Trò chơi vương quyền 4B – Lời tiên tri

Trò chơi vương quyền 4B – Lời tiên tri

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 23

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Tu viện nằm trên một hòn đảo nhô lên cách bờ khoảng nửa dặm, nơi cửa sông Trident mở rộng và đổ ra vịnh Crabs. Ngay cả khi nhìn từ bờ, trông hòn đảo vẫn rất trù phú. Rìa đảo được bao phủ bằng những cánh đồng bậc thang, với các ao cá phía dưới và một cối xay gió phía trên, những chiếc cánh bằng gỗ và vải buồm của cối xay quay chầm chậm trong làn gió nhẹ thổi lên từ vịnh. Brienne nhìn thấy cả đàn cừu đang ăn cỏ trên triền đồi và những con cò lội trong vùng nước nông quanh bến đậu phà.

“Saltpans ở ngay phía bên kia con nước,” Septon Meribald vừa nói vừa chỉ về hướng bắc, phía bên kia vịnh. Các đạo hữu sẽ chở chúng ta qua đó vào buổi sáng khi thủy triều lên, nhưng ta sợ rằng những gì chúng ta thấy ở đó sẽ không hay ho gì đâu. Hãy ăn một bữa thật ngon và nóng sốt trước khi đối mặt với nó. Các đạo hữu luôn để phần xương cho Chó mà.” Con Chó sủa lên và vẫy đuôi.

Lúc này thủy triều đang rút rất nhanh. Nước biển ngăn giữa hòn đảo và bờ đang rút dần, để lại phía sau một vùng đất bùn màu nâu loáng nước rộng bao la, thỉnh thoảng điểm những vũng thủy triều lấp lánh như những đồng vàng trong ánh nắng chiều. Brienne gãi phía sau cổ nơi cô bị một con côn trùng

cắn. Cô đã cuộn tóc lên, và ánh mặt trời làm nóng da cô.

“Tại sao họ lại gọi đây là Đảo Im Lặng?” Podrick hỏi.

“Người dân cư ngụ ở đây rất kiên nhẫn, họ muốn chuộc lại những lỗi lầm của bản thân bằng cách suy tư, cầu nguyện và im lặng. Chỉ có Anh Cả và những người giám sát ông ta được phép nói, nhưng

những người giám sát cũng phải bảy ngày mới được nói một lần.”

“Hội Chị Em Quản Sinh Tử cũng chẳng nói bao giờ,” Podrick lên tiếng. “Tôi nghe nói họ không có lưỡi.”

Septon Meribald mỉm cười. “Các bà mẹ vẫn thường dọa nạt con gái mình bằng câu chuyện đó kể từ khi tôi bằng tuổi cậu. Điều đó chưa bao giờ là sự thật, và đến giờ vẫn vậy. Một lời thề sẽ giữ im lặng chính là hành động thể hiện sự ăn năn hối cải, một sự hy sinh mà qua đó chúng ta chứng tỏ lòng mộ đạo với Thất Diện Thần Bề Trên. Còn một người câm thề sẽ im lặng thì có khác nào một kẻ không có chân thề không bao giờ khiêu vũ.” Ông ta dẫn con lừa đi xuống triền dốc và ra hiệu họ đi theo.

“Nếu tối nay muốn được ngủ dưới một mái nhà, mọi người phải xuống ngựa và lội qua bùn với ta.

Chúng ta gọi đây là con đường niềm tin. Chỉ những người trung thực mới có thể vượt qua nó một cách an toàn. Kẻ xấu sẽ bị cát lún nuốt trôi hoặc chết đuối khi thủy triều quay lại. Ta hy vọng các người không phải kẻ xấu chứ? Ngay cả như vậy, ta vẫn phải cẩn trọng với bước đi của mình. Bước theo ta, các người sẽ sang được bờ bên kia.”

Con đường niềm tin khá ngoằn ngoèo, Brienne không thể không chú ý. Dù hòn đảo có vẻ nằm ở hướng đông bắc so với nơi họ rời bờ, nhưng Septon Meribald không đi thẳng về hướng ấy. Thay vào

đó ông lại đi về hướng đông, tới vùng nước lấp lánh màu xanh bạc và sâu hơn ở phía xa. Bùn nâu mềm nhão dính lép nhép giữa các ngón chân ông. Khi đi, ông dừng lại liên tục để dò dẫm phía trước với cây gậy của mình. Con chó theo ông sát gót, ngửi mọi tảng đá, vỏ chai và các búi rong biển. Con chó không bao giờ chạy đi hoặc nhảy lên phía trước.

Brienne đi phía sau, cẩn trọng bước theo dấu chân mà con chó, con lừa và vị tu sĩ để lại. Sau đó đến lượt Podrick, và cuối cùng là Ser Hyle. Ra ngoài được gần 100 mét, Meribald đột nhiên quay lại hướng nam, gần như quay lưng về phía tu viện. Ông dẫn họ đi tiếp về hướng đó khoảng gần 100 mét nữa, giữa hai vũng thủy triều nông. Con chó rúc mũi xuống một vũng thủy triều và kêu ăng ẳng khi bị một con cua kẹp. Tiếp đó là một cuộc chiến đấu tuy ngắn nhưng quyết liệt, và kết thúc là con chó quay

về với con cua nằm yên vị giữa hai hàm.

“Chẳng phải chúng ta muốn đi về phía kia sao?” Ser Hyle nói vọng lên từ phía sau và chỉ về tu viện. “Chúng ta đang đi lung tung tứ phía nhưng chẳng hướng đến đích gì cả.”

“Niềm tin,” Septon Meribald nói. “Chỉ cần tin tưởng, kiên trì và theo đến cùng, chúng ta sẽ có được sự thanh thản mà chúng ta tìm kiếm.”

Vũng lầy ướt át lấp lánh xung quanh họ với mấy chục màu sắc khác nhau. Bùn có màu nâu đậm đến nỗi trông nó gần như màu đen, nhưng ở đây còn có những vạt cát vàng, những tảng đá nhô lên nửa xám nửa đỏ, và những búi tảo biển xanh đen. Đàn cò đi kiếm mồi trong những vũng thủy triều và để lại dấu

chân khắp nơi xung quanh họ, những con cua chạy như bay trên mặt các vũng nước nông. Không khí mang vị muối biển và mùi mục nát, bùn níu chặt lấy chân họ và chỉ miễn cưỡng cho họ nhấc chân lên với âm thanh lọp bọp, lép nhép. Septon Meribald cứ rẽ, rẽ, rồi rẽ liên tục. Dấu chân ông được nước tràn vào lấp kín ngay khi ông nhấc chân lên. Cho đến khi mặt đất cứng hơn và bắt đầu cao dần lên thì họ đã đi được ít nhất một dặm rưỡi.

Ba người đang đợi họ khi họ trèo lên đống đá vỡ trên bờ biển bao quanh hòn đảo. Bọn họ mặc áo chùng dài màu nâu xám của hội các đạo hữu, với ống tay áo rộng hình chuông và mũ chỏm. Hai người đeo khăn len che kín nửa mặt bên dưới, vì thế những gì có thể nhìn thấy chỉ là đôi mắt. Đạo hữu thứ ba lên tiếng. “Septon Meribald,” anh ta gọi. “Sắp được một năm rồi đấy nhỉ. Xin chào mừng ông. Cả các bạn đồng hành của ông nữa.”

Con Chó vẫy đuôi, còn Meribald đang giũ bùn ra khỏi chân. “Liệu chúng ta có thể ở lại qua đêm nay được không?”

“Được chứ, tất nhiên rồi. Tối nay có món cá hầm đấy. Sáng mai ông có cần chuẩn bị phà không?”

“Có, nếu các ngài không phiền. Meribald quay lại phía những người đi cùng. “Đạo hữu này là Narbert, một người giám sát trong hội, vì thế cứ mỗi bảy hôm anh ta mới được nói một ngày. Người anh em, đây là những người dân tốt bụng đã giúp đỡ ta trên đường. Ser Hyle Hunt là một chàng trai lịch thiệp đến từ vùng Reach. Cậu nhóc này là Podrick Payne, đến từ miền tây. Còn đây là tiểu thư

Brienne, còn gọi là Trinh Nữ Nhà Tarth.”

Đạo hữu Narbert khựng lại một chút. “Phụ nữ à?”

“Vâng, người anh em.” Brienne tháo kẹp và lắc cho mái tóc tung ra. “Ở đây không có phụ nữ sao?”

“Hiện tại thì không,” Narbert nói. “Những phụ nữ đó chỉ đến với chúng tôi khi bị bệnh, bị thương hoặc mang bầu sắp đẻ. Thất Diện Thần đã ban cho Anh Cả của chúng tôi bàn tay có khả năng chữa bệnh. Anh ấy đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người cả đàn ông và phụ nữ, những loại bệnh mà thậm

chí các học sĩ cũng phải bó tay.”

“Tôi không bị thương, không bị bệnh, cũng chẳng mang bầu.”

“Tiểu thư Brienne là một nữ chiến binh,” Septon Meribald tiết lộ, “cô ấy đang đi tìm Chó Săn.”

“Thế sao?” Narbert trông có vẻ ngạc nhiên. “Để làm gì?”

Brienne chạm vào chuôi thanh Kẻ Giữ Lời Thề. “Tiêu diệt hắn,” cô nói.

Người giám sát nhìn cô với vẻ dò xét. “Trông cô rất… nở nang so với một phụ nữ, điều đó không thể phủ nhận, nhưng có lẽ… tôi phải đưa cô đến gặp Anh Cả. Anh ấy hẳn đã nhìn thấy cô khi cô lội qua

vũng bùn. Đi nào.”

Narbert dẫn họ đi dọc một con đường trải sỏi, qua một vườn táo nhỏ tới chỗ chuồng ngựa quét vôi trắng và lợp mái tranh nhọn. “Mọi người có thể để mấy con vật lại đây. Gillam sẽ cho chúng ăn uống

đầy đủ.”

Chuồng ngựa trống đến hơn ba phần tư. Phía bên này, năm, sáu con la đang được chăm sóc bởi một cậu bé chân vòng kiềng mà Brienne tưởng nhầm là đạo hữu Gillam. Phía bên kia, cách xa lũ vật nuôi

còn lại, một con ngựa giống đen vĩ đại lồng lên khi nghe thấy giọng nói của họ và đá ầm ĩ vào cửa ngăn chuồng.

Ser Hyle nhìn con ngựa to lớn với ánh mắt ngưỡng mộ khi đưa dây cương cho đạo hữu Gillam.

“Một con vật tuyệt đẹp.”

Đạo hữu Narbert thở dài. “Thất Diện Thần ban phước cho chúng ta, và Thất Diện Thần cũng cho chúng ta những thử thách. Nó có thể đẹp thật đấy, nhưng Gỗ Dạt chắc hẳn phải sinh ra từ địa ngục. Khi chúng tôi cố đóng nó vào một cái cày, nó đã đá đạo hữu Rawney và làm gãy xương ống chân anh ấy.

Chúng tôi những tưởng con ngựa sẽ dễ tính hơn khi bị thiến, nhưng… đạo hữu Gillam, anh cho họ xem được không?”

Đạo hữu Gillam bỏ mũ trùm đầu xuống. Bên dưới chiếc mũ, anh ta có một chỏm tóc vàng, một cái trán hói nhẵn thín và một chiếc băng gạc dính máu nơi trước đây là tai anh ta.

Podrick há hốc miệng. “Con ngựa cắn tai anh sao?”

Gillam gật đầu và đội mũ lại.

“Thứ lỗi cho tôi, người anh em,” Ser Hyle nói, “nhưng nếu là tôi, tôi cũng sẽ cắn nốt tai kia của anh nếu anh lăm lăm tiến lại gần tôi với chiếc kéo trong tay.”

Câu nói đùa không làm hài lòng đạo hữu Narbert. “Anh là một hiệp sĩ, ser. Nhưng Gỗ Dạt chỉ là gia súc chở hàng. Thần Thợ Rèn cho chúng ta ngựa để giúp ta làm những công việc nặng nhọc.” Nói

rồi anh ta quay đi. “Chúng ta đi thôi. Anh Cả chắc chắn đang đợi đấy.”

Con dốc dựng đứng hơn so với khi nhìn vào từ bãi bùn. Để dễ trèo hơn, các đạo hữu đã tạo một chiếc cầu thang gỗ chạy ngoằn ngoèo trên sườn đồi giữa những tòa nhà. Sau cả một ngày dài trên lưng

ngựa, Brienne rất hào hứng vì có cơ hội được duỗi thẳng chân.

Họ đi qua hàng chục anh em trong hội trên đường đi lên; các tu sĩ đội mũ trùm đầu trong trang phục màu nâu và nâu xám ném những ánh mắt tò mò khi họ đi qua, nhưng không ai chào hỏi gì cả. Một

người đang dắt đôi bò sữa về phía chiếc chuồng thấp lợp bằng cỏ; một người khác đang đánh một

thùng bơ. Ở con dốc phía trên họ thấy ba cậu bé đang lùa cừu, và trên cao nữa họ đi qua một nghĩa địa nơi một đạo hữu to lớn hơn cả Brienne đang cố gắng đào một cái mộ. Nhìn cách di chuyển thì rõ ràng anh ta bị què. Anh ta hất một thuổng đất đá qua vai và một phần rơi trúng vào chân họ. “Để ý một chút chứ,” Đạo hữu Narbert càu nhàu. “Septon Meribald ăn phải đầy đất bây giờ.” Người đào mộ cúi đầu. Khi Chó đến ngửi anh ta, anh ta vứt cái thuổng xuống và gãi tai con vật.

“Một giáo sinh,” Narbert giải thích.

“Nấm mồ đó dành cho ai?” Ser Hyle hỏi khi họ lại tiếp tục trèo lên những bậc thang gỗ.

“Đạo hữu Clement, cầu mong Đức Cha công bằng với ông ấy.”

“Ông ấy già chưa?” Podrick Payne hỏi.

“Rồi, nếu cậu cho rằng bốn mươi tám tuổi là già, nhưng ông ấy chết không phải vì tuổi tác, mà vì vết thương hồi ở Saltpans. Ông ta đã mang một chút rượu mật ong của chúng ta ra chợ bán, nhưng hôm

đó lại đúng ngày lũ cướp tràn vào thị trấn cướp phá.”

“Chó Săn ư?” Brienne hỏi.

“Một con chó khác. Cũng tàn bạo không kém. Hắn cắt lưỡi Clement tội nghiệp khi ông ấy không chịu nói. Vì ông đã tuyên thệ sẽ giữ im lặng nên bọn cướp cho rằng cái lưỡi của ông thừa thãi. Anh Cả sẽ biết nhiều thông tin hơn. Nhưng trước những tin tức xấu từ bên ngoài, ông ấy thường tự giữ lại cho

mình để khỏi ảnh hưởng đến sự yên bình của tu viện. Rất nhiều anh em đạo hữu chúng tôi tới đây để trốn tránh thế giới kinh hoàng, không phải để lún sâu vào đó. Đạo hữu Clement không phải người duy nhất bị thương trong số chúng tôi. Một số người không để lộ ra.” Đạo hữu Narbert chỉ về phía bên phải bọn họ. “Kia là giàn cây mùa hè của chúng tôi. Những quả nho vẫn còn nhỏ và chát, nhưng rượu làm từ chúng thì uống được lắm. Chúng tôi cũng tự ủ bia, rượu mật ong và rượu táo của chúng tôi cũng rất có tiếng.”

“Chiến tranh chưa bao giờ chạm tới vùng đất này sao?” Brienne hỏi.

“Cuộc chiến này thì không, tạ ơn Thất Diện Thần. Những lời cầu nguyện đã bảo vệ chúng tôi.”

“Và cả thủy triều nữa,” Meribald gợi ý. Con Chó sủa như tán thành.

Bao quanh đỉnh đồi là một bức tường thấp xây bằng đá thô không trát, bên trong là các tòa nhà lớn; chiếc cối xay gió với cánh quạt vừa quay vừa kêu kẽo kẹt, mái hiên nơi các đạo hữu ngủ và căn sảnh chung nơi họ dùng bữa, một điện thờ bằng gỗ để cầu nguyện và tĩnh tâm. Điện thờ có cửa sổ bằng kính viền chì, những cánh cửa đi rộng được chạm khắc hình Đức Mẹ và Đức Cha, cùng với một gác chuông bảy cạnh có lối đi trên nóc. Đằng sau điện thờ là một vườn rau nơi một số đạo hữu lớn tuổi đang nhổ

cỏ. Đạo hữu Narbert dẫn các vị khách đi quanh một cây hạt dẻ và tới một cánh cửa gỗ bên vách đồi.

“Hang động cũng lắp cửa sao?” Ser Hyle ngạc nhiên hỏi.

Septon Meribald mỉm cười. “Cái này được gọi là Hố Hermit. Ông ta là người đầu tiên của Thất

Diện Giáo tìm ra nơi này rồi sống trong đó, và tạo ra những điều phi thường thu hút những người khác tới và gia nhập cùng ông. Chuyện từ hai nghìn năm trước rồi, họ nói vậy. Cánh cửa này sau mới có.”

Có lẽ hai nghìn năm trước, Hố Hermit từng là một nơi ẩm thấp, tối tăm, nền hang đầy bùn đất và nước nhỏ giọt tong tong, nhưng bây giờ thì không như vậy nữa. Cái hang mà Brienne và các bạn cô đi

vào đã trở thành một chốn linh thiêng, gọn gàng và ấm áp. Những tấm thảm len che phủ hết mặt đất, thảm trang trí cũng treo dọc các bức tường. Những cây nến sáp ong cháy sáng rực trên cao. Nội thất trong căn phòng lạ lẫm nhưng đơn giản; một chiếc bàn dài, một cái ghế tủ, một chiếc rương, vài chiếc giá cao đựng đầy sách và mấy chiếc ghế. Tất cả đều được làm bằng gỗ trôi, những mảnh gỗ với hình thù kỳ quái được ghép lại với nhau một cách khéo léo và được đánh bóng cho đến khi chúng sáng lên màu vàng óng trong ánh nến.

Anh Cả trông không giống như những gì Brienne tưởng tượng. Đầu tiên không thể gọi anh ta là anh cả, bởi trong khi các đạo hữu đang nhổ cỏ ngoài vườn đều là những ông già lưng còng lọm khọm thì

anh ta đứng thẳng, cao lớn và di chuyển với tất cả sự cường tráng của một người đàn ông trong thời kỳ sung mãn nhất. Anh ta cũng không có khuôn mặt hiền từ, nhân hậu của một thầy lang chữa bệnh. Anh ta có cái đầu lớn và vuông vức, đôi mắt lanh lợi, sắc sảo, chiếc mũi đỏ đầy những mạch máu chằng chịt. Dù cạo trọc nhưng da đầu anh ta vẫn lởm chởm tóc như bộ râu quai nón lún phún của anh vậy.

Trông anh ta giống kiểu người đi bẻ gãy xương kẻ khác hơn là chữa trị, Trinh Nữ Nhà Tarth thầm nghĩ trong khi Anh Cả đi bộ dọc căn phòng để tới ôm Septon Meribald và xoa đầu con Chó. “Ngày nào Meribald và con Chó tới thăm thì ngày đó là vinh dự cho chúng ta,” anh ta tuyên bố trước khi

quay sang các vị khách. “Và các gương mặt mới cũng được chào đón nữa. Chúng ta thấy có vài người mới nhỉ.”

Meribald làm thủ tục giới thiệu quen thuộc trước khi ngồi lên chiếc ghế tủ. Không giống như Septon Narbert, Anh Cả không hề tỏ thái độ gì trước giới tính của Brienne, nhưng nụ cười của anh ta sáng lên rồi chợt tắt khi nghe vị tu sĩ nói lý do tại sao cô và Ser Hyle tới đây. “Tôi hiểu rồi,” anh ta chỉ nói có vậy trước khi quay đi, “mọi người chắc hẳn phải khát lắm rồi. Nào, uống chút rượu táo ngọt của chúng ta để tẩy bụi đường trong họng đi thôi.” Anh Cả rót cho họ mỗi người một cốc rượu. Những chiếc cốc cũng được chạm từ gỗ trôi, không chiếc nào giống với chiếc nào. Khi Brienne lên tiếng khen

chúng, anh ta nói, “Tiểu thư thật tốt bụng. Tất cả những gì chúng tôi làm chỉ là xẻ gỗ và đánh bóng chúng thôi. Ở đây chúng ta được thiên nhiên ưu ái. Nơi dòng sông đổ ra biển, các dòng chảy và thủy triều xung khắc với nhau, vì thế rất nhiều thứ lạ lùng và kỳ diệu trôi về chỗ chúng tôi và dạt vào bờ. Gỗ trôi là thứ quá bình thường. Chúng tôi còn tìm thấy những chiếc cốc bạc và ấm sắt, từng bao tải len, từng súc lụa, những chiếc mũ giáp han gỉ và những thanh kiếm sáng loáng… và cả hồng ngọc nữa.”

Đoạn cuối khiến cho Ser Hyle thích thú. “Những viên ngọc của Rhaegar à?”

“Có thể. Ai mà biết được? Chiến tranh ở cách xa nơi này, nhưng dòng sông thì luôn kiên nhẫn và

chảy không biết mệt mỏi. Chúng tôi đã tìm thấy sáu viên, và đang đợi viên thứ bảy.”

“Hồng ngọc tất nhiên phải hơn xương cốt.” Septon Meribald đang cọ chân để bùn rơi ra khỏi các kẽ ngón chân. “Không phải món quà nào đến từ dòng sông cũng dễ chịu đâu. Các đạo hữu ở đây cũng lượm được cả xác người nữa. Bò chết đuối, hươu chết đuối, những con lợn chết trương lên to bằng

nửa con ngựa. Và cả xác người nữa.”

“Những ngày này có quá nhiều xác chết.” Ạnh Cả thở dài. “Các anh em đào huyệt phải làm việc luôn tay. Người vùng ven sông, người miền tây, miền bắc, tất cả đều trôi dạt về đây. Dù là hiệp sĩ hay

những kẻ địa vị thấp hèn. Chúng tôi chôn họ cạnh nhau, người Nhà Stark và người Nhà Lannister, Blackwood và Bracken, Frey và Darry. Đó là trách nhiệm mà chúng tôi phải làm để đáp lại những món quà mà dòng sông mang lại, và chúng tôi đều cố gắng làm hết sức có thể. Thỉnh thoảng chúng tôi còn tìm thấy xác phụ nữ, và tệ hơn là… xác một đứa trẻ. Đó là những món quà kinh khủng nhất.” Anh ta quay về phía Septon Meribald. “Tôi hy vọng ông có thời gian rửa tội cho chúng tôi. Từ khi lũ cướp giết chết Septon Bennet già, chúng tôi chẳng có ai để nghe lời xưng tội cả.”

“Tôi sẽ thu xếp,” Meribald nói, “tuy nhiên, tôi hy vọng anh sẽ có những tội lỗi hay ho hơn so với lần trước khi tôi tới đây.” Con Chó sủa lên inh ỏi. “Anh thấy không? Ngay cả con Chó cũng cảm thấy

nhàm chán.”

Podrick Payne bối rối. “Tôi tưởng không ai được phép nói. Ý tôi là những người khác, các đạo hữu khác ấy, không phải anh.”

“Chúng ta được phép nói khi xưng tội,” Anh Cả trả lời. “Người ta khó có thể xưng tội chỉ bằng cách gật, lắc và dùng ngôn ngữ cử chỉ.”

“Có phải chúng đã đốt cháy điện thờ ở Saltpans rồi không?” Hyle Hunt hỏi.

Nụ cười trên mặt anh ta biến mất. “Chúng đốt mọi thứ ở Saltpans, trừ tòa lâu đài. Đó là thứ duy nhất làm bằng đá… mặc dù nhìn những gì nó làm được cho thị trấn thì tòa lâu đài giống như làm từ mỡ cừu hơn. Tôi đã chữa trị cho những người sống sót. Một người đánh cá đã chở họ qua vịnh để tới chỗ tôi sau khi ngọn lửa tắt và họ tưởng rằng đã đến lúc an toàn để lên bờ. Một người phụ nữ tội nghiệp bị

hãm hiếp đến hơn chục lần, và ngực cô ta… tiểu thư, vì cô mặc giáp nên tôi sẽ không giấu cô những chi tiết kinh khủng đó… ngực cô ta rách toạc và bị cắn xé như thể bị một… con thú hoang dữ tợn nào đó ăn vậy. Tôi đã làm tất cả những gì có thể để giúp cô ta, nhưng cũng không giúp được gì nhiều. Khi hấp hối, lời nguyền độc địa nhất của cô ta không phải dành cho những kẻ đã cưỡng hiếp mình, không phải những con quái vật đã nhai thịt cô ta, mà dành cho Ser Quincy Cox, kẻ đã đóng cổng thành khi lũ cướp tràn vào thị trấn và ngồi an toàn đằng sau bức tường đá nhìn dân chúng của mình gào thét và bị

giết hại.”

“Ser Quincy là một ông già,” Septon Meribald nói nhẹ nhàng. “Các con trai và con rể của ông ta đều đi xa hoặc là đã chết, các cháu trai thì vẫn còn nhỏ, và ông ta có hai cô con gái. Ông ta có thể làm

gì được chứ, một ông già trước kẻ địch quá đông như vậy?”

Ông ấy có thể cố gắng, Brienne nghĩ. Ông ấy có thể chết. Dù già hay trẻ, một hiệp sĩ chân chính phải bảo vệ những người yếu đuối hơn, cho dù phải chết.

“Những lời rất chân thật, và khôn ngoan,” Anh Cả nói với Septon Meribald. “Khi ông tới Saltpans, chắc chắn Ser Quincy sẽ cầu xin ông xá tội. Tôi rất vui mừng khi ông ở đây để làm việc đó. Tôi thì không thể.” Anh ta đặt chiếc cốc gỗ trôi sang một bên và đứng lên. “Chuông lớn sẽ sớm ngân

lên. Các bạn có sẵn sàng đi cùng tôi tới điện thờ không, để cầu nguyện cho linh hồn của dân chúng Saltpans trước khi chúng ta dùng bữa với bánh mỳ, thịt và rượu mật ong?”

“Rất sẵn lòng,” Meribald nói. Con Chó cũng sủa theo.

Bữa tối của họ trong tu viện là bữa ăn lạ lùng nhất đối với Brienne, tuy nhiên không hề khó chịu. Thức ăn tuy đơn giản nhưng rất ngon; những ổ bánh mỳ cứng giòn vẫn còn ấm khi được lôi ra từ lò nướng, vài lọ sành đựng bơ vừa mới đánh, mật ong lấy từ các tổ ong trong tu viện, và món súp đặc gồm cua, trai và ít nhất ba loại cá khác nhau. Septon Meribald và Ser Hyle uống rượu mật ong mà các đạo hữu chế tạo và tấm tắc khen ngon, trong khi cô và Podrick hài lòng với rượu táo ngọt. Bữa ăn cũng

không hề buồn bã chút nào. Meribald đọc một lời cầu nguyện trước khi đồ ăn được đem ra, và trong khi các đạo hữu ngồi ăn bên bốn chiếc bàn dài đặt trên giá đỡ, một người trong số họ chơi đàn hạc, âm thanh ngọt ngào du dương tràn ngập khắp căn phòng. Khi Anh Cả mời nhạc công dùng bữa tối, đạo hữu Narbert và một người giám sát thay phiên nhau đọc kinh từ cuốn Ngôi Sao Bảy Cánh.

Khi họ đọc xong cũng là lúc món cuối cùng được các giáo sinh dọn khỏi bàn ăn. Hầu hết bọn họ đều là những cậu nhóc bằng tuổi Podrick hoặc trẻ hơn, nhưng ngoài ra vẫn có những người lớn tuổi,

một trong số đó là người đào huyệt to cao mà họ gặp ở triền đồi. Anh ta đi lại vụng về với một chân bị tật. Khi mọi người đã lần lượt rời hết khỏi căn sảnh, Anh Cả sai Narbert chỉ cho Podrick và Ser Hyle tới giường của họ trong tu viện. “Hy vọng hai người không ngại dùng chung phòng chứ? Tuy không rộng nhưng rất thoải mái.”

“Tôi muốn ở lại với ngài ấy,” Podrick nói. “Ý tôi là, với tiểu thư của tôi.”

“Cậu và tiểu thư Brienne có thể làm gì ở ngoài tùy thích,” đạo hữu Narbert nói, “nhưng trên đảo Im Lặng, đàn ông và phụ nữ không được ngủ chung dưới một mái nhà, trừ khi họ là vợ chồng.”

“Chúng tôi có vài căn nhà nhỏ khiêm tốn bên ngoài dành cho những người phụ nữ đến thăm, không phân biệt là tiểu thư quyền quý hay thôn nữ tầm thường,” Anh Cả nói. “Chúng không thường được sử

dụng, nhưng chúng tôi vẫn dọn dẹp sạch sẽ và khô ráo. Tiểu thư Brienne, tôi hân hạnh dẫn đường cho cô nhé?”

“Vâng, cảm ơn anh. Podrick đi với Ser Hyle nhé. Chúng ta là khách của các anh em ở đây. Dưới mái nhà của họ phải theo luật của họ.”

Các gian nhà tranh dành cho phụ nữ nằm ở phía đông hòn đảo, nhìn ra một vùng rộng lớn toàn bùn lầy và vùng vịnh Crabs phía xa. Ở đây lạnh hơn trong nhà lớn có mái che, và cũng hoang vu hơn. Khu đồi dốc hơn, con đường xuống quanh co uốn khúc qua những bãi cỏ và bụi cây thạch nam, những tảng đá bị bào mòn vì sương gió, những cây gai xoắn xuýt bám chặt vào bờ đá. Anh Cả đem theo một chiếc đèn lồng để soi đường cho họ. Tại một khúc quanh, anh ta dừng lại. “Nếu đêm quang đãng, từ đây cô có thể nhìn thấy các đám lửa ở Saltpans. Phía bên kia vịnh, kia kìa.” Anh ta chỉ.

“Chẳng có gì ở đó,” Brienne nói.

“Chỉ còn một tòa lâu đài sót lại. Ngay cả đám dân chài cũng đi rồi, họ là những người may mắn đang lênh đênh trên biển khi lũ cướp ập đến. Họ chứng kiến nhà của mình bị đốt và nghe được tiếng

kêu khóc, gào thét vang vọng trên bến cảng, họ sợ hãi không dám cho thuyền cập bến. Cuối cùng họ lên bờ chỉ để chôn cất bạn bè và người thân. Giờ họ còn gì ở Saltpans đâu ngoài xương cốt và quá khứ hãi hùng? Họ đã chuyển tới Maidenpool hoặc các thị trấn khác.” Anh làm điệu bộ bằng chiếc đèn lồng, sau đó hai người tiếp tục đi xuống. “Saltpans chưa bao giờ là một cảng biển quan trọng, nhưng tàu thuyền thỉnh thoảng vẫn ghé lại đó. Đó cũng chính là những gì lũ cướp mong muốn, một chiếc ga-lê hoặc thuyền cog để chở chúng qua bên kia biển hẹp. Khi không có con thuyền nào trong tay, chúng trút cơn giận dữ và thất vọng lên người dân thị trấn. Tôi tự hỏi, tiểu thư… cô hy vọng tìm thấy gì ở đó?”

“Một cô gái,” cô nói với anh ta. “Một thiếu nữ dòng dõi cao quý mười ba tuổi, khuôn mặt xinh đẹp và mái tóc màu mật ong.”

“Sansa Stark.” Cái tên được thốt ra nhẹ nhàng. “Cô tin rằng cô bé tội nghiệp đó đang ở cùng Chó Săn ư?”

“Người Dorne nói cô ấy đang trên đường tới Riverrun. Timeon. Hắn là tay lính đánh thuê trong hội Chiến Binh Dũng Cảm, một tên giết người, hãm hiếp và dối trá, nhưng tôi không nghĩ hắn nói dối tôi

về việc này. Hắn nói Chó Săn bắt cóc cô bé và đem cô ấy đi.”

“Tôi hiểu rồi.” Họ lại tới một khúc quanh nữa, và những căn nhà đã ở trước mặt họ. Anh Cả nói chúng khiêm tốn. Và quả thực là như vậy. Trông chúng như những tổ ong làm bằng đá, thấp tròn lụp sụp và không có cửa sổ. “Cái này,” anh ta nói và chỉ vào căn nhà gần nhất, và cũng là căn duy nhất có khói bốc lên từ lỗ thông hơi ở chính giữa mái nhà. Brienne phải cúi đầu khi chui vào để không bị đập

đầu vào cửa. Bên trong ngôi nhà là nền đất, một chiếc giường rơm, lông thú và chăn ấm, một chậu nước, một bình rượu táo, một ít bánh mỳ và pho mát, một đống lửa nhỏ cùng hai chiếc ghế thấp. Anh Cả ngồi lên một chiếc ghế rồi đặt chiếc đèn lồng xuống. “Tôi có thể ngồi lại một lát được không? Tôi nghĩ chúng ta cần nói chuyện.”

“Nếu anh muốn.” Brienne tháo đai đeo kiếm và treo nó lên chiếc ghế thứ hai, sau đó ngồi vắt chân trên chiếc giường rơm.

“Gã người Dorne của cô không nói dối,” Anh Cả bắt đầu nói, “nhưng tôi sợ rằng cô đã không hiểu hắn. Cô đang đuổi theo nhầm người rồi, tiểu thư ạ. Eddard Stark có hai con gái. Người mà Sandor

Clegane bỏ trốn cùng là con sói nhỏ.”

“Arya Stark?” Brienne há hốc miệng ngạc nhiên. “Làm sao anh biết? Em gái tiểu thư Sansa vẫn còn sống ư?”

“Cho đến lúc đó,” Anh Cả nói. “Còn giờ thì… tôi không biết. Cũng có thể cô bé đó là một trong số những đứa trẻ bị giết ở Saltpans.”

Lời nói của anh như lưỡi dao đâm vào bụng cô. Không, Brienne nghĩ. Không, như vậy quá tàn nhẫn. “Có thể… nghĩa là anh cũng không chắc chắn…?”

“Tôi dám chắc là cô bé ở cùng với Sandor Clegane trong quán trọ ở ngã tư, căn nhà trọ mà Masha Heddle già từng làm chủ, trước khi lũ sư tử treo cổ bà ấy. Tôi chắc chắn họ đang trên đường tới

Saltpans. Tất cả chỉ có vậy. Tôi không biết giờ cô bé đang ở đâu, còn sống hay đã chết. Tuy nhiên, tôi chỉ biết một điều là người đàn ông cô đang săn đuổi đã chết rồi.”

Lại một cú sốc nữa. “Hắn chết như thế nào?”

“Bằng kiếm, giống như khi hắn sống.”

“Sao anh biết chắc như vậy?”

“Chính tôi đã chôn hắn. Tôi có thể chỉ cho cô mộ của hắn, nếu cô muốn. Tôi đã dùng đá chèn lên trên để lũ động vật ăn xác thối ko đào bới xác hắn lên, và đặt chiếc mũ của hắn lên đỉnh ụ đá để đánh dấu. Đó là một sai lầm tai hại. Một số khách bộ hành nhìn thấy chiếc mũ và đã lấy mất. Kẻ cưỡng hiếp và giết người ở Saltpans không phải Sandor Clegane, mặc dù hắn có thể nguy hiểm không kém. Vùng

đất ven sông đầy rẫy lũ thú vật ăn xác thối. Tôi sẽ không gọi chúng là sói đâu. Tôi nghĩ sói còn cao quý hơn chúng… và kể cả chó cũng vậy.

“Tôi có biết một chút về người đàn ông này, Sandor Clegane. Hắn từng là tâm phúc của hoàng tử Joffrey trong rất nhiều năm, và thậm chí ở đây chúng ta vẫn nghe được những câu chuyện về chiến

công của hắn, cả tốt lẫn xấu. Ngay cả khi một nửa những gì chúng ta nghe được là sự thật thì đó vẫn là một tâm hồn đau khổ đầy dằn vặt, một kẻ tội lỗi phỉ báng cả các vị thần lẫn con người. Hắn phục vụ, nhưng không cảm thấy niềm tự hào trong đó. Hắn chiến đấu, nhưng chiến thắng chẳng làm hắn hả hê.

Hắn uống để nhấn chìm nỗi đau trong biển rượu. Hắn không yêu ai, cũng chẳng tự yêu bản thân mình. Hắn sống bằng lòng thù hận. Dù đã gây rất nhiều tội lỗi nhưng hắn chưa bao giờ cần được tha thứ. Khi những người khác mơ về tình yêu, của cải, hay vinh quang thì gã Sandor Clegane này mơ về việc giết chết chính anh trai mình, một tội lỗi kinh khủng đến mức nó khiến tôi rùng mình không dám nhắc đến. Nhưng đó chính là miếng bánh mỳ nuôi sống hắn, nguồn nhiên liệu để ngọn lửa trong hắn tiếp tục cháy. Dù có đê tiện đến mức nào thì niềm hy vọng được nhìn thấy máu của anh trai trên thanh kiếm của hắn chính là mục đích sống của sinh vật luôn giận dữ và buồn thảm này… và rồi ngay cả điều đó hắn cũng bị tước đoạt mất khi hoàng tử Oberyn xứ Dorne đâm Ser Gregor bằng một mũi tên tẩm độc.”

“Anh nói như thể anh thấy tội nghiệp cho hắn lắm vậy,” Brienne nói.

“Tôi đã cảm thấy như vậy. Cô cũng sẽ thấy thương cảm với hắn nếu cô nhìn thấy hắn trong những giây phút cuối cùng. Tôi tìm thấy hắn bên dòng Trident vì nghe thấy tiếng kêu đau đớn của hắn. Hắn muốn tôi trao cho hắn ân huệ cuối cùng, nhưng tôi đã thề không được giết người. Thay vào đó, tôi dùng nước sông đắp lên trán hắn, cho hắn rượu để uống và đắp thuốc lên vết thương cho hắn. Nhưng tất cả đã quá muộn và mọi cố gắng của tôi đều không đủ. Chó Săn chết ở đó, trong tay tôi. Chắc cô

cũng nhìn thấy con ngựa giống màu đen vĩ đại trong chuồng ngựa. Đó là ngựa chiến của hắn đấy. Kẻ Lạ Mặt. Một cái tên báng bổ. Chúng tôi thích gọi nó là Gỗ Dạt hơn, vì chúng tôi tìm thấy nó bên sông. Tôi nghĩ tính khí của nó chẳng khác chủ nhân trước đây của nó là bao.”

Con ngựa. Cô đã nhìn thấy con ngựa đó, đã nghe về cú đá của nó, nhưng lúc đó cô không hiểu. Chiến mã được luyện tập để đá và cắn. Trong chiến tranh chúng là vũ khí, giống như những người cưỡi

chúng. Giống như Chó Săn. “Vậy thì đúng rồi,” cô buồn rầu nói. “Sandor Clegane chết rồi.”

“Hắn đã được yên nghỉ.” Anh Cả dừng lại một chút. “Cô còn trẻ, cô bé ạ. Tôi đã trải qua bốn mươi bốn ngày lễ đặt tên rồi… nên có lẽ tuổi của tôi còn hơn gấp đôi tuổi cô. Cô có ngạc nhiên chút

nào khi biết tôi từng là một hiệp

sĩ không?”

“Không. Trông anh giống một hiệp sĩ hơn là một thầy tu.” Tất cả đều hiện rõ trên ngực, vai và khuôn hàm đầy đặn, vuông vức của anh ta. “Tại sao anh lại từ bỏ tước vị hiệp sĩ?”

“Tôi chưa bao giờ lựa chọn điều đó. Cha tôi là một hiệp sĩ, và ông nội tôi cũng vậy. Tất cả các anh em trai của tôi nữa. Tôi được rèn luyện để ra chiến trường từ khi họ nghĩ tôi đủ lớn để cầm một

thanh kiếm gỗ. Tôi đi theo con đường của họ và đã không làm ô nhục bản thân. Tôi cũng từng có những người phụ nữ, và về khoản này đôi khi tôi cảm thấy hổ thẹn vì đã cưỡng bức một vài người bằng vũ lực. Có một cô gái tôi rất muốn lấy làm vợ, là con gái thứ của một lãnh chúa nhỏ, nhưng tôi lại là con trai thứ ba của cha tôi và không có đất, cũng chẳng có của cải để cho cô ấy… ngoài một thanh kiếm, một con ngựa và một tấm khiên. Nhìn chung cuộc đời tôi khi đó khá buồn chán. Khi không chiến đấu tôi uống rượu. Đời tôi được viết bằng màu đỏ của máu và của rượu.”

“Và nó đã thay đổi khi nào vậy?” Brienne hỏi.

“Khi tôi chết trong trận Trident. Tôi chiến đấu cho hoàng tử Rhaegar, dù ông ta không bao giờ biết tên tôi là gì. Tôi không thể giải thích cho cô tại sao, trừ việc vị lãnh chúa tôi phục vụ phải phục vụ cho một lãnh chúa lớn hơn, người đó lại phục vụ một lãnh chúa lớn hơn nữa, người quyết định ủng hộ đồng rồng vàng thay vì đồng hươu bạc. Nếu ông ta chọn ngược lại thì tôi đã ở bên kia chiến tuyến và chiến đấu phía bên kia sông. Cuộc chiến đẫm máu. Các ca sĩ khiến chúng ta tin rằng cả Rhaegar lẫn Robert đều vật lộn trên dòng sông chỉ vì một người phụ nữ mà cả hai người họ đều đem lòng yêu mến, nhưng tôi đảm bảo với cô những người đàn ông khác cũng đang phải đánh nhau trên sông, và tôi là một trong

số đó. Tôi bị một mũi tên xuyên qua đùi và một mũi tên khác xuyên qua chân, còn ngựa của tôi thì bị giết, thế nhưng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu. Tôi vẫn nhớ mình đã chật vật và tuyệt vọng thế nào khi cố tìm một con ngựa khác, bởi tôi không có tiền để mua, và không có ngựa thì tôi không còn là hiệp sĩ.

Thật lòng mà nói đó là tất cả những gì trong đầu tôi lúc đó. Tôi không được tận mắt nhìn thấy cú đánh hạ gục mình. Tôi chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa phía sau và nghĩ, a, một con ngựa! Nhưng trước khi tôi kịp quay lại thì thứ gì đó đã đập vào đầu và hất tôi xuống sông, nơi đáng lẽ ra tôi đã chết chìm.

“Thay vào đó tôi thức dậy ở đây, trên đảo Im Lặng này. Anh Cả nói tôi bị trôi vào bờ trong tình trạng trần truồng như nhộng. Tôi nghĩ chỉ có thể là ai đó tìm thấy tôi ở chỗ nước nông và cởi lấy hết áo giáp, giày, quần và đẩy tôi trở lại vùng nước sâu. Và dòng sông thực hiện toàn bộ phần còn lại. Chúng

ta sinh ra đều trần trụi, vậy nên tôi nghĩ cách giải thích phù hợp nhất là mình đã được sinh ra lần thứ hai theo cách đó. Tôi dành cả mười năm sau đó sống trong im lặng.”

“Tôi hiểu rồi.” Brienne không hiểu tại sao anh ta lại kể cho cô tất cả những chuyện này. Và cũng không biết phải đáp lại như thế nào.

“Cô hiểu ư?” Anh ta rướn người về phía trước, hai bàn tay to lớn đặt lên đùi. “Nếu vậy thì hãy từ bỏ nhiệm vụ đó của cô đi. Chó Săn đã chết, và dù sống hay chết thì hắn cũng không có Sansa Stark của cô trong tay. Còn về con quỷ đội chiếc mũ của Chó Săn, người ta sẽ tìm ra và treo cổ hắn. Chiến tranh đang đến hồi kết, và lũ cướp đó không thể tồn tại trong thời bình. Randyll Tarly đang săn đuổi chúng

từ Maidenpool và Walder Frey từ Song Thành, ngoài ra còn có một lãnh chúa trẻ mới ở Darry, một người đàn ông sùng đạo và chắc chắn sẽ đem lại yên bình cho vùng đất của anh ta. Về nhà đi, cô bé.

Cô có nhà, điều đó đã may mắn hơn quá nhiều người trong những ngày tháng đen tối này rồi. Cha cô là một người quyền quý và chắc chắn rất yêu thương cô. Cô thử nghĩ xem ông ấy sẽ đau lòng thế nào nếu cô không bao giờ trở lại. Có thể họ sẽ mang kiếm và khiên của cô về cho ông ấy, sau khi cô ngã xuống.

Có thể ông ấy sẽ treo chúng trong sảnh để nhìn ngắm và tự hào… nhưng nếu cô hỏi, tôi biết cha cô sẽ trả lời rằng ông ấy muốn có một đứa con gái còn sống chứ không phải một chiếc khiên sứt sẹo.”

“Một đứa con gái.” Brienne giàn giụa nước mắt. “Ông ấy đáng được như vậy. Một đứa con gái có thể hát cho ông nghe, tô điểm cho căn sảnh của ông và sinh cho ông những cháu trai. Nhưng ông ấy

cũng xứng đáng có con trai, một cậu con trai khỏe mạnh, hào hoa và giúp ông nở mày nở mặt.

Galladon đã chết đuối khi tôi mới lên bốn tuổi và anh ấy lên tám, còn Alysanne và Arianne thì chết từ lúc nằm trong nôi. Tôi là đứa con duy nhất mà các vị thần để lại cho ông. Đứa con quái đản, chẳng phải gái cũng chẳng phải trai.” Tất cả mọi ký ức ùa về trong đầu Brienne, giống như máu đen từ vết thương trào ra; những cuộc hứa hôn và những lần phản bội, Ronnet Đỏ và bông hồng của hắn, lãnh chúa Renly đang nhảy cùng cô, cuộc cá cược về trinh tiết của cô, những giọt nước mắt cay đắng của cô trong đêm nhà vua cưới Margaery Tyrell, cuộc hỗn chiến ở Bitterbridge, chiếc áo choàng cầu vồng mà cô từng rất mực tự hào, bóng đen trong căn lều của nhà vua, Renly chết trong tay cô, Riverrun và phu nhân Catelyn, chuyến hành trình xuôi dòng Trident, cuộc đấu kiếm với Jaime trong rừng, bọn Dị Nhân Khát Máu, Jaime hét to “ngọc bích,” Jaime ngồi trong bồn tắm ở Harrenhal với hơi nước bốc xung quanh, vị máu của Vargo Hoat khi cô cắn đứt tai hắn, hố gấu, Jaime nhảy xuống cát, chuyến hành trình dài trên lưng ngựa tới Vương Đô, Sansa Stark, lời hứa của cô với Jaime, lời hứa của cô với phu nhân Catelyn, Kẻ Giữ Lời Thề, Duskendale, Maidenpool, Dick Lanh Lợi, mũi Crackclaw và lâu đài Thì Thầm, những kẻ cô đã giết…

“Tôi phải tìm cô gái đó,” cô kết thúc. “Những kẻ khác cũng đang tìm kiếm và tất cả đều muốn bắt cô ấy để bán cho thái hậu. Tôi phải tìm được cô ấy đầu tiên. Tôi đã hứa với Jaime. Kẻ Giữ Lời Thề, anh ta đã đặt tên cho thanh kiếm như vậy. Tôi phải cố gắng cứu cô bé… dù có phải chết trong khi làm nhiệm vụ.”

About The Author

Ngo David

Power is Power