Trò chơi vương quyền 4B – Lời tiên tri
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 23
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Hương Quế là con thuyền thiên nga đến từ thị trấn Cây Cao vùng Quần đảo Summer, nơi đám đàn ông da đen kịt, còn phụ nữ thì phóng đãng, và ngay cả các vị thần cũng rất lạ kỳ. Trên thuyền không có tu sĩ nào hướng dẫn họ cầu nguyện cho người chết, vì thế nhiệm vụ này được trao cho Samwell Tarly khi họ đang đi qua bờ biển phía nam của Dorne nơi ánh mặt trời thiêu đốt.
Sam mặc bộ đồ đen để tiến hành nghi thức cầu nguyện, mặc dù biển chiều nóng bức, oi nồng và hầu như không có lấy một ngọn gió nào. “Ông ấy là người đàn ông tốt,” cậu bắt đầu… nhưng khi lời
vừa thốt ra khỏi miệng, cậu đã biết mình sai. “Không. Ông là một người đàn ông vĩ đại. Một học sĩ của Citadel mang theo mình lời thề và sợi xích, và là một người anh em cả đời trung thành, tận tụy với Đội Tuần Đêm. Khi ông sinh ra, họ đặt tên ông theo tên một vị anh hùng đoản mệnh, người đã qua đời khi còn rất trẻ. Ngược lại, ông đã sống rất rất lâu, nhưng cuộc đời ông cũng không kém phần anh dũng. Không có ai khôn ngoan hơn, hòa nhã hơn và ân cần hơn ông. Ở Tường Thành, hàng chục tướng chỉ huy đã đến và đi trong những năm ông phục vụ, nhưng ông luôn ở đó để tư vấn cho họ. Ông tư vấn cho cả các vị vua. Đáng lẽ ông còn có thể làm vua, nhưng khi họ ngỏ ý trao vương miện cho ông, ông đã nói với họ rằng ngai báu nên thuộc về em trai mình. Có bao nhiêu người làm được như thế?” Sam cảm thấy nước mắt đang trào lên và biết rằng cậu không thể tiếp tục thêm được nữa. “Ông ấy mang trong mình dòng máu của rồng, nhưng giờ đây ngọn lửa trong ông đã tắt. Ông ấy là Aemon Targaryen. Và bây giờ, phiên gác của ông kết thúc.”
“Và bây giờ, phiên gác của ông kết thúc,” Gilly lẩm bẩm vừa nói theo vừa đung đưa đứa bé trên tay. Kojja Mo hòa giọng với cô bằng tiếng phổ thông của Westeros, sau đó nhắc lại một lần nữa bằng tiếng của vùng đảo Summer cho Xhondo, cha cô và toàn bộ thủy thủ đoàn còn lại nghe. Sam cúi đầu xuống và bắt đầu khóc như mưa, cậu nức nở lên thành tiếng và cả người rung lên bần bật. Gilly đến đứng bên cạnh cậu và để cậu khóc trên vai cô. Mắt cô cũng ngân ngấn nước.
Không gian ấm, ẩm và yên tĩnh đến lạ kỳ, thuyền Hương Quế đang trôi bồng bềnh trên một vùng biển sâu khuất xa tầm nhìn của đất liền. “Sam Đen đã cầu nguyện rất tốt,” Xhondo nói. “Giờ chúng ta hãy uống cho cuộc sống của ông ấy.” Ông hò hét câu gì đó bằng tiếng vùng Summer, sau đó họ đem một thùng rượu rum pha hương liệu lên boong sau và khui ra để mỗi người uống một cốc tưởng nhớ con rồng già nua mù lòa. Thủy thủ đoàn mới chỉ biết ông một thời gian ngắn, nhưng người dân trên đảo
Summer rất kính trọng người lớn tuổi và thường tiến hành tưởng niệm khi họ qua đời.
