The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn

The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 11

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


“Ta có thể cho ngươi mọi thứ ngươi muốn”, bà tiên nói. “Của cải, vương miện và quyền trượng, danh tiếng, một cuộc đời hạnh phúc dài lâu. Chọn đi.”

“Tôi không muốn của cải hay danh tiếng, vương miện hay quyền trượng,” nữ witcher trả lời. “Tôi ước một con ngựa đen và nhanh như ngọn gió đêm. Tôi ước một thanh kiếm sắc và sáng như ánh trăng rằm. Tôi muốn bước qua thế giới trên con ngựa đen trong đêm thâu, tôi muốn đánh bại sức mạnh của Cái Ác bằng thanh kiếm sáng. Đó là tất cả những gì tôi khao khát.”

“Ta sẽ cho ngươi một con ngựa đen hơn màn đêm và nhanh hơn ngọn gió,” bà tiên hứa. “Ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, sắc và sáng hơn ánh trăng rằm. Nhưng ngươi đòi hỏi ở ta rất nhiều, nữ witcher, và cái giá phải trả sẽ là rất lớn.”

“Bằng cái gì? Bởi tôi không có gì cả.” “Bằng máu của ngươi.”

Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.

Hai cô học trò đứng bất động trước mặt nữ tư tế tối cao, lưng thẳng, im lìm và hơi tái một chút. Họ đã sẵn sàng lên đường, mọi thứ đều đã được chuẩn bị chu đáo. Trang phục đàn ông xám màu, những chiếc áo khoác ấm nhưng không quá chật, những đôi ủng thoải mái của elves. Tóc họ được cắt ngắn hoặc búi lại để không vướng víu khi làm việc và có thể dễ dàng hành quân. Chiếc túi nhỏ đeo bên người chỉ gói toàn đồ ăn và vật dụng cần thiết cho chuyến hành trình. Quân đội khắc cung cấp mọi thứ khác. Quân đội mà họ đã tình nguyện tham gia.

Gương mặt của hai cô gái bình thản. Hoặc có vẻ như vậy. Triss Merigold để ý thấy hai đôi bàn tay và môi khẽ run.

Gió thổi qua những nhành cây trơ trọi trong khu vườn của Đền thờ. Lá úa xào xạc trong sân.

Bầu trời mang một màu chàm. Sắp sửa có tuyết rơi. Có thể ngửi thấy được trong không khí.

Nenneke phá vỡ sự im lặng. “Các con đã được phân công cả chưa?”

“Con vẫn chưa,” Eurneid lầm bầm. “Hiện tại thì con sẽ phải trú đông trong một doanh trại gần Vizima. Ngài ủy viên tuyên truyền có nói rằng các đơn vị lính đánh thuê tới từ phía bắc sẽ đóng quân ở đó cho đến mùa xuân…Con sẽ được phân công làm trợ lý bác sĩ cho các đơn vị này.”

“Nhưng con,” – Iola đệ Nhị mỉm cười – “đã được phân công rồi. Tới ngài bác sĩ phẫu thuật Milo Vanderbeck.”

“Ta tin rằng các con sẽ không khiến ta phải xấu hổ,” Nenneke nhìn cả hai bằng ánh mắt nghiêm nghị, trầm tư. “Ta, Đền thờ, hay Melitele Vĩ Đại.”

“Chắc chắn là không rồi, thưa Mẹ.” “Và phải đảm bảo ngủ đủ giấc.” “Vâng, thưa Mẹ.”

“Các con sẽ bị vắt kiệt sức để cứu chữa những người bị thương, chẳng có thời gian để mà ngủ. Các con sẽ cảm thấy không thể chịu đựng sự đau đớn và cái chết nữa. Và rồi các con sẽ tìm cách xoa dịu nó bằng thuốc phiện hay chất kích thích. Hãy cẩn thận.”

“Chúng con biết, thưa Mẹ.”

“Chiến tranh, nỗi sợ, giết chóc, và máu” – Nữ tư tế tối cao nhìn xoáy cả hai người họ – “là những nguyên nhân làm suy đồi đạo đức, và tệ hơn, là thứ thuốc kích thích mạnh mẽ cho một số người. Nó sẽ tác động đến các con thế nào, hiện giờ các con không thể biết được, lũ nhãi ranh à. Làm ơn hãy nói với ta rằng các con sẽ cẩn thận đi. Và nếu có lỡ xảy ra chuyện gì thì hãy biết dùng biện pháp phòng tránh. Dù sao đi nữa, nếu một trong hai đứa gặp rắc rối, thì tránh xa mấy mụ lang băm và thầy thuốc trong làng ra! Tìm đến một đền thờ, hay tốt nhất là tìm một nữ pháp sư.”

“Chúng con biết, thưa Mẹ.”

“Được rồi. Giờ là lúc ban phước cho các con.”

Lần lượt từng người, bà đặt tay lên đầu, ôm và hôn họ. Eurneid sụt sịt. Iola đệ Nhị bắt đầu ấp úng. Mặc dù mắt hơi nhoèn nước hơn bình thường một chút, Nenneke vẫn khịt mũi. “Nào nào, không đóng kịch ở đây.” Bà nói cứng. “Các con đi ra chiến trường. Và các con sẽ quay về. Mang hành lý đi, và tạm biệt.”

“Tạm biệt, thưa Mẹ.”

Họ rời đền thờ một cách từ tốn, không ngoảnh lại. Họ dõi theo bóng hình của hai cô gái – nữ tư tế tối cao Nenneke, nữ pháp sư Triss Merigold, và Jarre.

Người cuối cùng ho một tiếng đầy ẩn ý. “Cái gì?” Nenneke liếc cậu.

“Mẹ đã cho họ đi!” chàng thanh niên lầm bầm cay đắng. “Mẹ đã cho phép họ nhập ngũ! Còn con! Sao con lại không thể? Con nên tiếp tục ngồi lật những trang sách mốc meo bên trong những bức tường này ư? Con không què quặt cũng chẳng hèn nhát! Thật sỉ nhục khi con phải ở lại, trong khi thậm chí các cô gái…”

“Các cô gái đó,” nữ tư tế tối cao ngắt lời, “đã dành cả tuổi trẻ của mình để nghiên cứu cách chữa bệnh và cứu giúp những kẻ đau ốm. Họ không ra trận vì lòng yêu nước hay máu phiêu lưu, mà bởi vì sẽ có hàng vạn kẻ đau ốm cần được chữa trị. Một núi công việc, cả ngày lẫn đêm! Eurneid và Iola, Myrrhe, Katye, Prune, Deborah, và những người khác là cống hiến của Đền thờ cho cuộc chiến. Đền thờ, là một phần của xã hội này, phải cống hiến cho nó. Đền thờ cung cấp những chuyên gia được đào tạo cẩn thận cho quân đội. Con có hiểu không, Jarre? Chuyên gia! Không phải thú vật để đem đi tàn sát!”

“Mọi người đều nhập ngũ! Chỉ có lũ hèn mới ở nhà!”

“Cậu đang nói những thứ rác rưởi gì vậy, Jarre.” Triss sẵng giọng. “Cậu chẳng hiểu gì hết cả.”

“Tôi muốn ra trận…” giọng cậu vỡ òa. “Tôi muốn…cứu Ciri…”

“Cho ta xin đi.” Nenneke mỉa mai. “Chàng hiệp sĩ muốn đến giải cứu người đẹp của mình.

Trên lưng con bạch mã…”

Họ im lặng dưới ánh mắt của nữ pháp sư.

“Và giờ thì ta đã nhịn đủ rồi, Jarre,” cái nhìn của bà gần như bẻ gãy chàng trai. “Ta đã bảo rồi, ta sẽ không chấp nhận! Quay lại mấy quyển sách đi! Học. Tương lai của con là khoa học. Đi nào, Triss. Đừng phí thời gian nữa.”

***

Một tấm vải bạt được trải trước ban thờ. Đặt trên đó là một cái lược làm bằng xương, một cái nhẫn bé xíu rẻ tiền, một cái bìa sách tả tơi và một dải khăn xanh đã phai màu. Iola đệ Nhất, một nữ tư tế với khả năng thấu thị, nghiêng người bên trên những món đồ.

“Không cần phải vội, Iola,” Nenneke cảnh báo, đứng ngay cạnh cô. “Hãy tập trung một cách từ tốn. Chúng ta không muốn một lời tiên tri, hay một câu đố với một ngàn lời giải. Chúng ta chỉ muốn một khung cảnh. Một khung cảnh rõ nét. Hãy cảm nhận hào quang của những món đồ này, chúng đã được nghe giọng Ciri, được chạm bởi bàn tay Ciri. Hãy cảm nhận hào quang của chúng. Thật từ tốn. Không việc gì phải vội.”

Gió hú bên ngoài và tuyết rơi thành cụm. Mái nhà cùng sân vườn của ngôi đền nhanh chóng bị tuyết bao phủ. Đó là ngày 19 tháng Mười Một. Trăng tròn.

“Con đã sẵn sàng, thưa Mẹ.” Iola đệ Nhất lên tiếng bằng chất giọng du dương. “Làm đi.”

“Đợi một phút.” Triss bật dậy từ trên băng ghế như lò xo và choàng chiếc áo khoác lông chuột qua vai. “Đợi một phút, Nenneke. Tôi muốn lên đồng cùng với cô ấy.”

“Điều đó rất nguy hiểm.”

“Tôi biết. Nhưng tôi muốn nhìn. Bằng chính mắt mình. Tôi nợ con bé. Ciri…tôi yêu nó như một đứa em gái. Ở Kaedwen nó đã liều mạng để cứu tôi…” giọng của nữ pháp sư chợt vỡ òa.

Nữ tư tế tối cao lắc đầu. “Cũng như Jarre cả thôi. Đâm đầu đến giải cứu một cách mù quáng, không biết ở đâu hay vì sao. Nhưng Jarre là một thằng bé ngây thơ. Còn cô là một người trưởng thành, và đáng nhẽ ra phải là một nữ pháp sư thông thái. Cô nên biết rằng mình chẳng thể giúp được gì cho Ciri bằng cách lên đồng. Việc cô có thể làm đó là tự khiến bản thân mình bị thương.”

“Tôi sẽ đi vào cơn hôn mê cùng với Iola,” Triss nhắc lại, cắn môi. “Hãy cho phép tôi, Nenneke. Vả lại, tôi liều cái gì kia chứ? Một cơn động kinh? Kể cả nếu nó xảy ra, bà vẫn có thể kéo tôi ra dễ dàng.”

“Cô liều nhìn thấy thứ mà mình không được nhìn.” Nenneke nói chậm.

Cái ý nghĩ về Đồi Sodden khiến người Triss tràn đầy khiếp đảm. Nơi mình đã chết. Nơi mình đã được chôn và tên tuổi được khắc ghi trên đài tưởng niệm. Ngọn đồi và bia mộ mà sẽ một ngày nào đó nhớ đến mình.

Mình biết điều này. Nó đã được tiên đoán cho mình rồi.

“Tôi quyết rồi,” cô nói bình thản và kiên nhẫn, trong khi đứng dậy và hất mái tóc tuyệt đẹp ra sau bằng cả hai tay. “Hãy bắt đầu đi.”

Nenneke quỳ xuống và gối đầu lên tay.

“Hãy bắt đầu,” bà khẽ nói. “Chuẩn bị nào, Iola. Hãy quỳ xuống bên cạnh ta, Triss. Và cầm lấy tay Iola.”

Bên ngoài trời đã tối. Cơn gió thét gào, và tuyết rơi.

***

Ở phía nam, xa đằng sau dãy núi Amell, ở Metinna, tại một vùng nông thôn có tên Trăm Hồ, một nơi cách thành phố Ellander và Đền thờ Melitele khoảng 500 dặm theo đường chim bay, một cơn ác mộng chợt đánh thức một người đánh cá tên Gosta. Một khi đã dậy, Gosta không thể nhớ nổi nội dung giấc mơ, nhưng một cảm giác bất an kỳ lạ ngăn anh ta quay trở lại giấc ngủ.

Bất kỳ ngư dân nào sành sỏi đều biết rằng chỉ có thể đánh cá rô vào lúc hồ vừa mới đóng băng.

Mùa đông năm nay, mặc dù đến sớm hơn dự kiến, lại thích chơi khăm và thất thường như một nữ doanh nhân thành đạt và xinh đẹp. Đợt tuyết rơi đầu tiên khẽ khàng kéo đến như một tên trộm rình rập ẩn nấp, vào đầu tháng Mười Một, ngay sau lễ Saovine. Không ai ngờ được tuyết lại rơi sớm thế và do vậy có rất nhiều việc phải làm. Những hồ nước bao phủ bởi một lớp băng mỏng, và đến giữa tháng Mười Một thì có vẻ như nó đã đủ dày để đỡ được một người trưởng thành, nhưng mùa đông thất thường bỗng dưng lui đi – mùa thu lại về và những cơn mưa làm tan băng giá trong khi cơn gió ấm áp thổi từ bờ biển phía nam và đánh bay bão tuyết. Cái quái gì thế, những người nông dân tự hỏi, đã đến mùa đông hay là chưa đây?

Nó kéo dài vỏn vẹn có ba ngày, và rồi mùa đông lại đến. Lần này nó đến mà không có tuyết, nhưng lạnh thấu xương. Không khí như vỡ vụn. Nước nhỏ từ mái nhà xuống trở thành những mẩu băng sắc nhọn chỉ qua một đêm, và lũ vịt hốt hoảng giữa ao cá đông cứng.

Và những hồ nước của Mil Trachta vặn mình rồi chuyển thành thể rắn.

Gosta đợi một ngày để an toàn, rồi đem cái hộp đựng đồ nghề câu cá cất trên gác xép xuống. Anh ta nhét rơm vào ủng, choàng áo khoác lông, cầm lấy cái rìu chặt băng, gói ghém vật dụng và nhanh chân ra hồ.

Như mọi người đều biết, chỉ có thể bắt cá rô khi hồ vừa mới đóng băng.

Băng khá dày. Nó hơi lún xuống trước sức nặng của một người, lách tách một tí, nhưng vẫn trụ được. Gosta đi lại tự do trên mặt hồ, đục một cái lỗ bằng rìu, ngồi lên cái hộp, quấn sợi dây làm từ đuôi ngựa vào một cành diệp tùng ngắn, buộc lưỡi câu vào đầu kia, và thả xuống nước. Con cá rô đầu tiên, dài khoảng nửa mét, đớp mồi thậm chí còn trước khi sợi dây kịp đứng yên.

Sau khoảng một tiếng đồng hồ, cỡ một trăm con cá xanh lục, vằn vện và vây đỏ nằm quanh miệng cái hố băng. Gosta câu được nhiều hơn cần thiết, nhưng cơn sốt cá vẫn chưa rời khỏi anh ta. Sau cùng thì anh ta có thể chia cá cho hàng xóm cũng được.

Anh ta nghe thấy một tiếng khụt khịt.

Anh ta ngước lên khỏi cái hố băng. Một con ngựa đen tuyệt đẹp đứng bên bờ hồ, hơi nước phả ra từ mũi. Người cưỡi nó khoác một bộ lông chồn và quấn khăn che mặt.

Gosta nuốt khan. Quá muộn để chạy rồi. Anh ta thầm hy vọng rằng tay kỵ sĩ sẽ không dám bước lên lớp băng mỏng cùng con ngựa.

Tay Gosta vẫn di chuyển cần câu một cách máy móc, và một con cá rô giật mồi. Người ngư dân kéo nó lên, gỡ lưỡi câu và ném xuống mặt hồ. Từ khóe mắt anh ta trông thấy tay kỵ sĩ nhảy khỏi yên, buộc dây cương lại, và cẩn thận tiến ra mép nước. Con cá rô giãy đành đạch, xòe ra cái đuôi gai góc và quạt vây. Gosta đứng dậy và nắm lấy cái rìu, mà có thể dùng làm vũ khí tự vệ nếu cần.

“Đừng sợ.”

Đó là một cô gái. Giờ khi đã cởi bỏ tấm khăn, anh ta trông thấy gương mặt cô bị hủy hoại bởi một vết sẹo xấu xí. Cô mang một thanh kiếm sau lưng, anh ta có thể trông thấy cán cầm trạm trổ tuyệt đẹp thò ra trên vai.

“Tôi sẽ không hại anh,” cô nói nhẹ nhàng. “Tôi chỉ muốn hỏi đường thôi.”

Tới đâu? Gosta nghĩ. Bây giờ ư, vào giữa mùa đông. Sau cơn bão tuyết. Ai lại du hành vào mùa đông? Chỉ có lũ cướp. Hoặc phù thủy.

“Đây có phải vùng Mil Trachta không?”

“Phải…” anh ta lầm bầm, mắt quay sang cái hố băng, nhòm xuống dòng nước đen ngòm bên dưới. “Mil Trachta. Nhưng ở đây chúng tôi gọi là Trăm Hồ.”

“Và hồ Tarn Mira? Anh có biết nó không?”

“Ai cũng biết đến nó.” Anh ta nhìn cô gái với vẻ lo lắng. “Chỉ có điều chúng tôi gọi nó là Không Đáy. Một cái hồ bị nguyền rủa. Một nơi xấu xa…nó có mấy bà tiên dìm chết người. Và hồn ma sống trong đống tàn tích cổ.”

Anh ta có thể thấy đôi mắt xanh của cô ánh lên. “Có tàn tích sao? Phải chăng là một tòa tháp?”

“Một tòa tháp?” Anh ta không thể kìm lại một tiếng khịt mũi dè bỉu. “Vài viên đá chồng lên nhau, rêu mốc bao phủ. Một đống đổ nát…”

Con cá rô không giãy nữa, nó chỉ còn vẫy cái vây sọc qua lại.

Cô gái nhìn nó với vẻ trầm tư. “Cái chết trên băng,” cô nói. “Ở nó có điều gì đấy thật quyến rũ.”

“Hả?”

“Cái hồ và đống tàn tích cách đây bao xa? Tôi nên đi đường nào?”

Anh ta trả lời. Rồi chỉ hướng. Anh ta thậm chí còn vẽ lên mặt băng với đầu nhọn của cây rìu. Cô gái gật đầu và ghi nhớ. Con ngựa đen giậm chân, khịt mũi, và phả hơi nước ra từng đợt.

***

Anh ta đứng nhìn trong khi cô phi về phía bờ tây, chạy dọc sườn dốc, và biến mất giữa những thân cây trăn và phong trụi lá, vào trong khu rừng màu nhiệm, lộng lẫy được trải một lớp tuyết trắng. Con ngựa đen chạy vô cùng duyên dáng, nhanh nhẹn nhưng nhẹ nhàng. Khó để mà nghe được tiếng bước chân nó giậm lên mặt đất đông cứng, và tuyết gần như không động đậy trên những cành cây mà họ chạm phải. Lướt qua khu rừng cổ kính và phủ tuyết này, dường như nó không phải một con ngựa thông thường, mà là một con ngựa trong cổ tích.

Hay có lẽ là một ảo ảnh?

Một con quỷ trên lưng một con ngựa ma, một con quỷ mang hình dạng một cô gái với đôi mắt lớn xanh lục trên gương mặt dị dạng?

Ai, nếu không phải là quỷ, lại du hành vào mùa đông? Và hỏi đường đến một khu tàn tích bị ma ám?

Sau khi họ đi khỏi, Gosta nhanh chóng thu dọn đồ nghề. Trên đường về nhà, anh ta đi bộ qua khu rừng. Nó là một con đường dài hơn, nhưng bản năng đã mách bảo anh ta không nên đi đường cái. Bản năng đã mách bảo anh ta rằng cô gái đó, sau cùng, không phải là quỷ, mà là một con người. Con ngựa đen không phải ma, mà là một con ngựa thật. Và những kẻ lữ hành đơn độc trên lưng ngựa qua miền hoang dã vào giữa mùa đông thường là đang bị truy đuổi.

Một giờ sau, những kẻ đuổi bắt phi nước đại qua con đường rừng. Mười bốn con ngựa.

***

Rience lắc cái hộp bạc lần nữa, nguyền rủa, và điên tiết đập vào lòng bàn tay. Nhưng cái Xenophon vẫn im lìm. Nhiệm màu làm sao.

“Ba cái phép thuật nhảm nhí,” Bonhart bình phẩm lạnh lùng. “Nó hỏng rồi – cái trò ảo thuật rẻ tiền hỏng rồi.”

“Hoặc là Vilgefortz đang chứng tỏ chúng ta thực sự quan trọng với hắn đến nhường nào.” Stefan Skellen thêm vào.

Rience ngước lên và nhìn chúng bằng đôi mắt ác độc. “Nhờ vào cái trò ảo thuật rẻ tiền này,” hắn nói tức giận, “chúng ta đã đi đúng hướng và không còn mất dấu con bé nữa. Nhờ vào chủ nhân Vilgefortz chúng ta mới biết được nó định đi đâu. Chúng ta biết mình đang ở đâu và đang làm gì. Tôi nghĩ thế là nhiều rồi. So với những gì mà cả hai người đã làm trong vòng một tháng qua.”

“Nói ít thôi. Thế nào, Boreas? Dấu vết cho thấy điều gì?”

Boreas Mun đứng dậy và hắng giọng. “Cô ta đã ở đây một giờ trước chúng ta. Cô ta cố chạy thật nhanh mỗi khi có thể. Nhưng địa hình ở đây khá phức tạp. Thậm chí kể cả trên lưng con ngựa phi thường đó cô ta cũng không thể cách chúng ta quá 5 đến 6 dặm đường.”

“Nó quyết tâm muốn đến cái hồ,” Skellen lầm bầm. “Vilgefortz đã đúng. Và ta đã không tin hắn…”

“Tôi cũng vậy,” Bonhart thú nhận. “Nhưng chỉ đến ngày hôm qua khi mấy tên nông dân xác nhận rằng quả thực có một tòa tháp ma thuật bên bờ hồ Tarn Mira.”

Những con ngựa khịt mũi và hơi nước phì ra. Cú Nâu ngoái nhìn Joanna Selborne qua vai. Hắn không thích vẻ mặt của nhà ngoại cảm trong mấy ngày vừa qua. Ta bắt đầu thấy lo, hắn nghĩ. Cuộc truy đuổi này đã làm tất cả kiệt sức rồi, cả về thể chất lẫn tinh thần. Đã đến lúc phải dừng lại.

Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng hắn. Hắn nhớ lại giấc mơ đêm qua. “Được rồi!” Hắn vực lại bản thân. “Nói chuyện thế đủ rồi. Lên ngựa!”

***

Boreas Mun ngồi vất vưởng trên yên, để ý tìm kiếm dấu hiệu. Chẳng dễ dàng chút nào. Mặt đất khô cứng và lớp tuyết nhanh chóng bị gió thổi đi, chỉ còn lại trong những khe rãnh. Boreas tìm kiếm dấu chân của con ngựa đen. Ông ta phải cực kỳ cẩn thận để không lạc mất dấu, đặc biệt trong khi giọng nói từ chiếc hộp bạc ma thuật đã im lặng và không còn lời khuyên hay thông tin nào được chuyển đến nữa.

Ông ta hoàn toàn kiệt sức. Và lo lắng. Họ đã truy đuổi cô gái trong gần ba tuần – kể từ đêm

Saovine, kể từ trận thảm sát ở Dun Dare. Gần ba tuần trên lưng ngựa, luôn luôn truy đuổi. Và trong suốt quãng thời gian đó, cả cô gái lẫn con ngựa đen đều không tỏ dấu hiệu mệt mỏi hay chậm lại nào.

Boreas để ý tìm dấu vết.

Suy nghĩ của ông ta liên tục quay trở lại giấc mơ đêm qua. Trong mơ ông ta bị kéo xuống, chìm nghỉm. Bề mặt đen ngòm đóng lại trên đầu khi ông ta chìm xuống đáy và dòng nước lạnh tràn vào cổ họng và phổi. Ông ta choàng dậy, mồ hôi nhễ nhại – trong khi trời thì rét căm căm.

Thế là đủ rồi, ông ta nghĩ trong khi ngồi vất vưởng trên yên, tìm kiếm dấu vết. Đã đến lúc phải dừng lại.

***

“Chủ nhân? Ngài có nghe thấy tôi không? Chủ nhân?” Cái hộp Xenophon im lặng.

Bờ vai Rience run lẩy bẩy khi hắn thổi vào lòng bàn tay đang đông cứng. Cái lạnh buốt ở cổ, lưng, và khiến bụng hắn đau nhói. Mỗi cử động đều đem lại cảm giác đau. Hắn thậm chí chẳng còn sức để mà chửi nữa.

Gần ba tuần trên yên ngựa, truy đuổi không ngơi nghỉ. Trong cái lạnh cắt da cắt thịt. Và bão tuyết kéo đến trong vài ngày.

Và Vilgefortz vẫn im lặng.

Chúng ta cũng im lặng. Và liếc xéo nhau. Rience xoa tay vào nhau và xỏ găng lại. Skellen, hắn nghĩ, nhìn ta rất kỳ lạ. Có phải hắn đang mưu đồ gì không? Hắn đã thỏa thuận với Vilgefortz có phần quá nhanh và quá dễ dàng…Nhưng cái đội này, những tên côn đồ này chỉ trung thành với hắn, và tuân theo mệnh lệnh của hắn. Nếu tóm được đứa con gái, hắn có thể phớt lờ thỏa thuận, giết nó, và dùng mấy kẻ tạo phản này để hiện thực hóa cái ý tưởng điên rồ về dân chủ và công bằng.

Hay có lẽ Skellen cảm thấy mưu mô thế là đủ rồi? Là một kẻ bảo thủ và cơ hội, có lẽ giờ đây hắn đang nghĩ rằng đem đứa con gái về cho Hoàng đế Emhyr thì tốt hơn?

Hắn nhìn ta thật lạ. Như một con cú. Và cả đội…nhất là cái ả Kenna Selborne đó…

Còn Bonhart? Bonhart là một kẻ man rợ khó lường. Khi nhắc đến Ciri, giọng hắn run rẩy vì phẫn nộ. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, hắn sẽ xử tử hoặc bắt cóc đứa con gái, bắt nó chiến đấu trong đấu trường. Thỏa thuận với Vilgefortz ư? Cái thỏa thuận đó chẳng có nghĩa lý gì với hắn cả. Đặc biệt giờ đây khi Vilgefortz…

Hắn đem cái hộp Xenophon ra. “Chủ nhân? Ngài có nghe thấy tôi không? Là Rience đây…”

Cỗ máy im lặng. Rience không buồn chửi.

Vilgefortz thì im lặng. Skellen và Bonhart đã thỏa thuận với ngài ấy. Nhưng trong một hai ngày tới, khi chúng ta bắt được đứa con gái, có thể sẽ chẳng còn thỏa thuận nào cả. Và rồi ta sẽ là người bị dí dao vào cổ. Hay là bị cùm và giải đến Nilfgaard, như là bằng chứng cho lòng trung thành của Cú Nâu… Mẹ nó!

Vilgefortz im lặng. Ngài ấy không còn đưa ra lời khuyên. Không còn chỉ lối. Không còn đánh tan nghi ngờ bằng chất giọng điềm tĩnh, logic đúng với bản chất thật của con người mình. Ngài ấy im lặng.

Có thể Skellen đã đúng? Có thể Vilgefortz đã thực sự chuyển sang một mục tiêu khác và không còn quan tâm đến chúng ta nữa?

Quỷ tha ma bắt, ta đã không nghĩ chuyện này là khả thi. Nếu biết trước, ta đã không đi…ta sẽ tới giết tên witcher thay cho Schirrú…Chết tiệt! Ta đang chết cóng ngoài này trong khi Schirrú ắt đang được sưởi ấm…

Ấy vậy mà chính ta đã năn nỉ rằng mình được cử đi bắt Ciri và Schirrú sẽ đi xử lý tên witcher…Chính ta đã tự chuốc lấy điều này.

Hồi đầu tháng Chín, khi Yennefer rơi vào tay chúng ta.

***

Thế giới mà phút trước vẫn còn là một bức màn đen mờ ảo, mềm mại, dính dáp như bùn chợt chuyển thành bề mặt cứng rắn và sắc nét trong giây lát. Nó sáng chói. Và nó là thật.

Yennefer mở mắt ra, vẫn còn rùng mình vì cơn chấn động. Cô nằm trên những tảng đá, giữa một đống xác người, dây chằng và ván gỗ tơi tả – phần còn lại của con tàu Alcyone. Xung quanh, cô thấy những đôi chân người. Những đôi chân đi ủng nặng. Một trong những đôi ủng này vừa mới đá cô tỉnh dậy phút trước.

“Đứng lên, phù thủy!”

Lại một cú đá khiến cơn đau bắn lên toàn bộ cơ thể. Rồi cô trông thấy một gương mặt cúi xuống.

“Ta bảo đứng lên! Đứng lên mau! Ngươi có nhận ra ta không?”

Cô chớp mắt. Cô nhận ra hắn. Bởi cô đã từng đốt cháy gương mặt hắn khi hắn chạy trốn qua một cổng dịch chuyển trước mắt mình. Rience.

“Chúng ta sẽ giải quyết chuyện này.” Hắn hứa. “Chúng ta sẽ giải quyết mọi thứ, con điếm. Ta sẽ dạy cho ngươi biết đau đớn là gì. Bằng đôi tay này, và những ngón tay này, ta sẽ dạy cho ngươi biết đau đớn là gì.”

Cô thu mình, nắm chặt tay, và mở ra, chuẩn bị hô một câu thần chú. Và ngay lập tức cô quằn quại. Mắc nghẹn, khò khè và run lẩy bẩy.

Rience rống lên cười. “Không có hiệu quả nhỉ?” Cô nghe giọng hắn. “Ngươi thậm chí còn không có một giọt sức mạnh! Ngươi không phải là đối thủ của Vilgefortz! Ngài ấy đã vắt kiệt ngươi, cho đến giọt cuối cùng, như khi người ta làm pho mát. Ngươi thậm chí còn không thể…”

Hắn không kịp nói hết. Yennefer rút con dao dắt dưới chân ra, nhảy lên như một con mèo, và đâm một cách mù quáng. Cô không thành công, lưỡi dao chỉ lướt qua mục tiêu, xé rách quần hắn. Rience nhảy lùi lại và ngã xuống.

Ngay lập tức một cơn mưa những quả đấm và đá trút xuống nữ pháp sư. Cô rú lên khi một cái ủng giẫm lên bàn tay cầm dao của mình, nghiền nát những ngón tay. Lại một cái ủng nữa đạp vào bụng Yennefer. Nữ pháp sư vật lộn và hớp hơi. Cô bị nhấc lên khỏi mặt đất và tay bẻ quặt ra sau lưng. Cô trông thấy một nắm đấm bay về phía mình và thế giới chợt lóe sáng trong khi một cơn đau bùng nổ trên mặt. Nó chạy dọc sống lưng xuống bụng. Đầu gối cô mềm nhũn như thạch. Cô treo lủng lẳng trên cánh tay đang giữ mình. Ai đó túm lấy tóc cô và giật ra sau. Cô nhận thêm một cú đấm nữa vào mắt, và mọi thứ mờ đi và biến mất trong một thứ ánh sáng chói lòa.

Cô không ngất. Cô cảm nhận được tất cả. Cô bị đánh. Bị đánh đập tàn nhẫn, dã man, như một người đàn ông. Với những nắm đấm không chỉ đau mà còn rút toàn bộ sức lực, đập tan mọi ý chí kháng cự. Cô bị đánh đập trong những bàn tay như kìm sắt.

Cô muốn ngất, nhưng không thể. Cô cảm nhận hết mọi thứ.

“Đủ rồi,” cô chợt nghe thấy một giọng nói từ xa vọng lại, xuyên qua bức màn đau đớn. “Ngươi điên rồi à, Rience? Ngươi đang cố giết cô ta sao? Ta cần cô ta còn sống.”

“Tôi đã hứa với cô ta, thưa chủ nhân.” Cái bóng hình mờ nhạt trước mặt cô gầm gừ, dần định hình thành gương mặt của Rience. “Tôi đã hứa là sẽ trả đũa cô ta…bằng đôi tay này…”

“Ta không quan tâm ngươi đã hứa cái gì. Ta nhắc lại, ta cần cô ta còn sống và nói năng được bình thường.”

“Một con mèo hay một mụ phù thủy,” kẻ đang nắm tóc cô cười lớn, “cũng không bị đánh bầm dập dễ dàng thế này.”

“Không cần nói kháy làm gì, Schirrú. Ta bảo đánh thế là đủ rồi. Nhấc cao đầu cô ta lên. Cô thế nào rồi, Yennefer?”

Nữ pháp sư nhổ máu và nhấc cao gương mặt sưng phù. Thoạt tiên cô không nhận ra hắn.

Hắn đeo một chiếc mặt nạ che gần hết bên trái gương mặt. Nhưng cô biết hắn là ai.

“Xuống địa ngục đi, Vilgefortz,” cô lắp bắp khi lưỡi khẽ chạm vào răng cửa và đôi môi sưng phồng.

“Cô có thích thần chú của ta không? Cô có thích khi ta nhấc cô lên cùng với con tàu từ biển không? Cô có thích chuyến bay không? Cô đã dùng bùa phép nào để sống sót khỏi cú rơi?”

“Xuống địa ngục đi.”

“Phá hủy ngôi sao trên cổ cô ta. Và đem cô ta đến phòng thí nghiệm. Chúng ta không được lãng phí thời gian.”

Cô bị lôi, kéo, và đôi lúc là cõng đi. Qua một bãi đá chất những mảnh vụn của tàu Alcyone. Và phần còn lại của nhiều con tàu khác, những cột buồm của chúng vươn lên như giẻ sườn của một con quái vật biển. Crach đã đúng, cô nghĩ. Những con tàu đã biến mất không dấu vết ở Khe vực Sedna không phải là nạn nhân của thiên tai thông thường. Thần linh ơi…Pavetta và Duny…

Một chỏm núi ở phía xa nhô lên nơi đường chân trời giữa những đám mây che phủ.

Rồi tới những bức tường, cổng, đại sảnh và cầu thang. Mọi thứ đều to lớn một cách kỳ quặc và không tự nhiên…Vẫn còn quá ít chi tiết ở đây để nữ pháp sư định vị được mình, để biết mình đang ở đâu, đã rơi xuống đâu, và câu thần chú đã đưa họ tới nơi nào. Gương mặt sưng phù của cô khiến cho việc quan sát còn khó khăn hơn. Khứu giác là cơ quan duy nhất đem lại được thông tin cho nữ pháp sư vào lúc này – cô ngay lập tức nhận ra mùi formal, ête và cồn. Và ma thuật. Mùi của một phòng thí nghiệm.

Cô bị ép xuống một cái ghế thép. Những chiếc cùm lạnh lẽo đóng lại trên cổ tay và cổ chân. Một chiếc vòng kim loại đặt qua thái dương, cố định đầu của nữ pháp sư. Cô nhìn xung quanh căn phòng rộng lớn và được chiếu sáng đến lóa mắt. Cô trông thấy một cái ghế nữa, một công trình kiến trúc bằng thép kỳ lạ trên một bệ đỡ bằng đá.

“Cái đó,” cô nghe thấy giọng Vilgefortz đằng sau. “Cái ghế bé nhỏ đó là dành cho Ciri của cô. Nó đã đợi một khoảng thời gian rất lâu rồi, và không thể chờ thêm được nữa. Cả ta cũng vậy.”

Cô có thể nhận ra hắn đang ở gần, cô có thể cảm nhận hơi thở của hắn. Tên pháp sư cắm kim vào đầu cô và nhét thứ gì đó vào tai cô. Rồi hắn đứng trước cô và bỏ mặt nạ ra. Yennefer bất giác hít vào một hơi.

“Đây là tác phẩm của Ciri đó,” hắn nói, chỉ vào gương mặt đã từng có thời mang vẻ đẹp trai cổ điển, nhưng giờ bị hủy hoại dã man và gắn những gọng kính vàng để giữ một viên thủy tinh trên mắt trái. “Ta đã cố bắt nó khi nó bước vào cánh cổng trên Tháp Hải Âu.” Tên pháp sư nói khẽ. “Ta đã muốn cứu mạng con bé, ta đã chắc rằng cánh cổng sẽ giết chết nó. Ta mới ngây thơ làm sao! Nó bước qua không hề hấn, và năng lượng tỏa ra mạnh tới nỗi đập tan cánh cổng và khiến nó phát nổ trước mặt ta. Ta mất một con mắt và phần má trái, và một lượng da khá nhiều trên mặt, cổ và ngực. Không hề dễ chịu chút nào. Và nó trông xấu xí vô cùng, có phải không? Ha, cô nên thử nhìn ta từ lúc trước khi bắt đầu phục hồi bằng phép thuật xem.”

“Nếu mê tín dị đoan,” hắn vừa nói vừa nhét một ống kim loại cong vào mũi cô, “có lẽ ta sẽ tin rằng đây là đòn trả thù của Lydia van Bredevoort. Từ dưới nấm mồ. Ta có thể hồi phục, nhưng rất chậm. Nó tốn thời gian vô cùng và cầu kỳ. Đặc biệt là quá trình khôi phục con mắt, có vài vấn đề…viên thủy tinh ta dùng để thay thế đã đảm nhiệm khá tốt vai trò của nó – ta vẫn nhìn rõ được không gian ba chiều, nhưng sự thiếu hụt một con mắt tự nhiên đôi lúc khiến ta gần như phát rồ. Quả thực, ta đã phát triển tính nóng giận vô cớ – ta đã thề rằng ngay khi tóm được Ciri, ta sẽ lập tức ra lệnh cho Rience móc một con mắt xanh lục của nó ra. Bằng ngón tay của hắn. Những ngón tay mà hắn đã rêu rao đó. Sao cô im ắng quá vậy, Yennefer? Cô thừa biết là ta cũng rất muốn móc một con mắt của cô ra rồi còn gì? Hay là cả hai luôn nhỉ?”

Hắn chọc kim vào mạch máu trên mu bàn tay cô. Phải mất một lúc hắn mới dò đúng mạch, và thỉnh thoảng đâm vào xương. Yennefer nghiến răng.

“Cô đã gây ra rất nhiều rắc rối cho ta đó. Ép ta phải tạm dừng công việc. Đặt ta vào tình thế nguy hiểm. Khi cô dong buồm tới Khe vực Sedna, bên dưới ống hút của ta…dư âm của cuộc đấu tay đôi ngắn ngủi giữa hai ta khá là mạnh và lan rộng, nó có thể sẽ bị phát hiện bởi vài vị khách không mời. Nhưng ta không thể kìm lòng được. Cái ý tưởng rằng ta có thể tóm được cô ở đây, rằng ta có thể kết nối cô với Orter của ta, là quá mê hoặc.”

“Bởi vì chắc hẳn là cô đâu có nghĩ rằng ta đã mắc mưu trò khiêu khích của cô đó chứ?” – hắn chọc cái kim tiếp theo vào – “Rằng ta đã đớp mồi? Không, Yennefer à. Nếu tin vào điều đó thì cô đã lầm tưởng những ngôi sao phản chiếu trên mặt hồ ban đêm là thiên đàng rồi. Quả thật, ta nên cám ơn cô mới phải – cô đã lần ra ta. Khi cô tự dẫn xác tới Khe vực, cô đã khiến công việc của ta dễ dàng hơn nhiều. Bởi vì ta, như cô thấy đó, không thể định vị được Ciri, thậm chí cả với sự trợ giúp của thiết bị này, mà không có cái thứ hai. Đứa con gái có cơ chế tự vệ tiềm ẩn cực mạnh – một lớp rào chắn ma thuật và dò tìm. Sau cùng thì, nó là hậu duệ của Dòng Máu Cổ Xưa kia mà…nhưng kể cả như vậy, Orter của ta lẽ ra vẫn phải phát hiện được nó. Nhưng không.”

Yennefer nằm giữa một mạng lưới dây đồng và bạc, bao vây xung quanh là một dàn ống hút làm từ bạc và sứ. Giá đỡ gắn trên ghế đựng những ống nghiệm sóng sánh thứ chất lỏng không màu.

“Do vậy ta đã đi đến kết luận,” – Vilgefortz nhét một cái ống khác vào mũi cô, lần này nó làm từ thủy tinh – “rằng cách duy nhất để định vị Ciri là một phép dò tâm linh. Tuy nhiên, để làm được điều này, ta cần một người có mối quan hệ tình cảm mạnh mẽ với con bé và phát triển được một ma trận cảm xúc để cho ta mượn tạm. Ta đã nghĩ đến witcher, nhưng hắn đã biến mất, vả lại witcher cũng không phù hợp để dùng làm trung gian. Ta đã định bắt cóc Triss Merigold, Người thứ 14 trên Ngọn Đồi của chúng ta. Ta thậm chí còn cân nhắc cả việc bắt cóc Nenneke khỏi Ellander…Nhưng rồi Yennefer thành Vengerberg đã xuất hiện, cô gần như xung phong cho nhiệm vụ này…quả thật, ta không thể hy vọng tìm được người nào tốt hơn…khi kết nối xong với thiết bị, cô sẽ xác định vị trí của Ciri giùm ta. Tuy vậy, quá trình này cũng đòi hỏi sự hợp tác từ phía cô…nhưng như cô đã biết rồi đó, có nhiều cách để ép một người hợp tác.”

“Dĩ nhiên,” hắn tiếp tục trong khi lau tay, “cô cũng xứng đáng nhận được vài lời giải thích. Ví như – ta đã biết được về Dòng Máu Cổ Xưa ở đâu và như thế nào? Về di sản của Lara Dorren? Chính xác thì loại gien này là gì? Làm sao Ciri lại có được nó? Con bé thừa hưởng nó từ đâu? Ta sẽ trích xuất nó từ con bé như thế nào, và dùng nó để làm gì? Ống hút Sedna, mà ta đã dùng để kéo cô lên, hoạt động ra sao và được dùng cho mục đích nào? Rất nhiều câu hỏi, không phải sao? Nhưng thật không may, ta không có thời gian để giải thích cho cô mọi thứ. Ha, thật đáng tiếc bởi ta chắc là cô sẽ thấy rất ngạc nhiên trước một vài câu trả lời, Yennefer…nhưng, như ta đã nói, ta không có thời gian. Thần dược bắt đầu có tác dụng rồi. Đã đến lúc cô bắt đầu tập trung.”

Nữ pháp sư nghiến răng, thở gấp và phát ra những tiếng rên rỉ ngắt quãng.

“Ta biết.” Vilgefortz gật gù. Hắn lôi một cái megascope lớn lại gần và quan sát một quả cầu thủy tinh vĩ đại đặt trên giá đỡ, bao vây xung quanh là một mạng lưới dây bạc. “Ta biết, nhưng tiếc thay điều này là vô cùng cần thiết. Và đau đớn. Cô càng sớm định vị xong xuôi thì nó càng kết thúc nhanh. Nào, Yennefer. Trên màn hình này, ta muốn nhìn thấy Ciri. Con bé đang ở đâu, đang đi cùng ai và đang làm gì, kể cả người mà nó đang trên giường cùng.”

Yennefer hét một tiếng chói tai, hoang dại, tuyệt vọng.

“Nó đau,” Vilgefortz chiếu cả con mắt thật lẫn con mắt thủy tinh lên người cô. “Chắc chắn là đau rồi. Địa điểm, Yennefer. Đừng chặn bản thân. Đừng đóng vai anh hùng. Cô biết là mình không thể chịu nổi mà. Hậu quả của việc kháng cự có thể rất thảm khốc, nó có thể dẫn đến xuất huyết não, cô có thể bị liệt toàn thân, hoặc phải sống thực vật suốt quãng đời còn lại. Địa điểm!”

Cô nghiến chặt hàm đến khi răng bắt đầu lạo xạo.

“Chà, Yennefer,” tên pháp sư nói dịu dàng. “Ít ra thì cô cũng phải tò mò chứ! Tò mò không biết cô học trò của mình ra sao rồi. Có thể con bé đang gặp nguy hiểm? Có thể con bé đang gặp rắc rối? Cô biết có bao nhiêu người muốn Ciri chết mà. Địa điểm. Nếu ta biết đứa trẻ đang ở đâu, ta sẽ đến đó. Con bé sẽ được an toàn…sẽ không ai tìm thấy nó ở đây. Không ai.” Giọng hắn mềm mại như nhung và ấm áp.

“Địa điểm, Yennefer. Địa điểm. Ta cầu xin cô. Ta xin thề: ta sẽ chỉ lấy đi từ Ciri những gì mình cần. Và rồi ta sẽ trao trả tự do cho cả hai người. Ta xin thề.”

Yennefer nghiến răng chặt hơn. Một dòng máu chảy xuống cằm cô. Vilgefortz đột ngột đứng dậy và vẫy tay. “Rience!”

Yennefer cảm thấy một dụng cụ nào đó được gắn vào tay mình.

“Đôi lúc,” Vilgefortz cúi xuống, “có những tình huống ngang ngược đến mức cả phép thuật, thần dược và thuốc phiện cũng không thể thay thế được cho sự đau đớn truyền thống. Đừng ép ta phải làm vậy. Địa điểm.”

“Xuống địa ngục đi, Vilgefortz!” “Vặn ốc đi, Rience. Chậm thôi.”

***

Vilgefortz dõi theo cái xác bất tỉnh bị kéo lê trên sàn hướng ra cầu thang dẫn xuống hầm ngục. Rồi hắn ngước lên nhìn Rience và Schirrú.

“Luôn có nguy cơ,” hắn nói, “rằng một trong hai ngươi sẽ rơi vào tay kẻ thù của ta và bị tra khảo. Ta muốn tin rằng các ngươi sẽ vững vàng như cô ta khi được dùng mấy cái ốc vít đó. Phải, ta muốn tin như vậy. Nhưng ta không tin.”

Rience và Schirrú giữ im lặng. Vilgefortz quay lại cái megascope, nơi một hình ảnh hiện trên màn hình, được tạo ra bởi quả cầu thủy tinh khổng lồ.

“Đó là tất cả những gì cô ta xác định được,” hắn nói, chỉ vào màn chiếu. “Ta muốn Cirilla và cô ta đã giao cho ta gã witcher. Cô ta không có ma trận cảm xúc với đứa con gái, nhưng vào giây phút yếu ớt đã đưa ra ma trận với Geralt. Ta đã không tin rằng cô ta có cảm xúc mãnh liệt với hắn đến vậy…Chà, ít ra thì ta cũng hài lòng với những gì chúng ta đã biết. Witcher, Cahir aep Ceallach, nhà thơ Dandelion, và một người phụ nữ? Hmm…Ai sẽ đảm nhận công việc này đây? Và xử lý tên witcher một lần cho xong?”

***

Nó đã được phân công cho Schirrú, Rience hồi tưởng lại trong khi xoay người trên yên ngựa một lúc để giải tỏa cơn đau khỏi cái mông ê ẩm. Schirrú đã tình nguyện đi giết tên witcher. Hắn biết rõ địa hình nơi Yennefer đã phát hiện ra Geralt và đồng bọn – hắn có người quen hoặc họ hàng ở đấy. Mặt khác, ta thì lại được Vilgefortz cử đến để thương lượng với Vattier de Rideaux, và rồi truy lùng Skellen và Bonhart…

Và ta đúng là một kẻ ngốc hồi đó, hạnh phúc vì tưởng rằng mình đã được giao cho nhiệm vụ dễ dàng và thoải mái hơn. Một nhiệm vụ mà ta có thể hoàn thành chóng vánh…

***

“Nếu đám nông dân không nói dối,” – Stefan Skellen đứng trên bàn đạp – “thì cái hồ nằm đằng sau ngọn đồi đó, giữa một thung lũng.”

“Đó là nơi mà dấu vết dẫn đến.” Boreas Mun xác nhận.

“Tại sao chúng ta vẫn còn đứng đây?” Rience xoa vành tai lạnh cóng và cứng đờ. “Thúc ngựa đi, và lên đường thôi!”

“Không nhanh vậy đâu.” Bonhart giữ hắn lại. “Chúng ta phải thám thính trước mặt đã. Bao gồm cả cái thung lũng này. Chúng ta không biết con bé đang hướng tới bờ hồ phía nào. Nếu chọn nhầm bên, cái hồ sẽ bỗng nhiên trở thành vật cản giữa ta và nó.”

“Quá đúng.” Boreas đồng ý với hắn. “Cái hồ đóng băng rồi.”

“Băng có thể quá mỏng cho ngựa. Bonhart nói đúng, chúng ta phải chia người ra.”

Skellen nhanh chóng ra mệnh lệnh. Nhóm đầu tiên, tổng cộng 7 con ngựa, được dẫn đầu bởi Bonhart, Rience và Ola Harsheim, phi nước đại dọc bờ phía đông và sớm biến mất vào khu rừng đen.

“Tốt.” Cú Nâu nói. “Đi thôi, Silifant.”

Hắn ngay lập tức nhận ra có chuyện không ổn.

Hắn quay ngựa lại, quất roi thúc nó lên, và lại gần Joanna Selborne. Con ngựa của Kenna lùi lại, nhưng gương mặt cô ta cứng như đá.

“Vô ích thôi, ngài thanh tra.” Giọng cô ta nghe khàn. “Chúng tôi đã cố đi cùng ngài. Nhưng giờ chúng tôi sẽ quay lại. Chúng tôi đã chịu đủ rồi.”

“Chúng tôi?” Dacre Silifant kêu lên. “Chúng tôi là ai? Chuyện gì thế này, nổi loạn à?”

Skellen rướn người qua yên và khạc một bãi xuống đất. Đằng sau Kenna là Andres Vierny và Til Echrade, người elves tóc vàng.

“Cô Selborne,” Cú Nâu sẵng giọng. “Vấn đề không phải là cô đang theo đuổi một sự nghiệp hứa hẹn và bỏ qua cơ hội của cả đời người. Vấn đề là cô sẽ bị giao cho người treo cổ. Cùng với những tên ngốc này mà đã quyết định nghe lời cô.”

“Một người bị treo cổ thì sẽ không chết đuối.” Kenna đáp lại. “Nhưng ngài không nên dọa chúng tôi bằng giá treo cổ, ngài thanh tra. Bởi vì ngài không biết ai đang đứng gần đài hành hình hơn đâu, chúng tôi hay ngài.”

“Cô nghĩ vậy sao?” Mắt Cú Nâu sáng lên. “Đây là kết luận sáng suốt mà cô đã rút ra được nhờ nghe lỏm suy nghĩ thông minh của một ai đó à? Ta những tưởng cô khôn ngoan hơn cơ. Nhưng cô chỉ là một người phụ nữ ngu xuẩn mà thôi. Theo ta, cô luôn thắng. Chống lại ta, cô luôn thua! Hãy nhớ lấy điều đó. Và nếu cô nghĩ ta đã xong đời, thì hãy nhận ra rằng ta vẫn còn một cơ hội để đưa tất cả các ngươi ra đài hành hình. Các ngươi nghe chưa? Ta sẽ để họ xẻ thịt các ngươi bằng sắt nung đỏ!”

“Một người chỉ có thể chết một lần thôi, ngài thanh tra.” Til Echrade nói nhẹ nhàng. “Ngài đã chọn con đường của mình, chúng tôi đang chọn con đường của chúng tôi. Đường nào cũng nguy hiểm và không chắc chắn. Và không thể biết được định mệnh nào đang chờ đợi ai cả.”

“Ngài không thể ép chúng tôi lùa bắt đứa con gái như chó đàn, Skellen.” – Kenna kiêu hãnh ngẩng cao đầu – “Và chúng tôi cũng sẽ không bị giết như chó, giống Neratin Ceka. Ôi, nói thế là đủ rồi. Chúng tôi sẽ quay lại! Boreas! Hãy đi với chúng tôi.”

“Không.” Boreas lắc đầu và kéo chiếc mũ lông trùm qua trán. “Tạm biệt, tôi mong các cô bình an vô sự. Nhưng tôi sẽ ở lại. Tôi phải phụng sự. Tôi đã thề.”

“Ai?” Kenna nhăn mặt. “Hoàng đế hay Cú Nâu? Hay tên pháp sư nói bằng cái hộp?” “Tôi là một người lính. Tôi phải phụng sự.”

“Đợi đã,” Dufficey Kriel la lên, bước ra từ đằng sau Dacre Silifant. “Tôi sẽ đi cùng cô, tôi cũng đã chịu đủ rồi! Đêm qua tôi đã mơ về cái chết của mình. Tôi không muốn chết cho cái lý tưởng ngớ ngẩn và khả nghi này!”

“Lũ phản trắc.” Dacre hét lớn, mặt đỏ như cà chua. Trông hắn như thể sắp phọt máu ra đến nơi. “Quân phản bội, lũ chó chết!”

“Trật tự.” Cú Nâu vẫn lườm Kenna. Đôi mắt hắn trông cũng ghê tởm giống loài chim mà hắn đã đặt biệt danh. “Chúng đã chọn con đường của mình, ngươi nghe rồi đấy. Không việc gì phải phí hơi và nước miếng. Nhưng chúng ta sẽ gặp lại nhau một ngày nào đó. Ta xin thề.”

“Thậm chí có khi trên cùng một đài hành hình nữa không chừng,” Kenna nói mà không có chút mỉa mai. “Bởi vì ngài, Skellen, sẽ không bị xử tử cùng với các hoàng tử và vương công cao quý đâu, mà là chúng tôi – đám thường dân. Nhưng ngài nói đúng, không nên phí nước miếng làm gì. Chúng tôi sẽ đi. Chúc may mắn, Boreas. Tạm biệt, Silifant.”

Dacre khạc một bãi qua đầu con ngựa.

***

“Và đó là tất cả những gì tôi muốn nói” – Joanna Selborne kiêu hãnh ngẩng cao đầu và gạt một lọn tóc đen khỏi trán – “Tôi không còn gì để nói thêm nữa, thưa Quý Tòa.”

Thẩm phán nhìn xuống cô ta từ trên cao. Bằng đôi mắt gần như xám xịt. Biểu cảm của ông ta là vô cùng khó hiểu.

Ôi, kệ đi, Kenna nghĩ, mình đã cố rồi. Chúng ta chỉ phải chết một lần, được ăn cả ngã về không. Mình sẽ không mục xác trong nhà giam ở thủ đô, chờ đợi cái chết. Cú Nâu đã nói rằng sẽ báo thù kể cả từ bên kia thế giới…

Ôi, kệ đi! Có thể họ sẽ không để ý. Được ăn cả ngã về không!

Cô ta bịt tay lên mũi, vờ như lau đi thứ gì đó. Cô ta nhìn vào đôi mắt gần như xám xịt của thẩm phán.

“Lính đâu!” Vị thẩm phán nói. “Xin hãy đưa nhân chứng Selborne…” Ông ta dừng lại, rồi ho. Đột nhiên mồ hôi túa ra trên trán.

“…đến văn phòng luật sư.” Ông ta dứt câu và hít vào một hơi thật mạnh. “Hãy lo liệu các thủ tục cần thiết. Và thả cô ấy ra. Nhân chứng Selborne không còn cần thiết đối với tòa nữa.”

Kenna bí mật lau đi một giọt máu chảy ra từ mũi. Cô ta mỉm cười và cảm tạ phép thuật của mình bằng một cái gật đầu.

***

“Chúng đã đào ngũ?” Bonhart nhắc lại với vẻ không tin. “Chúng đã đào ngũ? Đơn giản là bỏ đi? Skellen? Ông để chúng làm vậy sao?”

“Nếu chúng khai ra hết mọi chuyện…” Rience bắt đầu, nhưng Cú Nâu ngay lập tức chặn họng hắn. “Chúng sẽ không khai cái gì hết, vì chúng vẫn còn yêu cái đầu của mình! Sau khi Kriel gia nhập với chúng, tôi chỉ còn lại Dacre và Mun, và chúng có bốn người…”

“Bốn,” Bonhart nói ác hiểm, “không phải là nhiều lắm. Sau khi đuổi kịp đứa con gái, tôi sẽ quay lại tìm chúng. Và quạ sẽ được rỉa xác chúng. Nhân danh một vài quy tắc.”

“Trước tiên, chúng ta phải bắt được đứa con gái đã,” Cú Nâu ngắt lời và thúc con ngựa xám lên trước bằng cây roi. “Boreas! Nhìn đường đi!”

Thung lũng có dạng như cái chuông ngập trong một màn sương dày đặc, nhưng chúng biết là có một cái hồ ở bên dưới, bởi đây chính là Mil Trachta, và ở dưới mỗi thung lũng đều có một cái hồ. Tuy nhiên, chúng cũng biết điều này vì dấu chân của con ngựa đen không phải là manh mối duy nhất giúp chúng tóm được đứa con gái – Vilgefortz cũng đã bảo chúng tìm đến cái hồ này. Hắn đã miêu tả vô cùng chi tiết cho chúng. Và tên của nó là.

Tarn Mira.

Cái hồ khá hẹp, không rộng hơn một sải tên bắn. Nó tạo thành một hình bán nguyệt giữa những sườn đồi cao, dốc đứng phủ đầy những thân bách đen, được tô điểm bằng màu trắng của tuyết. Sự im lặng bao trùm, không một âm thanh nào vọng lại. Kể cả lũ quạ mà tiếng kêu não nề đã theo dấu chân chúng trong gần chục ngày trên đường cũng mất tăm.

“Đây là bờ phía nam,” Bonhart nói. “Nếu tên pháp sư không làm hỏng việc và nhầm lẫn thì tòa tháp phải nằm trên bờ phía bắc. Để ý tìm dấu vết của con bé, Boreas! Nếu mất dấu, cái hồ có thể ngăn cách chúng ta với nó!”

“Dấu vết rất rõ ràng,” Boreas Mun gọi với lên từ bên dưới. “Và còn mới! Nó dẫn đến cái hồ!”

“Tiến lên.” Con ngựa xám của Skellen e ngại trước bờ dốc đứng, nhưng hắn ép nó phải tuân lệnh. “Xuống!”

Chúng phi dọc sườn đồi, cẩn thận ghìm lại lũ ngựa đang phì phò. Chúng mở đường qua những bụi cây đen sì và đóng băng nằm chắn lối ra bờ hồ.

Con ngựa nâu của Bonhart thận trọng tiến ra mép băng, khiến bề mặt nhẵn nhụi điểm vài bụi lau nhô lên kêu răng rắc. Băng bắt đầu vỡ bên dưới móng guốc nó và những vết nứt dài đột nhiên tỏa ra khắp hướng.

“Lùi lại!” Bonhart giật dây cương và quay đầu con ngựa vào bờ. “Xuống ngựa! Băng mỏng quá.”

“Chỉ bên bờ hồ gần đám sậy thôi,” Dacre Silifant ước chừng sau khi giậm gót giày lên bề mặt. “Và kể cả ở đây nó cũng phải dày đến gần 5 phân. Nó sẽ chịu được lũ ngựa, không việc gì phải lo…”

Giọng của hắn bị dìm đi bởi một tiếng chửi và hý. Con ngựa xám của Skellen trượt chân và ngã ra sau. Skellen nguyền rủa và thúc gót vào hông con vật. Lần này tiếng chửi đi kèm âm thanh lách tách của băng vỡ. Con ngựa xám lồng lên khi chân sau bị thụt xuống. Nó giãy dụa trong cái hố, làm vỡ thêm nhiều băng hơn và quấy động dòng nước đen ngòm bên dưới. Cú Nâu nhảy khỏi yên và kéo dây cương, nhưng cũng trượt và ngã dúi theo. May thay là hắn đã không cắm đầu xuống bên dưới vó ngựa. Hai gã Gemmera chạy lại giúp hắn đứng dậy, và Bert Brigden cùng Ola Harsheim kéo con ngựa xám lên bờ.

“Xuống ngựa đi, mọi người.” Bonhart nhắc lại, mắt nhìn vào màn sương đang bao phủ cái hồ. “Chúng ta không nên liều lĩnh. Chúng ta sẽ đuổi theo đứa con gái bằng hai chân. Nó cũng sẽ buộc phải đi bộ.”

“Quá đúng.” Boreas Mun xác nhận trong khi chỉ về phía cái hồ. “Trông kìa.”

Trên bờ, nơi những cành cây chìa ra, băng nhẵn nhụi và trong suốt như thủy tinh đóng chai. Chúng có thể thấy từng đám sậy nâu và những loài thủy thực vật bên dưới. Tuy nhiên, xa hơn nữa, băng được phủ bởi một lớp tuyết mỏng. Và những dấu chân đen dẫn vào bên trong màn sương.

“Chúng ta tóm được nó rồi!” Rience hồ hởi kêu lên, buộc dây cương vào một thân cây. “Nó không thông minh như mình tưởng. Nó hướng ra giữa hồ. Nếu chọn hai bên bờ hoặc rừng cây thì chúng ta có thể gặp khó khăn hơn nhiều để bắt được nó!”

“Giữa hồ…” Bonhart nhắc lại với vẻ trầm ngâm. “Giữa hồ là con đường ngắn và thẳng nhất dẫn đến cái tòa tháp ma thuật mà Vilgefortz đã bảo này. Con bé biết điều đó. Mun? Nó cách chúng ta bao xa?”

Boreas Mun, đã đang đứng sẵn trên hồ, quỳ xuống một dấu chân và nhìn ngắm.

“Nửa giờ đồng hồ,” ông ta ước lượng. “Không hơn. Trời đang ấm lên nhưng dấu vết vẫn chưa bị mờ, có thể thấy từng cái đinh đóng giày.”

“Cái hồ,” Bonhart lầm bầm, cố gắng trong vô vọng để nhìn xuyên qua màn sương dày đặc, “kéo dài hơn 5 dặm về phía bắc. Đó là những gì Vilgefortz đã nói. Nếu đứa con gái đã đi trước nửa giờ đồng hồ, nó sẽ cách chúng ta khoảng một dặm.”

“Trên mặt băng ư?” Mun lắc đầu. “Không đâu thưa ngài. Nửa dặm là cùng.” “Càng tốt! Tiến lên!”

“Tiến lên,” Cú Nâu lặp lại. “Coi chừng băng dưới chân và di chuyển nhanh hết mức có thể!”

Chúng thở gấp. Khoảng cách với con mồi đã gần tới mức khiến chúng kích động như phê

thuốc.

“Đừng tách ra!” “Đừng để mất dấu…”

“Và đừng có đi lạc trong cái màn sương chết tiệt này…trắng như sữa vậy…còn chẳng nhìn nổi cách 20 bước chân…”

“Hướng về phía những ngọn thông.” Rience gầm gừ. “Nhanh lên, nhanh lên! Chừng nào vẫn còn tuyết trên băng thì chúng ta còn lần theo dấu nó được…”

“Dấu vết hẵng còn mới,” Boreas Mun đột nhiên lầm bầm. “Rất mới…có thể thấy từng cái dấu đinh một…cô ta đang ở ngay trước mặt chúng ta…thẳng ngay trước mặt chúng ta! Sao chúng ta không nhìn được?”

“Và sao chúng ta không nghe được?” Ola Harsheim thắc mắc. “Bước chân chúng ta cũng phát ra tiếng, và tuyết vỡ vụn dưới đế giày! Sao chúng ta không thể nghe được tiếng cô ta?”

“Bởi vì các người đang lảm nhảm.” Rience sỗ sàng cắt lời. “Tiến lên!”

Boreas Mun bỏ mũ ra và lau mồ hôi trên lông mày. “Cô ta ở trong màn sương.” Ông ta nói khẽ. “Đâu đó trong màn sương…và chúng ta không nhìn được. Chúng ta không thể thấy cô ta đánh từ đâu…như lúc trước…ở Dun Dare…vào đêm Saovine…” Với bàn tay run rẩy ông ta rút kiếm ra khỏi vỏ.

Cú Nâu nhảy tới, túm vai ông ta và lắc mạnh. “Đừng có gây hoảng loạn nữa, lão già đần độn.” Hắn rít lên.

Đã quá trễ. Nỗi kinh hoàng đã lây sang những kẻ khác. Chúng cũng rút vũ khí ra và đứng che chắn cho nhau theo bản năng.

“Con bé không phải hồn ma!” Rience chợt gầm lên. “Con bé thậm chí còn không phải một pháp sư! Và chúng ta có 10 người ở đây! Chỉ có 4 ở Dun Dare thôi, và chúng đều say khướt!”

“Tản ra,” Bonhart đột ngột ra lệnh, “lập thành hàng về hai bên như sợi xích. Nhưng đừng có để lạc mất nhau.”

“Cả ông nữa sao?” Rience cười khẩy. “Ông cũng són đái ra quần à, Bonhart? Tôi cứ nghĩ ông không mê tín dị đoan kia mà.”

Tên thợ săn tiền thưởng nhìn hắn với ánh mắt lạnh hơn băng. “Tản ra,” hắn nhắc lại, phớt lờ tên pháp sư. “Giữ khoảng cách. Tôi sẽ quay lại để lấy ngựa.”

“Cái gì?”

Bonhart lại lần nữa không thèm đưa cho Rience một câu trả lời. Rience nguyền rủa, nhưng Cú Nâu đặt một bàn tay lên vai hắn. “Cứ để mặc ông ta đi,” hắn rít lên. “Cứ để ông ta đi. Đừng lãng phí thời gian nữa! Lập thành hàng! Bert và Stigward, sang trái! Ola, sang phải…”

“Để làm gì, Skellen?”

“Nếu cụm lại một chỗ,” Boreas Mun lầm bầm, “chúng ta có thể sẽ làm vỡ băng dưới chân.

Vả lại, nếu lập thành một hàng thì sẽ giảm bớt được nguy cơ cô ta lọt qua ở hai bên.”

“Hai bên?” Rience bác bỏ. “Sao lại thế? Dấu vết rõ ràng ở trước mặt kia mà. Đứa con gái đi theo một đường thẳng tắp như tên bắn, và nếu nó có ý định quay vòng thì dấu vết sẽ cho thấy ngay!”

“Nói chuyện đủ rồi,” Cú Nâu cắt ngang cuộc tranh luận và nhìn lại màn sương nơi Bonhart đã biến mất. “Tiến lên!” Chúng tiến lên.

***

“Trời đang nóng dần…” Boreas Mun bình phẩm. “Băng đang tan chảy và tạo thành một lớp nước…”

“Sương mù dày quá…”

“Nhưng dấu vết vẫn còn rõ ràng,” Dacre Silifant nhận xét. “Vả lại, tôi nghĩ đứa con gái đang di chuyển chậm hơn trước. Nó đang dần kiệt sức.”

“Chúng ta cũng vậy.” Rience bỏ mũ khỏi đầu và quạt.

“Trật tự.” Silifant chợt đứng lại. “Mọi người có nghe thấy không? Đó là tiếng gì vậy?” “Tôi không nghe thấy gì cả.”

“Tôi thì có…tiếng vỡ vụn…tiếng băng vỡ vụn…nhưng không phải ở kia.” Boreas Mun chỉ vào màn sương nơi dấu chân đang dẫn vào. “Bằng cách nào đó, nó đến từ bên trái…”

“Ta cũng nghe thấy,” Cú Nâu xác nhận và nhìn xung quanh một cách lo lắng. “Nhưng giờ thì nó im rồi. Chết tiệt, ta không thích chuyện này. Ta không thích một chút nào!”

“Dấu vết!” Rience nhắc lại với vẻ chán chường. “Chúng ta vẫn nhìn thấy dấu chân của nó! Các người không có mắt à hay sao? Con bé đi thẳng! Nếu rẽ sang bên kể cả nửa bước thì chúng ta đã trông thấy rồi! Đi nhanh lên, chúng ta sắp tóm được nó rồi! Tôi đảm bảo…”

Hắn dứt câu. Boreas Mun rên một tiếng. Cú Nâu chửi thề.

Từ khoảng cách 10 bước chân trước mặt, trong tầm nhìn hạn chế của màn sương đục như sữa, chúng nhìn thấy dấu vết. Nó đã dừng lại.

“Bệnh dịch quỷ thần ơi!” “Cái quái gì thế?”

“Con bé chắp cánh bay lên à hay sao?”

“Không.” Boreas Mun lắc đầu. “Cô ta không bay đi. Tệ hơn.” Rience chửi thề thật bậy và chỉ vào vết cắt trên băng.

“Giày trượt,” hắn gầm gừ và bất giác nắm chặt tay lại. “Con bé có giày trượt và đã dùng chúng…Giờ thì nó sẽ bay như chim trên mặt băng…Chúng ta sẽ không bắt được nó! Bonhart đang ở chỗ quái nào vậy? Không có ngựa chúng ta sẽ không thể đuổi được!”

Boreas Mun rên rỉ.

Skellen chậm rãi cởi cúc áo và lướt tay qua dải băng đeo trước ngực, đảm bảo rằng mấy cái phi tiêu có thể được rút ra dễ dàng. “Chúng ta sẽ không cần phải đuổi con bé,” hắn nói lạnh lùng. “Con bé khắc tự tìm đến chúng ta. Ta e rằng chúng ta sẽ không cần phải đợi lâu đâu.”

“Ông mất trí rồi à?”

“Bonhart đã thấy trước được điều này. Đó là vì sao hắn quay lại để lấy ngựa. Hắn biết đứa con gái đang dụ chúng ta vào một cái bẫy. Cảnh giác đi! Căng tai ra mà nghe tiếng giày trượt trên băng!”

Dacre Silifant trắng bệch, có thể trông thấy rõ ràng ngay cả trên đôi má đỏ au vì lạnh.

“Các anh em!” Hắn hét lên. “Cảnh giác nào! Và tụ lại với nhau! Đảm bảo rằng mình không bị lạc trong màn sương!”

“Đứng yên!” Cú Nâu quát. “Đứng yên! Hoàn toàn im lặng, bằng không chúng ta sẽ không nghe được…”

Chúng nghe thấy. Từ bên trái của chuỗi xích người, bên ngoài màn sương, vọng lại một tiếng la ngắn. Và âm thanh két két của băng như khi ta cọ một mẩu sắt lên một tấm kính, khiến tóc tai chúng dựng ngược trên đầu.

“Bert,” Cú Nâu la lớn. “Bert! Có chuyện gì thế?”

Chúng nghe thấy một tiếng hét chói tai, và ngay lập tức cái đầu và cổ của Bert Brigden chạy ra khỏi màn sương. Hắn vấp ngã và trượt qua mặt băng trên bụng.

“Cô ta tóm được…Stigward,” hắn thở gấp trong khi đứng dậy một cách khó khăn. “Chém gục anh ta…khi vụt qua…nhanh quá…tôi chưa từng trông thấy thứ gì như vậy…một nữ pháp sư bé nhỏ…”

Skellen nguyền rủa. Silifant và Mun, cả hai đều cầm kiếm trong tay, quay lại và nhìn vào màn sương.

Két két. Két két. Két két. Nhanh. Nhịp nhàng. Gấp hơn và gấp hơn. Ngày càng tới gần… “Bên nào?” Boreas Mun la lên, quay lại và nắm chặt thanh kiếm bằng cả hai tay. “Bên nào?”

“Đứng yên!” Cú Nâu ra lệnh, một cái phi tiêu nằm sẵn trong tay. “Từ bên phải! Đúng rồi!

Từ bên phải! Con bé đang tới từ bên phải! Cẩn thận!”

Bên cánh phải một gã Gemmera bỗng nguyền rủa, xoay người và cắm đầu chạy vào trong màn sương trên mặt băng ẩm ướt. Hắn không đi được xa, thậm chí còn chưa vượt khỏi tầm mắt. Chúng nghe thấy tiếng két két của giày trượt. Chúng trông thấy một bóng người mờ nhạt lao đi. Và ánh sáng lóe lên từ lưỡi kiếm. Gã Gemmera hú lên. Chúng trông thấy hắn ngã, trông thấy máu bắn ra khắp mặt hồ. Gã đàn ông bị thương nhìn quanh, giãy dụa, la hét, khóc lóc. Rồi hắn nằm im và bất động.

Nhưng kể cả trong lúc hắn đang hú, tiếng giày trượt đã lại quay về. Chúng không ngờ rằng cô gái có thể đổi hướng nhanh đến vậy.

Cô lao vào giữa chúng, thẳng vào giữa. Cô tặng Ola Harsheim một nhát kiếm, ngắn và thấp bên dưới đầu gối. Hắn gập đôi người lại như một con dao gấp. Cô xoay vòng và bắn một cơn mưa những mảnh băng sắc nhọn vào Boreas Mun. Skellen nhảy lui lại, trượt chân và nắm lấy tay áo Rience. Cả hai ngã xuống. Tiếng két két lạnh lẽo vang lên cạnh chúng, hất một cơn mưa băng lên mặt. Một gã Gemmera hét lên, và chợt im lặng với một tiếng ré như lợn bị chọc tiết. Cú Nâu biết chuyện gì đã xảy ra. Hắn đã nghe nhiều người bị cắt cổ rồi.

Ola Harsheim tru tréo và bò trên mặt hồ. Két két. Két két. Két két.

Im lặng.

“Stefan,” Dacre Silifant lắp bắp. “Stefan…ngài là hy vọng duy nhất của chúng ta…hãy cứu chúng ta…đừng để…”

“Nó đã khiến tôi tật nguyền rồi, con đĩ!” Ola Harsheim la oai oái. “Giúp tôi với, mẹ kiếp!

Ai đó giúp tôi với!”

“Bonhart!” Skellen hét vào màn sương. “Bonhart! Giúppppp! Ông đang ở đâu rồi, thằng con hoang? Bonharrrrttttt!”

“Cô ta đang bao vây chúng ta,” Boreas Mun thở gấp trong khi dáo dác nhìn quanh và dỏng tai lên. “Cô ta chạy trong màn sương bao quanh chúng ta…và không thể biết cô ta sẽ tấn công chỗ nào…Cái chết! Cô gái này chính là cái chết! Đây là một trận thảm sát, như ở Dun Dare, vào đêm Saovine…”

“Giữ bình tĩnh đi,” Skellen rên rỉ. “Giữ bình tĩnh, nó chỉ rình rập từng người một thôi…nếu thấy nó đến, đừng hoảng…ném kiếm xuống chân nó – túi đồ, thắt lưng…gì cũng được, để nó bị…”

Hắn không nói hết. Lần này chúng còn không nghe được tiếng giày trượt két két. Dacre Silifant và Rience tự cứu lấy mình bằng cách nằm bẹp xuống mặt hồ. Boreas Mun kịp nhảy đi, nhưng Bert Brigden trượt chân và ngã sóng xoài. Khi cô gái rút lui, Skellen vung tay ném cái phi tiêu. Hắn ném trúng. Nhưng nhầm đích. Ola Harsheim, vừa mới xoay sở đứng dậy được, nằm giãy đành đạch giữa vũng máu đỏ, và đôi mắt mở to dường như tập trung vào ngôi sao làm bằng kim loại đang cắm giữa mũi mình.

Gã Gemmera cuối cùng vứt kiếm đi và bắt đầu nấc lên từng tiếng, người run bần bật. Skellen chạy lại chỗ hắn và đấm hết sức bình sinh vào mặt. “Tỉnh táo lại đi,” hắn hét lên.

“Tỉnh táo lại đi! Chỉ là một đứa con gái thôi! Chỉ là một đứa con gái thôi!”

“Ở Dun Dare, vào đêm Saovine,” Boreas Mun khẽ nói. “Chúng ta đã tạo ra con quái vật băng này. Chúng ta sẽ không rời được khỏi đây. Lắng nghe đi! Và nghe cái chết đang tới gần.”

Skellen nhặt lên thanh kiếm của tên Gemmera và cố ấn nó vào tay gã đàn ông đang khóc lóc, nhưng vô vọng. Gã Gemmera nấc từng cơn và nhìn hắn bằng con mắt thẫn thờ. Cú Nâu bỏ thanh kiếm lại và nhảy tới Rience.

“Làm gì đó đi, pháp sư,” hắn rống lên, túm lấy vai Rience mà lắc. Nỗi sợ khiến sức mạnh của hắn được nhân đôi, dù cho Rience to hơn, nặng hơn và chắc hơn, hắn vẫn đung đưa trong tay Skellen như một con búp bê vải rách. “Làm gì đó đi! Gọi Vilgefortz hùng mạnh của ngươi đi! Hoặc tự đi mà làm phép! Hô một câu thần chú, triệu hồi hồn ma, ác quỷ! Làm gì đó đi, gì cũng được, đồ cặn bã bẩn thỉu, đồ thối tha! Làm gì đó đi trước khi con ma này giết hết tất cả chúng ta!”

Tiếng la của hắn vọng lại từ những sườn đồi. Trước khi tiếng vang kịp dừng, âm thanh két két của giày trượt lại xuất hiện. Tên Gemmera khóc lóc sụm xuống và lấy tay ôm mặt. Bert

Brigden rú lên, ném kiếm đi và bỏ chạy. Hắn trượt chân, ngã xuống và trong một lúc bò lồm cồm như một con chó.

“Rience!”

Tên pháp sư nguyền rủa và giơ tay lên. Cả hai tay và môi hắn run rẩy trong khi đọc thần chú. Tuy nhiên, hắn vẫn hoàn thành được. Nhưng không hoàn toàn chuẩn xác.

Những ngón tay giật cục bắn ra một luồng lửa nhỏ xíu. Nhưng nó không chạy trên mặt hồ để chặn đường cô gái như đã định. Nó nổ tung. Băng vỡ tan tành và nước hồ đen ngòm bắn lên. Cái rãnh ngày càng mở rộng và chạy về phía Dacre Silifant, đang đứng nhìn với vẻ sửng sốt.

“Chạy đi!” Skellen hét lên. “Chạy đi!”

Quá muộn. Cái rãnh chạy giữa hai chân Silifant và mở toác ra, đánh tan băng trên mặt hồ thành từng tảng vĩ đại. Dacre mất thăng bằng. Nước dìm đi tiếng kêu của hắn. Boreas Mun ngã xuống hố và biến mất bên dưới làn nước. Gã Gemmera đang quỳ và xác của Ola Harsheim cũng biến mất. Rồi Rience cắm đầu xuống mặt hồ đen ngòm, theo ngay sau là Skellen, nhưng hắn đã bám vào được gờ một tảng băng vào phút chót. Cô gái tăng tốc, nhảy qua khe nứt, đáp cánh xuống lớp băng tan chảy và đuổi theo Brigden. Một phút sau một tiếng hét dựng tóc gáy đục thủng tai Skellen và vọng lại từ bìa rừng.

Cô đã bắt kịp Brigden.

“Ngài thanh tra…” Boreas Mun thở dốc, bằng cách nào đó bơi ra được gờ tảng băng. “Đưa tay cho tôi…ngài thanh tra…”

Skellen chạy lại và lôi ông ta lên. Boreas run lẩy bẩy. Rồi Silifant cũng cố bò lên, nhưng làm vỡ mép băng. Hắn lại biến mất dưới làn nước lần nữa. Nhưng hắn lập tức ngoi lên, ho và khạc nhổ. Hắn tự kéo mình lên bằng một nỗ lực phi thường. Hắn nằm đó, hoàn toàn kiệt sức.

Boreas rên rỉ và nhắm mắt lại. Skellen rùng mình. “Cứu tôi…Mun…cứu…”

Rience bám lấy mép băng, nước ngập đến nách. Mái tóc ướt nhẹp bám dính vào đầu. Răng đánh cầm cập như nhịp đàn – nó nghe như khúc dạo đầu của một bản giao hưởng chết chóc.

Tiếng giày trượt két két. Boreas không di chuyển. Ông ta đợi. Skellen rùng mình.

Cô gái đang tới. Chầm chậm. Máu chảy xuống từ lưỡi kiếm, để lại một vạch đỏ trên băng.

Boreas nuốt nước bọt. Dù đang thấm đẫm nước hồ lạnh cóng, ông ta chợt cảm thấy trong người nóng bừng.

Nhưng cô gái phớt lờ ông ta. Cô nhìn Rience, lúc này đang cố bò lên mặt hồ trong vô vọng. “Cứu tôi…” Rience nói qua hàm răng lách tách. “Cứu tôi…”

Cô gái chậm lại và xoay một vòng trên băng với động tác uyển chuyển như khiêu vũ. Cô đứng đó, hai chân hơi choãi, giữ thanh kiếm bằng cả hai tay, vững vàng, ngang hông.

“Cứu tôi…” Rience lắp bắp, những ngón tay cắm xuống mặt hồ. “Cứu tôi…và tôi sẽ nói cho cô…nơi Yennefer đang ở…tôi thề…”

Cô gái từ tốn bỏ chiếc khăn ra khỏi mặt. Và mỉm cười. Boreas Mun trông thấy vết sẹo xấu xí và cố kìm lại một tiếng hét.

“Rience,” Ciri lên tiếng, mỉm cười. “Ngươi đã muốn dạy cho ta đau đớn là gì mà. Ngươi còn nhớ không? Bằng đôi tay này. Những ngón tay này. Những ngón tay ở đây chứ gì? Những ngón tay mà ngươi đang dùng để bám lấy mép băng này chứ gì?”

Rience đáp lại, nhưng Boreas không hiểu, bởi vì răng của tên pháp sư đánh vào nhau mạnh đến nỗi để nói năng rõ ràng là điều bất khả thi. Ciri quay người và nhấc thanh kiếm lên bằng một tay. Boreas nghiến răng, tin chắc rằng cô gái sẽ tặng một nhát kiếm chí tử cho Rience, nhưng cô chỉ lấy đà. Trước sự kinh ngạc không tả xiết của người truy dấu, cô gái nhanh chóng bỏ đi, tăng tốc với từng động tác chân mau lẹ. Cô biến mất vào màn sương, và trong một thoáng âm thanh két két nhịp nhàng của giày trượt im lặng.

“Mun…giúp…tôi…lên…” Rience ép những câu từ ra khỏi mồm, cằm tựa lên mặt hồ. Hắn quăng cả hai tay lên băng, cố gắng bám lấy nó bằng ngón tay, nhưng móng tay của hắn đã bong hết. Hắn xòe tay ra và cố níu giữ bằng bàn tay và cùi chỏ. Boreas Mun nhìn hắn và biết với sự chắc chắn khiếp đảm rằng…

Ông ta nghe thấy tiếng két két vào giây cuối cùng. Cô gái xáp lại với tốc độ kinh hồn, gần như chỉ là một cái bóng mờ trước mắt ông ta. Cô trượt qua mép hố, chỉ cách mặt nước có vài phân.

Rience hét lên. Rồi sặc sụa trong nước hồ băng giá. Rồi biến mất.

Bên cạnh cái hố, giữa vết giày trượt hoàn hảo, có thể thấy máu loang ra. Và ngón tay. Tám ngón tay.

Boreas Mun nôn mửa.

***

Bonhart phi dọc bìa rừng cạnh bờ hồ với tốc độ tối đa, không thèm lo lắng đến con ngựa có thể ngã gãy chân bất kỳ lúc nào. Những cành thông chìa ra cứa đứt mặt và tay hắn, và tuyết rơi xuống cổ áo hắn.

Hắn không thể nhìn thấy cái hồ, cả thung lũng chìm trong một màn sương như thể vạc dầu đun sôi.

Nhưng Bonhart biết đứa con gái ở đó. Hắn cảm nhận được.

***

Bên dưới lớp băng   , tít sâu dưới đáy, một đàn cá rô tò mò bu lại một vật thể kỳ lạ. Cái   hộp bạc lạ lùng, nhấp nháy đã trượt khỏi túi một xác chết đang nổi trên mặt nước. Trước khi cái hộp kịp tới đáy và thổi lên một làn mây bùn, con cá rô dũng cảm nhất đã thử chạm vào nó bằng đầu mũi. Đột nhiên, chúng bỏ chạy tán loạn.

Cái hộp phát ra những rung động lạ thường.

“Rience? Ngươi có nghe thấy không? Chuyện gì xảy ra với ngươi thế hả? Tại sao ngươi

không trả lời trong hai ngày vừa qua? Ta yêu cầu báo cáo! Đứa con gái thế nào rồi? Ngươi không được để nó bước vào tòa tháp! Ngươi có nghe thấy không? Đừng để nó bước vào Tháp Nhạn… Rience! Trả lời ta đi, chết tiệt! Rience!”

Rience dĩ nhiên là không thể trả lời.

***

Sườn đồi kết thúc, bờ hồ bằng phẳng. Cuối hồ rồi, Bonhart nghĩ, ta đang ở cuối bờ hồ. Ta đã chặn đường đứa con gái. Nó đang ở đâu? Và cái tòa tháp quái quỷ này nữa?

Màn sương đột nhiên rung động và tan đi. Và khi ngước lên, hắn nhìn thấy cô. Cô ở ngay trước hắn, ngồi trên lưng con ngựa đen. Một nữ pháp sư, hắn nghĩ, con bé có một mối liên kết nào đó với con ngựa này. Con bé đã cử nó tới cuối bờ hồ để đợi.

Nhưng điều đó chẳng thay đổi được gì hết.

Ta phải giết nó. Kệ mẹ Vilgefortz. Ta phải giết nó. Nhưng trước tiên ta sẽ khiến nó phải van xin tha mạng…và rồi ta sẽ giết nó.

Hắn gầm lên, thúc gót vào hông ngựa, và phi như điên.

Và bất chợt hắn nhận ra rằng mình đã thua. Rằng cô đã lừa hắn.

Chỉ 150 bước chân ngăn cách họ – nhưng là 150 bước chân trên băng mỏng. Thêm nữa, đoạn cong của cái hồ giờ nằm ở phía bên kia – cô gái đang bám theo nó ở gần cuối bờ hồ hơn nhiều.

Bonhart nguyền rủa, giật dây cương, và thúc ngựa chạy lên băng.

***

“Chạy đi, Kelpie!”

Băng bắn tung tóe bên dưới vó con ngựa đen.

Ciri ép sát vào bờm ngựa. Cảnh tượng Bonhart đang truy đuổi khiến cô bé tràn ngập sợ hãi. Cô khiếp sợ gã đàn ông này. Nội cái ý nghĩ phải chiến đấu với hắn khiến cô cảm giác như ăn một đấm vô hình vào bụng.

Không, cô không thể đánh với hắn. Chưa đến lúc.

Tòa tháp. Chỉ có tòa tháp mới cứu được cô. Và cổng dịch chuyển. Như nó đã làm trên Thanedd khi tên pháp sư Vilgefortz đã ở ngay sau cô, thậm chí với tay ra chạm vào cô…

Sự cứu rỗi duy nhất của cô là Tháp Nhạn. Màn sương tan đi.

Ciri kéo dây cương và chợt cảm thấy trong người như bốc hỏa. Cô không thể tin nổi thứ mình thấy. Thứ đang ở trước mặt.

***                                                      

Bonhart cũng thấy. Và gầm lên chiến thắng.

Không có tòa tháp nào ở cuối bờ hồ hết. Thậm chí còn không có tàn tích của một tòa tháp, bởi vì đơn giản là chẳng có gì ở đó cả. Chỉ là những dãy đồi nhấp nhô mờ mịt. Được tô điểm bởi những tảng đá trơ trọi cùng vài thân cây đóng băng.

“Tòa tháp của mi đó,” hắn hét to. “Tòa tháp ma thuật của mi đó! Sự cứu rỗi của mi đó! Một đống đá cuội không hơn!”

Cô gái dường như không nghe thấy gì và không nhìn thấy gì.

Cô hướng con ngựa đen thẳng về phía đống đá dưới chân ngọn đồi bé nhỏ. Cô giơ cả hai tay lên trời như muốn nguyền rủa thiên đàng.

“Ta đã bảo rồi,” Bonhart hét lên trong khi thúc gót vào hông con ngựa nâu, “mi thuộc về ta! Mi phải làm những gì ta muốn! Không ai cản ta được! Cả người lẫn thần, cả thiên sứ lẫn ác quỷ! Cả một tòa tháp ma thuật! Mi thuộc về ta, nữ witcher!”

Móng guốc con ngựa nâu vang vọng trên băng.

Màn sương đột ngột chụm lại bên dưới một cơn gió nổi lên từ thinh không. Con ngựa nâu bắt đầu hý, nhảy nhót và gặm dây cương. Bonhart cúi xuống và giật dây bằng tất cả sức lực, bởi con ngựa đang lồng lộn – đầu lắc lư qua lại trong khi chân giậm và trượt trên mặt hồ.

Án ngữ giữa hắn và Ciri trên bờ hồ là một con kỳ lân trắng như tuyết, đang nhảy múa và che chắn cho cô gái.

“Ba cái mánh khóe này không lừa được ta đâu,” tên thợ săn tiền thưởng hét lên, kiểm soát được con ngựa. “Ta không sợ phép thuật! Ta sẽ bắt được mi, Ciri! Lần này ta sẽ giết mi, nữ witcher! Mi là của ta!”

Lại lần nữa màn sương chụm lại tạo thành những hình thù kỳ dị. Nó trở nên rõ ràng hơn. Đó là những kỵ sĩ. Bóng dáng khiếp đảm của những kỵ sĩ ma.

Bonhart nhìn chằm chằm.

Trên lưng những con ngựa xương xẩu là những bộ xương người mặc áo giáp rỉ sét, áo choàng rách rưới và mũ trụ bị bào mòn được trang trí bởi sừng bò hay phần còn lại của ngù lông công và đà điểu. Đôi mắt của những hồn ma rực lên một sắc xanh đằng sau khe hở trên mũ. Một lá cờ tả tơi bay phần phật. Trên đầu đoàn kỵ binh là một người đội vương miện và đeo tấm bảo vệ cổ, mà hiện ra sau lớp giáp ngực mở toang hoác.

Biến đi, tiếng nói vang vọng trong đầu Bonhart. Biến đi, người phàm. Cô ta không thuộc về ngươi. Cô ta thuộc về chúng ta. Biến đi!

Không thể phủ nhận rằng Bonhart thực sự dũng cảm. Những hồn ma không làm hắn sợ.

Hắn vượt qua nỗi sợ và không hoảng loạn.

Nhưng con ngựa của hắn hóa ra lại kém mạnh mẽ hơn.

Con ngựa giống màu nâu chồm dậy, bắt đầu múa balê bằng chân sau, hý vang và nhảy loạn xạ. Băng nứt ra dưới móng ngựa một tiếng rắc, và tảng băng dựng ngược trong khi nước bắn lên. Con ngựa la hét và giậm móng lên mép trên của tảng băng, khiến nó vỡ tan tành. Bonhart rút chân ra khỏi bàn đạp để nhảy. Quá trễ.

Nước ngập qua đầu hắn. Nó bắt đầu đập vào màng nhĩ như búa tạ. Phổi hắn có nguy cơ vỡ tung.

Hắn gặp may. Chân hắn đạp trúng thứ gì đó chắc hẳn phải là con ngựa đang chìm. Hắn bơi lên và trồi khỏi mặt nước, thở hổn hển. Hắn nắm lấy mép tảng băng. Không hoảng loạn, hắn rút dao ra, đâm vào mặt băng và tự kéo mình lên. Hắn nằm đó, phì phò, trong khi nước chảy khỏi người.

Cái hồ, lớp băng, những sườn đồi phủ tuyết, khu rừng bách đen điểm trắng – tất cả đều được chiếu rọi bởi một ánh sáng nhợt nhạt không tự nhiên.

Với nỗ lực khổng lồ, Bonhart đứng lên đầu gối.

Đằng sau đường chân trời xuất hiện một dải ánh sáng lấp lánh. Một cơn lốc những chùm sáng nhảy múa bắn ra từ đỉnh, những cây cột rực lửa và xoắn vặn. Những dải băng ánh sáng liên tục đổi dạng lơ lửng trên bầu trời, lóa mắt, mê hoặc.

Bonhart á khẩu. Cổ họng hắn như bị bóp nghẹt.

Tại chỗ mà trước đây chẳng có gì ngoài một ngọn đồi và mấy tảng đá, giờ hiện lên một tòa tháp.

Lộng lẫy, láng mịn, lấp lánh như được tạc từ một khối đá bazan duy nhất. Phía trên những ô cửa sổ trên đỉnh tòa tháp, ánh lửa của cực quang nhảy múa.

Hắn trông thấy cô gái quay lại trên lưng ngựa để nhìn mình. Hắn trông thấy đôi mắt sáng và đường viền của vết sẹo xấu xí trên mặt cô. Hắn trông thấy cô gái thúc con ngựa đen lên trước, khẩn trương bước vào bóng tối đằng sau mái vòm đá của tòa tháp.

Và biến mất.

Cực quang nổ tung thành những đốm lửa sáng đến mù mắt.

Khi Bonhart lại nhìn được, tòa tháp đã biến mất. Chỉ còn lại ngọn đồi phủ tuyết, và một đống đá điểm vài thân cây đóng băng.

Quỳ trên mặt hồ, ướt sũng, bao vây xung quanh là những hố nước, tên thợ săn tiền thưởng rống lên một tiếng hoang dại, kinh hoàng. Trên đầu gối, hắn vươn tay về phía thiên đàng và la, hét, nguyền rủa – người, thần, quỷ.

Tiếng hét bay qua những sườn đồi phủ cây và vang vọng khắp mặt hồ đóng băng của Tarn Mira.

***

Kết cấu bên trong của tòa tháp ngay lập tức gợi cho cô bé nhớ về Kaer Morhen – một dãy hành lang đen ngòm đằng sau cánh cổng dài tương đương, một vực sâu không đáy nằm dọc những cây cột và bức tượng. Cô không thể hiểu cái hố này nằm kiểu gì bên trong tòa tháp mảnh mai. Nhưng cô biết rằng cố phân tích nó là vô nghĩa – không phải trong trường hợp một tòa tháp biến ra từ thinh không, chợt xuất hiện từ nơi trước đây không có gì cả. Trong một tòa tháp như vậy, mọi thứ đều có thể, và ta không nên ngạc nhiên trước bất cứ điều gì.

Cô bé ngoái lại. Cô không tin rằng Bonhart dám – hoặc có thể – đuổi theo mình vào đây.

Nhưng cô muốn chắc chắn.

Cánh cổng nơi cô đã bước qua tỏa ra một thứ ánh sáng lạ kỳ.

Móng guốc của Kelpie lách cách trên nền, mà bắt đầu vỡ vụn dưới chân con ngựa. Xương. Hộp sọ, giẻ sườn, xương chân, xương chậu. Cô bước qua một bãi tha ma khổng lồ. Nó lại gợi cho cô nhớ đến Kaer Morhen. Người chết nên được chôn dưới đất…Đã bao lâu rồi nhỉ…Hồi đó mình thực sự tin vào những điều như vậy…sự tôn nghiêm của cái chết, sự kính trọng dành cho người chết…Nhưng chết chỉ là chết thôi. Và một người chết chỉ là một cái xác lạnh. Không quan trọng nó nằm ở đâu, hay xương cốt bị phân hủy như thế nào.

Cô tiến vào bóng tối, bên dưới những cổng vòm, hàng cột và pho tượng. Bóng tối bắt đầu đè nặng lên người như làn khói. Những giọng nói khẽ thì thầm vào tai cô. Những cánh cửa vĩ đại chợt hiện lên trước mặt cô và mở ra. Chúng mở từng cái một. Những cánh cửa. Một dãy vô tận những cánh cửa nặng nề mở ra trong im lặng.

Móng guốc của Kelpie vang âm trên sàn nhà.

Kết cấu hình học của những bức tường, cổng vòm và hàng cột xung quanh chợt xoắn vặn kỳ quặc tới nỗi Ciri nghĩ rằng nó không thể là thật. Như thể cô đang đi qua một cấu trúc đa diện bất khả thi nào đó, một dạng thập giác khổng lồ.

Những cánh cửa tiếp tục mở. Nhưng chúng không còn chỉ về một hướng duy nhất nữa.

Chúng mở ra những khả năng và hướng đi vô tận.

Ciri bắt đầu nhìn.

Một người phụ nữ tóc đen cầm tay một cô bé tóc màu tro. Cô bé đang sợ, sợ bóng tối, sợ những tiếng thì thầm khẩn thiết, hốt hoảng bởi tiếng vó ngựa. Người phụ nữ tóc đen với ngôi sao kim cương trên cổ cũng sợ. Nhưng không để lộ ra. Cô tiếp tục bước đi cùng đứa trẻ. Nó là định mệnh của cô.

Tiếng móng ngựa của Kelpie. Cánh cửa kế tiếp.

Iola đệ Nhị và Eurneid, trong những chiếc áo khoác ngắn, túi đồ sau lưng, bước đi trên một con đường phủ đầy băng giá. Bầu trời xanh thẳm.

Cánh cửa kế tiếp.

Iola đệ Nhất quỳ trước ban thờ. Bên cạnh là Mẹ Nenneke. Họ nhìn, gương mặt nhăn nhó với vẻ kinh hãi. Họ thấy điều gì? Quá khứ hay tương lai? Sự thật hay giả dối?

Bên trên Nenneke và Iola là những bàn tay. Những bàn tay vươn ra của một người phụ nữ với đôi mắt vàng. Chiếc vòng trên cổ bà treo một viên kim cương lấp lánh như sao mai. Một con mèo ngồi trên vai bà. Một con diều hâu lượn trên đầu bà.

Cánh cửa kế tiếp.

Triss Merigold sửa lại mái tóc nâu đỏ tuyệt đẹp bị thổi tung bởi gió. Nhưng không có cách nào thoát được khỏi cơn gió này, không cách nào thoát được.

Không phải ở đây. Không phải trên ngọn đồi.

Bên dưới sườn đồi là một hàng dài những bóng người vô tận nối tiếp. Họ đi thật chậm. Một số quay sang nhìn cô. Những gương mặt thân quen. Vesemir. Eskel. Lambert. Coen. Yarpen Zigrin và Paulie Dahlberg. Fabio Sachs…Jarre…Tissaia de Vries…

Mistle… Geralt?

Cánh cửa kế tiếp.

Yennefer, trong xiềng xích, bị trói vào bức tường của một hầm ngục ẩm ướt. Bàn tay cô là một đống máu tụ hổ lốn. Mái tóc đen tả tơi và bẩn thỉu…đôi môi nứt nẻ và sưng phồng…nhưng trong đôi mắt tím, ngọn lửa tranh đấu và kháng cự vẫn chưa bị dập tắt.

“Mẹ ơi! Hãy chờ ở đó! