The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn

The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 11

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


“Ta có thể cho ngươi mọi thứ ngươi muốn”, bà tiên nói. “Của cải, vương miện và quyền trượng, danh tiếng, một cuộc đời hạnh phúc dài lâu. Chọn đi.”

“Tôi không muốn của cải hay danh tiếng, vương miện hay quyền trượng,” nữ witcher trả lời. “Tôi ước một con ngựa đen và nhanh như ngọn gió đêm. Tôi ước một thanh kiếm sắc và sáng như ánh trăng rằm. Tôi muốn bước qua thế giới trên con ngựa đen trong đêm thâu, tôi muốn đánh bại sức mạnh của Cái Ác bằng thanh kiếm sáng. Đó là tất cả những gì tôi khao khát.”

“Ta sẽ cho ngươi một con ngựa đen hơn màn đêm và nhanh hơn ngọn gió,” bà tiên hứa. “Ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, sắc và sáng hơn ánh trăng rằm. Nhưng ngươi đòi hỏi ở ta rất nhiều, nữ witcher, và cái giá phải trả sẽ là rất lớn.”

“Bằng cái gì? Bởi tôi không có gì cả.” “Bằng máu của ngươi.”

Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.

“Họ tới kìa! Họ tới kìa!”

Yennefer giữ mái tóc ẩm ướt tung bay trong gió bằng cả hai tay và dừng lại ở lan can, tránh khỏi đường của những người phụ nữ đang chạy ra bến cảng. Cơn sóng được đẩy bởi ngọn gió tây đánh ầm ầm vào bờ. Bọt biển trắng xóa tung lên từng đợt giữa những khe nứt trên vách đá.

“Họ tới kìa! Họ tới kìa!”

Gần như toàn bộ quần đảo hiện ra trước mắt từ trên sân thượng của tòa thành Kaer Trolde, pháo đài chính của Ard Skellig. Thẳng về phía trước, vượt qua eo biển, là An Skellig – thấp và bằng phẳng về phía nam và bao phủ bởi những vịnh dốc đứng về phía bắc. Ở bên trái, cách xa xa, mũi nhọn và vách đá treo leo của Spikeroog xanh mướt vươn lên trên những con sóng, đỉnh nhọn biến mất giữa mây mù. Về bên phải, có thể thấy những ngọn đồi không hẳn là thoải của đảo Undvik, phía trên là từng đàn hải âu, bồ nông và ó biển vần vũ. Đằng sau Undvik hé ra phần đỉnh phủ cây của Hindarsfjall, hòn đảo bé nhất trong quần thể. Và nếu trèo lên đỉnh tòa tháp canh cao nhất của Kaer Trolde và nhìn thẳng về phía nam, sẽ thấy một hòn đảo nữa – Faroe cô độc, tách biệt. Nó nhô lên từ nước như sống lưng một con cá khổng lồ nổi trên mặt biển êm đềm.

Yennefer chạy xuống mái hiên thấp hơn và dừng lại giữa một nhóm phụ nữ mà phẩm giá cùng địa vị không cho phép họ cắm đầu cắm cổ lao xuống bờ biển đứng chung với đám đông đang phấn khích. Bên dưới họ, bến cảng bồi đắp trải dài, đen ngòm và vô dạng, như tấm lưng một con cua biển bị đánh dạt vào bờ.

Từ eo biển nằm giữa An Skellig và Spikeroog hiện ra các chiến hạm, cái này nối tiếp cái kia. Những cánh buồm đỏ và trắng phản chiếu ánh mặt trời và những tấm khiên đồng treo bên mạn lấp lánh.

“Tàu Ringhorn tới đầu tiên,” một người phụ nữ giảng giải. “Rồi tới tàu Fenris…

“Tàu Trigla,” một giọng phấn khích nữa cất lên, “Rồi tới tàu Drac…đằng sau nó là tàu

Havfrue…”

“Tàu AnghiraTamaraDaria…không, đó là tàu Scorpena…tàu Daria đâu rồi. Tàu

Daria đâu rồi…”

Một thai phụ trẻ với mái tóc vàng cột dày ôm bụng bằng cả hai tay, rên lên, mặt chuyển sang trắng bệch và ngất xỉu, gục xuống những tấm ván của mái hiên như rèm cửa bị đứt rời. Yennefer nhảy ra tức thì, quỳ gối xuống, và đặt ngón tay lên bụng người phụ nữ. Cô thốt lên một câu thần chú để kìm hãm cơn đau và co giật, đồng thời làm chắc lại các mô tử cung và nhau thai trước lực đang đe dọa sẽ xé rách chúng. Để an toàn, nữ pháp sư đặt một câu thần chú ru ngủ lên đứa trẻ, mà đôi chân cô có thể cảm thấy đang đạp dưới bàn tay mình.

Để tránh lãng phí sức lực, cô làm người phụ nữ tỉnh lại bằng một cái tát vào mặt. “Đem cô ấy đi. Cẩn thận.”

“Thật là ngốc nghếch…” một bà già lên tiếng. “Cô ấy nghĩ cái gì thế chứ…”

“Ngốc thật mà…Có thể chồng cô ấy vẫn còn sống, có thể anh ta đang trên một con tàu khác…”

“Cảm ơn vì sự giúp đỡ của cô, quý cô pháp sư.”

“Đem cô ấy đi.” Yennefer nhắc lại và đứng lên. Cô nén một câu chửi thề khi nhận ra quỳ xuống đã làm bung đường chỉ trên váy mình.

Cô vẫn đang đứng ở mái hiên bên dưới. Những chiến hạm bắt đầu cập vào bờ, cái này nối tiếp cái kia, và những người lính nhảy xuống – các chiến binh Skellige, lông lá và mình đầy vũ khí. Nhiều người bị băng bó. Nhiều người chỉ có thể bước đi nếu được giúp. Nhiều người phải bị khiêng đi.

Những người phụ nữ túm tụm trên bờ bắt đầu nhận ra những người đàn ông của mình. Nếu may mắn, họ sẽ thét lên và khóc lóc vì vui sướng. Nếu không, họ sẽ ngất xỉu. Hoặc bỏ đi – chậm rãi, im lặng, không một lời phàn nàn. Đôi lúc họ quay lại, hy vọng rằng cánh buồm đỏ và trắng của tàu Daria sẽ hiện ra giữa eo biển.

Tàu Daria đã không quay về.

Lừng lững bên trên rừng tóc đỏ, Yennefer nhận ra Crach an Craite, Chúa đảo Skellige, người cuối cùng lên bờ từ con tàu Ringhorn. Chúa đảo hét mệnh lệnh, kiểm tra và chăm lo nhiều vấn đề. Hai người phụ nữ đứng nhìn ông, một người tóc vàng và người kia tóc đen. Họ khóc. Vì hạnh phúc. Khi cuối cùng tin chắc rằng mình đã lo liệu xong xuôi mọi việc, Chúa đảo tới chỗ hai người phụ nữ, ôm họ thật chặt, và hôn lên cả hai. Rồi ông ngước nhìn và trông thấy Yennefer. Đôi mắt ông bắt đầu sáng như giáp đồng và gương mặt cháy nắng đanh lại như đá.

Ông ấy biết, nữ pháp sư nghĩ. Tin tức truyền đi rất nhanh. Chúa đảo đã biết, trong khi vẫn đang trên biển, rằng mình đã vướng phải một tấm lưới ngày hôm qua, trên eo biển nằm sau Spikeroog. Ông ấy biết rằng sẽ tìm thấy mình ở Kaer Trolde.

Nhờ phép thuật hay bồ câu?

Ông tiến lại thật chậm. Ông có mùi như biển cả, muối, hắc ín và mỏi mệt. Cô nhìn vào đôi mắt sáng của ông, và ngay lập tức bên tai cô vang lên tiếng hét xung trận của các chiến binh, tiếng khiên vỡ, tiếng leng keng của gươm và rìu. Tiếng gầm của kẻ bị giết. Tiếng rống của những người nhảy khỏi con tàu Daria đang bốc cháy ngùn ngụt giữa đại dương.

“Yennefer thành Vengerberg.”

“Crach an Craite, Chúa đảo Skellige.” Cô khẽ cúi chào. Ông không đáp lại. Không tốt rồi, cô nghĩ.

Ngay lúc đó ông trông thấy vết bầm của cô, vết tích sót lại từ một cú đập của mái chèo, và lại lần nữa mặt ông cứng như đá. Đôi môi khẽ run và trong giây lát cô có thể thấy răng ông nhe ra.

“Kẻ nào đã đánh cô sẽ phải trả giá.”

“Không ai đánh tôi cả. Tôi trượt ngã trên cầu thang.”

Ông nhìn cô chăm chú, rồi nhún vai. “Nếu cô không muốn khiếu kiện thì không cần phải làm vậy. Ta không có thời gian để đi điều tra. Và giờ thì nghe những gì ta nói đây. Lắng nghe cho kỹ vào, bởi vì đây sẽ là những lời duy nhất mà ta nói với cô.”

“Tôi đang nghe đây.”

“Ngày mai cô sẽ được đặt lên một chiến hạm và đem tới Novigrad. Ở đó, cô sẽ được giao cho chính quyền thành phố và sau đó là chính quyền Temeria hay Redania, bất kỳ ai tóm được cô trước. Ta biết là cả hai đều đang ấp ủ một ham muốn mãnh liệt được trò chuyện cùng cô.”

“Tất cả đó sao?”

“Gần như. Chỉ là những gì cô đáng được nhận thôi. Skellige đã thường xuyên cung cấp nơi trú ẩn cho những người bị pháp luật truy tố. Quần đảo này không thiếu cách và cơ hội để họ chuộc lỗi bằng lao động nặng nhọc, lòng dũng cảm, sự hy sinh và máu. Nhưng không phải trong trường hợp của cô, Yennefer. Có lẽ cô đã trông đợi vào nó, nhưng ta sẽ không cho cô tị nạn. Ta ghét những kẻ như cô. Ta ghét những kẻ hành động vì quyền lực, những kẻ đặt tham vọng của mình lên trên người khác, thông đồng với kẻ thù và phản bội những người mà chúng không chỉ nợ lòng trung thành, mà còn cả lòng biết ơn. Ta ghét cô, Yennefer, bởi vì trong lúc cô và bọn tay sai Nilfgaard đó đang thực hiện đảo chính trên Thanedd, các chiến hạm của ta đang đậu ở Attre. Các chàng trai của ta đang trợ giúp quân khởi nghĩa ở đó. Ba trăm người của ta đấu lại hai ngàn tên áo đen! Nếu có phần thưởng cho lòng can đảm và trung thành, thì cũng phải có hình phạt cho tội lỗi và xảo trá! Ta nên ban thưởng cho những người đã chết thế nào đây? Đài tưởng niệm? Những dòng chữ khắc trên bia mộ? Không! Ta sẽ tưởng thưởng những sinh mạng anh dũng đã khuất theo cách khác. Máu của họ, mà chảy trên những đụn cát của Attre, sẽ được đáp trả bằng máu của cô, Yennefer, chảy trên những tấm ván gỗ của đài hành hình.”

“Tôi vô tội. Tôi đã không tham gia vào âm mưu của Vilgefortz.” “Cô có thể trình chứng cứ lên quan tòa. Ta sẽ không phán xét cô.” “Ngài không chỉ phán xét, mà còn tuyên án tử hình.”

“Đủ rồi! Ta đã nói, ngày mai vào lúc rạng đông, cô sẽ bị giải đến Novigrad trong xiềng xích, ra trước tòa án hoàng gia. Để nhận lấy hình phạt thích đáng. Nhưng giờ hãy thề với ta là cô sẽ không cố sử dụng phép thuật đi.”

“Và nếu tôi không thề thì sao?”

“Marquard, pháp sư của chúng ta, đã bị giết trên Thanedd. Giờ chúng ta không có pháp sư nào ở đây để kiểm soát cô. Nhưng cô nên biết rằng mình sẽ liên tục chịu sự giám sát của các cung thủ thiện nghệ nhất của Skellige. Chỉ cần làm một động tác tay đáng nghi ngờ, cô sẽ bị bắn.”

“Được rồi.” Cô gật đầu. “Tôi xin thề.”

“Rất tốt. Cảm ơn cô. Tạm biệt, Yennefer. Ta sẽ không đến tiễn cô vào ngày mai.” “Crach.”

Ông quay gót. “Ta đang nghe đây.”

“Tôi không có một chút ý định nào bước lên một con tàu để tới Novigrad. Tôi không có thời gian để chứng minh với Dijkstra rằng mình vô tội. Tôi không thể liều rằng các bằng chứng đã được chuẩn bị sẵn để chống lại mình. Tôi không thể liều rằng mình sẽ chết không lâu sau khi bị bắt vì một cơn xuất huyết não bất chợt, hay tự tử trong buồng giam theo cách ngoạn mục nào đó. Tôi không có thời gian và không thể đánh liều được. Tôi không thể giải thích vì sao mình không thể làm vậy. Nhưng tôi sẽ không đến Novigrad.”

Ông nhìn cô một lúc lâu.

“Cô sẽ không ư?” ông nhắc lại. “Điều gì khiến cô nghĩ rằng mình là một ngoại lệ? Có thể rằng vì chúng ta đã từng có một mối quan hệ tình cảm? Đừng trông đợi vào điều đó, Yennefer. Quá khứ đã là quá khứ rồi.”

“Tôi biết, và tôi không trông đợi vào điều đó. Tôi sẽ không tới Novigrad, Chúa đảo, bởi vì tôi đang khẩn trương tới cứu một người vô cùng cần tôi. Một người mà tôi đã thề sẽ không bao giờ bỏ rơi và phó mặc. Và ngài, Crach an Craite, Chúa đảo Skellige, sẽ giúp tôi thực hiện chuyến hành trình của mình. Sau cùng thì, chính ngài cũng đã lập một lời thề tương tự. Mười năm về trước. Với cùng một người. Ciri, cháu gái của Calanthe. Sư Tử Con của Cintra. Tôi, Yennefer thành Vengerberg, coi Ciri như con gái của mình. Đó là lý do vì sao tôi thay mặt con bé yêu cầu ngài giữ lời thề. Lời thề của Crach an Craite, Chúa đảo Skellige.”

***

“Thật sao?” Crach an Craite hỏi kinh ngạc. “Cô thậm chí sẽ không thử qua chúng? Mấy con trai này ngon lắm đó.”

“Thật.”

Chúa đảo không kỳ kèo và tự lấy cho mình một con tôm hùm từ một cái bát nông, đặt lên bàn, và đâm một nhát thật mạnh nhưng cực kỳ chuẩn xác để bổ đôi lớp vỏ. Sau khi đã vắt một đống chanh và rắc tỏi lên đó, ông bắt đầu nhặt phần thịt ra. Bằng ngón tay.

Yennefer ăn một cách lịch sự, với một cái dĩa và con dao bạc – nhưng nó là món sườn lợn kèm rau xà lách, mà được chuẩn bị riêng cho cô bởi một người đầu biếp vô cùng kinh ngạc và có phần cảm thấy bị xúc phạm. Bởi nữ pháp sư không muốn sò hay trai, hay món cá hồi ướp muối rải nước sốt thịt, hay súp hải sản, hay khúc đuôi bốc khói của cá vảy chân, hay thậm chí là cá kiếm nướng, lươn hầm, bạch tuộc, cua, tôm hùm, hay nhím biển. Và đặc biệt là bát tảo tươi sống.

Bất kỳ thứ gì mà chỉ cần bốc mùi của biển cũng đều gợi cho cô nhớ lại Fringilla Vigo và Philippa Eilhart – về cánh cổng dịch chuyển liều lĩnh điên rồ, cú ngã xuống những cơn sóng, và một lượng nước biển uống vào bụng. Cái cách mà đống tảo nổi lềnh bềnh trong bát cũng gợi cho cô nhớ về một thứ. Về đống tảo đã bị đập nhũn ra trên đầu và vai cô bởi những cái mái chèo đau điếng.