Sam chưa bao giờ uống rượu rum. Thứ rượu rất lạ và hăng; ban đầu ngọt, nhưng dư vị thì bùng cháy trên lưỡi cậu. Cậu đã mệt mỏi, vô cùng mệt mỏi. Mọi cơ bắp trên cơ thể cậu đều đau nhức, và ngoài ra còn có những nỗi đau khác nơi cậu biết chẳng hề có cơ bắp nào ở đó. Hai đầu gối cậu cứng đờ, hai tay đầy những vết phồng bỏng rộp và những vết thương mới nhớp nháp nơi những vết thương cũ vỡ ra. Nhưng chúng chẳng là gì khi rượu rum và nỗi buồn dường như cuốn trôi mọi nỗi đau về thể xác. “Ước gì chúng ta kịp đưa ông ấy đến Oldtown, các archmaester có thể sẽ cứu ông ấy,” cậu nói
với Gilly khi họ đang uống rượu rum trên boong cao ở mũi tàu Hương Quế. “Các thầy thuốc ở Citadel là những người giỏi nhất trong Bảy Phụ Quốc. Đã có lúc tôi tưởng… tôi đã hy vọng là…”
Ở Braavos, cậu đã khấp khởi hy vọng Aemon có thể hồi phục. Những câu chuyện của Xhondo về lũ rồng dường như khiến ông lấy lại được sinh khí. Đêm hôm đó ông ăn hết mọi thức ăn mà Sam dọn ra. “Chẳng ai thèm tìm kiếm một đứa con gái,” ông nói. “Người được hứa hẹn là một hoàng tử chứ
không phải một công chúa. Ta đã tưởng người đó là Rhaegar… khói là từ ngọn lửa nuốt trọn sảnh Mùa Hè trong ngày thằng bé ra đời, và muối là trong nước mắt khóc cho những người xấu số. Khi còn trẻ, thằng bé cũng có chung niềm tin đó với ta, nhưng sau đó cậu ta lại khăng khăng rằng chính con trai mình mới là người hoàn thành lời tiên đoán, vì một ngôi sao chổi đã xuất hiện trên bầu trời Vương Đô trong đêm Aegon được thụ thai, và Rhaegar đinh ninh ngôi sao chảy máu đó phải là sao chổi. Chúng ta đều ngu ngốc mà cứ nghĩ mình khôn ngoan! Tất cả đã hiểu lầm lời tiên tri đó. Barth là người phát hiện ra sự thật, rằng rồng có thể là đực hoặc cái, lúc thế này khi thế khác, dễ thay đổi như ngọn lửa. Chúng ta đã hiểu lầm lời tiên tri đó suốt hàng nghìn năm nay. Daenerys mới chính là người được chọn, sinh ra giữa khói và muối biển. Những con rồng đã chứng minh điều đó.” Chỉ khi nói về cô gái đó ông mới có vẻ khỏe lại. “Ta phải tới chỗ con bé. Ta phải đi. Ước gì ta được trẻ lại mười tuổi thì tốt biết mấy.”
Vị học sĩ già quyết tâm đến nỗi ông thậm chí tự đi bộ lên ván tàu để lên thuyền Hương Quế, sau khi Sam thương lượng xong chuyến đi. Cậu đã đưa kiếm và bao kiếm của cậu cho Xhondo để đền chiếc áo khoác lông bị hỏng khi người bạn to lớn ấy cứu Sam khỏi chết đuối. Thứ duy nhất giá trị mà họ còn lại
là những cuốn sách họ đem đi từ dưới hầm ở Hắc Thành. Sam chia tay chúng trong rầu rĩ. “Đáng lẽ chúng phải được mang đến Citadel,” cậu nói khi Xhondo hỏi cậu có chuyện gì. Khi bạn cậu dịch lại những gì cậu nói, vị thuyền trưởng phá lên cười. “Quhuru Mo bảo rằng những cuốn sách này sẽ lại quay về với các học sĩ thôi,” Xhondo nói, “chỉ có họ mới mua chúng từ Quhuru Mo. Các học sĩ trả rất nhiều bạc cho những cuốn sách mà họ không có, và đôi khi trả cả vàng và vàng đỏ nữa.”
Vị thuyền trưởng muốn có cả sợi xích của Aemon, nhưng Sam từ chối. Cậu giải thích rằng giao nộp sợi xích của mình là nỗi hổ thẹn lớn lao đối với bất kỳ học sĩ nào. Xhondo phải nhắc đi nhắc lại điều đó hơn ba lần Quhuru Mo mới chịu đồng ý. Khi cuộc thương lượng thành công, Sam chỉ còn lại đôi
bốt, bộ quần áo đen, đồ lót và chiếc sừng vỡ mà Jon Snow tìm được ở Nắm Đấm của Tiền Nhân. Mình đâu còn lựa chọn nào khác, cậu tự nhủ. Chúng ta không thể ở lại Braavos, và cũng không còn cách nào khác để trả tiền cho chuyến đi, ngoài việc trộm cắp và ăn mày. Đối với cậu, chuyến đi này lẽ ra rẻ gấp ba lần bình thường, nếu Maester Aemon có thể an toàn đến Oldtown.
