian được cử đến đó để hỗ trợ cũng đã bị tiêu diệt, đến tận…”
“Quân dự bị, ngài tổng chỉ huy,” Foltest nói khẽ, nhưng rõ ràng. “Nếu ngươi hỏi ta, giờ là lúc tung ra quân dự bị rồi. Hãy để người của Bronibor đấu lại bọn Áo Đen. Ngay bây giờ! Nếu không chúng sẽ chọc xuyên qua chiến tuyến và giết hết chúng ta.”
John Natalis không trả lời, ông đưa mắt nhìn một liên lạc viên khác đang chạy về phía họ.
“Hãy thở đi, con trai. Hãy thở đi và truyền thông điệp.”
“Chúng đã phá…Chúng đã phá vỡ chiến tuyến…Elves, lữ đoàn Vrihedd …Lãnh chúa de Ruyter gửi thông điệp đến các ngài…”
“Cái gì? Nói đi!”
“Đã đến lúc tự cứu mạng mình rồi.”
John Natalis ngửa mặt lên trời.
“Blenckert,” ông nói trống rỗng. “Hãy để Blenckert đến. Hoặc để bóng đêm bao phủ.”
***
Từ mọi phía xung quanh căn lều có thể nghe thấy tiếng vó ngựa. Bầu không khí tràn ngập những tiếng la hét. Một người lính xông vào lều, theo sau là hai hộ lý.
“Chạy đi mọi người!” Anh ta la lên. “Hãy tự cứu lấy mình! Nilfgaard đã thắng rồi! Chúng ta đã đại bại! Chết hết rồi!”
“Kẹp!” Rusty nói, tránh tia máu bắn lên từ động mạch của người bệnh nhân đang nằm trên bàn mổ. “Kẹp! Khăn! Đây, Shani! Marti, làm gì với đống máu đang chảy ra đó đi…”
Trước căn lều, ai đó rú lên như thú vật. Tiếng rú dần chuyển thành những tiếng càu nhàu. Một con ngựa hý và có thứ gì đó đổ xuống cái rầm. Một mũi tên bắn xuyên qua tấm vải bạt, huýt sáo, và bay sang phía đối diện của căn lều, may mắn là đã bay quá cao để có thể trúng vào những người bệnh đang nằm trên cáng.
“Nilfgaard!” người lính lại la lên bằng một giọng the thé, run rẩy. “Bác sĩ! Ông không nghe thấy tôi nói gì à? Nilfgaard đã phá vỡ phòng tuyến của chúng ta và đang giết hết tất cả mọi người! Chạy đi!”
Rusty thế chỗ của Marti Sodergren, cầm lấy cây kim, và bắt đầu khâu. Người bệnh nhân nằm bất động trong một thời gian dài, nhưng vẫn còn đang sống – trái tim anh ta vẫn còn đập. Có thể trông thấy điều đó rõ ràng.
“Tôi không muốn chết!” một trong những người bị thương vẫn đang tỉnh táo la lên. Người lính nguyền rủa, phóng ra phía cửa và bỗng dưng ngã ra, la hét, túa máu, và đổ gục xuống đất. Iola, đang quỳ bên chiếc cáng, nhảy lùi lại.
Đội nhiên, sự im lặng bao trùm.
Tệ rồi đây, Rusty nghĩ khi nhìn thấy ai đang bước vào lều. Elves, với những tia chớp bạctrên áo choàng. Lữ đoàn Vrihedd. Lữ đoàn Vrihedd trứ danh.
“Chúng đang được cứu chữa,” người elves đi đầu tiên, cao lớn, với một khuôn mặt hẹp và cặp mắt xanh lục, lên tiếng.
Không ai trả lời. Rusty cảm thấy bàn tay mình run bắn. Ông nhanh chóng đưa chiếc kim cho Marti. Ông thấy mặt Shani trắng bệch như phấn.
“Chuyện này là gì đây?” gã elf nói u ám. “Tại sao lại có quá nhiều người được chữa trị ở đây? Những kẻ bị thương đáng lẽ phải ở trên chiến trường, chết vì vết thương của mình. Và các ngươi đang cứu chữa cho chúng ở đây? Chẳng có ý nghĩa gì cả. Có vẻ như chúng ta có những quan điểm rất khác nhau.”
Hắn cúi người xuống và cắm ngập thanh kiếm vào ngực người lính đang nằm gần cửa ra vào nhất. Một tên elf khác bước qua người thứ hai và đâm kiếm vào anh ta. Người thứ ba vẫn còn đang tỉnh và cố gắng chặn lại mũi kiếm chết chóc với bàn tay băng bó dày cộp của mình.
Shani rít lên. Đó là một tiếng hét the thé như muốn chọc thủng màng nhĩ. Nó dìm đi những tiếng ậm ực của người đàn ông tàn tật. Iola nằm đè lên cái cáng và dùng chính thân thể của mình để bảo vệ người bệnh. Gương mặt cô tái nhợt như tấm vải bạt căng lều. Đôi mắt của gã elf nhíu lại.
“Va vort, beanna!” Hắn quát lên. “Cút xuống, không là ta sẽ đâm cả hai ngươi, dh’oine!”
“Biến ra khỏi đây đi!” Rusty bỗng thấy mình nhảy ba bước ra đứng chắn giữa Iola và gã elf. “Hãy biến ra khỏi bệnh viện của ta, lũ sát nhân! Ra ngoài kia mà giết lẫn nhau! Hãy biến khỏi đây!”
Gã elf nhìn xuống. Người halfling nhỏ bé, run rẩy vì sợ hãi chỉ đứng đến thắt lưng hắn.
“Bloede Pherian,” hắn rít lên. “Đồ nô lệ của con người! Hãy tránh khỏi đường của ta!”
“Còn lâu!” răng của nhà phẫu thuật đánh cầm cập vào nhau, nhưng giọng nói của ông vang lên mạnh mẽ.
Một tên elf thứ hai chạy lại và đẩy ngã người halfling bằng một cây giáo. Rusty quỵ xuống.
Gã elf cao ráo thô bạo kéo Iola ra khỏi người bệnh và giơ cao thanh kiếm.
Hắn đông cứng lại khi thấy tấm áo choàng đen cuộn bên dưới đầu người đàn ông bị thương in hình ngọn lửa bạc của sư đoàn Deithwen trên đó. Và có quân hàm đại tá.
“Yaevinn!” một tên elf xông vào lều la ó, mái tóc đen của hắn tết lại thành bím. “Caemm, veloe! Ess’evgyriad a’dh’oine a’en va! Ess’tess!”
Gã elf cao ráo nhìn người đại tá bị thương một lúc, sau đó chuyển sang đôi mắt đẫm nước đầy sợ hãi của người bác sĩ. Rồi quay gót và bỏ đi.
Từ bên ngoài, lại xuất hiện những tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng người la hét và tiếng kim loại va chạm vào nhau.