“Thế là ta đã quyết định tin tưởng cô, Yennefer.” Crach tiếp tục cuộc nói chuyện trong khi hút phần thịt ra khỏi cái chân gãy của con tôm hùm. “Cô nên biết rằng ta làm vậy không phải vì cô. Bloedgeas, lời thề máu mà ta đã trao trước mặt Calanthe, hoàn toàn trói buộc ta. Vậy nên nếu cô có ý định giúp Ciri, một cách thành thực – mà ta nghĩ là đúng – thì có vẻ như ta không còn lựa chọn nào ngoại trừ giúp đỡ cô trên chuyến hành trình này…”

“Cảm ơn ngài. Nhưng xin tha cho tôi cái tông giọng thương hại đó đi. Tôi nhắc lại: tôi đã không tham gia vào cuộc đảo chính trên Thanedd. Tin tôi đi.”

Ông vẫy tay. “Ta nghĩ sao thì có quan trọng không? Cô tốt hơn nên bắt đầu tìm cách thuyết phục các vị vua và gián điệp của họ trên khắp thế giới đi, như Dijkstra chẳng hạn. Rồi đến Philippa Eilhart và các pháp sư trung thành. Những người mà, như chính cô thú nhận, mình đã đối mặt và bỏ chạy đến Skellige này. Cô phải trình ra những bằng chứng mình có…”

“Tôi chẳng có bằng chứng nào cả,” cô ngắt lời ông và giận dữ chọc cái dĩa vào miếng rau cải mà tay đầu bếp bị xúc phạm đã luộc kèm món sườn lợn. “Và kể cả nếu có, tôi cũng sẽ không đưa cho ai xem. Tôi không thể giải thích lý do vì sao mình buộc phải im lặng. Nhưng hãy tin tôi, Crach. Tôi cầu xin ngài.”

“Ta đã bảo rồi…”

“Ngài đã bảo rồi,” cô lại xen vào. “Ngài đã bảo là sẽ giúp tôi. Cảm ơn ngài. Nhưng ngài vẫn không tin rằng tôi vô tội. Hãy tin đi.”

Crach nhìn miếng thịt cuối cùng còn sót lại của con tôm hùm rồi chuyển sang bát sò. Ông chọc và ngoáy xung quanh cái bát, tìm con to nhất.

“Đồng ý,” cuối cùng ông nói, lau tay lên tấm khăn trải bàn. “Ta tin cô. Bởi vì ta muốn tin cô. Nhưng tị nạn và trú ẩn, ta không thể cho phép cô được. Ta không thể. Tuy vậy, cô có quyền rời khỏi Skellige bất kỳ lúc nào và đi bất cứ đâu mình muốn. Ta khuyên cô hãy khẩn trương. Cô ở đây, theo cách chúng ta nói, là nhờ “đôi cánh của ma thuật”. Những người khác có thể sẽ lần theo dấu vết của cô. Họ cũng biết làm phép.”

“Tôi không cần tị nạn hay trú ẩn, Chúa đảo. Tôi phải nhanh chóng đi tìm và giải cứu Ciri.” “Ciri,” ông trầm ngâm nhắc lại. “Sư Tử Con…con bé đã là một đứa trẻ kỳ lạ.”

“Đã?”

“Ôi.” Lại lần nữa ông khoát tay. “Ta lựa chọn từ ngữ nghèo nàn quá. “Đã” bởi vì con bé không còn là một đứa trẻ nữa. Ta không cố ý làm cô bực. Cirilla, Sư Tử Con của Cintra…Con bé đã dành mọi mùa đông và mọi mùa hè ở Skellige này. Nó thường xuyên bày trò nghịch ngợm! Nó đã là một con quỷ đích thực, chứ không phải sư tử…Chết tiệt, ta lại nói “đã”…Yennefer, có nhiều tin đồn đã tới tai chúng ta từ đất liền…Một số nói rằng Ciri đang ở Nilfgaard…”

“Con bé không ở Nilfgaard.” “Số khác nói rằng nó đã chết.” Yennefer im lặng, cắn môi.

“Nhưng cái tin đồn thứ hai đó,” Chúa đảo nói cứng, “ta không tin. Ciri vẫn còn sống. Ta chắc chắn. Không có bất kỳ bằng chứng nào…Con bé vẫn còn sống!”

Yennefer nhướng một bên lông mày, nhưng không hỏi gì cả. Trong một khoảng thời gian dài họ ngồi im lặng, lắng nghe những cơn sóng thét gào bên ngoài những vách đá của Ard Skellig.

“Yennefer,” Crach lên tiếng sau một hồi. “Tuy nhiên nhiều tin tức khác cũng đến từ đất liền. Ta hiểu rằng witcher của cô, người đã ở lại Brokilon sau trận đánh trên Thanedd, đã rời khỏi đó để tới Nilfgaard và giải phóng Ciri.”

“Tôi nhắc lại, Ciri không ở Nilfgaard. Và những gì mà witcher của tôi, như ngài đã gọi anh ấy đó, định làm, tôi không hề hay biết. Nhưng anh ấy…Crach, chẳng có gì bí mật là tôi…quý mến anh ấy. Nhưng tôi biết anh ấy sẽ không cứu được Ciri. Anh ấy sẽ chẳng làm được cái gì hết. Tôi biết anh ấy. Anh ấy sẽ bị vướng vào chuyện gì đó, lạc đường và bắt đầu chiêm nghiệm triết lý trong khi tự thương hại bản thân. Anh ấy sẽ trút cơn giận và đốn hạ bất kỳ ai hay cái gì ngáng đường. Và rồi, để chuộc lỗi, anh ấy sẽ làm một nghĩa cử cao đẹp nhưng vô nghĩa nào đó. Cuối cùng, anh ấy sẽ bị giết, một cách ngu ngốc và phí hoài, khả năng cao là vì một con dao vào lưng.”

“Người ta nói rằng,” Crach nhanh chóng thêm vào, hoảng sợ bởi sự thay đổi u ám và giọng nói run rẩy lạ kỳ của nữ pháp sư, “Ciri là định mệnh của anh ta. Ta đã tự chứng kiến rồi, hồi còn ở Cintra, tại lễ cầu hôn của Pavetta…”

“Định mệnh,” Yennefer sẵng giọng ngắt lời ông, “có thể được lý giải theo nhiều cách khác nhau. Rất khác nhau. Tuy nhiên, thời gian là quá đáng giá để dành cho mấy cuộc tranh luận này. Tôi nhắc lại, tôi không biết kế hoạch của Geralt là gì hay anh ấy có kế hoạch nào hay không nữa. Tôi sẽ tự thân vận động. Theo cách của tôi. Và chủ động, Crach, chủ động. Tôi sẽ không ngồi đây, khóc lóc than thở và hai tay ôm đầu. Tôi sẽ hành động!”

Chúa đảo nhướng lông mày lên, nhưng không nói gì.

“Tôi sẽ hành động,” nữ pháp sư lặp lại. “Tôi đã vạch sẵn một kế hoạch rồi. Và ngài, Crach, sẽ giúp tôi, đúng theo lời thề mà ngài đã lập.”

“Ta sẵn sàng,” ông tuyên bố chắc nịch. “Ngay bây giờ. Các chiến hạm đang đậu ngoài cảng.

Ra lệnh đi, Yennefer.”

Cô không thể nhịn cười.

“Vẫn là con người xưa kia. Không, Crach à, không cần bằng chứng về lòng can đảm hay bản lĩnh đàn ông nào cả. Không cần phải dong buồm tới Nilfgaard và bổ đôi thanh gỗ vàng chặn cổng thành phố họ bằng một cây rìu. Tôi cần sự giúp đỡ kém ngoạn mục hơn. Nhưng chắc chắn hơn…Ngân khố của ngài thế nào?”

“Cái gì?”

“Chúa đảo Crach an Craite. Sự giúp đỡ mà tôi cần có thể quy đổi sang tiền tệ.”

***

Nó bắt đầu vào ngày hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng. Trong căn phòng đã được chuẩn bị cho Yennefer, một sự hỗn loạn bao trùm mà ngài quản gia Guthlaf – được phân công để giúp đỡ nữ pháp sư – đã phải vô cùng khó khăn để kiểm soát.

Yennefer ngồi cạnh một cái bàn và gần như không ngước lên khỏi những tấm giấy. Cô đếm và cộng các cột hóa đơn chuyển tiền, mà đã được huy động từ ngân khố và chi nhánh của ngân hàng Cianfanelli nằm trên hòn đảo. Cô vẽ và đo, và các bản phác thảo ngay lập tức được giao cho các nghệ nhân – nhà hóa học, thợ kim hoàn và thổi thủy tinh.

Trong một khoảng thời gian, mọi thứ diễn ra êm xuôi, và rồi rắc rối bắt đầu.

***

“Tôi xin lỗi, quý cô pháp sư,” quản gia Guthlaf nói. “Cái gì không thể là không thể. Chúng

tôi đã đưa cho cô tất cả những gì mình có. Cô có khả năng tạo nên phép màu, nhưng chúng tôi thì không! Giờ, tôi muốn chỉ ra rằng những viên kim cương được bày ở đây có tổng giá trị lên đến…”

“Giá trị của chúng thì có ích gì cho tôi chứ?” Cô rít lên. “Tôi cần kim cương, nhưng nó phải to. Thế nào, thưa ngài?”

Người thợ kim hoàn lại liếc nhìn bản phác thảo. “Để cắt được một viên như vậy? Ít nhất phải cần đến 30 cara.”

“Không có một viên đá nào như vậy,” Guthlaf nói thẳng, “tồn tại trên toàn bộ Quần đảo Skellige.”

“Không đúng.” Người thợ kim hoàn bác bỏ. “Có một viên.”

***

“Cô tưởng tượng ta sẽ làm điều đó thế nào đây, Yennefer?” Crach an Craite cau mày. “Ta có nên cử lính đi cướp phá cái đền thờ này không? Ta có nên đe dọa các nữ tư tế bằng cơn thịnh nộ của mình nếu họ không giao viên kim cương ra không? Đây không phải một lựa chọn. Ta không mê tín, nhưng một ngôi đền là một ngôi đền và tư tế là tư tế. Ta chỉ có thể hỏi xin một cách lịch sự. Ta có thể nói rõ rằng việc này có ý nghĩa như thế nào với ta và lòng biết ơn của ta sẽ lớn ra sao. Nhưng nó sẽ chỉ là một yêu cầu. Một lời yêu cầu khiêm nhường.”

“Một lời yêu cầu có thể bị từ chối?”

“Có thể. Thử đâu có hại gì. Còn gì để mất nữa đâu? Hai chúng ta sẽ tới Hindarsfjall và trình bày sự việc. Ta sẽ để các nữ tư tế hiểu rằng mình đang vô cùng khẩn thiết. Và rồi mọi thứ phụ thuộc vào cô. Thương lượng. Tranh luận. Hay thậm chí hối lộ. Viện đến những lý do cao cả. Khóc lóc thảm thương, lên cơn co giật, cầu xin lòng thương hại…Nói tóm lại, làm bất cứ điều gì có thể. Ta có cần cho cô bài học không, Yennefer?”

“Không cần, Crach. Một nữ pháp sư sẽ không bao giờ tìm được điểm chung với một nữ tư tế. Cả hai đều quá chắc chắn về…sự khác biệt trong lý tưởng của mình. Và cho phép một nữ pháp sư sử dụng một “thánh tích” hoặc tạo tác…không, quên đi. Không đời nào…”

“Đằng nào thì cô cũng cần viên kim cương này để làm gì cơ chứ?”

“Để dựng lên một ‘cửa sổ’ giao tiếp. Một megascope. Tôi sẽ phải thuyết phục một vài người đồng ý với mình.”

“Phép thuật? Từ khoảng cách xa?”

“Nếu mà chỉ cần trèo lên ngọn tháp cao nhất của Kaer Trolde và hét to thì tôi đã chẳng làm phiền ngài.”

***

Những con hải âu và ó biển kêu từng hồi khi lượn vòng trên mặt nước. Trên những vách đá và vịnh san hô dốc đứng của Hindarsfjall, tiếng hét chói tai của chim mò ốc đầu đỏ xen lẫn với giọng ồm ồm và lách tách của những con ó biển đầu vàng. Những cặp mắt xanh lục lấp lánh của bồ nông đen đứng quan sát con tàu đang lại gần thật chăm chú.

“Tảng đá vĩ đại đứng trên mặt nước kia” – Crach an Craite giải thích trong khi rướn người ra khỏi mạn tàu – “là Kaer Hemdall, vị thần hộ mạng Hemdall, người sẽ được đánh thức. Hemdall là anh hùng trong truyền thuyết của chúng ta. Dựa theo thần thoại, khi Tedd Deireádh đến – Thời Đại Tận Cùng, kỷ nguyên của cái lạnh trắng và cơn bão của con sói, Hemdall sẽ thức dậy để chiến đấu với sức mạnh của cái ác đến từ vùng đất Morhogg – những hồn ma, quỷ dữ và sứ giả của hỗn mang. Ngài sẽ đứng trên một dải cầu vồng và thổi tiếng tù và báo hiệu đã đến thời khắc cầm vũ khí lên và hành quân. Đến Ragh nar Roog, trận chiến cuối cùng, mà sẽ quyết định màn đêm bao phủ hay bình minh sẽ lên.”

Con tàu lắc lư qua những cơn sóng và tiến vào một vùng nước phẳng lặng hơn của một khe vịnh nằm giữa tảng đá Hemdall và một tảng đá khác, cũng mang hình thù ngoạn mục.

“Tảng đá nhỏ hơn là Kambi,” Chúa đảo nói. “Kambi, trong truyền thuyết của chúng ta, là một con gà trống vàng có nhiệm vụ cất tiếng gáy để đánh thức Hemdall và cảnh báo ngài rằng Naglfar đang đến, con tàu chiến từ địa ngục mang theo đội quân của Hỗn Mang – những bóng ma tới từ Morhoog. Naglfar được dựng lên từ móng tay của người chết. Cô không tin được đâu, Yennefer, nhưng vẫn còn những người trên Quần đảo Skellige cắt móng tay của người chết trước lễ tang, để ngăn không cho những hồn ma của Morhoog thu thập nguyên vật liệu đóng tàu.”

“Tôi tin. Tôi biết rõ sức mạnh của thần thoại.”

Khe vịnh che chắn cho họ phần nào khỏi những cơn gió và mái buồm bắt đầu lất phất. “Thổi tù và đi,” Crach ra lệnh cho thủy thủ đoàn, “Hãy để các nữ tư tế biết chúng ta đang

tới thăm.”

***

Tòa nhà nằm trên cùng một cầu thang đá dài trông như một con nhím khổng lồ – trên người nó mọc quá nhiều rêu, tường vi và dâu dại. Phía trên mái nhà, Yennefer để ý thấy không chỉ có bụi rậm, mà thậm chí còn là những thân cây nhỏ.

“Ngôi đền đây rồi,” Crach xác nhận. “Rừng cây bao quanh nó cũng là nơi để thờ cúng. Đây, hãy cầm lấy nhành tầm gửi thiêng này. Ở Skellige, như cô biết đấy, mọi thứ đều được trang trí bằng tầm gửi, từ cái nôi trẻ con cho đến bia mộ…Coi chừng, cầu thang trơn đó…tôn giáo ở đây, haha, phủ đầy rêu mốc…Đi nào, ta sẽ cầm tay cô…Vẫn dùng loại nước hoa đó…Yenna…”

“Crach, tôi xin ngài. Quá khứ đã là quá khứ rồi.” “Thứ lỗi cho ta. Đi nào.”

Vài nữ tư tế trẻ và im lìm đứng đợi trước ngôi đền. Chúa đảo lịch sự chào họ và giãi bày nhu cầu được nói chuyện với người có chức vụ cao nhất, người mà ông gọi là Modron Sigrdrifa. Họ vào bên trong ngôi đền được chiếu sáng nhờ ánh mặt trời xuyên qua những ô cửa kính cao. Một chùm sáng rọi lên ban thờ.

“Quỷ thần biển cả ơi,” Crach an Craite lầm bầm. “Ta đã quên mất Brisingamen to đến mức nào. Ta đã không ghé thăm lại nơi này kể từ khi còn nhỏ…với nó cô có thể mua được hết toàn bộ các xưởng tàu của Cidaris. Cùng với nhân công và sản lượng hàng năm.”

Chúa đảo hơi phóng đại. Nhưng chỉ chút ít.

Phía trên ban thờ bằng cẩm thạch khiêm tốn, phía trên những bức tượng mèo và diều hâu, bên trên bệ đá dùng làm nơi đặt cống vật là bức tượng của Modron Freyja, Đức Mẹ Vĩ Đại, theo đúng phong cách truyền thống của một người mẹ – áo thụng dài, cái bụng bầu được làm quá lên một chút bởi bàn tay một người thợ điêu khắc. Đầu bà hơi cúi và những đường nét gương mặt được che lại bằng một tấm vải trùm. Bên trên bàn tay đặt trên ngực là một viên kim cương như là một phần của sợi dây chuyền vàng nữ thần đeo trên cổ. Viên kim cương hơi ánh xanh. Nó to. Rất to.

Cỡ khoảng 150 cara.

“Sẽ chẳng cần phải cắt nó,” Yennefer thì thầm. “Nó có dạng hoa hồng, chính xác là những gì tôi cần. Các góc độ vừa đúng để phản chiếu ánh sáng…”

“Thế có nghĩa là chúng ta gặp may.”

“Không hẳn. Ở đây họ là các tư tế, và tôi là một mụ phù thủy báng bổ sắp sửa bị tống cổ khỏi nơi này trong nhục nhã.”

“Cô đang phóng đại đấy à?” “Không hề.”

“Chào mừng, Chúa đảo, đến ngôi đền của Đức Mẹ. Chào mừng cả cô, Yennefer thành Vengerberg.”

Crach an Craite cúi đầu. “Xin kính chào, Đức Mẹ Sigrdrifa.”

Nữ tư tế cao, và to gần bằng Crach – và thế có nghĩa bà cao hơn Yennefer một cái đầu. Mái tóc bà màu vàng và đôi mắt xanh nhạt, và một gương mặt dài, không hẳn là đẹp và ra dáng phụ nữ cho lắm.

Mình đã nhìn thấy bà ấy ở đâu rồi, Yennefer nghĩ. Gần đây thôi. Đâu nhỉ?

“Trên những bậc thang của Kaer Trolde, dẫn ra bến cảng,” nữ tư tế gợi lại cho cô, mỉm cười. “Khi những con tàu hiện ra trên eo biển. Ta đã đứng bên trên cô trong khi cô đang giúp một người phụ nữ mang bầu sắp sửa mất đứa con. Quỳ trên đầu gối, mà không lo lắng đến chiếc váy dệt từ lông thú vô cùng đắt tiền. Ta đã trông thấy điều đó. Và sẽ không bao giờ lại đi kể những câu truyện về sự toan tính và lạnh lùng của các nữ pháp sư nữa.”

Yennefer hắng giọng và khẽ cúi đầu.

“Cô đang đứng trước bàn thờ của Đức Mẹ, Yennefer. Cầu cho ơn phước của người soi sáng cho cô.”

“Đức Mẹ đáng kính, tôi…tôi xin khiêm nhường hỏi người…”

“Đừng nói gì cả. Chúa đảo, ngài chắc hẳn có nhiều việc phải làm. Hãy để chúng ta lại một mình trên Hindarsfjall này. Chúng ta có thể nói chuyện với nhau. Chúng ta là phụ nữ. Không quan trọng nghề nghiệp chúng ta theo đuổi là gì hay bản thân chúng ta là ai: chúng ta là những trinh nữ, là những người mẹ, và những người bà. Hãy quỳ xuống bên cạnh ta, Yennefer. Và cúi đầu trước Đức Mẹ.”

***

“Gỡ Brisingamen xuống khỏi cổ nữ thần?” Sigrdrifa nhắc lại, sự ngỡ ngàng trong giọng nói của bà như hồi chuông báo hiệu cơn thịnh nộ của thần thánh. “Không, Yennefer à. Điều đó đơn giản là không thể. Không quan trọng là ta không dám làm…kể cả ta có dám đi chăng nữa thì viên Brisingamen cũng không thể bị gỡ xuống được. Sợi dây chuyền không có móc khóa. Nó dính liền với bức tượng.”

Yennefer im lặng hồi lâu, quan sát nữ tư tế bằng con mắt điềm đạm. “Nếu biết như vậy,” cô nói lạnh lùng, “thì tôi đã rời đi cùng Chúa đảo về Ard Skellig luôn rồi. Không, không, tôi không nghĩ là thời gian mình dùng để nói chuyện cùng người là lãng phí. Nhưng thời gian của tôi còn rất ít. Đúng vậy, rất ít. Tôi thừa nhận, lòng tốt và cung cách dịu dàng của người có làm tôi thấy hơi bỡ ngỡ…”

“Ta luôn ước chuyện tốt lành sẽ đến với cô,” Sigrdrifa ngắt lời nữ pháp sư. “Và ta cũng rất tán thành kế hoạch của cô, bằng tất cả trái tim. Ta biết Ciri. Ta yêu đứa trẻ đó, và số phận của nó khiến ta động lòng. Ta ngưỡng mộ quyết tâm của cô trong việc giải cứu đứa trẻ. Ta sẽ làm tất cả những gì cô yêu cầu. Ngoại trừ Brisingamen, Yennefer. Không phải Brisingamen. Làm ơn, đừng yêu cầu ta.”

“Sigrdrifa, để tới giải cứu Ciri được, tôi sẽ cần phải nhanh chóng thu thập vài thông tin. Không có nó, tôi bất lực. Thông tin mà tôi chỉ có thể lấy được nhờ vào liên lạc. Để kết nối từ khoảng cách xa, tôi cần phải xây dựng, với sự trợ giúp của phép thuật, một món đồ tạo tác. Một megascope.”

“Một công cụ giống mấy quả cầu pha lê nổi tiếng của các cô đó hả?”

“Phức tạp hơn nhiều. Một quả cầu pha lê chỉ có thể kết nối được với những quả cầu khác mà đã được tinh chỉnh theo nó. Những chi nhánh ngân hàng người lùn tại địa phương cũng có một quả cầu pha lê – để liên lạc với quả cầu nằm ở tổng hành dinh. Một megascope có khả năng làm được nhiều hơn thế…Nhưng nói lý thuyết làm gì? Đằng nào thì cũng chẳng quan trọng nếu không có viên kim cương. Chà, tôi đành phải nói tạm biệt thôi…”

“Đừng vội thế.”

Sigrdrifa đứng dậy, bước lên và dừng lại trước ban thờ và bức tượng Modron Freyja. “Nữ thần,” bà nói, “cũng là người bảo hộ các nhà ngoại cảm. Và các nữ tiên tri. Và các bà đồng. Điều này được biểu trưng bởi những con vật thiêng liêng: con mèo đứng quan sát và lắng nghe trong bí mật, và con chim ưng nhìn xuống từ trên cao. Nó được biểu trưng bởi viên kim cương của nữ thần: Brisingamen, chiếc vòng cổ của sự thông thái. Sao phải dựng một thiết bị nghe nhìn làm gì, Yennefer? Chẳng phải dễ hơn là cầu xin sự giúp đỡ của nữ thần hay sao?”

Yennefer kiềm chế câu chửi thề vào phút cuối cùng. Sau cùng thì, đây cũng là nơi thờ phụng.

“Đã gần đến giờ cầu nguyện buổi tối rồi,” Sigrdrifa tiếp tục. “Cùng với các nữ tư tế khác, ta sẽ dành thời gian để ngồi thiền. Ta sẽ cầu xin nữ thần giúp đỡ Ciri. Bởi Ciri đã từng ở trong ngôi đền này nhiều lần và cũng đã nhiều lần trông thấy Brisingamen trên cổ Đức Mẹ Vĩ Đại. Hãy hy sinh một hai tiếng đồng hồ quý báu của cô, Yennefer. Hãy ngồi đây với chúng ta và cầu nguyện. Hãy hỗ trợ ta trong lúc ta hỏi xin nữ thần. Bằng suy nghĩ và sự hiện diện của cô.”

“Sigrdrifa…”

“Làm ơn. Hãy làm vì ta. Và vì Ciri.”

***

Viên kim cương Brisingamen. Trên cổ nữ thần.

Nữ pháp sư nén lại tiếng ngáp. Ít ra thì nếu có một bài hát, một bài kinh, một bài giảng… hay tiết mục kể truyện dân gian…thì sẽ đỡ buồn chán hơn thế này nhiều, và mình cũng sẽ không quá buồn ngủ. Nhưng họ chỉ quỳ ở đó và cúi đầu. Bất động, im lìm.

Nhưng đúng, họ có thể dùng Thần lực nếu muốn, đôi lúc không kém gì các nữ pháp sư chúng ta. Nó vẫn là một bí ẩn vì sao họ lại làm được. Không chuẩn bị, không đào tạo, không học hành…Chỉ mỗi cầu nguyện và ngồi thiền. Chiêm bao chăng? Một dạng tự thôi miên? Đó là những gì Tissaia de Vries đã nói…Họ vô thức tiến vào một cơn hôn mê và lấy đi năng lượng cùng khả năng thao túng nó, cũng như chúng ta làm với các câu thần chú của mình. Họ chuyển đổi năng lượng đó và coi nó như một món quà và ân huệ của các vị thần. Niềm tin cho họ sức mạnh.

Tại sao các nữ pháp sư chúng ta lại không bao giờ thành công theo cách này?

Mình có nên thử không? Tận dụng bầu không khí và hào quang của nơi này? Mình thậm chí còn có thể lên đồng…Mình chỉ cần nhìn vào viên kim cương đó…Brisingamen…Tập trung vào viễn cảnh nó sẽ hữu dụng thế nào khi đặt lên megascope của mình…

Brisingamen…Nó lấp lánh như sao mai, trong bóng tối, giữa mùi hương trầm và khói nến…

“Yennefer.”

Cô chợt ngẩng đầu lên.

Trong đền tối om. Mùi khói tỏa ra nức mũi. “Tôi đã ngủ gật à? Xin lỗi…”

“Không có gì để tha thứ cả. Đi theo ta nào.”

Bên ngoài, bầu trời rực lên thứ ánh sáng liên tục thay đổi như kính vạn hoa. Cực quang?

Yennefer kinh ngạc dụi mắt. Cực quang? Vào giữa tháng Tám? “Cô sẽ hy sinh đến mức nào hả Yennefer?”

“Cái gì?”

“Cô có sẵn sàng hy sinh bản thân mình không? Ma thuật vô giá của cô?”

“Sigrdrifa,” cô giận dữ nói. “Đừng thử dùng mấy cái mánh khóe nhảm nhí này với tôi. Tôi đã 94 tuổi rồi. Nhưng làm ơn, đừng coi đó là một lời thú tội. Tôi chỉ thú nhận với người để khiến người hiểu rằng tôi không thể bị coi như trẻ con.”

“Cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của ta.”

“Và tôi sẽ không trả lời. Bởi vì tôi không tin vào tín ngưỡng của người. Tôi đã ngủ gật tại buổi cầu kinh. Tôi đã quá chán. Bởi vì tôi không tin vào nữ thần của người.”

Sigrdrifa quay lại, và Yennefer vô thức hít vào một hơi thật sâu.

“Sự nghi ngờ của cô không làm ta hài lòng cho lắm,” một người phụ nữ với đôi mắt tràn đầy thứ vàng lỏng cất lời. “Nhưng sự nghi ngờ của cô có thay đổi được gì không?”

Hành động duy nhất mà Yennefer làm được đó là thở ra.

“Rồi sẽ đến một lúc,” người phụ nữ mắt vàng nói, “khi không còn ai, hoàn toàn không còn một ai ngoại trừ lũ trẻ con sẽ tin vào sự tồn tại của phù thủy. Ta nói điều này chủ đích là vì sự ác độc. Coi như là trả thù. Đi thôi.”

“Không…” Yennefer cuối cùng cũng làm chủ được quá trình hít thở thụ động của mình. “Không! Tôi sẽ không đi đâu hết. Đủ rồi! Đây là một câu thần chú hoặc thôi miên. Một ảo ảnh! Một cơn hôn mê! Tôi đã được huấn luyện cách phòng chống rồi…Tôi có thể làm mọi thứ tan biến chỉ với một câu nói, đúng rồi đấy! Chết tiệt…”

Người phụ nữ mắt vàng lại gần hơn. Viên kim cương trên cổ bà lấp lánh như sao mai. “Ngôn từ của cô đang dần không còn được dùng để giao tiếp nữa rồi,” bà nói. “Nó đang dần trở thành nghệ thuật, cô càng cố tỏ ra thâm thúy và khôn ngoan bao nhiêu thì nó càng trở nên vô nghĩa bấy nhiêu. Thật sự, cô tốt hơn nên bắt đầu nói ù ù à à đi. Nói đi nào.” “Đây là một ảo ảnh, một cơn hôn mê…Tôi sẽ không đi đâu cả!”

“Ta không muốn ép cô. Điều đó sẽ là đáng xấu hổ. Bởi cô là một đứa trẻ thông minh, kiêu hãnh và cá tính.”

Một cánh đồng. Một biển cỏ. Những bụi thạch thảo. Một tảng đá nhô lên như tấm lưng một con thú săn mồi đang ẩn nấp.

“Cô đã hỏi xin viên kim cương của ta, Yennefer. Ta không thể đưa nó cho cô mà chưa chắc chắn về một vài điều. Ta muốn nhìn thấy bên trong con người cô. Đó là lý do vì sao ta đưa cô ra đây, tới nơi giao hòa của tri thức và sức mạnh kể từ khi thời gian bắt đầu. Ma thuật vô giá của cô ở khắp mọi nơi kia mà. Tất cả những gì cô cần làm chỉ là vươn tay ra chạm vào nó. Cô sợ phải vươn tay ra sao?”

Yennefer không thể thốt lên lời nào từ cổ họng kẹt cứng.

“Quyền lực để thay đổi thế giới không có tên,” người phụ nữ nói, “Ấy vậy cô vẫn gọi nó là hỗn mang, nghệ thuật và khoa học? Một lời nguyền, ơn phước và sự tiến bộ? Nhưng lại không phải niềm tin? Tình yêu? Đức hy sinh?”

Cô có nghe thấy không? Con gà trống Kambi đang gáy. Những cơn sóng xô bờ, những cơn sóng đến từ Naglfar. Hemdall sẽ thổi hồi tù và trên cây cầu Bifrost trong khi đứng lên chống lại kẻ thù. Cái Lạnh Trắng đang đến, cơn bão tuyết đang đến…Mặt đất rung chuyển khi Con Rắn duỗi mình…

Con sói nuốt mặt trời. Mặt trăng chuyển màu đen. Chỉ còn cái lạnh và bóng tối. Căm hận, báo thù, và máu…

Cô sẽ chọn bên nào, Yennefer? Cô sẽ đứng về phía đông hay phía tây trên cây cầu Bifrost?

Cô sẽ sát cánh cùng Hemdall hay chống lại ngài ấy?

Con gà trống Kambi đang gáy.

Hãy lựa chọn đi, Yennefer. Lựa chọn đi. Sinh mạng của cô đã được trao trả chỉ vì điều này, để cô có thể lựa chọn đúng đắn khi thời điểm đến.

Ánh sáng hay bóng tối?

“Cái thiện và cái ác, ánh sáng và bóng tối, trật tự và hỗn mang? Đây chỉ là những biểu tượng, nhưng sự thật là chẳng có thái cực nào cả! Ánh sáng và bóng tối đều hiện hữu bên trong mỗi con người, một chút cái này và một chút cái kia. Cuộc trò chuyện này là vô nghĩa. Vô nghĩa. Tôi sẽ không cải đạo. Đối với người và Sigrdrifa, có thể là con sói nuốt mặt trời. Nhưng đối với tôi, nó chỉ là nhật thực. Và nó sẽ giữ nguyên như vậy.”

Cái gì giữ nguyên?

Cô cảm thấy đầu quay mòng, cảm thấy một lực khủng khiếp vặn tay, bẻ gãy bả vai và cùi chỏ, uốn cong xương sống như thể đang bị tra tấn. Cô hét lên đau đớn, giãy dụa, mở mắt ra. Không, đây không phải một giấc mơ. Đây không thể là một giấc mơ. Cô đang trên một ngọn cây, bị đóng đinh trên cành một cây gỗ tro khổng lồ. Tít cao trên đầu, một con diều hâu đang lượn, và dưới mặt đất trong bóng tối cô nghe thấy tiếng rít của rắn, tiếng vảy trên người chúng cọ xát vào nhau.

Thứ gì đó di chuyển bên cạnh cô. Một con sóc chạy qua bả vai đau ê ẩm.

“Giờ cô đã sẵn sàng chưa?” Con sóc hỏi. “Giờ cô đã sẵn sàng để hy sinh chưa? Cô sẵn sàng hy sinh cái gì?”

“Tôi không có gì cả!” cơn đau khiến cô mù lòa và tê liệt. “Và kể cả nếu có tôi cũng không tin vào sự hy sinh như này! Tôi không muốn phải chịu đau khổ cho cả triệu người! Tôi không muốn phải chịu đau khổ chút nào! Cho bất kỳ ai hay cái gì!”

“Không ai muốn chịu đau khổ cả. Nhưng đó là số phận của mỗi chúng ta. Và một số người còn phải chịu nhiều hơn. Không hoàn toàn là tự nguyện. Điều quan trọng không phải là chịu đựng đau khổ hay không. Mà là cách ta chịu đựng sự đau khổ.”

***

Janka! Janka yêu dấu!

Đem con quái vật lưng gù này đi cho khuất mắt tôi! Tôi không muốn nhìn thấy nó! Đây là con gái anh, cũng như con gái tôi.

Thật sao? Những đứa trẻ mà tôi đã tạo ra đều bình thường. Sao anh dám…sao anh dám ám chỉ rằng…

Trong gia tộc elves của cô có pháp sư. Cô đã bỏ đứa con đầu lòng của mình. Chính vì lẽ đó mà cô đã phải mang dòng máu và cái bụng bị nguyền rủa. Chính vì lẽ đó mà cô đã sinh ra quái vật.

Đứa trẻ đáng thương này…là ý nguyện của thần linh! Đây là con gái của anh, cũng như con gái tôi! Tôi nên làm gì đây? Siết cổ nó? Quấn dây rốn quanh đầu nó? Anh muốn gì từ tôi? Vào rừng và để nó lại đấy? Nhân danh thần linh, anh muốn cái gì từ tôi?

Cha! Mẹ!

Cút đi, đồ quái vật.

Sao anh dám? Sao anh dám đánh con bé? Dừng tay lại! Anh định đi đâu? Đi đâu? Đến chỗ cô ta chứ gì? Đến chỗ cô ta!

Đúng đấy, đồ đàn bà. Tôi là một người đàn ông, tôi có thể thỏa mãn ham muốn của mình ở đâu tùy thích, khi nào tùy thích. Đây là quyền của tôi. Và cô làm tôi muốn bệnh. Cô và hạt giống của cái bụng hủi lậu của cô. Đừng đợi bữa tối. Tối nay tôi không về đâu…

Mẹ…

Sao mẹ lại khóc?

Sao mẹ lại đánh con? Sao mẹ lại đuổi con đi? Con ngoan mà… Mẹ! Mẹ ơi!

“Cô có thể tha thứ không?” “Tôi đã tha thứ từ lâu rồi.”

“Chỉ sau khi đã trả thù thỏa đáng.” “Phải.”

“Cô có thấy hối hận không?” “Không.”

***

Cơn đau, cơn đau khủng khiếp gặm nhấm trên bàn tay và ngón tay cô.

“Đúng đấy, tôi có tội! Đó có phải là điều mà người muốn nghe không? Một lời thú nhận và hối cải? Người muốn nghe Yennefer thành Vengerberg ăn năn và khiêm nhường thế nào chứ gì? Không, tôi sẽ không cho người cái niềm vui đó. Tôi thú nhận tội lỗi của mình và chấp nhận hình phạt. Nhưng người sẽ không nghe thấy lời hối cải của tôi!”

Cơn đau chạm đến giới hạn mà một người có thể chịu đựng.

“Người đổ lỗi cho tôi vì sự phản bội, lừa gạt, lợi dụng, người đổ lỗi cho tôi vì những kẻ đã chết – vì tôi – bởi chính bàn tay họ, hay bàn tay tôi…vì đã từng một lần muốn kết liễu mạng sống của chính tôi? Tôi đã có lý do! Và tôi không thấy hối hận! Và kể cả nếu tôi có thể quay ngược thời gian…tôi cũng sẽ không hối hận.”

Con diều hâu đậu trên vai cô. Tháp Nhạn. Tháp Nhạn. Phải khẩn trương đến Tháp Nhạn. Con gái của ta.

Con gà trống Kambi cất tiếng gáy.

***

Ciri trên lưng một con ngựa đen, mái tóc xám tung bay vì phi nước đại. Máu tuôn ra từ mặt cô bé, đỏ thẫm, sáng ngời. Con ngựa đen lướt như chim bên dưới những thanh gỗ của mái vòm. Ciri lảo đảo trên yên ngựa, nhưng không ngã…

Ciri ở giữa đêm, giữa một nơi hoang vắng chỉ toàn đá và cát, cánh tay giơ lên, từ lòng bàn tay bắn ra một quả cầu ánh sáng…Một con kỳ lân, móng guốc cào xới cát sỏi…Rất nhiều kỳ lân…Lửa…Lửa…

Geralt trên một cây cầu. Giữa một trận đánh. Giữa một ngọn lửa. Ánh lửa phản chiếu trên lưỡi kiếm của anh.

Fringilla Vigo, đôi mắt xanh lục mở to đầy dục vọng, mái tóc đen cắt ngắn nằm bên trên một quyển sách để mở, trên trang bìa…có thể đọc thấy tựa đề: Chiêm nghiệm về Cái chết không thể tránh khỏi…

Đôi mắt Geralt phản chiếu trong mắt Fringilla.

Một khe vực. Khói. Một cầu thang dẫn xuống. Một cầu thang bắt buộc phải đi. Thứ gì đó kết thúc. Tedd Deireádh đang đến, Thời Đại Tận Cùng…

Bóng tối. Độ ẩm. Cái lạnh cắt da cắt thịt của bức tường đá. Cái lạnh của sắt trên cổ tay, cổ chân. Cơn đau âm ỉ trên bàn tay bị tra tấn, bắn xuống những ngón tay tím bầm…

Ciri cầm tay cô. Một dãy hành lang dài, tối, những cây cột đá, có vẻ như là tượng…Bóng tối. Một tiếng thì thầm như gió thoảng.

Những cánh cửa. Một dãy vô tận những cánh cửa khổng lồ mở ra trong im lặng phía trước họ. Và ở cuối, trong bóng đêm bất khả xâm phạm, một cánh cửa không tự mở. Không được phép mở.

Nếu con sợ, hãy quay lại.

Cánh cửa đó không được phép mở ra. Cô biết mà. Ta biết.

Nhưng cô vẫn dẫn con tới đây.

Nếu con sợ, hãy quay lại. Con vẫn còn thời gian. Chưa quá muộn đâu. Còn cô?

Với ta thì quá muộn rồi.

Con gà trống Kambi cất tiếng gáy. Tedd Deireádh đã đến.

Cực quang.

Bình minh.

***

“Yennefer. Dậy đi.”

Cô giật đầu ra sau. Cô nhìn xuống tay. Cả hai vẫn lành lặn. Ơn trời. “Sigrdrifa? Tôi đã ngủ gật…”

“Đi nào.”

“Đi đâu?” Cô thì thầm. “Lần này đi đâu?”

“Cái gì? Ta không hiểu. Cô phải tận mắt chứng kiến. Có chuyện đã xảy ra rồi…một chuyện kỳ lạ. Không ai trong chúng ta biết tại sao hay có thể lý giải được. Nhưng ta có thể đoán. Ơn phước…Cô có lẽ đã được nữ thần ban phước, Yennefer.”

“Người đang nói cái gì vậy, Sigrdrifa?” “Nhìn đi.”

Cô nhìn lên. Và há hốc mồm.

Brisingamen, viên kim cương thần thánh không còn nằm trên cổ Modron Freyja nữa. Nó đang nằm dưới chân bà.

***

“Ta nghe có đúng không?” Crach an Craite hỏi lại. “Cô sẽ thiết lập công xưởng ma thuật của mình trên Hindarsfjall? Các nữ tư tế đã đưa viên kim cương cho cô? Cô có thể dùng nó vào cái cỗ máy quái quỷ của mình?”

“Phải.”

“Chà, chà, Yennefer, cô đã cải đạo rồi sao? Chuyện gì đã xảy ra trên hòn đảo đó vậy?” “Không quan trọng. Tôi sẽ quay lại ngôi đền, chấm hết.”

“Và hỗ trợ tài chính mà cô đã yêu cầu? Chúng vẫn còn cần thiết chứ?” “Có lẽ vậy.”

“Quản gia Guthlaf sẽ thu xếp mọi thứ cho cô. Nhưng, Yennefer này, làm gì thì hãy làm nhanh lên. Ta vừa mới nhận được tin mới.”

“Chết tiệt, tôi đã lo sợ đến điều đó. Họ có biết tôi ở đâu không?”

“Không, họ chưa biết. Nhưng ta đã được cảnh báo rằng cô có thể sẽ xuất hiện trên Quần đảo Skellige và ta cần phải tống giam cô ngay lập tức nếu cô ló mặt. Ta cũng cần phải tra khảo các tù nhân chiến tranh, và moi bất cứ mẩu thông tin nào liên quan đến cô từ họ. Hay về vị trí hiện tại của cô ở Nilfgaard hoặc các tỉnh lân cận. Yennefer, khẩn trương lên. Nếu họ lần ra cô và đến Skellige này, ta sẽ gặp phải một tình thế khá khó xử đấy.”

“Tôi đang làm mọi thứ trong khả năng để khẩn trương đây. Và cũng để chắc là ngài không bị liên lụy. Đừng lo.”

Crach nhe răng ra. “Ta nói ‘khá khó xử’ thôi. Ta không sợ họ. Kể cả các vị vua hay đám pháp sư. Họ không thể hại ta, bởi vì họ cần ta. Và sự hỗ trợ mà ta cung cấp cho cô là xuất phát từ lời thề trung thành của ta. Phải, phải, cô nghe đúng đó. Chính thức thì ta vẫn là một chư hầu của vương triều Cintra. Cirilla có quyền thừa kế ngai vàng đó. Với vai trò đại diện của Cirilla, với vai trò người giám hộ duy nhất của con bé, cô có quyền yêu cầu ta tôn trọng lời thề và phụng sự.” “Lý sự cùn rất tinh tế.”

“Chắc rồi.” Ông cười. “Bản thân ta có lẽ cũng sẽ gọi nó như vậy, nếu hóa ra Emhyr var Emreis đã ép con bé cưới hắn. Hay kể cả nếu Ciri bị loại ra ngoài cuộc đua ngai vàng vì một mánh khóe chính trị hợp pháp nào đó và kẻ khác lên thay con bé, như cái tên đần Vissegerd đó chẳng hạn. Lúc đó ta sẽ ngay lập tức hủy bỏ lời thề trung thành của mình.”

“Thế nếu” – Yennefer nheo mắt – “hóa ra bất chấp mọi việc, Ciri đã chết rồi thì sao?” “Con bé còn sống,” Crach nói chắc nịch. “Ta biết là con bé còn sống.”

“Bằng cách nào?”

“Cô sẽ không tin ta đâu.” “Cứ thử đi.”

“Dòng máu của nữ hoàng Cintra,” Crach bắt đầu trầm ngâm, “có mối liên hệ lạ lùng với biển cả. Khi một người phụ nữ mang dòng máu này chết đi, biển sẽ nổi cơn thịnh nộ. Người ta nói rằng Ard Skellig khóc thương cho những người con gái của Riannon. Bởi những cơn bão sẽ nổi mạnh tới nỗi sóng đánh ở bờ tây thấm qua các vách đá cùng hang động của hòn đảo cho đến khi nước mặn đột nhiên chảy ra từ những khe nứt bên bờ đông. Và cả hòn đảo rung chuyển. Và người ta sẽ nói “Có thấy Ard Skellig khóc chưa. Lại có người đã chết. Dòng máu của Riannon đã chết. Dòng Máu Cổ Xưa.”

Yennefer im lặng.

“Đây không phải truyện cổ tích,” Crach tiếp tục. “Bản thân ta đã từng tận mắt chứng kiến rồi. Ba lần. Sau cái chết của Adalia Nhà Tiên Tri, sau cái chết của Calanthe…và sau cái chết của Pavetta, mẹ của Ciri.”

“Pavetta,” Yennefer phản bác, “đã bị giết trong một cơn bão, do vậy khó để mà nói rằng…” “Pavetta,” Crach ngắt lời, vẫn đang trầm ngâm, “đã không bị giết trong một cơn bão. Cơn

bão nổi lên sau cái chết của cô ấy. Biển cả, như thường lệ, đã phản ứng lại với cái chết của một người mang dòng máu Cintra. Ta đã nghiên cứu vấn đề này trong một khoảng thời gian đủ lâu rồi. Và ta chắc chắn.”

“Làm sao ngài có thể chắc chắn đến vậy?”

“Con tàu mang theo Pavetta và Duny đã biến mất gần Khe vực Sedna. Nó không phải là con tàu đầu tiên đã biến mất ở đó. Ta chắc là cô biết chuyện này.”

“Một câu truyện cổ tích. Tàu gặp tai nạn là một điều khá bình thường…”

“Trên Quần đảo Skellige,” ông sẵng giọng ngắt lời và tiếp tục, “chúng ta có kiến thức về tàu và đi biển đủ để phân biệt được giữa tai nạn bình thường và bất bình thường. Việc những con tàu bị đắm gần Khe vực Sedna chẳng có gì là bình thường hết. Và nó không phải ngẫu nhiên. Điều này cũng áp dụng với con tàu đã mang Duny và Pavetta.”

“Tôi không muốn tranh cãi,” nữ pháp sư thở dài. “Dù sao thì có quan trọng không? Sau gần 15 năm?”

“Nó quan trọng đối với ta.” Chúa đảo mím môi lại. “Ta sẽ làm sáng tỏ chuyện này. Đây chỉ là vấn đề thời gian thôi. Ta sẽ tìm ra…tìm ra một lời giải. Ta sẽ tìm được lời giải cho tất cả những bí ẩn này. Kể cả khoảng thời gian xảy ra trận thảm sát Cintra…”

“Bí ẩn gì thế?”

“Khi người Nilfgaard chiếm đánh Cintra,” ông lầm bầm trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ. “Calanthe đã ra lệnh bí mật sơ tán đứa trẻ khỏi thành phố. Cintra đang cháy, và lũ áo đen đã ở khắp nơi, cơ hội phá được vòng vây là vô cùng nhỏ. Nữ hoàng đã được khuyên nhủ về rủi ro. Các cố vấn của bà đã gợi ý rằng Ciri có thể đầu hàng trước các thủ lĩnh của quân đội Nilfgaard để tự cứu lấy mạng mình cùng dòng máu hoàng tộc của Cintra. Trên những con phố rực lửa, con bé sẽ cầm chắc cái chết trong tay quân lính. Nhưng Sư Tử Cái…cô có biết bà ấy đã nói gì không, dựa theo lời của các nhân chứng?”

“Không.”

“Thà rằng máu của con bé nhuộm đỏ đường phố Cintra còn hơn là để nó bị ô uế.” Làm thế nào mà nó bị ô uế được chứ?”

“Thông qua hôn nhân của nó với Hoàng đế Emhyr. Một tên Nilfgaard bẩn thỉu. Chúa đảo, đã khuya rồi. Tôi sẽ bắt đầu vào sáng sớm mai…Tôi sẽ cập nhật cho ngài tiến độ công việc.”

“Ta sẽ đợi. Chúc ngủ ngon, Yenna…Hmm…” “Cái gì, Crach?”

“Ta tự hỏi không biết cô có muốn, thì…hmm…”

“Không, Chúa đảo à. Quá khứ đã là quá khứ rồi. Chúc ngủ ngon.”

***

“Chà, chà,” Crach an Craite liếc nhìn vị khách, đầu nghiêng sang bên. “Triss Merigold bằng xương bằng thịt. Thật là một chiếc váy lộng lẫy. Và lớp lót…lông sóc phải không nhỉ? Ta sẽ hỏi điều gì đã đưa cô tới Skellige…nếu ta không biết. Nhưng ta đã biết rồi.”

“Rất tốt.” Triss mỉm cười quyến rũ, hất mái tóc nâu đỏ tuyệt đẹp ra sau. “Rất tốt là ngài đã biết, Chúa đảo. Điều đó tiết kiệm cho chúng ta thời gian tự giới thiệu và lời mở đầu, để có thể vào việc chính ngay lập tức.”

“Việc gì?” Crach gấp tay trước ngực và lườm nữ pháp sư. “Cô nghĩ chúng ta nên bắt đầu từ đâu đây? Cô đại diện cho ai hả Triss? Cô đang đứng đây nhân danh ai? Vua Foltest, người mà cô phụng sự, đã giải thoát cho cô khỏi lời thề bằng đày ải. Dù cho cô không có lỗi, ông ta vẫn đuổi cô ra khỏi Temeria. Ta nghe nói là Philippa Eilhart đã thu nhận cô. Philippa, người hiện giờ đang làm việc cùng Dijkstra và chính quyền tự xưng của Redania. Ta thấy là cô đang muốn đáp trả ơn huệ bằng toàn bộ khả năng của mình. Cô thậm chí còn không do dự đóng vai gián điệp truy lùng tung tích bạn cũ.”

“Ngài xúc phạm tôi, Chúa đảo.”

“Ta khiêm nhường cầu xin sự tha thứ. Nếu ta có nói sai. Ta có nói sai không?” Họ im lặng một lúc lâu, nhìn nhau với vẻ ngờ vực.

Cuối cùng, Triss khoát tay, nguyền rủa, và giậm chân. “Ôi, mẹ nó! Hãy đừng dắt mũi nhau nữa đi! Có quan trọng không giờ ai phụng sự ai, ai ở bên ai, và ai vẫn còn trung thành với ai vì lý do gì? Yennefer không còn sống nữa. Vẫn chưa rõ Ciri đang ở đâu và trong bàn tay ai…Úp úp mở mở bí mật để làm gì? Tôi không tới đây để làm gián điệp, Crach. Tôi tới đây theo ý muốn của bản thân, tự đại diện cho chính mình. Vì nỗi lo lắng cho Ciri.”

“Rất nhiều người đang lo lắng cho Ciri. Con bé quả thật là may mắn.” Mắt Triss sáng rực lên.

“Tôi sẽ không đem nó ra để đùa đâu. Đặc biệt là ở vào vị trí của ngài.” “Thứ lỗi cho ta.”

Họ lại chìm vào im lặng, nhìn ra ô cửa sổ bên ngoài nơi vầng mặt trời đỏ chói dần khuất sau mũi nhọn xanh mướt của Spikeroog.

“Triss Merigold.” “Vâng, Chúa đảo.”

“Ta muốn mời cô dùng bữa tối. À phải, đầu bếp muốn biết liệu có đúng là tất cả các nữ pháp sư đều ghét đồ biển không.”

***

Triss không ghét đồ biển. Trái lại, cô ăn nhiều gấp đôi lượng mà mình đã dự tính, và giờ bắt đầu thấy lo cho vòng eo của mình – vòng eo 22 phân mà cô rất tự hào đó. Cô quyết định đẩy nhanh quá trình tiêu hóa bằng rượu vang trắng, Est Est hảo hạng của Toussaint. Cô uống từ một cái sừng giống Crach.

“Vậy là Yennefer đã tới đây vào ngày 19 tháng Tám,” Triss tiếp tục câu chuyện, “bằng một cú rơi ngoạn mục từ trên trời xuống một cái lưới đánh cá. Ngài, một chư hầu trung thành của Cintra, đã cho cô ấy trú ẩn. Ngài đã giúp cô ấy dựng một megascope…Và, dĩ nhiên là ngài biết cô ấy đã liên lạc với những ai và về vấn đề gì.”

Crach an Craite nhấp một ngụm từ cái sừng và kìm lại một tiếng ợ. “Ta không biết.” Ông mỉm cười ranh mãnh. “Dĩ nhiên là ta không biết gì rồi. Làm sao mà ta, một thủy thủ tầm thường, lại hay biết gì về hành tung của một nữ pháp sư đầy quyền năng kia chứ?”

***

Sigrdrifa, nữ tư tế của Modron Freyja, cúi đầu thật thấp, như thể câu hỏi của Chúa đảo đã chất một gánh nặng ngàn cân lên lưng bà. “Cô ấy tin ta, Chúa đảo,” bà lầm bầm gần như không nghe nổi. “Cô ấy chưa yêu cầu ta giữ bí mật, nhưng rõ ràng là đã ngầm gợi ý. Ta thực sự không biết có nên…”

“Modron Sigrdrifa.” Crach an Craite nghiêm túc ngắt lời. “Điều ta hỏi không phải là phản bội gì cả. Cũng giống như người, ta ủng hộ Yennefer. Cũng giống như người, ta hy vọng rằng cô ấy sẽ tìm được và giải cứu Ciri. Ta đã thề Bloedgeas, một lời thề máu! Nhưng Yennefer khiến ta thấy lo lắng, và ta ở đây chỉ vì lo lắng cho cô ấy. Cô ấy là một người phụ nữ kiêu hãnh đến khác thường. Kể cả khi phải chấp nhận rủi ro vô cùng lớn, cô ấy cũng không hạ mình cầu xin hỗ trợ. Do vậy, có lẽ chúng ta nên tự đến giúp cô ấy thì hơn. Để làm được điều này, ta cần có thông tin.”

Sigrdrifa hắng giọng. Gương mặt bà lộ vẻ bất an. Và khi cất tiếng, giọng bà hơi run một xíu.

“Cô ấy đã thiết kế ra cỗ máy này…Thực ra thì nó cũng chẳng phải là máy, bởi vì chẳng có bộ phận máy móc nào cả, chỉ mỗi hai cái gương, một tấm rèm nhung đen, một cái hộp, hai thấu kính, bốn cây đèn, và đương nhiên là Brisingamen…Khi cô ấy đọc thần chú, hai cây đèn sáng lên và…”

“Hãy bỏ qua chi tiết đi. Cô ấy đã liên lạc với những ai?”

“Cô ấy đã nói chuyện với nhiều người. Các pháp sư…Chúa đảo, ta không nghe được nhiều lắm, nhưng từ những gì mà ta nghe được…không có nhiều người đáng tin cậy trong số họ. Không ai muốn giúp không công…họ đều đòi tiền…tất cả đều đòi tiền…”

“Ta biết,” Crach lầm bầm. “Ta đã xem qua những khoản chuyển nhượng cô ấy đã thực hiện từ tài khoản ngân hàng của mình. Một nhúm, ôi, một đống tiền đẹp đẽ mà lời thề này của ta đã tiêu tốn! Nhưng tiền đến và đi. Những gì đã tiêu xài cho Yennefer và Ciri, ta sẽ lấy lại từ các tỉnh của Nilfgaard. Nhưng cứ nói tiếp đi, Mẹ Sigrdrifa.”

“Một số,” – nữ tư tế cúi đầu – “Yennefer có thể đe dọa dễ dàng. Cô ấy ám chỉ rằng mình sở hữu thông tin có thể gây hại đến họ và nếu họ từ chối hợp tác, cô ấy sẽ tiết lộ cho cả thế giới… Chúa đảo…Cô ấy là một người phụ nữ khôn ngoan và tốt bụng…Nhưng không hề do dự chút nào. Cô ấy tàn nhẫn. Và vô tình.”

“Ta biết rất rõ. Tuy vậy, ta không muốn biết chi tiết về những vụ tống tiền, và ta khuyên người cũng nên quên chúng đi. Đây là kiến thức rất nguy hiểm. Người ngoài thì không nên đùa với lửa.”

“Ta biết, Chúa đảo…Và ta nghĩ kết quả của ngài biện minh cho hành động của ngài. Sẽ không ai biết được gì từ ta. Kể cả một người bạn trong một cuộc trò chuyện thân tình, hay kẻ thù trong lúc tra tấn.”

“Tốt, Modron Sigrdrifa. Rất tốt…Những gì đã được bàn bạc trong buổi nói chuyện, người có nhớ không?”

“Ta không luôn luôn nghe trộm hay hiểu được tất cả, Chúa đảo. Họ dùng thứ ngôn ngữ rất khó hiểu…Họ thường hay nhắc đến một người tên Vilgefortz…”

“Đương nhiên rồi.” Crach nghiến răng trèo trẹo. Nữ tư tế hốt hoảng nhìn ông.

“Họ cũng bàn luận nhiều về elves và Những Người Nắm Giữ Tri Thức.” bà nói. “Và cổng dịch chuyển ma thuật. Và một lần nhắc đến Khe vực Sedna…Nhưng trên cả, ta nghĩ nó là về hai tòa tháp.”

“Tháp?”

“Phải. Hai tòa tháp. Tháp Hải Âu và Tháp Nhạn.”

***

“Đúng như tôi nghi ngờ,” Triss nói. “  Yennefer đã tìm thấy bản báo cáo bí mật của Ủy   ban Radcliffe mà chịu trách nhiệm điều tra sự cố trên Thanedd. Tôi không biết tin tức gì về sự kiện đó đã tới được Skellige này…Ngài đã nghe về cổng dịch chuyển trên Tháp Hải Âu chưa? Và Ủy ban Radcliffe?”

Crach an Craite nhìn nữ pháp sư với vẻ nghi ngờ. “Trên đảo này,” – giọng ông nghe chua chát – “chẳng có chính trị hay văn hóa nào lọt đến cả. Chúng ta bị cô lập khỏi bên ngoài.”

Triss không màng đến gương mặt hay giọng điệu của ông. “Ủy ban Radcliffe đã khám nghiệm kỹ càng các dấu vết dịch chuyển dẫn ra khỏi Thanedd. Cổng dịch chuyển Tor Lara, khi vẫn còn tồn tại, đã vô hiệu hóa mọi phép dịch chuyển trong một bán kính rộng đáng kể. Nhưng như ngài chắc hẳn đã biết, Tháp Hải Âu đã nổ tung và bốc hơi, khiến cho việc dịch chuyển là khả thi. Đa số những người liên quan đến sự kiện trên Thanedd đã rời khỏi hòn đảo thông qua con đường này.”

“Quả thực như vậy.” Chúa đảo mỉm cười. “Ví như chuyến bay của cô thẳng tới Brokilon chẳng hạn. Cùng với một witcher trên lưng.”

“Đấy nhé.” Triss nhìn vào mắt ông. “Chẳng có chính trị hay văn hóa nào lọt đến đây, nhưng tin đồn thì khác. Hãy cứ tạm gác lại chuyện đó đã. Giờ chúng ta quay lại công việc của Ủy ban Radcliffe. Mục đích của Ủy ban là xác định một cách chuẩn xác những người đã dịch chuyển khỏi Thanedd và dịch chuyển đến đâu. Họ đã dùng đến các phép tổng hợp – những câu thần chú có khả năng phản chiếu lại hình ảnh của sự kiện trong quá khứ – để phát hiện ra các dấu vết dịch chuyển và đối chiếu chúng với đích đến, nhờ đó nhận dạng được cá nhân đã mở cổng dịch chuyển đó. Họ đã thành công với hầu hết các trường hợp. Ngoại trừ một. Một dấu vết dịch chuyển chẳng dẫn đến đâu cả. Hay chính xác hơn thì, dẫn ra biển. Tới Khe vực Sedna.”

“Có người,” Chúa đảo nhận ra tức thì, “đã dịch chuyển tới một con tàu đang chờ tại một địa điểm định trước. Kỳ lạ là họ phải đi một quãng đường xa như vậy…và tới một nơi như vậy. Chà, nếu dí dao vào cổ thì…”

“Chính xác. Ủy ban cũng nghĩ thế. Và đã đi đến kết luận như sau: Vilgefortz đã bắt cóc Ciri, nhưng không có đường thoát, nên phải dùng tới phương án phòng bị – hắn đã dịch chuyển cùng đứa trẻ tới Khe vực Sedna, tới một con tàu Nilfgaard đang đợi sẵn. Kết luận của Ủy ban dựa trên sự thật rằng Ciri đã có mặt tại triều đình hoàng gia ở Loc Grim vào ngày mùng 10 tháng Bảy, chỉ 10 ngày sau sự kiện trên Thanedd.”

“Chà.” Đôi mắt Chúa đảo nheo lại. “Điều đó giải thích được khá nhiều chuyện. Dĩ nhiên là nếu Ủy ban không sai.”

“Dĩ nhiên.” Nữ pháp sư cũng nhìn ông, thậm chí còn cười gượng. “Ở Loc Grim có thể chỉ là một kẻ đóng thế, không phải Ciri thật. Điều đó cũng lý giải được nhiều chuyện. Nó sẽ lý giải được một sự thật khác mà Ủy ban Radcliffe đã điều tra ra. Một sự thật khó hiểu đến mức thậm chí còn không được nhắc đến trong phiên bản đầu tiên của báo cáo, bởi bị coi là bất khả thi. Tuy nhiên, nó lại nằm trong phiên bản thứ hai, một phiên bản bí mật hơn. Như là một giả thiết.”

“Ta vẫn đang nghe đây, Triss.”

“Giả thiết của Ủy ban là:  cánh cổng dịch chuyển trên Tháp Hải Âu đã hoạt động. Có   người đã bước qua nó, và năng lượng phát tán ra từ chuyến du hành này lớn tới nỗi làm nó nổ tung và bị phá hủy.”

“Yennefer,” Triss tiếp tục sau một quãng im lặng ngắn, “chắc hẳn đã đoán được những gì mà Ủy ban Radcliffe tìm thấy. Những gì đã được giữ gìn cẩn thận trong bản báo cáo bí mật. Có một cơ hội…một phần trăm cơ hội…rằng Ciri chính là người đã bước qua cánh cổng trên Tor Lara. Rằng con bé đã thoát khỏi vòng tay của Nilfgaard và Vilgefortz…”

“Vậy thì con bé đang ở đâu?” “Tôi cũng muốn biết điều đó.”

***

Bên ngoài tối như mực. Những đám mây cụm lại để che giấu mặt trăng đằng sau, không cho tí ánh sáng nào lọt xuống dưới. Tuy nhiên, nếu so với buổi tối hôm qua thì tối nay gần như không có tí gió nào và do vậy không lạnh lắm. Con thuyền nhỏ lắc lư trên những gợn sóng. Nó bốc mùi như bùn. Và thực vật thối rữa. Và tro.

Đâu đó trên bờ, một con hải ly quật đuôi xuống nước, khiến cả hai giật mình. Ciri chắc chắn là Vysogota ngủ gật và con hải ly đã làm ông thức dậy.

“Kể tiếp cho tôi nghe đi,” cô bé nói, chùi mũi lên phần tay áo còn sạch. “Đừng ngủ. Nếu ông ngủ và tôi cũng ngủ thì chúng ta sẽ bị dòng nước cuốn đi và tỉnh dậy giữa biển mất! Kể tôi nghe về cái cổng dịch chuyển này đi!”

“Khi bỏ chạy khỏi Thanedd,” ẩn sĩ già tiếp tục, “cô đã bước qua cánh cổng trên Tor Lara, Tháp Hải Âu. Tuy nhiên, Geoffrey Monck – người có chuyên môn cao nhất về lĩnh vực dịch chuyển và tác giả của một cuốn sách mang tựa đề Phép thuật của Giống Loài Cổ Xưa, mà là thành tựu lớn nhất về tri thức liên quan đến các phép dịch chuyển của người elves – đã nói rằng cánh cổng trên Tor Lara dẫn tới Tor Zireael, Tháp Nhạn…”

“Cánh cổng trên Thanedd đã bị hỏng,” Ciri ngắt lời. “Có thể trước khi hỏng thì nó đã dẫn đến một tòa tháp khác. Nhưng giờ thì nó dẫn đến sa mạc. Nó gọi là một cánh cổng hỗn mang. Tôi đã nghiên cứu vấn đề này rồi.”

“Thật thế sao, ta cũng vậy,” ông già khịt mũi. “Và ta vẫn còn nhớ nhiều. Đó là lý do vì sao ta thấy thắc mắc về câu chuyện của cô…ít ra thì về vài phần trong đó. Đặc biệt là cánh cổng…”

“Ông có thể nói rõ ràng hơn không?”

“Ta có thể không ư, Ciri? Ta có thể. Nhưng giờ đã đến lúc vét lưới rồi. Chắc hẳn có lươn trong đó. Sẵn sàng chưa?”

“Sẵn sàng.” Ciri khạc vào lòng bàn tay và nắm lấy cây móc. Vysogota kéo sợi dây lên từ nước.

“Kéo nào. Dô…ta! Và lên thuyền. Bắt chúng, Ciri, nhanh lên! Bỏ vào giỏ, không chúng chạy đi mất!”

***

Đây là đêm thứ hai họ đã mò ra nhánh sông lầy lội để giăng lưới bắt lũ lươn đang di cư ra biển thành từng đàn. Họ quay về căn chòi sau nửa đêm, ướt sũng, mệt mỏi, và bám đầy bùn từ đầu đến chân.

Nhưng dù vậy họ vẫn chưa đi ngủ. Mẻ lưới dùng để trao đổi, phải được đóng hộp và niêm phong đàng hoàng – nếu lũ lươn tìm được một khe nứt dù là nhỏ nhất, sẽ chẳng còn lại con nào vào sáng hôm sau hết cả. Khi cuối cùng xong việc, Vysogota lôi ra hai hoặc ba con lươn béo nhất từ giỏ, xắt miếng, nhào với bột và rán bằng một cái chảo to. Rồi họ ăn và ngồi nói chuyện.

“Cô biết không, Ciri, vẫn có điều khiến ta trằn trọc cả đêm. Ta vẫn chưa quên những gì chúng ta đã tranh luận đâu, ngay sau khi cô hồi phục. Về ngày tháng và vết thương trên má cô mà khiến cả những quyển lịch chính xác nhất cũng phải bối rối. Vết thương này không thể quá 10 tiếng đồng hồ, nhưng cô cứ khăng khăng là đã bốn ngày trôi qua kể từ khi cô bị thương. Mặc dù ta dám chắc đây chỉ là một nhầm lẫn thông thường, ta vẫn không ngừng suy nghĩ về nó. Vậy nên ta tự đặt câu hỏi: Bốn ngày đó đã đi đâu mất?”

“Và? Chúng đã đi đâu, theo ý kiến của ông?” “Ta không biết.”

“Tuyệt vời, vậy…”

Con mèo cắt ngang câu nói của cô bằng cách vồ trúng một con chuột nhỏ đang chút chít. Con mèo điềm nhiên cắn cổ nó, moi ruột ra và bắt đầu đánh chén ngon lành. Ciri nhìn lạnh nhạt.

“Cánh cổng trên Tháp Hải Âu,” Vysogota tiếp tục, “dẫn tới Tháp Nhạn. Tháp Nhạn, nhưng…”

Con mèo đã ăn xong con chuột, để cái đuôi lại làm món tráng miệng.

“Cánh cổng trên Tor Lara,” Ciri vừa nói vừa ngáp dài, “đã bị hỏng và dẫn tới sa mạc. Tôi đã nói với ông cả trăm lần rồi.”

“Trong lúc này điều đó không quan trọng. Có một kết nối giữa hai cánh cổng. Cánh cổng trên Tor Lara đã bị hỏng. Nhưng còn một cánh cổng khác trên Tor Zireael. Nếu tới được Tháp Nhạn, cô có thể dịch chuyển quay về đảo Thanedd. Cô sẽ cách xa mối nguy hiểm đang đe dọa mình, xa khỏi vòng tay của kẻ thù…”

“Ha! Hay lắm. Chỉ có một vấn đề nhỏ. Tôi không biết cái tòa Tháp Nhạn này nằm ở đâu.” “Ta có thể có khắc phục được điều đó. Ciri, cô có biết một người có bằng đại học nhờ vào cái gì không?”

“Không. Cái gì?”

“Khả năng sử dụng tài nguyên.”

***

“Ta biết mà,” Vysogota thốt lên đầy tự hào, “Ta tìm thấy rồi. Ta đã tìm và tìm…Ôi, khỉ thật…”

Chồng sách nặng ịch trượt khỏi những ngón tay ông và rơi lả tả xuống sàn. Những trang giấy bung khỏi kẹp và bay tứ tung.

“Ông đã tìm được gì rồi?” Ciri quỳ xuống bên cạnh và giúp ông già thu thập những mảnh giấy.

“Tháp Nhạn!” Tay ẩn sĩ xua đi con mèo đang ngồi chễm chệ trên một trang. “Tor Zireael.

Giúp ta nào.”

“Nó bụi quá! Và dính nữa! Vysogota? Cái gì đây? Đây, trong bức tranh này? Một người đàn ông treo trên cành?”

“Cái đó hả?” Vysogota ngước lên. “Một khung cảnh trong truyền thuyết về Hemdall. Vị anh hùng Hemdall treo mình lên cành của Cây Thế Giới trong 9 ngày và 9 đêm để có được kiến thức cùng sức mạnh thông qua sự hy sinh và đau khổ.”

Ciri xoa trán. “Tôi đã từng mơ thấy nó vài lần rồi. Một người đàn ông treo trên cây…” “Dòng chữ đã rơi khỏi bìa sách. Nếu muốn, cô có thể đọc thêm sau. Nhưng điều quan trọng nhất bây giờ là…cuối cùng, ta đã tìm thấy nó. Trên những Con đường và Địa danh Phép thuật của Buyvid Backhuysen, một cuốn sách khá nổi vì tính xác thực bị nghi ngờ…” “Ý ông là nó nhảm nhí hả?”

“Đại loại thế. Nhưng vẫn luôn có những người biết cách trân trọng một quyển sách…Vậy nên nghe này…Chết tiệt, ở đây tối quá…”

“Nó đủ sáng rồi, chẳng qua mắt ông cận vì già thôi,” Ciri nói với sự vô tư tàn nhẫn của tuổi trẻ. “Đưa nó cho tôi, tôi sẽ tự đọc. Tôi nên bắt đầu từ đâu đây?”

“Đây,” ông chỉ bằng ngón tay xương xẩu. “Đọc to lên.”

***

“Cái tay Buyvid này viết khó hiểu thật. Assengard chắc là một địa danh nào đó nếu tôi không nhầm. Nhưng cái vùng nông thôn này: Centloch? Tôi chưa từng nghe đến bao giờ. Và trifolium là cái gì?”

“Cỏ ba lá. Và ta sẽ kể cho cô nghe thêm về vùng Trăm Hồ và Assengard sau khi đã đọc xong.”

***

“Và ngay sau khi người elves Avallac’h nói những lời này, một con chim đen vụt lên khỏi mặt nước, thức dậy sau khi trải qua suốt mùa đông giá lạnh bên dưới hồ. Con chim nhạn, như các học giả đều biết, không bay về phương nam tránh rét và trở lại vào mùa xuân giống những loài chim khác, mà thu mình lại và chìm xuống đáy hồ để ngủ đông, và khi xuân tới sẽ trồi lên khỏi mặt nước. Bởi vì điều này, chim nhạn không chỉ là biểu tượng của mùa xuân và hy vọng, mà còn là minh chứng cho sự thuần khiết, bởi nó không bao giờ đậu dưới đất và để bản thân mình bị lấm bẩn.

Nhưng hãy quay trở lại cái hồ: có thể nói đôi cánh bé nhỏ của con chim đã xua tan sương mù và kỳ diệu thay, một tòa tháp tráng lệ bất ngờ hiện ra. Tất cả chúng tôi đều trầm trồ, bởi vì tòa tháp này, với nền móng như được dệt từ làn sương, được đội một vòng ánh sáng lấp lánh trên đầu, như một dải cực quang ma thuật. Do vậy, tòa tháp chắc hẳn phải được xây nên nhờ phép thuật hùng mạnh, bởi nó vượt xa sự hiểu biết của con người.

Người elves Avallac’h nhận thấy vẻ ngưỡng mộ của chúng tôi và nói: “Đó là Tor Zireael, Tháp Nhạn. Nơi đây là Ngã rẽ của Thế giới và Cánh cổng Thời gian. Hãy vui mừng, mọi người, rằng đôi mắt các vị đã được chứng kiến cảnh tượng này, bởi không phải ai cũng thấy được và không phải lúc nào cũng được thấy.”

Tuy nhiên, khi được hỏi nếu chúng tôi có thể tiếp cận và chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của tòa tháp ở gần, Avallac’h đã cười. “Tor Zireael,” người elves nói, “chỉ là một giấc mơ đối với các vị, và các vị không thể chạm vào một giấc mơ. Và nó nên như vậy,” anh ta thêm vào, “bởi tòa tháp chỉ phụng sự vài người được chọn, bởi Cánh cổng Thời gian là con đường dẫn đến hy vọng và tái sinh. Nhưng với những kẻ tầm thường, nó là cánh cửa dẫn đến những cơn ác mộng.” Anh ta vừa mới dứt lời thì màn sương lại bao phủ và giấu đi khỏi con mắt chúng tôi cảnh tượng nhiệm màu đó…”

***

“Vùng Trăm Hồ, từng được gọi là Centloch” Vysogota nói, “giờ mang tên Mil Trachta. Nó là một khu vực đầm lầy rộng bị cắt xẻ bởi sông Yelena trên vùng phía bắc Metinna, gần biên giới Nazair và Mag Turga. Buyvid Backhuysen viết rằng họ đã du hành từ Assengard về phía nam tới vùng hồ…Ngày hôm nay Assengard không còn nữa, chỉ là một đống tàn tích và thành phố gần nó nhất là Neureuth. Buyvid đã đếm được 16 dặm từ Assengard. Rất nhiều đơn vị đo lường đã được sử dụng vào thời đó, nhưng nếu chúng ta dùng cái phổ biến nhất, có thể suy ra được 16 dặm của họ rơi vào khoảng 50 dặm của chúng ta. Vị trí hiện tại của chúng ta là Pereplut, cách khoảng 350 dặm về phía nam của Assengard. Nói theo cách khác, Ciri, cô chỉ cách Tháp Nhạn khoảng 300 dặm đường, cộng trừ đi một ít. Trên lưng Kelpie của cô sẽ chỉ mất 6 tuần để tới nơi. Khi mùa xuân đến, dĩ nhiên rồi. Không phải bây giờ, vì sắp sửa có bão tuyết trong một hai ngày tới.”

“Assengard, từ những gì tôi đã đọc,” Ciri lầm bầm, nhăn mũi suy ngẫm, “giờ chỉ còn là một đống tàn tích. Và tôi đã tận mắt chứng kiến tàn tích của thành phố elves Shaerrawedd ở Kaedwen rồi. Tôi đã ở đó. Người ta đã cướp bóc và lấy đi mọi thứ, chỉ để lại những phiến đá trơ trọi. Tôi cược rằng chỉ còn những phiến đá xây móng của cái tòa Tháp Nhạn này là còn lại thôi, và đấy còn là những viên to đấy nhé – những viên nhỏ chắc chắn cũng bị lấy trộm hết rồi. Nếu có một cánh cổng ở đó…”

“Tor Zireael là một tòa tháp ma thuật. Nó không hiện ra cho tất cả mọi người cùng xem. Và cổng dịch chuyển không bao giờ có thể được nhìn bằng mắt thường.”

“Đúng vậy,” cô bé thừa nhận, và lại trầm ngâm. “Cánh cổng trên Thanedd cũng vô hình. Nó bất chợt hiện ra trên một bức tường…ngẫu nhiên thay, vào đúng thời điểm, bởi vì tên pháp sư đuổi theo tôi đang tới gần…tôi có thể nghe thấy hắn…và rồi, như thể được ra lệnh, cánh cổng xuất hiện.”

“Ta chắc chắn,” Vysogota khẽ nói, “rằng nếu cô tới Tor Zireael, cánh cổng ở đó cũng sẽ hiện ra cho cô. Kể cả nếu chỉ còn là một đống tàn tích, xung quanh là những phiến đá trơ trọi, ta dám chắc là cô có thể tìm ra và kích hoạt được nó. Và nó sẽ tuân lệnh cô, ta dám chắc như vậy. Bởi vì Ciri à, ta nghĩ cô chính là người được chọn.”

***

“Tóc cô đỏ như ánh nến vậy Triss. Và mắt cô xanh như ngọc lưu ly. Và môi cô…” “Thôi đi, Crach. Ngài say rồi à hay sao? Rót thêm cho tôi ít rượu vang đi. Và nói.” “Nói cái gì?”

“Đừng giả ngốc! Về thế nào mà Yennefer bỗng dưng quyết định dong buồm tới Khe vực Sedna.”

***

“Tiến độ công việc của cô tới đâu rồi? Nói đi, Yennefer.”

“Đầu tiên ngài phải trả lời cho tôi một câu hỏi: hai người phụ nữ mà luôn có mặt ở đây mỗi khi tôi tới gặp ngài là ai? Và luôn nhìn tôi bằng ánh mắt mà ta thường dùng để nhìn một cục cứt mèo nằm trên ghế sôfa vậy? Họ là ai?”

“Cô muốn biết chức danh chính thức của họ hay sự thật?” “Sự thật.”

“Nếu thế thì họ là vợ ta.”

“Tôi hiểu. Có lẽ ngài nên giải thích cho họ, khi có cơ hội, rằng quá khứ đã là quá khứ rồi.” “Ta đã giải thích. Nhưng phụ nữ là phụ nữ. Bỏ qua đi. Nói xem nào, Yennefer. Ta rất hứng

thú với tiến độ công việc của cô.”

Nữ pháp sư cắn môi. “Thật không may, tiến độ rất chậm. Và thời gian thì đang cạn dần.” “Nó đang cạn dần.” Ông gật đầu. “Và luôn mang đến tin tức sốt dẻo. Ta đã nhận được thông

báo từ đất liền mà sẽ khiến cô thấy thú vị. Nó tới từ quân đoàn của Vissegerd. Ta hy vọng cô biết

Vissegerd là ai chứ?”

“Một vị tướng từ Cintra?”

“Một nguyên soái. Ông ta chỉ huy một phần của quân đội Temeria bao gồm những người Cintra tị nạn và quân tình nguyện. Có đủ người tình nguyện tới từ đảo phục vụ trong quân đoàn để chuyển cho ta thông điệp này.”

“Và nó là gì?”

“Cô đã tới Skellige vào ngày 19 tháng Tám, hai ngày sau trăng tròn. Vào cùng ngày hôm đó, tức ngày 19, quân đoàn của Vissegerd, đang trong chiến sự tại sông Ina, đã bắt được một nhóm người tị nạn, trong số đó là Geralt và một nhà thơ quen biết anh ta…”

“Dandelion?”

“Chính xác. Vissegerd đã buộc tội cả hai là gián điệp, tống giam họ và dự định đem đi xử tử, nhưng hai tù nhân đã tẩu thoát và cử quân Nilfgaard – mà Vissegerd đã buộc tội họ đang thông đồng – tới đánh ông ta.”

“Nhảm nhí.”

“Ta cũng nghĩ vậy. Nhưng ta có cảm giác rằng witcher, trái với suy nghĩ của cô, có lẽ cũng đang theo đuổi một kế hoạch xảo quyệt nào đó. Để giải thoát Ciri, anh ta đang tìm cách lấy lòng bọn Nilfgaard…”

“Ciri không ở Nilfgaard. Và Geralt không có theo đuổi kế hoạch nào cả. Mưu mẹo không phải là sở trường của anh ấy. Thôi bỏ đi. Điều quan trọng là đã sang ngày 26 tháng Chín và tôi vẫn biết quá ít. Không đủ để làm gì đó…Trừ khi…”

Cô dừng giữa câu, nhìn ra ngoài cửa sổ và tay mân mê dải băng nhung đen gắn một ngôi sao kim cương trên cổ.

“Trừ khi?”

“Thay vì cười nhạo Geralt, tôi có thể thử dùng phương pháp của anh ấy.” “Ta không hiểu.”

“Tôi có thể hy sinh bản thân mình. Hy sinh sẽ có hiệu quả, phải, nó cho thấy lòng can đảm…Và xứng đáng với ơn phước của nữ thần. Bà ấy thích và yêu mến những kẻ sẵn sàng hy sinh và cam chịu để đạt được mục đích.”

Ông nhăn mặt. “Ta vẫn không hiểu. Nhưng ta không thích những gì cô đang nói, Yennefer.” “Tôi biết. Tôi cũng vậy. Nhưng tôi đã đi quá xa rồi…có lẽ con sư tử đã nghe thấy tiếng be be của con cừu…”

***

“Tôi đã sợ điều đó,” Triss thì thầm. “Đó chính xác là những gì tôi đã sợ.”

“Vậy lúc đó ta đã hiểu đúng.” Hàm của Crach an Craite bắt đầu đanh lại. “Yennefer biết có kẻ đã nghe lén những cuộc trò chuyện của cô ấy qua cái cỗ máy quái quỷ đó. Hoặc một trong số những đầu mối lên lạc bên kia đã phản bội cô ấy…”

“Hoặc cả hai.”

“Cô ấy biết.” Crach nghiến răng. “Nhưng vẫn tiếp tục hoàn thành nốt những gì mình đã bắt đầu. Có thể cô ấy cần một bù nhìn? Sử dụng bản thân mình làm mồi nhử? Phải chăng cô ấy đã vờ như biết nhiều hơn để khiêu khích kẻ thù? Và thế là cô ấy dong buồm đến Khe vực Sedna…”

“Như một lời thách thức. Như một lời khiêu khích. Cô ấy đã liều lĩnh khủng khiếp, Crach.” “Ta biết. Cô ấy không muốn bất kỳ ai phải chịu rủi ro…chỉ những người tình nguyện. Vậy

nên cô ấy hỏi xin hai con tàu…”

***

“Ta đã chuẩn bị hai con tàu cô yêu cầu. Alcyone Tamara. Và thủy thủ đoàn. Tàu Alcyone sẽ được chỉ huy bởi Guthlaf, con trai của Sven, bởi vì ông ấy đã yêu cầu vinh dự đó. Cô chắc hẳn đã gây ấn tượng với ông ấy.”

“Chỉ huy của tàu Tamara sẽ là Asa Thjazi, một thuyền trưởng mà ta hoàn toàn tin tưởng. Ôi, và suýt thì ta quên mất. Con trai ta cũng sẽ tham gia vào thủy thủ đoàn của tàu Tamara, Hjalmar–Sứt Môi.”

“Con trai ngài? Cậu ta bao nhiêu tuổi rồi?” “19.”

“Ngài bắt đầu sớm đó.”

“Nhìn xem ai đang nói kìa. Hjalmar có lý do cá nhân để yêu cầu được tham gia vào thủy thủ đoàn. Ta không thể khước từ nó.”

“Lý do cá nhân?”

“Cô thực sự không biết câu chuyện sao?” “Không. Kể tôi nghe đi.”

Crach an Craite uống nốt cốc rượu và mỉm cười, hồi tưởng lại.

“Những đứa trẻ của Ard Skellig,” ông bắt đầu, “rất thích trượt băng vào mùa đông, chúng gần như không đợi nổi khi đợt tuyết đầu tiên rơi xuống. Chúng luôn là những người đầu tiên chạy chơi trên những hồ nước chỉ vừa kịp đông lại, mỏng tới nỗi không thể đỡ nổi một người trưởng thành. Dĩ nhiên, những cuộc đua là tuyệt nhất. Chạy và trượt như không có ngày mai, từ đầu này đến đầu kia. Tuy nhiên, bọn con trai cũng tổ chức những cuộc thi có tên “Cú nhảy cá hồi”. Ý tưởng là nhảy qua những tảng đá hồ trồi lên khỏi mặt nước như răng cá mập. Như một con cá hồi khi nó nhảy ngược dòng một con thác. Cô tìm một hàng đá dài, và xuất phát, và…Ha, ta cũng nhảy loanh quanh hồi còn là một thằng oắt con mũi thò lò…”

Crach an Craite trở nên trầm tư và mỉm cười.

“Dĩ nhiên,” ông tiếp tục, “đứa nào nhảy qua được dãy đá dài nhất thắng và được quyền vênh váo như một con công đực. Vào thời của ta, vinh dự đó luôn thuộc về kẻ tôi tớ hèn mọn và đang ngồi tiếp chuyện cô đây. Trong khoảng thời gian mà chúng ta đang quan tâm đến, con trai ta, Hjalmar, là đương kim vô địch. Nó nhảy qua những dãy đá mà không đứa con trai nào dám nhảy. Và điều này dẫn đến cái mũi được vểnh lên cao hơn mỗi lần – nó thách thức bất kỳ ai có thể đánh bại được nó. Và lời thách thức của nó đã được đáp trả. Bởi Ciri, con gái của Pavetta đến từ Cintra. Con bé thậm chí còn không phải một người dân đảo, mặc dù nó được chấp nhận vì dành nhiều thời gian ở đây hơn ở Cintra.”

“Kể cả sau cái chết của Pavetta ư? Tôi tưởng Calanthe đã cấm con bé ở đây?”

“Cô biết cả chuyện đó nữa à?” Ông bắn sang cô một cái liếc mắt. “Vậy thì cô biết nhiều đấy, Yennefer. Khá nhiều. Cơn giận và sự cấm đoán của Calanthe kéo dài không quá 6 tháng, và rồi Ciri lại lần nữa bắt đầu dành mùa hè và mùa đông ở đây…và trượt băng. Con bé nhanh như quỷ, nhưng để có thể ganh đua với tụi con trai trong trò “Cú nhảy cá hồi” ư? Và thách thức cả Hjalmar? Không thể tin được!”

“Con bé đã nhảy được,” nữ pháp sư đoán.

“Phải. Đứa trẻ Cintra nhỏ xíu này có thể nhảy như quỷ. Một sư tử con đích thực đến từ dòng máu của sư tử cái. Và Hjalmar, để tránh bị trêu chọc, phải liều lĩnh nhảy qua một hàng đá xếp dài hơn. Nó đã liều. Và bị gãy tay, chân, bốn xương sườn, và dập mặt. Vết sẹo sẽ còn lại với nó cho đến hết đời. Hjalmar–Sứt Môi! Và vị hôn thê nổi tiếng! Hehe!”

“Hôn thê?”

“Cô không biết cả chuyện đó nữa? Sao cô có thể biết quá nhiều về một thứ mà lại chẳng biết gì về thứ khác? Con bé đã tới thăm nó, trong khi đang nằm dưỡng thương sau cú nhảy trứ danh. Con bé đọc cho nó nghe, nói chuyện với nó, cầm tay nó…và nếu có người bước vào phòng, mặt cả hai đứa sẽ đỏ lựng như củ cải. Chà, cuối cùng thì Hjalmar nói với ta là chúng nó đã đính hôn. Ta gần như lên cơn đau tim. Ta đã bảo với thằng nhãi là mình sẽ tổ chức hôn lễ cho nó, bằng một cây roi quật bò! Và ta cũng thấy hơi lo lắng bởi biết rằng Sư Tử Con cũng khá nóng máu, liều lĩnh, đấy là chưa kể còn hơi khùng một chút…May thay, Hjalmar phải nằm liệt giường một thời gian, thế nên chúng không thể bỏ chạy cùng nhau hay làm gì đó ngu ngốc…”

“Lúc đó chúng bao nhiêu tuổi?” “Thằng bé mới 15, còn con bé gần 12.” “Nỗi sợ của ngài có lẽ là hơi thừa.”

“Có lẽ. Nhưng Calanthe, người mà ta phải kể hết mọi chuyện cho nghe, lại không xem nhẹ vấn đề cho lắm. Ta biết là bà ấy có ý định gả Ciri cho hoàng tử Tankred Thyssen của Kovir, hoặc cho hoàng tử Redania, Radovid, ta không biết chính xác lắm. Nhưng tin đồn có thể gây hại đến kế hoạch hôn nhân, thậm chí cả những tin đồn về một nụ hôn ngây thơ hay nửa ngây thơ… Calanthe ngay lập tức đem Ciri về Cintra. Con bé khóc lóc ầm ĩ và la hét om sòm, nhưng chẳng được ích gì. Sư Tử Cái của Cintra đã giậm chân xuống. Trong hai ngày kế tiếp, Hjalmar nằm úp mặt vào tường và không trả lời ai cả. Một khi đã bình phục, thằng nhóc đã cố đánh cắp một con thuyền và dong buồm tới Cintra một mình. Ta phải làm nó bình tĩnh lại bằng sợi thắt lưng. Nhưng lúc đó…”

Crach an Craite ngừng suy ngẫm.

“Lúc đó là tới mùa hè, rồi mùa thu, và chỉ ít lâu sau sức mạnh của Nilfgaard quét xuống Cintra, tràn qua Thung lũng Marnadal, tràn qua bức tường phía nam. Hjalmar đã tìm thấy một cơ hội khác để trở thành đàn ông. Nó đã dũng cảm đứng chống lại bọn áo đen ở Marnadal, rồi ở Cintra, và rồi ở Sodden. Thậm chí kể cả sau đó, khi những con tàu dong buồm tới bờ biển Nilfgaard, Hjalmar vẫn cầm một thanh kiếm trong tay, chiến đấu cho vị hôn thê suýt có của mình, người mà nó tưởng đã chết vào lúc đó. Ta thì không nghĩ vậy, nhờ vào hiện tượng mà ta đã kể với cô lúc trước…Chà, giờ khi Hjalmar biết được về một cuộc giải cứu, nó đã tình nguyện.”

“Cảm ơn vì câu chuyện, Crach. Tôi cảm giác như được hồi sinh sau khi nghe nó. Nó khiến tôi quên đi…ưu phiền.”

“Khi nào thì cô khởi hành, Yennefer?”

“Vài ngày tới. Thậm chí có thể là ngày mai. Tôi còn một lần liên lạc cuối phải làm.”

***

Ánh mắt Crach an Craite như diều hâu. Nó đục sâu vào bên trong cô…

“Tình cờ, Triss Merigold, liệu cô có biết ai là người đã liên lạc cuối cùng với Yennefer trước khi cô ấy dỡ bỏ cái cỗ máy quái quỷ đó không? Vào đêm giữa ngày 27 và 28 tháng Tám? Ai? Và vì cái gì?”

Triss khép mi lại để trốn khỏi ánh mắt của ông.

***

Dải ánh sáng bị phân tán bởi viên kim cương và chiếu lên bề mặt của chiếc gương. Yennefer duỗi cả hai tay ra và bắt đầu thực hiện một câu thần chú. Ánh sáng chói lọi dần chuyển thành một bức màn sương và hình ảnh sớm xuất hiện. Hình ảnh một căn phòng với những bức tường treo thảm trang trí sặc sỡ.

Một chuyển động trong khung cửa. Một giọng nói lo lắng. “Ai? Ai đó?”

“Tôi đây, Triss.”

“Yennefer! Là chị đấy à? Thần linh ơi! Sao mà…chị đang ở đâu?”

“Không quan trọng tôi đang ở đâu. Đừng chặn, bởi vì hình ảnh đang chập chờn. Và cất ngọn nến đó đi, chói mắt quá.”

“Phải. Dĩ nhiên rồi.”

Mặc dù đã muộn, Triss Merigold không hề mặc đồ lót hay quần áo làm việc. Cô mặc một bộ váy đêm. Như mọi khi, cổ cao và kín đáo.

“Chúng ta có thể nói chuyện thoải mái được không?” “Dĩ nhiên rồi.”

“Cô đang ở một mình à?” “Phải.”

“Cô nói dối.” “Yennefer…”

“Cô đang lừa tôi, oắt con. Tôi biết vẻ mặt cô, tôi biết cô quá rõ rồi. Nó cũng chính là vẻ mặt khi cô bắt đầu ngủ với Geralt sau lưng tôi. Hồi đó cô cũng đeo một cái mặt nạ ngây thơ, đàng điếm giống y như cái tôi đang nhìn bây giờ. Và nó cũng có ý nghĩa y hệt như lúc trước!”

Mặt Triss đỏ lựng. Philippa Eilhart hiện ra trong khung ảnh bên cạnh cô, mặc một chiếc áo chẽn nam xanh đậm thêu chỉ bạc.

“Hoan hô,” cô ta nói. “Như mọi khi, rất nhanh trí. Như mọi khi, rất tinh tường. Như mọi khi, rất khó hiểu. Tôi mừng khi thấy cô vẫn còn mạnh khỏe, Yennefer. Tôi vui là màn dịch chuyển điên khùng của cô khỏi Montecalvo đã không kết thúc trong bi kịch.”

“Hãy giả sử là chị thật sự vui mừng.” Yennefer xưng xỉa. “Mặc dù đó là một giả định rất táo bạo. Nhưng không quan trọng, ai đã phản bội tôi?”

Philippa nhún vai. “Có quan trọng không? Trong 4 ngày vừa qua cô đã liên lạc với những tên tội đồ. Với những kẻ mà xảo trá và bội phản là bản năng thứ hai. Và với những kẻ phản bội cô đã ép buộc để phản bội kẻ khác. Một trong số chúng đã phản bội cô. Chuyện thường thôi mà. Đừng nói với tôi là cô không ngờ đấy nhé.”

“Dĩ nhiên là tôi đã trông đợi như thế rồi,” Yennefer đốp lại. “Bằng chứng rõ nhất đó là tôi đã liên lạc với chị. Tôi không cần phải làm thế.”

“Cô không cần. Điều này có nghĩa cô có mục đích riêng.”

“Hoan hô. Như mọi khi, rất nhanh trí. Như mọi khi, rất tinh tường. Tôi đã liên lạc với chị để đảm bảo rằng bí mật về Hội của chị an toàn cùng tôi. Tôi sẽ không mách lẻo với ai cả.”

Philippa lườm cô từ dưới hàng mi dài. “Nếu cô tin rằng,” cuối cùng cô ta lên tiếng, “mình đã có được sự bình yên, thời gian, hay an toàn bằng tuyên bố này, thì cô đã tính sai rồi. Đừng nhầm lẫn về nó, Yennefer. Khi chạy khỏi Montecalvo, cô đã lựa chọn. Cô đã chọn đứng ở phía bên kia chiến hào. Những kẻ không đứng cùng Hội Pháp Sư thì tức là chống lại Hội Pháp Sư. Giờ thì cô đang cố chạy đua với chúng tôi tới chỗ Ciri, và động cơ thúc đẩy cô là hoàn toàn trái ngược so với chúng tôi. Cô đã hành động chống lại chúng tôi. Cô không muốn chúng tôi sử dụng Ciri cho mục đích chính trị. Vậy nên hãy biết rằng chúng tôi cũng sẽ làm mọi thứ trong khả năng của mình để đảm bảo cô không thể sử dụng con bé cho mục đích tình cảm.”

“Vậy là chiến tranh hả?”

“Thi đấu.” Philippa cười tàn độc. “Thi đấu thôi, Yennefer.” “Tử tế và công bằng?”

“Cô chắc đang đùa.”

“Rõ ràng rồi. Tuy nhiên tôi vẫn muốn có một cuộc trò chuyện trung thực về một vấn đề cụ thể. Và ngẫu nhiên thay, nó liên quan đến một ân huệ cho tôi.”

“Nói đi.”

“Trong vài ngày tới, thậm chí có thể là ngày mai, nhiều sự kiện sẽ diễn ra mà hậu quả tôi không thể lường trước được. Đột nhiên cuộc tranh đấu và thù địch giữa chúng ta có thể không còn ý nghĩa nữa. Bởi lý do đơn giản là một đấu thủ sẽ không còn tham gia được.”

Philippa Eilhart nheo đôi mắt xanh lam. “Tôi hiểu.”

“Vậy hãy đảm bảo rằng tôi sẽ có lại được tiếng tăm và thanh danh của mình sau khi chết. Tôi sẽ không còn bị coi là một kẻ phản bội hay đồng phạm của Vilgefortz nữa. Tôi yêu cầu điều này ở Hội. Tôi yêu cầu điều này ở chị.”

Philippa im lặng trong giây lát.

“Tôi từ chối yêu cầu của cô.” Cuối cùng cô ta trả lời. “Tôi xin lỗi, nhưng việc minh oan cho cô không nằm trong lợi ích của Hội. Nếu cô chết, cô sẽ chết như một kẻ phản bội. Cô sẽ là một tội đồ trong mắt Ciri, bởi vì như thế sẽ dễ dàng hơn để thao túng con bé.”

“Trước khi chị làm gì nguy hiểm,” Triss chợt nói, “hãy để lại thứ gì đó cho chúng tôi…” “Một di chúc?”

“Thứ gì đó sẽ giúp chúng tôi…tiếp tục tìm kiếm Ciri. Bởi vì chúng tôi quan tâm chủ yếu đến mạng sống của con bé! Yennefer, Dijkstra đã tìm thấy dấu vết của…vài hoạt động. Nếu Vilgefortz thực sự có Ciri trong tay, con bé sẽ phải đối mặt với một cái chết thê thảm.”

“Trật tự đi, Triss,” Philippa Eilhart rít lên. “Chúng ta không trao đổi hay mặc cả.”

“Tôi sẽ để thông tin lại cho các cô.” Yennefer nói chậm rãi. “Tôi sẽ để lại thông tin về những gì mình đã tìm hiểu và dự định. Tôi sẽ để lại dấu vết cho các cô lần theo. Nhưng không phải không công. Nếu không minh oan cho tôi trước con mắt của thế giới, thì các cô cứ việc xuống địa ngục cùng với cả cái thế giới này. Nhưng ít nhất hãy để cái tên của tôi trong sạch trong mắt witcher.”

“Không,” Philippa từ chối gần như tức thì. “Điều đó cũng không nằm trong lợi ích của Hội. Cô cũng sẽ chết như một kẻ phản bội và nhơ bẩn trong con mắt witcher. Việc anh ta điên cuồng trả thù cho cô không nằm trong lợi ích của chúng tôi. Nếu anh ta căm ghét cô, anh ta sẽ không cố báo thù cho cô. Vả lại, anh ta có lẽ đã chết rồi, hoặc sẽ chết bất kỳ ngày nào thôi.”

“Thông tin,” Yennefer nói lạnh lùng, “đổi lấy mạng sống của anh ấy. Hãy cứu anh ấy, Philippa.”

“Không, Yennefer.”

“Bởi vì nó không nằm trong lợi ích của Hội.” Một ngọn lửa tím rực lên trong mắt nữ pháp sư. “Cô đã nghe thấy chưa Triss? Đó, Hội của cô đó. Cô đã thấy bản chất thật của họ chưa, mục đích thật sự của họ chưa. Và cô nghĩ sao về chúng? Cô đã là người dạy dỗ đứa trẻ, gần như là – như chính cô nói đó – một người chị gái. Và Geralt…”

“Đừng công kích Triss bằng tình cảm, Yennefer.” Philippa trả đũa bằng ngọn lửa trong mắt cô ta. “Chúng tôi sẽ tìm và giải cứu đứa trẻ mà không cần cô giúp. Và nếu cô thành công, cũng chẳng sao, ngàn lời cảm ơn vì đã giúp chúng tôi khỏi phải nhọc công. Cô cướp con bé khỏi vòng tay của Vilgefortz và chúng tôi sẽ cướp con bé khỏi vòng tay cô. Còn Geralt? Geralt là ai?”

“Cô đã nghe thấy chưa, Triss?”

“Hãy tha thứ cho tôi,” Triss Merigold nói thẫn thờ. “Hãy tha thứ cho tôi, Yennefer.” “Ôi không đâu, Triss. Không bao giờ.”

***

Triss nhìn xuống đất. Ánh mắt của Crach an Craite như diều hâu.

“Cái ngày sau cuộc liên lạc bí ẩn này,” Chúa đảo Skellige nói chậm rãi, “mà cô, Triss Merigold, không biết gì về hết, dĩ nhiên rồi, Yennefer đã rời khỏi hòn đảo, dong buồm tới Khe vực Sedna. Khi ta hỏi vì sao cô ấy lại tới đó, cô ấy đã nhìn vào mắt ta và nói rằng phải kiểm tra xem tai nạn xảy ra ở đó có khác gì so với bình thường không. Cô ấy khởi hành cùng hai con tàu, Tamara Alcyone, và một thủy thủ đoàn bao gồm toàn bộ tình nguyện viên. Đó là ngày 28 tháng Tám, hai tuần trước. Ta đã không gặp lại cô ấy kể từ đó.”

“Khi nào thì ngài nghe tin…”

“Năm ngày sau,” ông ngắt lời. “Ba ngày sau trăng non tháng Chín.”

***

Thuyền trưởng Asa Thjazi có vẻ lo lắng, ngồi trước mặt Chúa đảo. Ông liếm môi và trở mình trên băng ghế, ngón tay bóp kêu răng rắc.

Vầng mặt trời đỏ mà cuối cùng đã hiện ra từ đám mây treo thấp trên bầu trời dần chìm xuống sau Spikeroog. “Nói đi, Asa.” Crach an Craite ra lệnh.

Asa Thjazi hắng giọng thật to. “Chúng tôi đi rất nhanh,” ông báo cáo, “những cơn gió thực sự thuận lợi và chúng tôi di chuyển với tốc độ gần 12 hải lý. Vào buổi tối ngày 29, chúng tôi trông thấy ánh sáng từ ngọn hải đăng Peixe de Mar. Chúng tôi đã vòng một chút sang phía tây, để tránh đụng phải bọn Nilfgaard…Và khi bình minh ló dạng vào ngày trước trăng non tháng Chín, chúng tôi đã tới vùng biển có tên Khe vực Sedna. Nữ pháp sư cho gọi Guthlaf và tôi…”

***

“Tôi cần những người tình nguyện,” Yennefer nói. “Chỉ những người tình nguyện. Không hơn số cần thiết để vận hành một con tàu trong một khoảng thời gian ngắn. Tôi không biết việc này cần bao nhiêu người, tôi không quen với nó. Nhưng tôi yêu cầu không quá một người hơn số hoàn toàn cần thiết trên tàu Alcyone. Và tôi nhắc lại – chỉ những người tình nguyện. Những gì tôi định làm là rất…liều lĩnh. Liều lĩnh hơn cả một trận thủy chiến.”

“Tôi hiểu,” vị quản gia gật đầu. “Và tôi xung phong đầu tiên. Tôi, Guthlaf, con trai của Sven, hỏi xin vinh dự này, thưa quý cô.”

Yennefer nhìn vào mắt ông thật lâu. “Tốt,” cô nói, “Nhưng tôi mới là người cảm thấy vinh dự.”

***

“Tôi cũng đã tình nguyện,” Asa Thjazi nói. “Nhưng Guthlaf không cho phép. Ông ấy nói có

người cần phải ở lại và chỉ huy tàu Tamara. Cuối cùng, 15 người được chọn. Bao gồm cả Hjalmar, Chúa đảo.”

Crach an Craite nhướng một bên lông mày.

***

“Chúng ta cần bao nhiêu, Guthlaf?” Nữ pháp sư nhắc lại. “Bao nhiêu người là đủ? Làm ơn hãy tính toán thật chính xác.”

Ngài quản gia im lặng trong một lúc lâu, nhẩm tính.

“Chúng ta có thể dùng 8 người,” ông nói. “Chỉ nếu trong một khoảng thời gian ngắn… Nhưng chúng ta có nhiều tình nguyện viên ở đây, vậy nên không cần phải…”

“Chọn ra 8 người trong số 15 này,” cô ngắt lời ông. “Tự ông hãy làm. Và bảo họ lên tàu Alcyone. Những người còn lại sẽ ở trên tàu Tamara. Ồ phải, tôi sẽ chọn những người ở lại. Hjalmar!”

“Không, quý cô! Cô không thể làm như vậy với tôi! Tôi tình nguyện và sẽ đứng bên cạnh cô! Tôi muốn…”

“Im đi! Cậu sẽ ở lại tàu Tamara! Đó là lệnh! Thêm một từ nữa và tôi sẽ trói cậu vào cột buồm!”

***

“Tiếp tục đi, Asa.”

“Nữ pháp sư, Guthlaf, và 8 người tình nguyện đó lên tàu Alcyone và tới Khe vực. Chúng tôi ở lại tàu Tamara như được lệnh, nhưng khoảng cách cũng không lớn lắm. Tuy vậy, thời tiết mà lúc trước còn thuận lợi, đột nhiên trở nên quỷ quyệt. Phải, quỷ quyệt là từ đúng cho nó, bởi vì hẳn phải có một thế lực tàn ác đã nhúng tay vào, Chúa đảo…ngài có thể phạt tôi nếu nói dối…”

“Tiếp đi.”

“Nơi tàu Tamara đậu, thời tiết vẫn còn yên ắng. Dù cơn gió đã bắt đầu nghịch ngợm và mây đen kéo đến che phủ bầu trời cho đến khi ban ngày trông gần giống ban đêm. Nhưng nơi tàu Alcyone đang đi, địa ngục nổ ra. Địa ngục đích thực…”

***

Những mái buồm của Alcyone đột nhiên đập mãnh liệt tới nỗi có thể nghe được từ Tamara, bất chấp khoảng cách giữa hai con tàu. Bầu trời đen ngòm và những đám mây co cụm vào nhau. Biển cả, mà hoàn toàn tĩnh lặng gần Tamara, sùi bọt và xô từng cơn lên mạn tàu Alcyone. Đột nhiên có người hét lên, rồi ai đó làm theo, và ngay lập tức tất cả mọi người cùng hét.

Bên dưới một đám mây đen hình chóp nhọn, tàu Alcyone nhảy múa giữa những cơn sóng như cái nút chai – xoay tròn, lắc lư, bay lên, chìm xuống biển bằng mũi tàu, đôi lúc là đuôi tàu. Có khoảnh khắc mà chiếc chiến hạm gần như biến mất khỏi tầm nhìn. Có những khoảnh khắc mà thứ duy nhất trông thấy là những mái buồm kẻ sọc.

“Đó là ma thuật!” Có người la lên từ sau lưng Asa. “Đó là ma thuật của quỷ dữ!”

Cơn lốc xoáy cuốn tàu Alcyone xoay nhanh hơn và nhanh hơn. Những tấm khiên treo bên mạn bị xé toạc bởi lực ly tâm và vút qua không khí như dĩa bay, bắn về hai bên của cái bánh lái vỡ tan tành.

“Căng buồm lên,” Asa Thjazi hét. “Chúng ta sẽ di chuyển! Chúng ta phải giúp họ!” Nhưng đã quá muộn.

Bầu trời đen ngòm bên trên Alcyone đột nhiên nổ tung với những tia sét răng cưa lởm chởm, quấn lấy con tàu như xúc tu bạch tuộc. Hình dạng phi thường của những đám mây tụ lại chuyển thành một cái đường hầm khiếp đảm. Con tàu chiến xoay tròn với tốc độ chóng mặt. Cột buồm gãy rời như que diêm và mái buồm tả tơi lơ lửng trên những con sóng như một con hải âu khổng lồ.

“Chèo đi, các anh em!”

Ông gần như không nghe nổi tiếng rống của mình bên trên tiếng gầm của tự nhiên, nhưng họ đều nghe thấy tiếng hét của những người ở trên tàu Alcyone. Nó là một tiếng hét kinh hãi tới nỗi khiến họ dựng tóc gáy. Họ…những thủy thủ dạn dày và những chiến binh khát máu đã từng trải quá nhiều.

Họ đánh rơi mái chèo, ý thức được sự bất lực của mình. Họ choáng váng, họ thậm chí còn ngừng la hét.

Vẫn đang quay mòng, con tàu Alcyone chầm chậm bay lên khỏi những cơn sóng. Nó bay cao hơn và cao hơn. Họ trông thấy sống tàu ngậm nước, bám đầy hàu và rong biển. Rồi họ trông thấy một bóng hình đen đúa rơi xuống. Rồi một cái thứ hai. Rồi một cái thứ ba.

“Họ đang nhảy xuống,” Asa Thjazi hét lên. “Chèo đi, anh em, đừng buông tay! Hãy chèo như không có ngày mai! Chúng ta sẽ đến giải cứu!”

Tàu Alcyone đã đang lơ lửng một trăm thước phía trên biển, nơi mặt nước sủi bọt như bị đun sôi. Nó vẫn quay mòng – một con quay khổng lồ rỏ nước, bao phủ trong những tia sét chĩa ba và bị kéo lên bởi một lực vô hình vào những đám mây đang co cụm.

Đột nhiên, một tiếng nổ điếc tai xé tan không khí. Và dù cho được đẩy đi bởi 15 cặp mái chèo, tàu Tamara bỗng dưng nhảy lên và ném ra sau như thể bị đập bởi một chiếc búa công thành. Asa Thjazi cảm thấy boong tàu trượt đi dưới chân. Ông ngã, trán đập vào lan can.

Ông thậm chí không thể đứng dậy, và phải được nhấc lên. Ông choáng váng, quay lại và lắc đầu, lầm bầm không rõ. Ông nghe thấy tiếng thủy thủ đoàn từ xa. Ông lảo đảo ra phía mạn, lắc lư như say rượu, và bám lấy thành tàu.

Cơn gió đã dịu xuống và những ngọn sóng trở lại yên bình. Nhưng bầu trời vẫn còn đầy những đám mây đen ngòm tích tụ.

Không còn lại dấu vết nào của tàu Alcyone nữa.

***

“Không còn lại một dấu vết nào cả, Chúa đảo. Chà, còn tí dây thừng, vài mảnh gỗ…nhưng không gì hơn.”

Asa Thjazi ngừng nói giữa câu và nhìn ánh mặt trời đang lặn đằng sau Spikeroog. Crach an Craite, lạc trong suy nghĩ, không giục ông tiếp tục.

“Chúng tôi không biết,” cuối cùng Asa Thjazi tiếp tục, “có bao nhiêu người đã nhảy xuống khỏi Alcyone trước khi con tàu bị hút vào đám mây quái quỷ đó. Nhưng mặc cho bao nhiêu người đã nhảy, không còn ai sống sót. Và dù chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian và công sức tìm kiếm, chỉ có hai cái xác được thu hồi. Hai cái xác nổi trên mặt nước. Chỉ có hai.”

“Nữ pháp sư,” Chúa đảo đổi giọng, “không nằm trong số đó?” “Không.”

Crach an Craite im lặng trong một khoảng thời gian dài. Mặt trời biến mất đằng sau Spikeroog.

“Guthlaf già, con trai của Sven, đã mất tích,” Asa Thjazi tiếp tục. “Khả năng lớn là những con cua dưới đáy Khe vực Sedna đã gặm đến xương ông ấy rồi…Nữ pháp sư cũng biến mất nốt…Chúa đảo, người ta đã đang bắt đầu bàn tán…Rằng tất cả chuyện này là do lỗi của cô ấy. Rằng đây là hình phạt dành cho tội ác của cô ấy…”

“Nhảm nhí!”

“Cô ấy đã biến mất,” Asa lầm bầm, “tại Khe vực Sedna. Cùng nơi với Pavetta và Duny… Thật là một sự trùng hợp…”

“Chẳng có sự trùng hợp nào cả.” Crach an Craite nói chắc nịch. “Cả lần trước lẫn lần này đều không phải trùng hợp.”

Những kẻ bất hạnh phải chịu khổ là quy luật của thế giới. Nỗi đau và sự tủi hổ của họ xuất phát từ nhu cầu của tự nhiên, cần có người chịu đau khổ và kẻ gây ra đau khổ. Sự thật này chắc hẳn đã áp đảo mọi suy nghĩ ăn năn trong tâm hồn của những tên bạo chúa hay kẻ gian ác. Hắn không cần phải kiềm chế, hắn phải táo bạo thực hiện tất cả những gì sinh ra trong trí tưởng tượng của mình, bởi chính tiếng nói của tự nhiên đã gợi ý chúng cho hắn.

Chính tự nhiên là nguồn cảm hứng dẫn dắt chúng ta đến cái ác, do vậy cái ác ắt là một phần tất yếu của tự nhiên.

  • Donatien Alphonse Francois de Sade.

About The Author

Ngo David

Power is Power