Tuy nhiên, chuyến hải trình về phương nam của họ lại là một chuyến đi bão táp, và những cơn gió mạnh đã lấy đi sức khỏe và linh hồn của vị học sĩ già làm lộ phí. Ở Pentos, ông đã yêu cầu Sam đưa lên boong thuyền để Sam miêu tả lại cảnh thành phố cho ông nghe, nhưng đó là lần cuối cùng ông rời chiếc giường của thuyền trưởng. Ngay sau đó, ông lại trở nên lú lẫn. Cho đến khi Hương Quế lướt qua Tháp Máu tiến vào cảng Tyrosh, Aemon đã không còn nói về việc tìm một con thuyền đưa ông về phía đông. Thay vào đó, ông nói về việc quay lại Oldtown và về các archmaester của Citadel.
“Cậu phải nói với họ, Sam,” ông nói. “Các archmaester. Cậu phải nói cho họ hiểu. Những người ở Citadel cùng thời với ta đã chết cách đây 50 năm rồi. Những người mới này chẳng biết ta là ai cả.
Những lá thư của ta… ở Oldtown, chắc hẳn họ sẽ coi đó là những lời nói điên dại của một ông già trí lực đã không còn minh mẫn. Cậu phải thuyết phục họ khi ta không thể. Kể cho họ, Sam… kể cho họ về mọi việc ở Tường Thành… về xác sống và bóng trắng, về cái lạnh đang ngày một tăng dần…”
“Vâng thưa ngài,” Sam hứa. “Cháu sẽ góp lời cùng với ngài, học sĩ. Chúng ta sẽ nói với họ, cả hai chúng ta.”
“Không,” ông già nói. “Phải là cậu. Hãy nói với họ. Về lời tiên đoán… về giấc mơ của anh em trai của ta… Quý cô Melisandre đã hiểu lầm các dấu hiệu. Stannis… đúng là Stannis mang một phần dòng máu rồng trong người. Các anh em của cậu ta cũng thế. Rhaelle, con gái nhỏ của Egg, họ kế thừa dòng máu của rồng từ con bé… bà nội của họ… con bé từng gọi ta là chú học sĩ khi nó còn nhỏ. Ta vẫn nhớ như in, nên ta vẫn còn hy vọng… có thể ta muốn… chúng ta đều lừa dối bản thân khi chúng ta muốn tin
vào điều gì đó. Nhất là Melisandre, ta nghĩ vậy. Thanh kiếm đó là giả, cô ta hẳn phải biết điều đó… cháy sáng nhưng không có nhiệt… một vẻ huyền ảo rỗng tuếch… thanh kiếm là giả, và ánh sáng giả dối sẽ chỉ dẫn chúng ta lún sâu thêm vào bóng tối thôi, Sam ạ. Daenerys là hy vọng của chúng ta. Hãy nói cho họ điều đó, ở Citadel. Hãy thuyết phục để họ phải nghe. Họ phải cử một học sĩ đến chỗ con bé. Daenerys cần được tư vấn, dạy dỗ và bảo vệ. Trong suốt những năm qua ta đã nấn ná, chờ đợi, quan sát, và giờ đây khi ngày đó tới thì ta lại quá già. Ta sắp chết rồi, Sam ạ.” Nước mắt chảy dài xuống từ đôi mắt mù trắng đục khi vị học sĩ già phải thừa nhận điều đó. “Với một ông già như ta thì cái chết có gì đáng sợ cơ chứ, vậy mà ta lại sợ hãi. Không phải rất ngớ ngẩn sao? Ta đã luôn sống trong bóng tối rồi, tại sao ta còn phải sợ bóng tối nữa? Ta không thể làm gì khác ngoài việc tự hỏi điều gì sẽ xảy ra tiếp theo khi hơi ấm cuối cùng cũng rời khỏi cơ thể ta. Ta sẽ mãi mãi tham dự buổi yến tiệc trong đại sảnh vàng của Đức Cha như các septon vẫn thường nói ư? Ta sẽ lại được nói chuyện với Egg, được nhìn thấy Dareon hạnh phúc và nguyên vẹn, được nghe các chị em gái của ta hát ru bọn trẻ chứ? Nếu người Dothraki nói đúng thì sao? Ta có cưỡi ngựa trong màn đêm tối tăm mãi mãi trên lưng một con ngựa bằng lửa không? Hay ta sẽ phải trở lại với thế giới đau buồn này? Ai mà biết chắc được, đúng không? Đã có ai vượt được qua biên giới của sự sống và cái chết để mà chắc chắn? Chỉ có bọn xác sống, mà bọn chúng thì ta đã biết quá rõ rồi. Chúng ta biết quá rõ.”