“Bọn Áo Đen kìa! Giết chúng!” cả ngàn giọng nói hét lên. Có ai đó bên ngoài lều rống lên như một con thú rồi chuyển thành những âm thanh ậm ực.
Rusty cố đứng dậy, nhưng đôi chân của ông không nghe lời. Bàn tay ông run lẩy bẩy.
Iola khóc lóc, người run lên từng đợt, nằm cuộn tròn lại bên cạnh người Nilfgaard bị thương.
Shani cũng đang khóc, không cố gắng che giấu những giọt nước mắt của mình, và tay vẫn đang giữ chiếc kẹp. Marti lặng lẽ ngồi khâu, miệng lầm bầm độc thoại.
Rusty vẫn chưa đứng dậy được. Đôi mắt ông bắt gặp ánh mắt một người hộ lý đang đứng nép vào góc lều.
“Cho tôi một ngụm vodka,” ông nói khó khăn. “Đừng có bảo là anh không có. Tôi biết mấy người lúc nào chẳng giấu một chai ở đâu đây.”
***
Trung tá Blenheim Blenckert đứng trên bàn đạp và vươn cổ ra, nghe ngóng những âm thanh vọng lại từ chiến trường.
“Tập trung đội hình,” ông ra lệnh. “Sau đó phi qua đồi. Nếu những gì mà trinh sát đã báo cáo là đúng, chúng ta sẽ đâm thẳng vào cánh phải của bọn Áo Đen.”
“Chúng ta sẽ cho chúng nếm mùi địa ngục!” một trong các trung úy trẻ tuổi la lên.
Blenckert lườm anh ta một cái.
“Mang quân kỳ lên phía trước,” ông ra lệnh và rút kiếm ra. “Và hãy hô “Redania” với tất cả sức lực mà các ngươi có! Hãy để cho các chàng trai của Foltest và Natalis biết rằng quân cứu viện đã đến.”
***
Bá tước Kobus de Ruyter đã chinh chiến rất nhiều trong vòng 40 năm qua. Ông đánh trận từ năm 16 tuổi. Gia tộc de Ruyter đã là lính trong suốt 8 tám hệ. Những tiếng hô xung trận, những âm thanh của kim loại va vào nhau chan chát mà với tất cả mọi người là không thể chịu nổi, đối với ông lại là bản giao hưởng êm dịu. Và trong giờ phút này, ông nghe thấy trong dàn nhạc những nốt mới.
“Hoan hô!” ông la lên, vẫy vẫy chiếc chùy trong tay. “Redania! Redania đang tới! Đại bàng! Đại bàng!”
Trên đỉnh đồi, từ phía bắc, các kỵ sĩ xuất hiện. Phía trên đầu đoàn kỵ binh, lá quân kỳ vĩ đại với hình đại bàng bạc của Redania tung bay.
“Cứu viện,” de Ruyter la lên. “Cứu viện đang tới! Hoan hô! Cái chết cho bọn Áo Đen!”
Người chiến binh xuất thân từ gia tộc đã 8 đời làm lính nhận thấy quân Nilfgaard đang khép chặt đội hình lại để tổ chức phản công. Ông biết rằng điều đó không được phép xảy ra.
“Theo ta,” ông ra lệnh, cầm lấy lá quân kỳ từ tay người cầm cờ. “Theo ta!”
Họ tấn công. Họ tấn công như điên dại, theo cách cực kỳ liều lĩnh, nhưng rất hiệu quả. Họ không thể cho phép sư đoàn Venendal tập trung đội hình để cản lại kỵ binh Redania. Những đòn tấn công của họ tàn phá quân Nilfgaard. Bầu trời vang vọng những tiếng hét hãi hùng.
Kobus de Ruyter đã không thể nghe hay nhìn thấy nó. Một mũi tên bay lạc cắm thẳng vào đầu ông. Vị bá tước tuột khỏi yên ngựa và ngã xuống đất, lá quân kỳ trùm lên người ông như một tấm vải liệm.
Tám thế hệ của gia tộc de Ruyter, đang dõi theo trận chiến từ thế giới bên kia, cúi đầu tỏ lòng tôn kính.
***
“Có thể nói rằng phương Bắc ngày hôm đó đã được cứu bởi một phép màu. Hay một chuỗi các sự kiện ngẫu nhiên mà không ai có thể dự đoán được…Restif de Montholon đã viết trong cuốn sách của ông rằng Nguyên soái Coehoorn đã đánh giá sai sức mạnh và ý đồ của kẻ địch. Rằng ngài đã quá liều lĩnh khi chia nhỏ Quân Chính Quy và chỉ mang theo các đơn vị kỵ binh lên phía bắc. Rằng ngài đã thiếu thận trọng lao thẳng vào một trận chiến mà mình có lợi thế hơn. Rằng các trinh sát của ngài đã quá yếu kém, và do đó đã không hề biết đến lực lượng dự bị của quân Redania…”
“Học viên Puttkammer! Tác phẩm mơ hồ của ngài Montholon không nằm trong danh sách đọc của học viện này! Và Hoàng đế cũng đã phê phán rất nhiều cuốn sách đó! Vậy nên đừng trích dẫn nó ở đây, học viên. Quả thực là tôi thấy ngạc nhiên. Từ đầu đến giờ, những câu trả lời của anh đã rất tốt, thậm chí có phần xuất sắc, giờ bỗng nhiên anh lại nói về những thứ nhảm nhí như phép màu và ngẫu nhiên, chỉ trích khả năng cầm quân của Menno Coehoorn, một trong các nhà quân sự vĩ đại nhất của đế chế. Học viên Puttkammer và các học viên khác, nếu các anh muốn qua bài kiểm tra này, thì hãy nghe lời tôi và ghi nhớ đây – Tại Brenna, chẳng có phép màu hay ngẫu nhiên nào cả, sự thất bại của chúng ta là do một âm phức tạp! Không chỉ bởi quân địch mà còn vì những thành phần phá hoại trong hàng ngũ nội bộ – những kẻ phản bội! Một ung nhọt mà sau này đã bị loại bỏ bởi sắt nung. Nhưng trước khi điều đó có thể xảy ra, những kẻ phản bội này đã dệt nên mạng lưới những lời dối trá của riêng chúng. Chúng đã lừa gạt Nguyên soái Coehoorn! Chúng là những kẻ vô lại, không danh dự, không lương tri, hay đơn giản là…”
***
“Lũ chó đẻ,” Menno Coehoorn rít lên, theo dõi cánh phải qua ống nhòm của mình. “Lũ chó đẻ đáng nguyền rủa. Ta sẽ tìm thấy các ngươi, cứ đợi đấy, và ta sẽ dạy cho các ngươi biết thế nào là do thám. De Wyngalt! Đích thân đi tìm tên sĩ quan chịu trách nhiệm tuần tra ngọn đồi phía bắc. Và treo cổ cả đơn vị của hắn lên.”
“Như ngài yêu cầu,” Ouder de Wyngalt, phụ tá của Nguyên soái, nhanh chóng bước ra ngoài. Đương nhiên, ông ta không biết rằng Lamarr Flaut, người sĩ quan của đơn vị trinh sát đang bị truy nã, giờ đây đang chết dưới vó ngựa của kỵ binh Redania, những người đang gia nhập trận chiến mà anh ta đã không hề hay biết bởi vì sự hèn nhát của mình. De Wyngalt, rõ ràng là cũng không thể biết rằng bản thân ông ta cũng chỉ còn sống được thêm hai giờ đồng hồ nữa.
“Có bao nhiêu tất cả, ngài Trahe,” Coehoorn nói, không rời mắt khỏi ống nhòm, “theo như dự đoán của ông.”
“Khoảng 10 ngàn,” người chỉ huy của lữ đoàn Daerlan Số 7 đáp khô khan. “Chủ yếu là quân Redania, nhưng tôi cũng thấy quân kỳ của Aedirn…Còn có một con kỳ lân, vậy là cả Kaedwen nữa…Ít nhất là một đại đội…”
***
Lữ đoàn Dun Banner phi nước đại, móng ngựa làm cát và sỏi trên đường bắn tung tóe.
“Tiến lên, Dun Banner!” đại đội trưởng Digod hét lớn, say rượu như thường lệ. “Giết! Giết! Vì Kaedwen! Kaedwen!”
Mẹ kiếp, nhưng mình buồn đái quá, Zyvik nghĩ. Đáng lẽ ra mình nên đi đái trước trận chiến…Giờ thì không có thời gian nữa rồi.
“Tiến lên! Dun Banner!”
Lúc nào cũng là Dun Banner. Khi mọi thứ hỏng bét, gọi Dun Banner. Cử lực lượng viễn chinh nào đến Temeria? Dun Banner. Lúc nào cũng là Dun Banner. Và mình thì buồn đái.
Họ đến nơi. Zyvik hét lên, quay người trên yên ngựa, và chém ngang tai, đập vỡ vai và cổ một kỵ sĩ mặc áo choàng đen với hình ngôi sao bạc 8 cánh in trên đó.
“Lữ đoàn Dun Banner! Kaedwen! Tấn công, tấn công!”
Với tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng người la hét, lữ đoàn Dun Banner va chạm với quân Nilfgaard.
***
“De Mellis–Stoke và Braibant có thể lo được quân cứu viện,” Elen Trahe, chỉ huy của lữ đoàn Daerlan Số 7 điềm tĩnh nói. “Lực lượng hai bên đang cân bằng, không có gì là không thể sửa được. Cánh trái được tăng cường bởi sư đoàn của Tyrconnel và cánh phải có Magne và Venendal. Và chúng ta…chúng ta có thể phá vỡ thế cân bằng, ngài Nguyên soái…”
“Chúng ta sẽ đánh vào khe hở mà người elves đã mở ra,” Coehoorn, nhà chiến thuật dày dạn kinh nghiệm, nói ngay lập tức. “Họ sẽ di chuyển ra phía đầu và gây hỗn loạn. Phải, đó là những gì mà chúng ta sẽ làm, Mặt Trời Vĩ Đại ơi! Ra trận nào, các quý ngài! Nauzicaa và Số 7, thời điểm của các ngươi đã đến!”
“Hoàng đế vạn tuế!” Kees van Lo hét lớn.
“Ngài de Wyngalt,” Nguyên soái quay lại. “Hãy tập hợp đoàn tùy tùng và vệ binh lại. Hết giờ chơi rồi. Chúng ta sẽ tấn công cùng với lữ đoàn Daerlan Số 7.”
Ouder de Wyngalt tái đi, nhưng ngay lập tức chấn chỉnh lại.
“Hoàng đế vạn tuế!” ông ta nói, giọng gần như không thể nghe được.
***
Rusty cắt, người bị thương hét lên và cào cấu cái bàn. Iola cố gắng cố định đầu anh ta, kẹp chặt cái băng lại. Từ cửa ra vào của căn lều vang lên giọng Shani.
“Các anh đang làm gì ở đây? Các anh điên hết rồi sao? Chúng tôi đang cố cứu những người sống vậy mà các anh mang xác chết đến đây là sao?”
“Nhưng đây là nam tước Anzelm Aubry, thưa bác sĩ! Chỉ huy đại đội của chúng tôi!”
“Ông ta đã là chỉ huy đại đội của các anh! Giờ thì ông ta chết rồi! Các anh mang được ông ta nguyên vẹn về đây đơn giản vì áo giáp của ông ta quá chặt! Đem ông ta đi đi. Đây là một bệnh viện, không phải nghĩa trang!”
“Nhưng, thưa bác sĩ…”
“Đừng có chắn lối ra vào nữa! Ồ, kìa, mang người vẫn còn đang thở kia vào. Hay ít ra thì trông có vẻ như vậy. Có thể chỉ là gió thôi.”
Rusty sặc cười, nhưng sau đó nhăn mặt.
“Shani! Vào đây!”
“Nhớ đây, nhóc con,” Rusty nói qua hàm răng nghiến chặt, tựa vào những cái chân bị gãy. “Sự thô tục chỉ dành cho các bác sĩ với hơn 10 năm kinh nghiệm thôi. Cô đã hiểu chưa?”
“Vâng, thưa ông Rusty.”
“Lấy một cái nạo và vét vỏ xương đi…Chết tiệt, chúng ta lẽ ra nên gây tê một chút…Marti đâu rồi?”
“Đang nôn mửa ngoài lều,” Shani nói mà không có chút thô tục nào. “Lộn cả ruột gan.”
“Đúng là pháp sư,” Rusty cầm lên một cái cưa, “thay vì nghĩ ra những câu thần chú khiếp đảm và hùng mạnh, họ nên tập trung phát minh ra những câu nhỏ hơn. Ví dụ như thần chú gây tê chẳng hạn, mà không có các tác dụng phụ như nôn mửa.”
Chiếc cưa cắt đến xương. Người lính rú lên.
“Kẹp băng chặt nữa vào, Iola!”
Cái chân cuối cùng cũng rời ra. Rusty đặt cái cưa sang một bên và lau mồ hôi trên trán.
“Mạch máu và huyết quản,” ông gật gù theo thói quen, nhưng trước khi ông kịp nói nốt câu thì các cô gái đã chạy lại. Ông cầm lấy cái chân đứt lìa và ném nó vào một góc, cùng với một đống chi bị cắt rời khác. Người đàn ông bị thương đã không rú hay hét trong một khoảng thời gian dài.
“Bất tỉnh hay đã chết rồi?”
“Bất tỉnh, thưa ông Rusty?”
“Tuyệt. Khâu lại, Shani. Mang người tiếp theo đến! Iola, ra xem Marti đã nôn hết mọi thứ xong chưa.”
