Trò chơi vương quyền 4B – Lời tiên tri

Trò chơi vương quyền 4B – Lời tiên tri

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Phần nguy hiểm nhất của cuộc hành trình là giai đoạn cuối cùng. Các eo biển ở Redwyne chật cứng thuyền dài, điều họ đã được cảnh báo từ trước ở Tyrosh. Hầu như toàn bộ sức mạnh của hạm đội thuyền Arbor đều đang ở tít tận phía bên kia của Westeros, nên người sắt đã cướp phá Ryamsport và chiếm Vinetown cùng Cảng Starfish, dùng chúng làm căn cứ để săn những con thuyền tới Oldtown.

Ba lần họ nhìn thấy những con thuyền dài từ trên đài quan sát. Tuy nhiên, hai chiếc đã ở phía sau và thuyền Hương Quế nhanh chóng vượt xa chúng. Con thuyền thứ ba xuất hiện khi mặt trời gần lặn và chặn đường họ tại Whispering Sound. Khi họ nhìn thấy những mái chèo của con thuyền ngoi lên ngụp xuống và mặt nước vàng tung bọt trắng xóa, Kojja Mo tập hợp các cung thủ lên tường lũy với những cây cung vĩ đại bằng gỗ vàng trong tay; cung làm bằng gỗ này có thể bắn xa hơn và chuẩn xác hơn cả gỗ thông đỏ của xứ Dorne. Cô đợi cho đến khi chiếc thuyền dài chỉ còn cách hai trăm thước mới phát

lệnh cho các cung thủ nhả tên. Sam cũng nhả tên cùng bọn họ, và lần này cậu nghĩ mũi tên bắn trúng con thuyền. Họ chỉ cần bắn một loạt tên duy nhất. Con thuyền dài quay đầu về phía nam và tìm kiếm những con mồi ngon ăn hơn.

Hoàng hôn xanh thẫm bao phủ không gian khi họ tiến vào Whispering Sound. Gilly đứng bên cạnh mũi thuyền với đứa bé trên tay và ngẩng lên nhìn một tòa lâu đài trên vách đá. “Ba Tòa Tháp,” Sam nói, “thủ phủ của Nhà Costayne.” Nổi bật trên nền trời đêm đầy sao với ánh nến lập lòe chiếu ra từ các ô cửa sổ, tòa lâu đài tạo thành một hình ảnh tráng lệ, nhưng cậu chẳng vui vẻ gì khi nhìn thấy nó.

Chuyến hải trình của họ sắp kết thúc.

“Nó to thật đấy,” Gilly nói.

“Chờ đến khi em nhìn thấy Hightower đã.”

Con trai của Dalla bắt đầu khóc. Gilly vén áo lên và cho thằng bé bú. Cô mỉm cười khi cho cậu bé ăn và xoa đầu cậu bé với những sợi tóc nâu mềm mại. Giờ cô ấy đã yêu đứa bé này chẳng kém gì đứa bé cô để lại ở Tường Thành, Sam nhận ra điều đó. Cậu hy vọng các vị thần sẽ tốt bụng với cả hai đứa trẻ.

Người sắt đã thâm nhập vào cả những vùng nước kín đáo nhất của Whispering Sound. Buổi sáng, khi Hương Quế tiếp tục lên đường tới Oldtown, con thuyền bắt đầu đâm phải những cái xác trôi dạt bên bờ biển. Một số xác chết còn có lũ quạ đồng hành, chúng bay lên không trung và phàn nàn ầm ỹ khi con thuyền thiên nga đâm phải những ‘chiếc bè’ trương phềnh gớm ghiếc của chúng. Những cánh đồng lá kim, những ngôi làng cháy trụi xuất hiện hai bên bờ, những chỗ cạn và bãi cát giữa sông rải rác xác

thuyền vỡ. Phổ biến nhất là thuyền buôn và thuyền đánh cá, nhưng họ nhìn thấy cả thuyền dài bị bỏ

hoang và xác hai thuyền chiến lớn. Một chiếc đã bị đốt trụi tới tận mạn thuyền, trong khi chiếc còn lại bị đâm thủng một lỗ to trên thân.

“Vừa có giao chiến ở đây,” Xhondo nói. “Mới thôi.”

“Ai lại điên tới mức đi cướp phá gần Oldtown thế nhỉ?”

Xhondo chỉ vào một con thuyền dài đang chìm một nửa ở chỗ nước cạn. Phần còn lại của một lá cờ hiệu ám khói và rách rưới rủ xuống từ đuôi thuyền. Hình ảnh trên đó Sam chưa nhìn thấy bao giờ: một con mắt đỏ với đồng tử đen nằm sau một chiếc vương miện sắt đen được nâng bởi hai con quạ. “Cờ hiệu của ai vậy?” Sam hỏi. Xhondo chỉ nhún vai.

Ngày hôm sau trời lạnh và nhiều sương mù. Khi Hương Quế chậm chạp bò qua một làng chài bị cướp phá tan hoang khác, một con thuyền ga-lê chiến tiến ra trong màn sương và lừ lừ tiến về phía họ. Tên con thuyền là Nữ Thợ Săn, mũi tàu chạm hình một thiếu nữ mảnh dẻ mặc toàn lá cây và đang vung một thanh giáo. Trong tích tắc, hai chiếc ga-lê khác nhỏ hơn xuất hiện hai bên con thuyền lớn trông như một cặp chó săn giống hệt nhau đang chạy quanh chân chủ. Sam thở phào vì chúng mang cờ hiệu hình hươu và sư tử của vua Tommen bên trên hình tòa tháp trắng của Oldtown, với chiếc mũ miện bằng lửa.

Thuyền trưởng của Nữ Thợ Săn là một người đàn ông cao lớn mặc áo choàng xám khói viền sa tanh màu đỏ lửa. Ông đưa thuyền đi song song với Hương Quế, nâng chèo lên và hét rằng ông ta sẽ lên

boong. Khi cung thủ của ông và của Kojja Mo nhìn nhau qua khe nước hẹp, ông nhảy sang cùng với sáu hiệp sĩ, gật đầu với Quhuru Mo và yêu cầu được kiểm tra thuyền. Cha và con gái hội ý chớp nhoáng, sau đó họ đồng ý.

“Xin thứ lỗi,” vị thuyền trưởng nói khi đã kiểm tra xong. “Tôi rất buồn vì những người lương thiện phải chịu sự bất nhã này, nhưng thà như vậy còn hơn để bọn người sắt tiến vào Oldtown. Chỉ nửa tháng trước thôi lũ khốn kiếp đó đã bắt được một con thuyền buôn của Tyrosh ở eo biển. Chúng giết hết thủy

thủ đoàn, mặc quần áo của họ và dùng phẩm màu chúng tìm được để nhuộm râu thành mấy chục màu khác nhau. Khi vào được bên trong thành, chúng đang định đốt cháy cảng và mở một cánh cổng bên trong thì chúng tôi phát hiện ra đám cháy. Đáng lẽ chúng có thể thành công nếu không phải chạm trán với thuyền Phu Nhân Pháo Đài. Trưởng đội chèo thuyền có vợ là người Tyrosh. Khi nhìn thấy những bộ râu xanh đỏ tím vàng của chúng, ông ta chào họ bằng giọng Tyrosh, và lũ người trên thuyền không ai biết một từ nào để chào lại.”

Sam kinh hãi. “Không thể nào. Bọn chúng định chiếm Oldtown sao.”

Thuyền trưởng con thuyền Nữ Thợ Săn nhìn cậu tò mò. “Không chỉ có những tên cướp giật thôi đâu. Đám người sắt luôn đột kích bất ngờ khi có thể. Chúng tấn công đột ngột từ biển, cướp đi một số

vàng và gái rồi dong thuyền đi, nhưng thông thường chúng chỉ có một đến hai con thuyền dài và không bao giờ vượt quá sáu thuyền. Nhưng giờ hàng trăm con thuyền của bọn chúng đang quấy nhiễu chúng tôi, chúng xuất hiện từ quần đảo Shield và một số rặng đá xung quanh Arbor. Chúng đã chiếm được đảo nhỏ Stonecrab, đảo Pigs và Cung Điện Tiên Cá. Vẫn còn những sào huyệt khác của chúng ở Horseshoe Rock và Bastard’s Cradle. Tuy nhiên không có hạm đội của Lãnh chúa Redwyne, chúng tôi không đủ thuyền để đương đầu với chúng.”

“Vậy Lãnh chúa Hightower đang làm gì?” Sam buột miệng. “Cha tôi luôn nói ông ta giàu có không kém gì Nhà Lannister và nắm trong tay số kiếm sĩ nhiều gấp ba lần các chư hầu khác của Highgarden.”

“Còn có thể nhiều hơn nữa nếu ông ta càn quét mọi ngõ ngách trong thành,” thuyền trưởng nói, “nhưng đao kiếm chẳng có tác dụng gì trước người sắt, trừ khi những người sử dụng chúng biết đi trên

mặt nước.”

“Nhưng Hightower phải làm gì đó chứ.”

“Chắc chắn rồi. Lãnh chúa Leyton đang giam mình trên đỉnh tháp với Thiếu Nữ Điên và tham khảo các cuốn sách về bùa phép. Có thể ông ta sẽ gọi lên một đội quân từ dưới biển. Có thể không. Baelor đang cho đóng thuyền ga-lê, Gunthor đang trông nom vùng cảng, Garth đang huấn luyện tân binh, và Humfrey đã tới Lys để thuê thủy thủ. Nếu anh ta có thể xin được một hạm đội thuyền từ chỗ cô em đĩ

điếm của mình, chúng ta sẽ trả lại đám người sắt chính những đồng bạc của chúng. Cho đến lúc đó, việc tốt nhất chúng ta có thể làm là nghe ngóng và chờ mụ thái hậu chết tiệt ở Vương Đô thả dây xích cho Lãnh chúa Paxter.”

Giọng lưỡi chua chát của vị thuyền trưởng trong câu cuối cùng khiến Sam ngạc nhiên không kém so với những gì ông vừa nói. Nếu Vương Đô để mất Oldtown và vùng Arbor, cả vương quốc sẽ tan vỡ,

cậu nghĩ khi quan sát Nữ Thợ Săn và các con thuyền khác rời đi.

Điều đó khiến cậu lo lắng và ngờ rằng ngay cả Horn Hill cũng không thực sự an toàn. Đất đai của nhà Tarly nằm sâu trong đất liền giữa những quả đồi rậm rạp, cách Oldtown vài trăm dặm về phía

đông bắc và cách xa bất cứ bờ biển nào. Chắc chắn nơi đó sẽ nằm ngoài tầm tay lũ người sắt và các con thuyền dài của chúng, ngay cả khi cha cậu đang đi chiến đấu ở vùng ven sông và tòa lâu đài không được canh chừng cẩn mật. Chắc chắn Sói Trẻ cũng nghĩ như vậy về Winterfell cho đến đêm Theon Phản Bội vượt qua tường thành. Sam không đành lòng khi nghĩ đến việc cậu đưa Gilly và đứa trẻ đi cả một quãng đường xa như vậy để họ được an toàn, xong cuối cùng lại quẳng họ vào giữa một cuộc chiến.

Cậu đánh vật với những nghi ngờ của mình trong suốt phần còn lại của cuộc hải trình và băn khoăn không biết phải làm gì. Mình có thể giữ Gilly lại bên mình ở Oldtown, Sam nghĩ. Tường thành của

thành phố kiên cố hơn nhiều so với tòa lâu đài của cha cậu và còn có hàng nghìn người bảo vệ, trong

khi Lãnh chúa Randyll chỉ để lại một nhúm người ở Horn Hill và hành quân đến Highgarden trước lời triệu tập của lãnh chúa cấp trên. Tuy nhiên nếu làm vậy, cậu sẽ phải tìm cách giấu cô ở đâu đó; Citadel không cho phép các giáo sinh đem theo vợ hay thê thiếp, ít nhất là không được phép lộ liễu. Ngoài ra, nếu mình ở với Gilly lâu hơn, làm sao mình có thể rời xa cô ấy? Cậu phải rời xa Gilly, hoặc là đào ngũ. Mình đã nói lời tuyên thệ, Sam tự nhủ. Nếu đào ngũ mình sẽ mất đầu, và việc đó thì có lợi gì cho Gilly?

Cậu cân nhắc việc cầu xin Kojja Mo và cha cô cho cô gái du mục đi cùng họ tới Quần đảo Summer. Tuy nhiên con đường đó cũng không kém phần nguy hiểm. Khi Hương Quế rời Oldtown, con thuyền sẽ phải băng qua eo biển Redwyne một lần nữa, và lần này có thể nó sẽ không may mắn như lần

trước. Nếu bỗng nhiên gió lặng, và đám người từ đảo Summer phải chôn chân một chỗ thì sao? Nếu những câu chuyện cậu nghe được là có thật thì Gilly sẽ bị đưa đi làm nô lệ hoặc vợ lẽ, còn đứa bé nhiều khả năng sẽ là bị cho là của nợ và bị ném xuống biển.

Phải là Horn Hill, cuối cùng Sam quyết định. Một khi tới Oldtown, mình sẽ thuê một chiếc xe và vài con ngựa rồi tự mình đưa cô ấy đến đó. Như vậy cậu có thể tự mình kiểm chứng về tòa lâu đài và quân đồn trú, và nếu nghe thấy hay nhìn thấy điều gì đó không ổn, cậu có thể quay đầu và đưa Gilly trở

lại Oldtown.

Họ tới Oldtown vào một buổi sáng lạnh lẽo và ẩm ướt, khi sương mù dày đặc đến nỗi khi nhìn vào thành phố, họ chỉ thấy duy nhất đèn hiệu của Hightower. Một hàng rào chắn ngang bến cảng, nối hơn hai chục chiếc thuyền mục nát với nhau. Ngay đằng sau nó là một hàng thuyền chiến thả neo cạnh ba tàu chiến lớn và chiếc thuyền bốn tầng vĩ đại cao vượt trội của Lãnh chúa Hightower, Niềm Tự Hào

Của Oldtown. Một lần nữa thuyền Hương Quế bị kiểm tra. Lần này là Gunthor, con trai Lãnh chúa Leyton lên thuyền. Anh ta mặc áo choàng bằng vải kim tuyến bạc và một bộ giáp vảy cá màu xám. Ser Gunthor đã theo học ở Citadel vài năm và nói thổ ngữ vùng Summer, vì thế anh ta và Qurulu Mo dời sang khoang của thuyền trưởng để hội ý riêng.

Sam dành thời gian giải thích kế hoạch của cậu cho Gilly. “Đầu tiên là tới Citadel để đưa bức thư của Jon và nói với họ về cái chết của Maester Aemon. Tôi hy vọng các archmaester sẽ cho một chiếc xe đẩy đến chở xác ông ấy. Sau đó tôi sẽ sắp xếp một chiếc xe và vài con ngựa để đưa em đến chỗ mẹ tôi ở Horn Hill. Tôi sẽ quay lại sớm nhất có thể, nhưng chắc là phải sáng mai.”

“Sáng mai,” cô nhắc lại và hôn cậu chúc may mắn.

Cuối cùng Ser Gunthor xuất hiện trở lại và ra hiệu cho mở sợi xích để thuyền Hương Quế có thể lách qua rào chắn vào cầu cảng. Sam đi cùng với Kojja Mo và ba cung thủ khác của cô tới gần ván tàu

trong khi chiếc thuyền thiên nga buộc neo. Họ lộng lẫy trong những chiếc áo choàng lông vũ – những trang phục họ chỉ mặc khi ở trên bờ. Cậu thấy mình thật nhếch nhác trong chiếc quần túi đen, áo choàng đen bạc phếch và đôi giày ố màu muối biển. “Các cô sẽ ở lại cảng trong bao lâu?”

“Hai ngày, hoặc mười ngày, ai mà nói trước được? Đủ lâu để dỡ hết hàng hóa xuống và chất hàng mới lên.” Kojja toét miệng cười. “Cha tôi cũng phải đến gặp các học sĩ xám nữa. Ông ấy cần bán

sách.”

“Gilly có thể ở lại thuyền cho đến khi tôi trở lại không?”

“Gilly ở bao lâu cũng được.” Cô dùng một ngón tay ấn vào bụng Sam. “Cô ấy không ăn khỏe như một số người.”

“Thế này là gầy hơn trước rồi đấy,” Sam cự lại. Chuyến hải trình về phương nam đã giúp cậu giảm cân. Cậu phải trực ca và chẳng có gì để ăn ngoài hoa quả và cá. Người dân đảo Summer thích ăn

những thứ đó.

Sam đi theo các cung thủ dọc theo cầu tàu, nhưng ngay khi lên bờ, họ chia ra và đi theo các ngả khác nhau. Cậu hy vọng mình vẫn nhớ đường tới Citadel. Oldtown là một mê cung, và cậu không có

thời gian cho việc đi lạc.

Hôm đó trời ẩm ướt nên con đường lát đá ướt sũng và trơn trượt, các con ngõ nhỏ chìm trong màn sương mù bí ẩn. Sam cố hết sức để tránh xa chúng và men theo con đường ven sông uốn lượn theo

dòng Honeywine, chảy qua trung tâm của thành phố cổ. Thật tốt khi dưới chân cậu là đất cứng thay vì sàn gỗ chòng chành, nhưng việc đi bộ cũng khiến cậu khó chịu chẳng kém là bao. Cậu cảm nhận được những con mắt đổ dồn lên người mình, chúng nhìn xuống từ các ban công và cửa sổ, quan sát cậu từ trong các ô cửa đi tối tăm. Trên thuyền Hương Quế cậu biết tất cả mọi người. Còn ở đây quay hướng nào cũng là những khuôn mặt xa lạ. Tồi tệ hơn là ý nghĩ bị ai đó quen biết nhìn thấy. Lãnh chúa Randyll Tarly rất nổi tiếng ở Oldtown, nhưng không được yêu mến nhiều cho lắm. Sam không biết trường hợp nào thì tệ hơn: bị nhận ra bởi một trong các kẻ thù của cha cậu hay là một trong những người bạn của ông. Cậu kéo cao áo choàng lên và rảo bước thật nhanh.

Hai bên cổng vào Citadel là một đôi tượng nhân sư màu xanh cao ngất với mình sư tử, cánh đại bàng và đuôi rắn. Một con có hình mặt đàn ông, một con mang mặt phụ nữ. Ngay sau chúng là Chợ Chép Thuê, nơi người dân Oldtown đến tìm các thầy dòng để nhờ họ viết di chúc và đọc thư. Sáu

người chép thuê chán nản ngồi trong những sạp hàng mở chờ khách. Ở các sạp khác người ta đang mua bán sách. Sam dừng lại trước một quầy bán bản đồ và tìm một chiếc bản đồ Citadel vẽ tay để xác định đường đi ngắn nhất đến điện của Seneschal.

Con đường rẽ làm đôi ở nơi có tượng vua Daeron Đệ Nhất ngồi trên lưng con ngựa đá cao, kiếm của ông chĩa thẳng về phía Dorne. Một con mòng biển đang đậu trên đầu Rồng Trẻ và hai con nữa đậu

trên lưỡi kiếm. Sam rẽ trái và đi dọc con sông. Tại cầu cảng Weeping, cậu thấy hai thầy dòng đang

giúp một ông già lên thuyền để đi một đoạn đường ngắn tới đảo Bloody. Một người mẹ trẻ trèo lên thuyền sau ông, đứa bé gào khóc trên tay cô ta cũng xấp xỉ bằng con trai của Gilly. Bên dưới cầu cảng, vài cậu bé phụ bếp bì bõm lội trên khúc cạn để bắt ếch. Một loạt các giáo sinh nhỏ tuổi chạy ào qua cậu về phía điện thờ. Lẽ ra ta nên đến đây khi bằng tuổi họ, Sam nghĩ. Nếu hồi đó mình bỏ chạy và dùng một cái tên giả thì giờ mình đã có thể trà trộn vào đây giữa các giáo sinh khác. Cha có thể vờ như chỉ có Dickon là con trai duy nhất. Thậm chí cha sẽ chẳng thèm đi tìm mình đâu, trừ khi mình chạy trốn trên lưng một con la. Lúc đó ông ấy sẽ truy đuổi, nhưng là để bắt lại con la mà thôi.

Bên ngoài Điện Seneschal, các mục sư đang khóa một giáo sinh lớn tuổi vào cột dành cho tội nhân. “Tội ăn cắp thức ăn trong bếp,” một người giải thích cho các thầy dòng đang đợi để ném rau thối

vào người bị bắt. Họ đều nhìn Sam với ánh mắt tò mò khi cậu đi qua, chiếc áo choàng đen của cậu cuộn lên sau lưng như một cánh buồm.

Bên trong cánh cửa, cậu thấy một căn sảnh lát đá cao với những khung cửa sổ hình vòm. Ở đầu bên kia, một người đàn ông khuôn mặt nhăn nhó đang ngồi trên một chiếc bục cao và dùng bút lông viết sột

soạt vào một quyển sổ. Dù người đó mặc áo thụng dành cho học sĩ nhưng quanh cổ ông ta không có chuỗi xích nào. Sam hắng giọng.

“Chào buổi sáng.”

Người đàn ông ngẩng lên và có vẻ không đồng tình với những gì vừa nhìn thấy. “Cậu là giáo sinh à?”

“Tôi hy vọng sớm được như vậy.” Sam rút ra mấy lá thư mà Jon Snow đưa cho cậu. “Tôi từ Tường Thành đến đây cùng với Maester Aemon, nhưng ông ấy đã qua đời trên đường đi. Liệu tôi có

thể nói chuyện với Seneschal…”

“Tên cậu là gì?”

“Samwell. Samwell Tarly.”

Ông ta viết tên cậu lên cuốn sổ và vẫy chiếc bút lông chỉ về phía chiếc ghế dài kê sát tường. “Ngồi xuống đi. Khi nào đến lượt tôi sẽ gọi cậu.”

Sam ngồi xuống ghế.

Những người khác đến rồi đi. Một số người đưa thông điệp, nhận thông điệp rồi cáo từ. Một số người nói chuyện với người đàn ông trên bục và được dẫn vào cánh cửa phía sau ông, rồi leo lên một

chiếc cầu thang xoắn ốc. Một số người đến ngồi cạnh Sam trên ghế và chờ đến lượt được gọi tên. Vài người vào sau cậu nhưng lại được triệu tập trước, cậu chắc chắn điều đó. Sau khi sự việc xảy ra tới bốn, năm lần, Sam đứng lên và tiến tới chỗ người đàn ông một lần nữa. “Tôi còn phải đợi bao lâu?”

“Seneschal là người quan trọng.”

“Nhưng tôi ở tít tận Tường Thành tới đây.”

“Vậy thì cậu đi xa thêm một chút cũng có sao đâu.” Ông ta lại vẫy chiếc bút lông. “Ra chiếc ghế đằng kia, ngay dưới cửa sổ ấy.”

Sam quay trở lại ghế. Lại một tiếng nữa trôi qua. Những người khác tiến vào, nói chuyện với người đàn ông trên bục, chờ thêm một lúc rồi sau đó được dẫn lên. Người gác cổng không hề nhìn Sam

lấy một lần trong suốt thời gian đó. Màn sương bên ngoài nhạt dần khi đêm dần chuyển sang ngày, những tia sáng nhàn nhạt yếu ớt len lỏi qua các khung cửa sổ. Cậu lơ đễnh ngồi nhìn những hạt bụi nhảy nhót trong ánh sáng. Cậu ngáp một lần, rồi hai lần. Cậu bóc một lớp da bị rộp trên tay, rồi ngả đầu ra sau và nhắm mắt lại.

Chắc hẳn cậu đã ngủ gật. Việc tiếp theo cậu biết là người đàn ông đằng sau chiếc bục đang gọi một cái tên. Sam đứng bật dậy, sau đó lại ngồi xuống khi nhận ra đó không phải tên mình.

“Cậu phải đút cho Lorcas một đồng xu, nếu không cậu sẽ phải đợi đến ba ngày,” một giọng nói phía sau cậu cất lên. “Có chuyện gì mà người của Đội Tuần Đêm phải đến Citadel vậy?”

Người vừa nói là một thanh niên gầy gò mảnh khảnh; anh ta mặc quần ống túm bằng da hoẵng và áo giáp nhẹ màu xanh bó sát với đinh tán bằng sắt. Da cậu ta có màu bia nâu nhạt, những lọn tóc xoăn đen

trông như một chiếc mũ đội sát đầu tạo thành hình chữ V trước trán, bên dưới là đôi mắt to đen láy. “Tướng chỉ huy đang cho khôi phục lại các tòa lâu đài bỏ hoang,” Sam giải thích. “Chúng tôi cần thêm các học sĩ để sử dụng đàn quạ… cậu vừa nói là cần một đồng xu à?”

“Một xu là được rồi. Nếu được một đồng bạc Lorcas sẽ cõng cậu lên gặp Seneschal. Ông ta đã làm thầy dòng suốt năm mươi năm nay. Ông ta ghét các giáo sinh, đặc biệt là giáo sinh dòng dõi cao

quý.”

“Sao cậu biết tôi có dòng dõi quý tộc?”

“Cũng giống như việc cậu nhận ra tôi mang một nửa dòng máu Dorne thôi.” Cậu ta nói bằng chất giọng nhỏ nhẹ xứ Dorne cùng với một nụ cười.

Sam lật đật lục tìm một đồng xu. “Cậu có phải là giáo sinh không?”

“Tôi là thầy dòng. Alleras, Một số người gọi là Nhân Sư.”

Cái tên khiến Sam giật mình. “Nhân sư là câu đố, không phải người ra câu đố,” cậu buột miệng. “Cậu có hiểu câu đó nghĩa là gì không?”

“Không. Một câu đố vui à?”

“Tôi mà biết thì đã tốt. Tôi là Samwell Tarly. Sam.”

“Rất vui được gặp cậu. Thế Samwell Tarly có việc gì cần gặp Archmaester Theobald vậy?”

“Ông ấy có phải là Seneschal không?” Sam bối rối. “Maester Aemon nói tên ông ta là Norren.”

“Trong hai nhiệm kỳ gần đây thì không phải. Mỗi năm chúng tôi lại thay một người nới. Vị trí đó được các archmaester thay nhau làm, nhưng hầu hết bọn họ chẳng ai muốn cả bởi như vậy họ phải rời xa công việc thực sự của mình. Năm nay người đen đủi là Archmaester Walgrave, nhưng Walgrave đã khá lú lẫn rồi, vì thế Theobald bước lên và nói ông ấy sẽ làm nhiệm kỳ này. Ông ấy tuy cộc cằn thô lỗ nhưng là người tốt. Cậu vừa nhắc đến Maester Aemon ấy hả?”

“Đúng.”

“Aemon Targaryen?”

“Ngày xưa thôi. Hầu hết mọi người chỉ gọi ông ấy là Maester Aemon. Ông ấy qua đời trong chuyến hải trình về phương nam lần này. Sao cậu biết ông ấy?”

“Tại sao không? Ông ấy không chỉ là học sĩ cao tuổi nhất còn sống, mà còn là người cao tuổi nhất

ở Westeros và từng sống qua nhiều giai đoạn lịch sử hơn tất cả những gì Archmaester Perestan được học. Nếu Maester Aemon ở đây, chúng tôi hẳn sẽ được nghe ông ấy kể về triều đại của cha ông, chú

ông. Cậu có biết ông ấy bao nhiêu tuổi không?”

“102.”

“Ông ấy còn ra biển làm gì khi già yếu như vậy?”

Sam suy nghĩ một lúc và băn khoăn không biết nên tiết lộ sự thật đến đâu. Nhân sư là câu đố, không phải người ra câu đố. Phải chăng Maester Aemon nhắc đến Nhân Sư này? Có vẻ không đúng

cho lắm.

“Tướng chỉ huy Snow cử ông ấy đi cũng là để bảo toàn tính mạng cho ông ấy,” cậu bắt đầu nói, vẻ hơi lưỡng lự. Cậu lúng túng kể về vua Stannis và Melisandre vùng Asshai, định bụng sẽ dừng ở đó, nhưng chuyện này lại nối tiếp chuyện kia và cuối cùng cậu nói cả về Mance Rayder và người du mục, dòng dõi của nhà vua và những con rồng. Cậu kể tuốt tuột mọi thứ trước khi kịp nhận ra mình đã đi quá

xa: từ đám người biến hình ở Nắm Đấm Của Tiền Nhân, rồi Ngoại Nhân trên lưng những con ngựa chết, vụ ám sát Gấu Già ở pháo đài của Craster, cho đến chuyện Gilly và cậu bỏ trốn ra sao, làng Cây Trắng và Paul Nhỏ, Tay Lạnh và lũ quạ, Jon được bầu làm tướng chỉ huy, thuyền Chim Két, Dareon, Braavos, những con rồng Xhondo nhìn thấy ở Qarth, tàu Hương Quế và tất cả những gì Maester Aemon thì thầm với cậu lúc cuối đời. Cậu chỉ giữ lại những bí mật cậu đã thề sẽ giữ kín, đó là về Bran Stark cùng các bạn đồng hành và hai đứa bé mà Jon Snow tráo đổi. “Daenerys là niềm hy vọng duy nhất,” cậu kết luận. “Aemon nói Citadel cần phải cử học sĩ tới chỗ cô ấy ngay lập tức, để đưa cô ấy về nhà ở Westeros trước khi quá muộn.”

Alleras lắng nghe chăm chú. Thỉnh thoảng cậu lại chớp mắt, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ phá lên cười hay chen ngang câu chuyện. Khi Sam kể xong, cậu ta chạm nhẹ vào cánh tay Sam bằng bàn tay

nâu mảnh dẻ và nói, “Cậu nên để dành đồng xu của mình thì hơn. Theobald sẽ chẳng tin quá nửa câu chuyện của cậu đâu, nhưng có thể người khác sẽ tin. Cậu đi với tôi được không?”

“Đi đâu?”

“Đến nói chuyện với một archmaester.”

Cậu phải nói với họ, Sam, Maester Aemon đã dặn như vậy. Cậu phải nói cho các archmaester biết. “Tốt lắm.” Ngày mai cậu muốn quay về chỗ Seneschal lúc nào chẳng được, chỉ cần có chút tiền trong

tay. “Chúng ta phải đi bao xa?”

“Không xa đâu. Ở đảo Quạ.”

Họ không cần dùng đến thuyền để tới hòn đảo Quạ đó; một chiếc cầu kéo bằng gỗ mòn vẹt nối hòn đảo với bờ đông. “Tổ Quạ là tòa nhà cổ xưa nhất ở Citadel,” Alleras nói với cậu khi họ băng qua

dòng Honeywine chảy chậm chạp. “Trong Thời Đại Anh Hùng, tòa lâu đài là thành trì của một tướng

cướp biển, ông ta cư ngụ ở đây và cướp bóc các con thuyền đi xuôi dòng sông.”

Sam thấy rong rêu và cây leo phủ đầy trên các bức tường, những con quạ đi tuần trên tường thành thay vì các cung thủ. Trong ký ức của mọi người thì cây cầu kéo chưa bao giờ được kéo lên.

Bên trong lớp tường thành, không gian u ám và lạnh lẽo. Một cây đước cổ thụ lòa xòa che kín sân như thể nó đã đứng đây từ khi những bức tường đá này bắt đầu được dựng lên. Khuôn mặt được khắc trên thân cây cũng bị che khuất bởi lớp rong rêu màu đỏ tía phủ trên những cành cây trắng xám. Một nửa số cành có vẻ đã chết, nhưng đây đó một vài chiếc lá đỏ vẫn rung rinh, và đó chính là nơi những con quạ thích trú ngụ. Chúng đậu đầy trên cây, trong những ô cửa sổ hình vòm trên đầu và khắp quanh sân. Mặt đất lốm đốm phân của chúng. Khi họ băng qua khoảnh sân, một con quạ đập cánh phía trên và

Sam nghe thấy chúng đang kêu quác quác với nhau. “Phòng của Archmaester Walgrave nằm ở tháp phía tây, bên dưới tổ quạ màu trắng,” Alleras nói với cậu. “Lũ quạ trắng và quạ đen luôn hiềm khích với nhau, giống như người Dorne và người vùng March vậy. Vì thế họ phải tách chúng ra.”

“Liệu Archmaester Walgrave có hiểu những gì tôi chuẩn bị nói với ông ấy không?” Sam phân vân. “Cậu nói ông ấy đã không còn minh mẫn nữa rồi.”

“Tùy ngày,” Alleras nói, “nhưng cậu sẽ không gặp Walgrave đâu.” Cậu ta mở cánh cửa dẫn tới tòa tháp phía bắc và bắt đầu leo lên. Sam cũng trèo theo sau. Phía trên có tiếng huyên náo rì rầm, đây đó

xen lẫn với tiếng thét tức giận như thể những con quạ càu nhàu khi bị đánh thức.

Trên đỉnh cầu thang, một chàng trai trẻ tóc vàng trạc tuổi Sam đang ngồi phía ngoài một cánh cửa làm bằng gỗ sồi và sắt. Cậu ta đang nhìn chăm chú vào một ngọn nến bằng bên mắt phải. Mắt trái của cậu bị che đằng sau mái tóc màu vàng tro. “Cậu tìm kiếm cái gì thế?” Alleras hỏi. “Số phận của cậu à?

Hay là cậu sẽ chết như thế nào?”

Chàng trai trẻ tóc vàng quay ra nháy mắt. “Kiếm đàn bà khỏa thân,” cậu ta nói. “Giờ thì là ai đây?”

“Samwell. Một giáo sinh mới. Cậu ta tới để gặp Phù Thủy.”

“Citadel không giống như ngày xưa nữa rồi,” chàng trai tóc vàng tiếc nuối. “Ai cũng có thể được nhận. Chó dusky, người Dorne, mấy thằng nhóc chăn lợn, lũ què quặt, ngu đần, và giờ là cả cá voi áo đen nữa. Ở đây tôi cứ tưởng thủy quái có màu xám chứ.” Một chiếc áo choàng lệch vai sọc xanh vàng phủ lên một bên vai cậu ta. Đó là một thanh niên có vẻ ngoài rất điển trai, tuy nhiên đôi mắt cậu toát lên vẻ ranh mãnh và miệng lưỡi ác độc.

Sam biết cậu ta. “Leo Tyrell.” Nói ra cái tên đó, cậu cảm giác như mình trở lại là một thằng nhóc 7 tuổi và chuẩn bị tè ra quần đến nơi. “Tôi là Sam, đến từ Horn Hill. Con trai của Lãnh chúa Randyll

Tarly.”

“Thật sao?” Leo nhìn cậu một lần nữa. “Có lẽ đúng. Cha cậu nói với chúng tôi là cậu chết rồi. Hay là ông ấy chỉ ước như vậy thôi?” Cậu ta cười nhăn nhở. “Cậu vẫn còn là quạ chứ?”

“Không,” Sam nói dối. Jon đã ra lệnh cho cậu như vậy. “Tôi đã ra ngoài Tường Thành và chiến đấu. Họ gọi tôi là Sam Sát Nhân.” Cậu không biết tại sao mình lại nói ra những lời đó. Chỉ biết từ ngữ

cứ tuôn ra khỏi miệng cậu.

Leo phá lên cười, nhưng cậu ta còn chưa kịp trả lời thì cánh cửa phía sau cậu bật mở. “Vào đây, Sát Nhân,” người đàn ông ở bậu cửa gầm gừ. “Cả cậu nữa, Nhân Sư. Ngay lập tức.”

“Sam,” Alleras nói, “đây là Archmaester Marwyn.”

Quanh chiếc cổ bự của Marwyn là một sợi xích làm từ rất nhiều kim loại khác nhau. Trừ điểm đó ra, trông ông ta giống một tên lưu manh vật vờ ở bến cảng hơn là một học sĩ. Đầu ông ta to quá khổ so với người, và cái cách nó nhô ra phía trước từ vai cùng với bộ xương hàm khiến người ta có cảm giác ông chuẩn bị vặt đầu người khác ra khỏi thân đến nơi. Tuy lùn và béo nhưng ông có bộ ngực và đôi vai lực lưỡng, cái bụng bia tròn và săn chắc căng cứng trong chiếc áo da ông mặc thay vì áo choàng thụng.

Những sợi lông trắng lởm chởm mọc ra từ tai và lỗ mũi ông. Lông mày ông rậm rạp, chiếc mũi đã bị gãy không dưới hai lần và lá chua nhuộm răng ông thành một màu đỏ lốm đốm. Sam chưa từng thấy đôi tay nào vĩ đại như đôi tay của ông.

Khi Sam ngần ngại, một trong hai bàn tay đó nắm lấy cánh tay cậu và lôi mạnh qua cửa. Căn phòng phía trong rộng và tròn. Sách và các cuộn giấy la liệt khắp mọi nơi, chúng trải khắp các mặt bàn và

chất đống trên sàn nhà thành từng chồng cao hơn một mét. Những tấm thảm bạc màu và bản đồ cũ rách được treo trên các bức tường đá. Lửa đang cháy trong lò sưởi bên dưới một chiếc ấm bằng đồng. Thứ bên trong ấm có mùi cháy khét. Ngoài lửa trong lò sưởi, ánh sáng duy nhất ở đây phát ra từ ngọn nến cao màu đen ở chính giữa phòng.

Ngọn nến sáng một cách khó chịu. Ở nó có cái gì đó kỳ quái. Lửa không cháy lập lòe ngay cả khi Archmaester Marwyn đóng cửa mạnh đến nỗi giấy tờ bay toán loạn khỏi chiếc bàn gần đó. Màu của ngọn lửa cũng không bình thường. Lửa trắng sáng như màu tuyết mới, lửa vàng ánh lên như vàng khối, màu đỏ biến thành lửa, nhưng cái bóng của nó đen kịt đến nỗi trông chúng như những lỗ đen trên thế giới. Sam nhận thấy mình đang chăm chăm nhìn vào nó. Cây nến cao tới gần một mét và mảnh mai như

một thanh gươm. Nó có chóp nhọn, vặn xoắn và sáng lên lấp lánh màu đen. “Đó là?”

“…đá vỏ chai,” người còn lại trong phòng nói. Đó là một chàng trai trẻ với khuôn mặt nhợt nhạt, bự thịt và chảy như bột nhão, vai tròn, tay mềm, hai mắt gần nhau, áo thụng dính lem luốc thức ăn.

“Hay còn gọi là đá rồng.” Archmaester Marwyn liếc nhìn cây nến một lúc. “Cây nến không bao giờ cháy hết.”

“Cái gì nuôi ngọn lửa vậy?” Sam hỏi.

“Vậy cái gì nuôi lửa của rồng?” Marwyn đang ngồi trên một chiếc ghế cao. “Tất cả các thầy phù thủy ở Valyrian đều có nguồn gốc từ máu và lửa. Các phù thủy Freehold có thể nhìn xuyên qua núi, biển hay sa mạc bằng một ngọn nến thủy tinh như thế này. Họ có thể bước vào trong giấc mơ của một người và cho anh ta những lời tiên đoán, có thể nói chuyện với một người cách đó nửa vòng trái đất,

chỉ cần họ ngồi trước cây nến. Cậu nghĩ việc đó có ích không, Sát Nhân?”

“Chúng ta sẽ không cần quạ nữa.”

“Chỉ là sau trận chiến thôi.” Vị archmaester ngắt một chiếc lá chua ra khỏi bó, bỏ vào miệng và bắt đầu nhai. “Hãy kể cho ta hết những gì ngươi nói với Nhân Sư người Dorne của chúng ta. Ta cũng

biết gần hết rồi, nhưng có thể có một vài phần nhỏ ta không để ý.”

Ông ta không phải là người dễ chấp nhận sự từ chối. Sam thoáng ngần ngại, sau đó kể lại câu chuyện trong khi Marywn, Alleras và cậu giáo sinh còn lại cũng lắng nghe. “Maester Aemon tin rằng

Daenerys Targaryen chính là người thực thi một lời tiên đoán… là cô ấy, chứ không phải Stannis, không phải hoàng tử Rhaegar, cũng không phải ấu vương bị đập đầu vào tường.”

“Sinh ra giữa muối và khói, bên dưới một ngôi sao chảy máu. Ta biết lời tiên tri đó.” Marwyn quay đầu và nhổ một cục đờm đỏ xuống sàn. “Nhưng ta không tin. Gorghan vùng Ghis ngày xưa từng

viết rằng lời tiên tri cũng giống như một ả đàn bà bội bạc. Cô ta ngậm của quý của cậu vào miệng, khiến cậu rên lên sung sướng và nghĩ thật ngọt ngào, thật tuyệt biết bao… cho đến khi cô ta cắn răng lại và những tiếng rên rỉ biến thành tiếng hét. Gorghan nói đó là bản chất của tiên tri. Nó sẽ luôn cắn đứt của quý của cậu.” Ông suy nghĩ một lúc. “Tuy nhiên…”

Alleras bước lên bên cạnh Sam. “Aemon chắc chắn sẽ tới gặp cô ấy nếu ông ấy còn đủ sức. Ông ấy muốn chúng ta cử một học sĩ tới cho cô ấy, cố vấn, bảo vệ và đưa cô ấy trở về nhà an toàn.”

“Ông ấy nói vậy à?” Archmaester Marwyn nhún vai. “Có khi ông ấy chết trước khi tới Oldtown lại tốt hơn. Nếu không cừu xám có thể sẽ phải giết ông ấy, và điều đó hẳn sẽ khiến các ông bạn già

đáng kính tội nghiệp vô cùng đau khổ.”

“Giết ông ấy ư?” Sam kinh ngạc hỏi. “Tại sao?”

“Nếu tôi nói với cậu, có thể họ sẽ phải giết cả cậu nữa.” Marwyn nở nụ cười kinh khủng, nước lá chua chảy đỏ rực giữa các kẽ răng. “Cậu nghĩ người cuối cùng giết tất cả những con rồng là ai?

Gallant giết rồng với những thanh kiếm trong tay?” Ông ta nhổ bọt. “Thế giới mà Citadel đang xây dựng không có chỗ cho thuật phù thủy, tiên tri hay nến thủy tinh, và lại càng không có chỗ cho những con rồng. Hãy tự hỏi tại sao Aemon Targaryen lại được phép lãng phí cuộc đời mình nơi tường Thành, trong khi đáng lẽ ông ấy phải được thăng cấp thành archmaester. Chính là do dòng máu của ông ấy. Họ không tin tưởng ôn ấy. Cũng như không tin tưởng ta.”

“Ngài sẽ làm gì?” Alleras Nhân Sư hỏi.

“Ta sẽ tới Vịnh Nô Lệ, thay cho Aemon. Ta sẽ dùng chính con thuyền thiên nga chở Sát Nhân. Cừu xám cũng sẽ cho người lên thuyền, ta dám chắc như vậy. Nếu hướng gió thuận lợi, ta sẽ đến đó trước.” Marwyn nhìn Sam một lần nữa rồi nhíu mày. “Cậu… cậu nên ở lại và rèn chuỗi xích đi. Nếu là cậu, ta

sẽ cố rèn cho thật nhanh. Sẽ có lúc Tường Thành cần cậu trở lại.” Ông ta quay lại nói với cậu giáo sinh mặt vàng bủng. “Tìm cho Sát Nhân một căn phòng khô ráo. Cậu ta sẽ ngủ ở đây và giúp cậu trông bầy quạ.”

“Như…như…nhưng,” Sam lắp bắp, “còn các archmaester khác thì sao… cả Seneschal nữa… tôi phải nói sao với họ?”

“Nói rằng họ rất khôn ngoan và tử tế. Nói rằng Aemon ra lệnh cho cậu đến nộp mình vào tay họ. Nói rằng cậu đã luôn mơ một ngày được đeo sợi xích và phục vụ những mục đích cao cả, làm việc vì

niềm vinh dự tối cao và tuân theo những đức hạnh cao cả nhất. Nhưng đừng nói gì về lời tiên tri và những con rồng, trừ khi cậu thích ăn cháo độc.” Marwyn với một chiếc áo choàng da bạc màu treo trên mắc ở gần cửa và buộc chặt dây.

“Nhân Sư, trông coi thứ này nhé.”

“Vâng,” Alleras trả lời, nhưng lúc đó vị archmaester đã đi mất. Họ nghe thấy tiếng giày ông nện trên những bậc thang.

“Ông ấy đi đâu vậy?” Sam bối rối hỏi.

“Tới cầu cảng. Phù Thủy không thích lãng phí thời gian.” Alleras mỉm cười. “Tôi phải thú nhận một điều. Cuộc gặp gỡ của chúng ta không phải tình cờ đâu Sam. Phù Thủy cử tôi đến gặp cậu trước

khi cậu nói chuyện với Theobald. Ông ấy biết là cậu sẽ đến.”

“Làm sao ông ấy biết được?”

Alleras hất đầu về phía cây nến thủy tinh.

Sam nhìn chăm chăm vào ngọn lửa lờ mờ kỳ lạ một hồi, sau đó chớp mắt quay đi. Trời đang tối dần ngoài cửa sổ.

“Có một phòng ngủ trống bên dưới phòng ngủ của tôi ở tháp phía tây, ở đó có cầu thang dẫn thẳng lên phòng của Walgrave,” chàng trai trẻ với gương mặt bủng beo nhợt nhạt nói. “Nếu cậu không ngại

tiếng quạ kêu thì ở đó nhìn ra dòng Honeywine rất đẹp đấy. Vậy có được không?”

“Chắc là được.” Miễn sao có chỗ cho cậu ngủ.

“Tôi sẽ đem cho cậu vài chiếc chăn len. Ban đêm tường đá lạnh lắm, ngay cả ở đây.”

“Cảm ơn.” Có cái gì đó ở chàng trai trẻ ẻo lả, nhợt nhạt này khiến cậu không thích, nhưng cậu không muốn tỏ ra bất lịch sự, vì thế cậu nói thêm, “Tên tôi không phải Sát Nhân, thật đấy. Tôi là Sam.

Samwell Tarly.”

“Tôi là Pate,” người còn lại nói, “giống như tên một cậu bé chăn lợn ấy.”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

About The Author

Ngo David

Power is Power