Sam không biết phải nói gì lúc đó, nhưng cậu đã cố hết sức để đem lại cho ông nguồn an ủi, dù là nhỏ nhoi. Và sau đó Gilly vào hát cho ông nghe một bài hát, những câu từ vô nghĩa mà cô học được từ
các bà vợ khác của Craster. Bài hát khiến ông già mỉm cười và ru ông vào giấc ngủ.
Đó là một trong những ngày tháng vui vẻ cuối cùng của cuộc đời ông. Sau đó, vị học sĩ già ngủ nhiều hơn thức và lúc nào cũng cuộn tròn trong đống lông thú trong khoang của thuyền trưởng. Thỉnh thoảng ông lẩm bẩm trong giấc ngủ. Khi tỉnh dậy ông sẽ gọi Sam và khăng khăng có chuyện muốn nói với cậu, nhưng hầu như lần nào ông cũng quên mất trước khi cậu đến nơi. Ngay cả khi nhớ ra thì câu chuyện của ông cũng giống như một mớ bòng bong. Ông nói về những giấc mơ và chưa bao giờ nói ai là người nằm mơ, về một cây nến thủy tinh không thể cháy và những quả trứng không nở. Ông nói nhân sư là câu đố chứ không phải người ra câu đố, và cậu chẳng hiểu điều đó nghĩa là gì. Ông yêu cầu Sam
đọc cho ông nghe một cuốn sách viết bởi Septon Barth. Hầu như các tác phẩm của ông ta đều đã bị đốt trong thời kỳ trị vì của Baelor Thần Thánh. Có một lần ông còn tỉnh dậy và khóc lóc. “Con rồng phải có ba đầu,” ông thốt lên, “nhưng ta quá già và yếu ớt để trở thành một trong số đó. Ta phải tin vào con bé, chỉ đường cho nó, nhưng cơ thể này lại phản bội ta.”
Khi Hương Quế đi qua quần đảo Stepstones, Maester Aemon đã nhiều lần quên mất tên Sam. Đôi khi ông còn nhầm cậu với một trong số những người anh em đã chết. “Ông ấy quá yếu để chịu đựng
một chuyến đi dài như thế này,” Sam nói với Gilly ở khoang mũi thuyền, sau khi uống một ngụm rượu rum nữa “Jon lẽ ra phải hiểu được điều đó. Aemon đã 102 tuổi rồi, đáng lẽ không được để ông ấy lênh đênh trên biển. Nếu ở lại Hắc Thành, có thể ông ấy sẽ sống thêm được mười năm nữa.”
“Hoặc là cô ta sẽ thiêu sống ông ấy. Ả nữ tu đỏ đó.” Ngay cả ở đây, mấy ngàn dặm cách xa Tường Thành, Gilly vẫn ngần ngại không dám nói tên quý cô Melisandre. “Cô ta muốn có dòng máu của nhà vua để hiến cho ngọn lửa. Val biết rõ điều đó. Lãnh chúa Snow cũng biết. Đó là lý do tại sao ngài ấy nói tôi đưa con trai của Dalla đi và thế con của tôi vào đó. Maester Aemon đã ngủ một giấc dài và
không tỉnh lại nữa, nhưng nếu ở lại, cô ta cũng sẽ thiêu ông ấy thôi.”
Ông ấy vẫn sẽ bị thiêu thôi mà, Sam đau khổ nghĩ, chỉ là giờ chính mình phải làm việc đó. Nhà Targaryens luôn có tục lệ thiêu người chết. Quhuru Mo sẽ không cho phép lập giàn thiêu trên thuyền Hương Quế, vì thế xác Aemon được nhét trong một thùng rượu rum nho đen để bảo quản cho đến khi con thuyền cập cảng Oldtown.
“Vào đêm trước khi qua đời, ông ấy đã hỏi tôi liệu ông có thể ôm đứa bé không,” Gilly nói tiếp. “Tôi đã sợ ông ấy sẽ làm rơi nó, nhưng không. Ông đung đưa thằng bé, ngâm nga một bài hát cho nó nghe, và con trai đã Dalla với tay sờ lên mặt ông ấy. Tôi cứ sợ thằng bé sẽ làm ông đau khi véo môi
ông ấy, nhưng ông ấy chỉ cười.” Cô xoa tay Sam. “Chúng ta có thể đặt tên cho thằng bé là Maester, nếu anh muốn. Là khi nó lớn đã, không phải bây giờ. Nhưng chúng ta có thể làm như vậy.”
“Maester không phải là một cái tên. Tuy nhiên cô có thể đặt tên nó là Aemon.”
Gilly trầm tư một lúc. “Dalla sinh ra cậu bé trong trận chiến, khi bài ca của đao kiếm vang lên khắp xung quanh. Nên đặt tên cậu bé như vậy. Aemon Sinh Ra Trong Chiến Trận. Aemon Bài Ca Của
Thép.”
Một cái tên mà ngay cả cha mình cũng sẽ thích. Cái tên của một chiến binh. Thằng bé là con của Mance Rayder, và dù gì vẫn là cháu trai của Craster. Nó không mang trong mình chút nào dòng máu
hèn nhát của Sam. “Được. Hãy đặt tên nó như vậy.”
“Khi thằng bé 2 tuổi,” cô hứa, “không được sớm hơn.”
“Thằng bé đâu rồi?” Sam chợt nhớ ra. Giữa rượu rum và sự đau buồn, mãi đến lúc này cậu mới nhận thấy Gilly không bế đứa bé.
“Kojja đang bế nó. Tôi đã nhờ cô ấy trông một lúc.”
“Ồ.” Kojja Mo là con gái của thuyền trưởng, cao hơn Sam và mảnh dẻ như một cây thương, làn da đen và nhẵn mượt như than đá. Cô cũng là đội trưởng của nhóm cung thủ đỏ trên thuyền và dùng một chiếc cung có ba đoạn cong làm bằng gỗ vàng có thể bắn xa tới bốn trăm thước. Khi hải tặc tấn công họ ở Stepstones, những mũi tên của Kojja đã giết chết hơn một chục tên lính trong khi các mũi tên của Sam cứ bay thẳng xuống nước. Thứ duy nhất mà Kojja Mo yêu quý hơn chiếc cung của cô là được bế con trai của Dalla trên đùi và hát cho nó nghe bằng ngôn ngữ của vùng đảo Summer. Hoàng tử du mục được mọi phụ nữ trên thuyền đều yêu quý, và Gilly có vẻ tin tưởng họ hơn bất kỳ người đàn ông nào
khi giao thằng bé cho họ.
“Kojja thật tốt bụng,” Sam nói.
“Lúc đầu tôi hơi sợ cô ấy,” Gilly nói. “Da cô ấy đen quá, và răng thì quá to và trắng, tôi cứ sợ cô ấy là thú dữ hay quái vật, nhưng hoàn toàn không phải. Cô ấy rất tốt. Tôi thích cô ấy.”
“Tôi biết.” Hầu như trong cuộc đời cô, người đàn ông duy nhất mà cô biết là lão Craster đáng sợ. Còn lại, thế giới của cô chỉ toàn phụ nữ. Đàn ông làm cho cô sợ hãi, nhưng phụ nữ thì không, Sam
nhận ra và hoàn toàn hiểu được điều đó. Khi còn ở Horn Hill, cậu cũng thích chơi cùng con gái hơn. Các chị em gái của cậu rất tốt, dù một số đứa thỉnh thoảng chế giễu cậu, nhưng những lời độc địa vẫn dễ quên hơn nhiều so với những cú đánh đập thô bạo cậu phải hứng chịu từ mấy thằng nhóc khác trong lâu đài. Thậm chí đến giờ, trên con thuyền Hương Quế, Sam vẫn cảm thấy dễ chịu với Kojja Mo hơn với cha cô, nhưng có lẽ chỉ vì cô biết nói tiếng phổ thông, còn cha cô thì không.
“Tôi cũng thích anh, Sam ạ,” Gilly thì thầm. “Tôi cũng thích thức uống này. Nó có vị như lửa ấy.”
Đúng, Sam nghĩ, thức uống cho những con rồng. Cốc của họ đã cạn, Sam bèn tới chỗ chiếc thùng và rót đầy cốc một lần nữa. Cậu thấy mặt trời đang lặn dần ở hướng tây với kích thước to gấp ba lần bình thường. Ánh sáng đỏ rực của nó làm khuôn mặt Gilly đỏ ửng lên. Họ uống một cốc vì Kojja Mo,
một cốc vì con trai của Dalla, một cốc vì con trai của Gilly ở Tường Thành. Và sau đó họ uống hai cốc vì Aemon của Nhà Targaryen. “Cầu mong Đức Cha công bằng với ông ấy,” Sam nói và sụt sịt mũi. Cho đến khi họ uống xong hai cốc vì Aemon thì mặt trời đã gần lặn hẳn. Chân trời phía tây chỉ còn một vệt đỏ sáng lờ mờ, trông như một vết rạch trên nền trời. Gilly nói rượu làm cho con thuyền quay mòng mòng, nên Sam giúp cô xuống cầu thang về khu dành riêng cho phụ nữ trong khoang thuyền.
Cậu đập đầu vào chiếc đèn lồng treo ngay cửa khoang khi bước vào. “Ối,” cậu kêu lên khiến Gilly vội vã hỏi han. “Anh có sao không? Để tôi xem nào.” Cô cúi sát lại gần…
…và hôn lên môi Sam.
Sam cũng hôn lại cô. Mình đã nói lời tuyên thệ, cậu nghĩ, nhưng tay cô gái du mục đang giật mạnh bộ đồ đen của cậu và tháo dải buộc của chiếc quần ống túm. Sam cố thoát ra khỏi nụ hôn để nói, “Không được đâu,” nhưng Gilly chỉ đáp gọn lỏn, “Có chứ,” và bịt miệng cậu bằng môi cô một lần
nữa. Thuyền Hương Quế đang xoay vòng vòng quanh họ và cậu cảm nhận được cả vị rum trên lưỡi của Gilly, rồi hai bầu ngực cô lộ ra và cậu đang mân mê chúng. Mình đã nói lời tuyên thệ, Sam lại nghĩ, nhưng chẳng hiểu sao cậu đã đang ngậm một bên đầu vú Gilly. Nó hồng hào, cương cứng và khi cậu bú lên đó, sữa chảy đầy miệng cậu và hòa lẫn với vị rượu rum. Cậu chưa bao giờ thấy thứ gì có vị ngọt ngào, dễ chịu đến như vậy. Nếu mình làm thế này, mình sẽ chẳng hơn gì Dareon, Sam nghĩ, nhưng cảm giác này… cậu không thể dừng lại được. Rồi đột nhiên thằng nhỏ của cậu trồi lên, dựng đứng trong quần trông như một cột buồm màu hồng béo ị. Trông nó ngu ngốc đến nỗi cậu suýt phá lên cười, nhưng Gilly đã đẩy cậu xuống nệm, vén váy lên ngang đùi rồi từ từ ngồi lên cậu kèm theo tiếng rên nhè nhẹ. Nó còn tuyệt hơn cả hai đầu vú của cô. Cô ấy ướt át quá, cậu vừa nghĩ vừa hổn hển. Mình không tưởng tượng nổi chỗ đó của phụ nữ lại có thể ướt át đến vậy. “Giờ tôi là vợ anh rồi,” cô thì thầm rồi nhấp nhổm lên xuống trên người cậu. Sam rên rỉ, đầu cậu vang lên tiếng nói Không, không, cô không thể, tôi đã tuyên thệ rồi, nhưng tất cả những gì thoát ra từ miệng cậu chỉ là “Ừ.”
Sau đó cô ngủ thiếp đi, hai tay cô ôm lấy cậu và mặt cô vùi vào ngực cậu. Sam cũng muốn ngủ, nhưng cậu đang say vì rượu rum, sữa và Gilly. Cậu biết cậu cần phải bò về võng của mình ở khoang dành cho nam giới, nhưng cảm giác dễ chịu khi cô nằm cuộn tròn bên cạnh khiến cậu chẳng hiểu sao
trở nên bất động.
Những người khác bước vào, cả đàn ông và phụ nữ, cậu nghe thấy tiếng họ hôn nhau và làm tình. Những người dân đảo Summer. Đó là cách họ khóc thương người quá cố. Họ trả lời cho cái chết bằng sự sống. Sam đã đọc thông tin này ở đâu đó từ cách đây rất lâu. Cậu tự hỏi liệu Gilly có biết điều đó
không, liệu Kojja Mo có nói cho cô ấy biết phải làm gì không.
Cậu hít hà mùi hương trên tóc cô và nhìn đăm đăm lên chiếc đèn lồng đung đưa trên đầu. Ngay cả Bà Già cũng sẽ chẳng thể dắt mình an toàn ra khỏi đây. Cách tốt nhất cậu có thể làm là lẻn ra ngoài và nhảy xuống biển. Nếu mình chết chìm, sẽ chẳng ai biết mình đã tự bôi nhọ bản thân và phá vớ lời thề, còn Gilly cũng có thể tìm một người đàn ông tốt hơn, một ai đó không béo ú và hèn nhát như mình.
Sam tỉnh dậy vào sáng hôm sau trên võng của cậu trong khoang dành cho nam, trong khi Xhondo đang hò hét gì đó về ngọn gió. “Gió nổi lên rồi,” anh ta hò hét liên tục. “Dậy làm việc thôi, Sam Đen.
Gió nổi rồi.” Từ vựng của Xhondo thiếu thốn bao nhiêu thì anh ta bù lại bằng âm lượng bấy nhiêu. Sam lăn xuống khỏi chiếc võng và đứng lên, có phần nuối tiếc nó. Đầu cậu như muốn nổ tung, một
trong những vết phồng giộp trên tay cậu đã vỡ ra trong đêm hôm trước. Cậu thấy nôn nao như thể sắp nôn đến nơi.
Tuy nhiên, Xhondo là kẻ không biết khoan nhượng, vì thế Sam chỉ có thể cố gắng mặc lại bộ đồ đen. Cậu tìm thấy nó dưới sàn bên dưới chiếc võng, tất cả chất lại thành một đống. Cậu ngửi thử xem chúng đã chua đến cỡ nào, hít hà mùi muối, biển và hắc ín, mùi vải bạt và nấm mốc, mùi quả, cá và rượu rum nho đen, mùi hương của những gia vị đặc biệt và gỗ lạ, cộng với mùi nồng nồng trong mồ hôi khô của chính cậu. Nhưng trên đó còn có mùi của Gilly nữa, mùi hương của mái tóc cô sạch sẽ, mùi ngọt ngào của sữa và chúng khiến Sam vui vẻ mặc lại quần áo. Nhưng cậu sẽ còn vui hơn nhiều
nếu được một đôi tất khô ráo. Một số loại nấm đã bắt đầu mọc giữa các kẽ chân cậu.
Rương sách chẳng thấm vào đâu so với số tiền họ cần trả cho cuộc hành trình từ Braavos đến Oldtown. Tuy nhiên, thuyền Hương Quế đang thiếu người, vì thế Quhuru Mo đã đồng ý nhận bọn họ, với điều kiện họ phải làm việc trên thuyền. Khi Sam phản đối rằng Maester Aemon quá yếu, thằng bé còn đang ẵm ngửa, còn Gilly thì sợ biển, Xhondo chỉ phá lên cười, “Sam Đen to béo sẽ làm việc cho
cả bốn người.”
Thật tình mà nói, Sam vụng về đến nỗi cậu không nghĩ mình có thể làm tốt công việc dành cho một người bình thường, nhưng cậu đã rất cố gắng. Cậu cọ rửa sàn thuyền và kỳ cho chúng nhẵn mượt bằng đá, kéo xích mỏ neo, cuộn dây thừng, săn bắt chuột, khâu những cánh buồm bị rách, vá những lỗ thủng trên thuyền bằng nhựa đường nóng chảy, lóc xương cá và thái hoa quả cho đầu bếp. Gilly cũng cố gắng làm việc. Cô chằng buộc dây thừng tốt hơn cậu, nhưng thỉnh thoảng vùng nước bao la vô tận vẫn khiến cô phải nhắm mắt.
Gilly, Sam nghĩ, mình sẽ làm gì với Gilly đây?
Đó là một ngày nóng bức, nhớp nháp, và ngày lại càng dài hơn khi đầu cậu đau như búa bổ. Tay cậu tiếp tục phồng rộp vì dây thừng, cánh buồm và các nhiệm vụ khác được Xhondo giao phó. Cậu cũng cố không chú ý đến thùng rượu rum đựng xác vị học sĩ già Aemon… hoặc Gilly. Cậu không dám đối mặt với cô gái du mục lúc này, sau những gì họ vừa làm tối qua. Cứ khi nào cô lên boong thuyền, cậu lại xuống dưới. Khi cô tiến lên, cậu lùi xuống. Khi cô mỉm cười, cậu quay đi và cảm thấy mình tồi
tệ. Đáng lẽ mình nên nhảy xuống biển khi cô ấy còn đang ngủ. Mình luôn là kẻ hèn nhát, nhưng chưa từng phá vỡ lời thề cho đến lúc này.
Nếu Maester Aemon không chết thì Sam đã hỏi ông xem phải làm gì. Nếu Jon Snow ở trên thuyền, hay thậm chí là Pyp và Grenn, cậu cũng có thể sẽ hỏi họ. Nhưng giờ cậu chỉ có Xhondo. Xhondo sẽ
chẳng hiểu mình muốn nói gì. Hoặc nếu có hiểu thì anh ta cũng sẽ bảo mình làm tình với cô ấy thêm lần nữa. “Làm tình” là từ đầu tiên trong tiếng phổ thông mà Xhondo học được, và cậu ta rất thích từ đó.
Cậu thấy may mắn vì Hương Quế là con thuyền quá lớn. Trên thuyền Chim Cắt, Gilly có thể chạm
mặt cậu bất cứ lúc nào. “Thuyền thiên nga,” ở Bảy Phụ Quốc, họ gọi những con thuyền lớn đến từ Quần đảo Summer bằng cái tên đó, bởi những cánh buồm trắng căng phồng và ở mũi thuyền hầu hết đều chạm hình chim. Dù con thuyền rất to, nhưng cách chúng cưỡi sóng vẫn vô cùng uyển chuyển và duyên dáng đúng như tên gọi của mình. Thuyền Hương Quế có thể đi nhanh hơn bất cứ chiếc ga-lê nào nếu hướng gió thuận lợi, nhưng lại trở nên ì ạch khi trời lặng gió. Và trên thuyền cũng có rất nhiều nơi cho một con quạ trú ẩn.
Nhưng cuối cùng khi gần hết phiên gác của mình, Sam vẫn bị dồn vào thế bí. Cậu đang trèo xuống cầu thang thì Xhondo tới nắm lấy cổ áo cậu. “Sam Đen đi với Xhondo,” anh ta nói rồi lôi cậu dọc
boong thuyền và ném cậu xuống dưới chân Kojja Mo.
Xa xa ở phía bắc, mây mù lởn vởn nơi đường chân trời. Kojja chỉ về hướng đó. “Kia là bờ biển Dorne. Nơi có cát, đá, những con bọ cạp, và không có chỗ nào để thả neo trong vòng gần một nghìn dặm. Cậu có thể bơi đến đó nếu thích, và đi bộ đến Oldtown. Cậu sẽ phải đi qua sa mạc mênh mông và trèo vài quả núi, sau đó bơi qua dòng Torentine. Hoặc cậu có thể đến gặp Gilly.”
“Cô không hiểu đâu, đêm qua chúng tôi…”
“…vinh danh người chết, và các vị thần tạo ra hai người. Xhondo cũng làm thế. Tôi phải trông đứa bé, chứ nếu không tôi cũng ở bên anh ta rồi. Tại sao người Westeros các anh lại hổ thẹn vì việc làm
tình? Tình yêu chẳng có gì đáng xấu hổ cả. Nếu các nữ tu nói vậy thì bảy vị thần của anh hẳn phải là ác quỷ. Trên các hòn đảo của chúng tôi mọi người đều hiểu đạo lý. Các vị thần cho chúng ta chân để
chạy, mũi để ngửi, tay để sờ và cảm nhận. Làm gì có vị thần điên rồ độc ác nào cho con người đôi mắt rồi lại bảo anh ta suốt đời không được mở chúng ra, không được ngắm nhìn vẻ đẹp của thế giới? Họa chỉ có vị thần quái vật, ác ma bóng tối mới như vậy thôi.” Kojja đặt tay vào giữa hai chân Sam. “Các vị thần cho cậu thứ này cũng có lý do cả đấy… mọi người ở Westeros gọi đó là gì nhỉ?”
“Làm tình,” Xhondo hồ hởi.
“Đúng, để làm tình. Để hưởng thụ cảm giác sung sướng và để sinh con đẻ cái. Chẳng có gì đáng xấu hổ về chuyện đó cả.”
Sam lùi lại. “Tôi đã nói lời tuyên thệ. Tôi sẽ không lấy vợ và không làm cha của những đứa trẻ. Tôi đã nói những lời đó rồi.”
“Cô ấy biết những lời cậu nói chứ. Cô ấy có thể giống như một đứa trẻ, nhưng cô ấy không mù. Cô ấy biết tại sao cậu lại mặc đồ đen, tại sao cậu lại tới Oldtown. Cô ấy biết không thể giữ được cậu. Cô
ấy chỉ muốn có cậu trong chốc lát, vậy thôi. Cô ấy đã mất chồng và cha, mẹ và các chị em gái, mất nhà, mất cả thế giới. Tất cả những gì cô ấy còn lại là cậu và đứa trẻ. Thế nên hãy đến bên cô ấy, hoặc
nhảy xuống mà bơi, tùy cậu.”
Sam nhìn trân trân vào màn sương mù giữa con thuyền và bờ biển với vẻ chán chường thất vọng.
Cậu biết mình không thể bơi xa đến thế.
Cậu tới chỗ Gilly. “Những gì chúng ta đã làm… nếu tôi có thể lấy vợ, tôi sẽ chọn em thay vì bất kỳ công chúa hay tiểu thư quyền quý nào, nhưng tôi không thể. Tôi vẫn là một con quạ. Tôi có lời thề của
mình, Gilly. Tôi đã cùng Jon vào rừng và tuyên thệ trước cây đước.”
“Những cái cây quan sát chúng ta,” Gilly thì thầm và lau nước mắt trên má cậu. “Ở trong rừng, họ nhìn thấy tất cả… nhưng ở đây không có cái cây nào hết. Chỉ có nước thôi, Sam. Chỉ có nước mà thôi.”