“Tôi tò mò không biết,” Iola nói khẽ, không ngước nhìn lên, “ông đã có bao nhiêu năm kinh nghiệm rồi, ông Rusty? Một trăm?”
***
Sau vài phút hành quân làm bụi tung mù trời, tiếng hô của các đại đội trưởng và trung đội trưởng ngưng lại và trung đoàn Vizima bắt đầu triển khai đội hình. Jarre, thở hồng hộc và đớp lấy không khí như một con cá, trông thấy Tổng trấn Bronibor tuần hành dọc chiến tuyến trên con ngựa hồng tuyệt đẹp, được bọc kín trong giáp của mình. Vị tổng trấn cũng mặc giáp kín người, và giáp của ông màu xanh, khiến ông nhìn giống một con cá thu làm bằng thiếc.
“Các ngươi thấy thế nào, binh lính?” Bronibor gầm lên với người của mình.
Các đơn vị giáo binh trả lời với một tiếng hô như sấm rền.
“Các ngươi đang hoạt bát đấy,” vị tổng trấn nói, quay ngựa và đi xuống cuối hàng, “thế có nghĩa là các ngươi đang ổn. Khi các ngươi không ổn, các ngươi rên rỉ và cằn nhằn như những mụ đàn bà. Ta có thể trông thấy trên gương mặt các ngươi, các ngươi tha thiết được vào chiến trường, các ngươi mơ ước được chiến đấu và không thể chờ đợi để được đối mặt với Nilfgaard! Phải không, những người lính của Vizima? Vậy thì ta có tin tốt cho các ngươi đây! Giấc mơ của các ngươi sẽ thành sự thật trong phút chốc.”
Hàng giáo binh lại lầm bầm. Trong khi đó, Bronibor, đã đi xuống cuối hàng, lại quay đầu con ngựa và đi dọc lên. Ông nói chậm hơn và gõ cây baton lên chiếc yên ngựa được trang trí hoa mĩ của mình.
“Các ngươi đã phải nếm bụi, bộ binh, phải đi sau các hiệp sĩ! Cho đến bây giờ, thay vì vinh quang và chiến lợi phẩm, các ngươi lại phải ngửi mùi cứt ngựa! Các ngươi thiếu dũng khí và thậm chí đến ngày hôm nay, cũng gần như chưa thể chạm đến chiến trường vinh quang và danh dự, lũ lười biếng. Nhưng cuối cùng thì các ngươi vẫn sẽ nhận được sự cảm ơn chân thành của ta trên vùng đất này, mà ta đã quên mất tên, cuối cùng các ngươi cũng sẽ được thể hiện giá trị của mình như một người lính. Đám mây mà các ngươi đang thấy trên trận địa kia chính là kỵ binh Nilfgaard, đang muốn đập tan đội hình của chúng ta bằng cách tấn công vào mạn sườn và ép lực lượng của ta phải lùi về phía đầm lầy gần con sông, mà ta cũng quên mất tên nốt. Nhưng các ngươi, đơn vị giáo binh lừng danh của Vizima, sẽ bảo vệ danh dự của vua Foltest và tổng chỉ huy Natalis bằng cách chèn vào chỗ trống trong hàng ngũ chúng ta. Các ngươi sẽ chèn chỗ trống bằng chính bản thân mình, ngăn chặn bước tiến công của Nilfgaard. Vui vẻ chứ hả, các anh em? Các ngươi có đang tự hào không?”
Jarre, nắm chặt lấy cán ngọn giáo trong tay mình, nhìn xung quanh. Chẳng có gì cho thấy là những người lính vui vẻ với ý tưởng về cuộc tấn công sắp tới, và nếu họ có tự hào về nhiệm vụ của mình đi chăng nữa, thì lòng tự hào của họ quả là được che giấu rất tài tình. Melfi, người phía bên phải cậu, lẩm nhẩm một lời cầu nguyện. Bên trái cậu, Deuslax, một cựu chiến binh già dặn, sụt sịt mũi, ho, và nguyền rủa một cách lo lắng.
Bronibor quay đầu con ngựa và ngồi thẳng trên yên.
“Ta không nghe thấy gì hết!” Ông ta rống lên. “Ta hỏi, các ngươi có đang tự hào bỏ mẹ ra không?”
Lần này, những người lính thấy không còn cách thoái thác, hét to lên rằng họ rất tự hào.
Jarre cũng hét lên. Giống như mọi người khác.
“Tốt!” tổng trấn quay mặt về phía đoàn quân. “Giờ thì tập trung lại đi! Đại đội trưởng, các ngươi còn đang đợi cái quái gì nữa? Sắp thành hình vuông, hàng đầu quỳ, hàng hai đứng! Cắm giáo xuống đất! Không phải bên này đồ ngu! Ta đang nói với ngươi đó, tên khốn râu rậm! Xáp lại gần, vai kề vai! A, giờ trông các ngươi tuyệt lắm! Gần giống như là một đội quân rồi đó!”
Jarre đứng ở hàng hai. Cậu cắm chuôi ngọn giáo xuống đất và sợ hãi nắm chặt nó trong bàn tay đầy mồ hôi. Melfi khẽ lặp đi lặp lại những từ mà nghe có vẻ hầu hết là liên quan đến đời sống tình cảm của một người lính Nilfgaard, chó, đĩ điếm, vua, tổng chỉ huy, thống đốc, và mẹ của tất cả bọn họ.
Đám mây trên chiến trường bay lại gần.
“Đừng phí công đánh rắm hay nghiến răng làm gì!” Bronibor la lên. “Các ngươi không thể dùng những âm thanh đó để dọa cho ngựa của Nilfgaard sợ! Đừng có sai lầm! Đang tiến về phía chúng ta là lữ đoàn Nauzicaa và lữ đoàn Daerlan Số 7, một đội quân tinh nhuệ, được huấn luyện bài bản! Chúng không thể bị dọa! Chúng không thể bị đánh bại! Các ngươi phải giết chúng! Nâng những ngọn giáo đó cao lên nữa!”
Từ phía đằng xa vang lên tiếng vó ngựa, vẫn còn khá xa, nhưng ngày càng tiến lại gần. Mặt đất bắt đầu rung chuyển. Trong đám mây bụi, ánh mặt trời phản chiếu trên những lưỡi kiếm.
“Các ngươi rất may mắn đó, những người lính của Vizima,” vị tổng trấn hét lên. “Các ngươi đang không dùng những ngọn giáo thường, mà là một loại mới dài hơn 6 mét! Trong khi kiếm của Nilfgaard chỉ dài có hơn một mét thôi. Các ngươi biết đếm chứ hả? Chúng cũng biết đếm giống các ngươi. Nhưng chúng nghĩ rằng các ngươi sẽ không đứng vững và sẽ thể hiện bản chất thật của mình, bản chất của một kẻ hèn nhát. Bọn Áo Đen đang trông đợi những ngọn giáo đó rơi xuống đất và các ngươi bỏ chạy khắp chiến trường như những con thỏ hoang, để chúng có thể hạ gục các ngươi dễ dàng, không gặp trở ngại nào. Hãy nhớ đây, lũ óc cứt, mặc dù nỗi sợ có thể giúp các ngươi chạy nhanh, nhưng các ngươi không thể chạy nhanh hơn một con ngựa. Kẻ nào muốn sống, muốn vinh quang và danh tiếng, sẽ phải chống cự! Chống cự ác liệt! Chống cự như một bức tường! Và giữ đội hình!”
Jarre nhìn xung quanh. Hàng cung thủ phía sau lưng các lính giáo đã lên dây cung sẵn sàng. Bên trong tiểu đoàn là cả một rừng giáo, kích, chĩa tua tủa. Mặt đất càng rung chuyển dữ dội hơn. Họ bắt đầu có thể trông thấy rõ ràng bức tường đen của kỵ binh đang tiến đến, và những kỵ sĩ ngồi trên yên ngựa.
“Mẹ ơi, mẹ ơi,” Melfi run rẩy lầm bầm. “Mẹ ơi, mẹ ơi…”
“…lũ con hoang khốn khiếp.” Deuslax nguyền rủa.
Tiếng ầm ầm lớn dần lên. Jarre cố liếm môi, nhưng không được. Lưỡi của cậu không chịu di chuyển, nó đã trở nên cứng và khô một cách kỳ lạ như mùn cưa. Tiếng ầm ầm ngày càng to hơn.
“Chuẩn bị sẵn sàng!” Bronibor hét lên, rút kiếm ra. “Tựa vai vào người kế bên! Không ai trong các ngươi phải ra trận một mình cả! Thuốc chữa duy nhất cho nỗi sợ chính là cây giáo trong tay các ngươi! Hãy chuẩn bị cho trận chiến! Cắm giáo vào ngực những con ngựa! Chúng ta phải làm gì hả những người lính của Vizima?”
“Chống cự!” họ đồng thanh hô lên. “Chống cự như một bức tường! Giữ đội hình!”
Jarre hô cùng với mọi người. Cát và sỏi bắn tung tóe dưới vó ngựa đang đến gần. Những kẻ cưỡi trên chúng gào thét như những con quỷ, vung vẩy thanh kiếm trên tay.
Jarre nắm chặt ngọn giáo trong tay, so vai lại, và nhắm mắt.
***
Jarre dùng bàn tay cụt của mình để đuổi con ong đang vo ve trên lọ mực ra chỗ khác, vẫn không dừng viết.
“Kế hoạch của Nguyên soái Coehoorn đã thất bại – cuộc phản công vào bên sườn của ông đã bị ngăn chặn bởi những người lính anh dũng của bộ binh Vizima và tổng trấn Bronibor, dù cho họ đã phải trả một cái giá rất đắt bằng máu. Trong khi những người lính Vizima kháng cự lại sức ép mãnh liệt từ Nilfgaard bên cánh trái, kẻ địch vẫn tiếp tục bên cánh phải. Không lâu sau đó, các đơn vị của ta cũng đã giành được ưu thế bên cánh phải, nơi mà những người lùn và các lính đánh thuê can trường đã chặn được nắm tay sắt của Nilfgaard. Từ hàng ngũ của ta vang dội lên những tiếng kêu chiến thắng, và trong tim các chiến binh của ta nhen lên một ngọn lửa mới. Sự tự tin của quân Nilfgaard đã không còn, những cánh tay của họ rã rời, và sức mạnh của họ yếu dần. Một số rút lui, những người còn lại vẫn tiếp tục chiến đấu, nhưng giờ đây không có định hướng, rải rác thành từng nhóm nhỏ lẻ, sớm muộn cũng bị bao vây từ mọi phía.
Và rồi, chỉ huy của quân địch nhận ra rằng trận chiến đã thua. Bao vây xung quanh là các sĩ quan và cận vệ trung thành, họ đem cho ông một con ngựa mới và cầu xin ông hãy chạy trốn để bảo toàn tính mạng. Nhưng trong lồng ngực của Nguyên soái là một trái tim anh dũng đang đập.
“Như thế là không đúng,” ông la lớn, đẩy sợi dây cương đang được đưa cho mình. “Chỉ có những kẻ hèn nhát mới chạy trốn khỏi chiến trường, nơi mà biết bao người lính can trường của đế chế đã ngã xuống…”
Và rồi, Menno Coehoorn dũng cảm nói…”
***
“Chẳng có đường nào để mà chạy cả,” Menno Coehoorn nói tỉnh táo, nhìn xung quanh chiến trường. “Chúng đã bao vây chúng ta rồi.”
“Hãy đưa áo choàng và mũ của ngài cho tôi,” Đại úy Sievers lau mồ hôi và máu trên mặt. “Hãy lấy đồ và ngựa của tôi…đừng tranh cãi! Ngài phải sống, Nguyên soái. Mạng sống của ngài, kỹ năng của ngài là quá quan trọng đối với đế chế, không thể thay thế được…lữ đoàn Daerlan của tôi sẽ tấn công bọn người phương Bắc, chúng sẽ đuổi theo chúng tôi và ngài có thể thoát xuống phía hồ…”
“Ta sẽ đi,” Coehoorn nói, cầm lấy sợi dây cương được đưa cho ông ta.
“Thật là một vinh hạnh, thưa ngài,” Seivers đứng trên yên ngựa. “Chúng ta là những người lính! Của lữ đoàn Daerlan Số 7!”
“Chúc may mắn,” Coehoorn lầm bầm, khoác lên vai tấm áo choàng in hình con bọ cạp bạc. “Seivers?”
“Vâng, thưa Nguyên soái?”
“Không có gì. Chúc may mắn, nhóc.”
“Ngài cũng vậy. Theo ta, các anh em.”
Coehoorn nhìn theo họ trong một lúc, cho đến khi nhóm của Seivers va chạm với các đơn vị lính đánh thuê. Lực lượng đánh thuê đông hơn họ và các đơn vị khác cũng nhanh chóng chạy lại hỗ trợ. Những tấm áo choàng đen biến mất giữa biển áo xám và mọi thứ bị bao phủ bởi bụi.
Một tiếng ho không hề bé từ de Wyngalt đưa Nguyên soái Coehoorn quay lại thực tại. Ông chỉnh lại yên cương và leo lên con ngựa.
“Đi thôi!” Ông ra lệnh.
Ban đầu thì họ vẫn ổn. Đội quân phương Bắc để hở một khoảng trống trong khi dồn quân lực tấn công các đơn vị còn sót lại của lữ đoàn Nauzicaa. Nguyên soái đã mở đường ra khỏi vòng vây, tuy nhiên không phải là không có trở ngại. Những người Nilfgaard vẫn phải chiến đấu với các kỵ binh nhẹ, mà theo màu áo thì là lính từ Brugge.
Coehoorn không còn tỏ ra anh hùng nữa, ông chỉ muốn sống sót. Ông quay lại nhìn các cận vệ của mình đang giao tranh với kỵ binh, rồi phi nhanh cùng với các phụ tá về phía dòng sông, cúi rạp người trên yên và bám vào cổ con ngựa.
Phía bên kia bờ sông hoàn toàn vắng vẻ. Đằng sau những nhành liễu rủ là một cánh đồng trống trải mà ông không nhìn thấy bóng dáng quân lính nào. Ouder de Wyngalt cũng nhìn thấy và kêu lên đắc thắng.
Quá sớm.
Dòng nước chậm chạp, lười biếng là thứ duy nhất ngăn cách họ và cánh đồng xanh mướt.
Họ phi nước đại, và chỉ sau vài bước, ngựa của họ đã ngập đến bụng trong vũng lầy.
Người Nguyên soái nhảy qua đầu con ngựa và đáp xuống bùn. Xung quanh ông, người và ngựa la hét ầm ĩ. Giữa sự hỗn loạn, Menno bất chợt nghe thấy một âm thanh khác. Một âm thanh báo hiệu cái chết.
Âm thanh của những mũi tên bay.
Ông lao người về phía trước, lội qua lớp bùn dày đặc. Bên cạnh ông, một người phụ tá ngã sấp mặt xuống bùn, Nguyên soái trông thấy một mũi tên cắm vào lưng anh ta. Cùng lúc đó, ông cảm thấy một cú đánh mạnh vào đầu mình. Ông lảo đảo, nhưng vẫn đứng vững, bởi vì bùn ngập đến giữa đùi. Ông muốn hét lên, nhưng chỉ có thể ậm ực trong họng.
Ta vẫn còn sống, ông nghĩ với tư tưởng nhẹ nhõm, vẫn còn sống. Một con ngựa đang cốthoát ra khỏi vũng bùn lầy lội đã đá trúng mũ của Nguyên soái, dập vỡ lớp giáp và răng của ông, làm lưỡi ông chảy máu…Ta đang chảy máu…Ta có thể nếm thấy vị máu…Nhưng ta vẫn còn sống…
Lại lần nữa, ông nghe thấy tiếng tên bay, tiếng giáp trụ bị xuyên thủng, tiếng la hét, tiếng ngựa hý và tiếng máu chảy. Người Nguyên soái quay lại nhìn những bóng dáng bé nhỏ, lùn tịt mặc áo giáp đang cầm nỏ. Người lùn, ông nghĩ.
Tiếng dây cung bật, tiếng tên bay. Tiếng ngựa hý, tiếng la hét của những người đang kẹt trong bùn.
Ouder de Wyngalt quay về phía các xạ thủ và xin hàng. Bằng một giọng the thé, ông ta cầu xin lòng nhân từ và hứa hẹn tiền chuộc. Ông ta nắm lấy lưỡi của thanh kiếm của mình, một cử chỉ cầu hòa, và đưa nó về phía những người lùn. Cử chỉ đã không được hiểu, hay là đã bị hiểu sai – hai mũi tên cắm vào ngực ông ta mạnh đến nỗi gần như nhấc ông ta bay lên khỏi vũng bùn.
Coehoorn gỡ chiếc mũ dập nát ra khỏi đầu. Ông biết tiếng phương bắc khá rành rẽ.
“Mmmmenno…Coehoornnnn…” ông lắp bắp, nhổ máu ra khỏi mồm. “Nguyênnn soáiiii Coehoorn…”
“Hắn đang lẩm bẩm cái gì vậy, Zoltan?” một người lùn hỏi lớn giọng.
“Ai quan tâm, kệ mẹ thằng chó này và mấy lời lải nhải của hắn! Thấy quân hiệu in trên áo hắn không, Munro?”
“Một con bọ cạp bạc! Haa! Mọi người, giết thằng chó đẻ này! Vì Caleb Stratton!”
“Vì Caleb!”
Dây cung bật lên. Coehoorn nhận một mũi tên vào ngực, một mũi vào háng, và một mũi ngay phía dưới xương đòn.
Người Nguyên soái Nilfgaard ngã xuống vũng bùn lềnh bềnh những cây bèo và hà thủ ô, và biến mất dưới trọng lượng tấm áo giáp của mình.
Caleb Stratton là thằng quái nào, ông ta nghĩ. Ta chưa bao giờ nghe nói đến Caleb…
Nước bùn đặc quánh với máu và phù sa từ dòng Cholta ngập qua đầu ông và tràn vào phổi.
***
Cô ra ngoài lều để hít thở một chút. Rồi cô nhìn thấy cậu đang ngồi trên băng ghế cạnh người thợ rèn.
“Jarre?”
Cậu đưa mắt lên nhìn cô. Đôi mắt hoàn toàn trống rỗng.
“Iola,” cậu nói khó khăn do môi bị rộp lên. “Sao mà cậu…”
“Hỏi hay nhỉ!” cô ngắt lời cậu ngay lập tức. “Một câu hỏi hay hơn là làm sao cậu đến được đây?”
“Chúng tôi mang chỉ huy của mình đến…Tổng trấn Bronibor…ông ấy bị thương…”
“Nhưng cậu cũng thế! Đưa tay đây tôi xem! Nữ thần ơi! Cậu đang chảy máu đến chết!”
Jarre nhìn chằm chằm vào cô, nhưng Iola bắt đầu tự hỏi liệu cậu có đang nhìn thấy cái gì không.
“Có một trận chiến,” cậu nói, răng đánh vào nhau cầm cập. “Chúng tôi phải đứng như một bức tường…vững vàng…mang người bị thương đến bệnh viện dễ hơn nhiều…những người bị thương. Mệnh lệnh.”
“Đưa tay đây tôi xem.”
Jarre khẽ kêu lên, răng cậu đánh vào nhau như lên cơn sốt. Iola nhăn mặt.
“Trông tệ lắm…Jarre, Jarre…Mẹ Nenneke sẽ giận lắm đó…Đi với tôi.”
Cô nhìn thấy cậu tái đi khi bước vào căn lều. Khi cậu ngửi cái mùi đó. Cậu lảo đảo. Cô đỡ cậu. Cô thấy cậu nhìn chằm chằm vào cái bàn đẫm máu. Vào người đàn ông đang nằm trên đó. Vào người bác sĩ, người halfling nhỏ bé đang bất chợt nhảy dựng lên, giậm chân, chửi rủa và ném con dao mổ xuống đất.
“Cái quái gì thế! Mẹ kiếp! Tại sao! Tại sao!”
Không ai trả lời câu hỏi.
“Đó là ai vậy?”
“Tổng trấn Bronibor,” Jarre nói yếu ớt, nhìn thẳng về phía trước, đôi mắt trống rỗng. “Chỉ huy của chúng tôi…Chúng tôi đã đứng vững. Mệnh lệnh. Như một bức tường.Và Melfi đã giết…”
“Ông Rusty,” Iola nói. “Người này là bạn của tôi…cậu ấy bị thương…”
“Cậu ta vẫn còn đứng được,” người bác sĩ nói lạnh lùng. “Và người này đang cần khoan sọ. Không phải lúc để thiên vị…”
Lúc này, Jarre, cực kỳ nhạy cảm, ngất một cách kịch tính và ngã xuống sàn. Người halfling khịt mũi khó chịu.
“Chà, chà, đưa cậu ta lên bàn,” ông ra lệnh. “A, bàn tay của cậu ta. Tôi tự hỏi cái gì đang giữ nó lại? Chắc là tay áo. Iola, băng. Mạnh hơn nữa! Đừng có mà dám khóc ở đây! Shani, đưa tôi cái cưa!”
Với một tiếng rít bệnh hoạn, lưỡi cưa cắm vào khớp xương giập nát ở khuỷu tay. Jarre tỉnh dậy và la hét. Khủng khiếp, the thé – nhưng rất ngắn. Khi khúc xương đứt ra, cậu ngay lập tức bất tỉnh.
***
“Và thế là sức mạnh của Nilfgaard đã nằm xuống bên dưới lớp bụi và đất của chiến trường Brenna, và cuộc hành quân lên phía bắc của Đế chế đã kết thúc. Tổn thất lên tới 40 ngàn người chết và bị bắt. Nền tảng của các Hiệp sĩ Tinh nhuệ sụp đổ. Họ đã chết khi bị bắt hoặc mất tích không dấu vết, trong đó bao gồm các chỉ huy: Menno Coehoorn, Braibant, de Mellis–Stoke, van Lo, Tyrconnel, Eggebracht, và những người khác nữa, những người mà tên tuổi không được lưu trữ trong sử sách.
Brenna quả thật là sự bắt đầu của kết thúc. Nhưng cũng cần phải viết ở đây rằng trận chiến này chỉ là một viên đá xây nên nền móng, và tầm quan trọng của nó có thể đã rất nhỏ bé nếu thành quả thắng lợi không được sử dụng sáng suốt. Tổng chỉ huy John Natalis đã không ngủ quên trong chiến thắng mà ngay lập tức hành quân về phía nam. Một cuộc phản công chớp nhoáng do Adam Pangratt và Julia Abatemarco chỉ huy đã làm bất ngờ hai sư đoàn của Quân Đoàn Số 3 đã tới trễ để tiếp viện cho Coehoorn, và bị tiêu diệt ngay tức khắc. Khi nghe tin này, phần còn lại của Quân Chính Quy đã phải xấu hổ quay ngược trở lại sông Yaruga và rút lui khẩn cấp, với Foltest và Natalis truy đuổi ngay sau. Quân đội của Đế chế đã mất toàn bộ hàng tiếp tế và các công cụ vây hãm thành mà họ định sử dụng để chinh phạt Vizima, Gors Velen và Novigrad.
Như một cơn tuyết lở lăn từ trên đỉnh núi xuống thung lũng, càng đi càng thu thập thêm tuyết và năng lượng, hậu quả của trận Brenna cũng gây ra thiệt hại tương tự đối với người Nilfgaard. Lực lượng tác chiến Verden thiệt hại nặng từ các hoạt động phá hoại của cướp biển và các cuộc công kích từ Quần đảo Skellige cùng vua Ethain từ Cidaris. Khi công tước de Wett hay biết về thảm họa ở Brenna và nghe tin cấp báo rằng Foltest và Natalis đang hành quân, ông ngay lập tức ra lệnh thu quân, và trong cơn hoảng loạn, vượt qua sông đến Cintra, tránh thiệt hại nặng cho lực lượng của mình, bởi vì tin tức về thất bại của người Nilfgaard đã lan truyền nhanh chóng và giờ đây, một cuộc khởi nghĩa vũ trang mới đang nổ ra ở Verden. Chỉ còn lại các lực lượng đóng quân tại Nastrog, Rozrog, và Bodrog, và sau Hiệp ước Cintra, họ đã xuất hiện lại với danh dự, và quân kỳ tung bay.
Trong khi đó, ở Aedirn, tin tức về Brenna đã khiến hai vị vua đang xích mích là Demavend và Henselt cùng hợp lực lại để đối đầu với Quân Đoàn Đông của Nilfgaard, được chỉ huy bởi công tước Ardal aep Dahy lúc này đang đóng quân tại thung lũng Pontar, và đã không thể kháng cự lại được sức mạnh tổng hợp của hai vị vua. Với sự hỗ trợ của các đơn vị quân Redania và các tiểu đoàn du kích của Nữ hoàng Meve, đang tiến hành các hoạt động chiến sự đằng sau quân địch, họ đã ép người Nilfgaard phải lui về Aldersberg. Ardal aep Dahy đã chuẩn bị chiến đấu, tuy nhiên do số phận mỉa mai, ông đột nhiên lâm bệnh nặng, có lẽ là do ngộ độc thức ăn. Ông bị đau bụng và tiêu chảy, và đã chết hai ngày sau đó trong đau đớn. Demavend và Henselt, không chần chừ, tấn công quân Nilfgaard tại Aldersberg, dĩ nhiên vì sự công bằng của lịch sử, Nilfgaard đã phải chịu thất bại thảm hại, mặc dù họ vẫn có nhiều ưu thế hơn. Nhưng sự liều lĩnh, tinh thần quật cường và kỹ năng đã chiến thắng sức mạnh thô bạo thuần túy.
Cần thiết phải đề cập đến một vấn đề nữa – đó là vẫn chưa rõ chuyện gì đã xảy ra với Menno Coehoorn ở Brenna. Vài người tin rằng ông đã ngã xuống cùng với binh lính của mình và thi thể của ông, không thể nhận dạng, được đặt nằm dưới một nấm mồ vô danh. Những người khác lại suy đoán rằng ông đã trốn thoát, nhưng vì lo sợ cơn thịnh nộ của Hoàng đế, đã không quay trở lại Nilfgaard mà đến sống cùng những người dryad trong rừng Brokilon, và trở thành một ẩn sĩ. Vì hối hận, ông sống những năm tháng cuối đời trong cô độc và cách biệt cho đến lúc chết.
Giữa những người dân bình dị lại truyền đi một lời đồn khác rằng vị Nguyên soái lừng danh, vào buổi đêm sau trận chiến, đã quay trở lại chiến trường Brenna và không thể chịu được bi kịch đã diễn ra ở đây. Ông đã treo cổ tự vẫn trên ngọn đồi mà từ đó trở đi được gọi là Đồi Gallows. Người ta nói rằng vào mỗi đêm, hồn ma của ông vẫn lảng vảng trên chiến trường, than khóc và rên rỉ : “Hãy trả lại quân đoàn cho ta!”
“Ông ngoại Jarre! Ông ngoại Jarre!”
Jarre ngước lên khỏi tờ giấy và chỉnh lại cặp kính.
“Ông ngoại Jarre!” cô cháu gái nhỏ nhất của ông la lên bằng chất giọng the thé, một đứa bé 6 tuổi trông sáng lạn và hoạt bát, mà nhờ ơn các vị thần, trông giống mẹ nó, con gái của ông, chứ không phải thằng con rể của ông.
“Ông ngoại Jarre! Bà ngoại Lucienne bảo cháu đi nói với ông là viết lách như thế là đủ cho một ngày rồi. Và bữa tối đã sẵn sàng!”
Jarre cẩn thận gấp cuộn giấy và đậy lọ mực lại. Bàn tay cụt của ông cảm thấy đau. Thời tiết đang trở mùa, ông nghĩ, sắp mưa rồi.
“Ông ngoại Jarrrrreeeee!”
“Ta đang đi đây Ciri. Ta đang đi đây.”
***
Trước khi ông xong việc với bệnh nhân cuối cùng thì cũng đã quá nửa đêm. Ca phẫu thuật cuối cùng được thực hiện dưới ánh sáng nhân tạo – đèn dầu, nến và cả ma thuật nữa. Marti Sodergren đã tỉnh dậy sau cơn khủng hoảng và mặc dù tái nhợt như xác chết, người cứng đờ như một con golem, cô vẫn thực hiện các câu thần chú của mình hiệu quả.
Trời đã tối khi họ ra ngoài căn lều, cả 4 người nằm thẳng cẳng trên mấy tấm vải bạt. Cánh đồng đầy những ngọn lửa. Đủ các thể loại – lửa trại, lửa đuốc, những cành cây đang cháy…Qua màn đêm vọng lại những tiếng hò reo, ca hát và ăn mừng.
Màn đêm xung quanh họ cũng sống động với những tiếng rên la của người bị thương. Những tiếng cầu nguyện và thở hắt của những kẻ đang chết. Họ không nghe bất kỳ âm thanh nào cả. Họ đã quen với tiếng nói của khổ đau và chết chóc, đối với họ, những tiếng đó nghe thật bình dị, tự nhiên và pha trộn với những tiếng ếch ộp trên đầm lầy của dòng Cholta và tiếng ve sầu râm ran cạnh Hồ Vàng.
Marti Sodergren im lặng, tựa vào vai của người halfling. Iola và Shani, ôm chặt lấy nhau, thỉnh thoảng lại khúc khích cười vì những thứ hoàn toàn ngớ ngẩn. Họ đều ngồi gần căn lều, mỗi người uống một ly vodka và Marti làm cho họ thư giãn bằng một bùa chú cuối cùng – mà cô hay dùng để làm dịu những cơn đau răng.
Rusty cảm thấy sự thư giãn không có hiệu quả – món đồ uống pha lẫn ma thuật lẽ ra phải làm ông thấy thoải mái, hay giảm bớt sự mệt mỏi của ông, thì lại làm tăng nó lên. Thay vì ban cho sự lãng quên, nó lại gợi cho ông nhớ. Có vẻ như món đồ uống ma thuật chỉ có tác dụng với Iola và Shani.
Ông quay lại và nhìn thấy ánh trăng phản chiếu trên gương mặt của hai cô gái, lấp lánh những giọt nước mắt.
“Tôi tò mò,” ông nói, liếm đôi môi khô ráp của mình, “ai đã thắng trận chiến. Có ai biết không?”
Marti quay mặt về phía ông, nhưng giữ im lặng.
Ve sầu râm ran giữa những nhành liễu và bụi trăn bên bờ hồ, ếch kêu ếch ộp, những người bị thương rên rỉ, cầu nguyện, và thở hắt. Và chết. Iola và Shani cười giữa những giọt nước mắt.
***
Marti Sodergren chết hai tuần sau trận chiến. Cô dính vào một mối tình với một sĩ quan của Quân Đoàn Tự Do. Cô chỉ coi đây là một mối quan hệ tạm thời. Không như người sĩ quan. Khi Marti, tính vốn lăng nhăng, qua lại với một sĩ quan kỵ binh khác, người lính đánh thuê ghen tức đã đâm cô. Hắn bị treo cổ vì chuyện đó, nhưng họ đã không thể cứu được người nữ pháp sư.
Rusty và Iola chết một năm sau trận chiến, ở Maribor, nơi bùng phát lớn nhất bệnh sốt xuất huyết, hay còn gọi là Cái Chết Đỏ, hay gọi theo tên con tàu đã mang nó đến đây – Dịch Catriona.
Tất cả các bác sĩ, và hầu hết các nữ tu, đã nhanh chóng đến Maribor, trong số đó là Rusty và Iola. Để cứu chữa, bởi vì họ là bác sĩ. Sự thật rằng không có thuốc chữa cho bệnh Cái Chết Đỏ không quan trọng đối với họ. Cả hai đều bị nhiễm bệnh. Ông đã chết trong vòng tay cô, trong bàn tay nông dân mạnh mẽ, tự tin, to lớn và xấu xí của cô. Cô chết bốn ngày sau đó. Trong đơn độc.
Shani chết 27 năm sau trận chiến, sau khi trở thành một giáo sư được kính trọng và đã nghỉ hưu của khoa Y dược Đại học Oxenfurt. Những thế hệ bác sĩ tương lai luôn ghi nhớ câu trích dẫn nổi tiếng của bà – “Khâu chỉ đỏ với chỉ đỏ, chỉ vàng với chỉ vàng, chỉ trắng với chỉ trắng. Và rồi mọi thứ sẽ ổn.”
Rất ít người nhận ra rằng sau mỗi khi trích dẫn câu nói này, bà luôn bí mật lau đi những giọt nước mắt của mình.
Rất ít người.
***
Ếch kêu ếch ộp, ve sầu râm ran, Iola và Shani vừa khóc vừa cười.
“Tôi tò mò,” Milo Vanderbeck, một halfling, một bác sĩ thực địa, được biết đến với cái tên Rusty, nhắc lại. “Tôi tò mò không biết ai đã thắng trận chiến?”
“Rusty,” Marti Sodergren nói. “Đó sẽ là thứ mà tôi ít quan tâm đến nhất, nếu tôi là ông.”
Vài ngọn lửa cháy cao và mạnh, tỏa sáng rực rỡ và sống động, trong khi những ngọn khác nhỏ bé, run rẩy và lung lay, lụi dần rồi tắt hẳn. Ở phía cuối dãy là một một ngọn lửa bé xíu, liu riu, gần như chẳng tỏa ra chút ánh sáng nào, lập lòe yếu ớt và lịm dần.
“Ánh sáng đang tàn kia là của ai?” witcher hỏi.
“Của ngươi.” Cái Chết trả lời.
– Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.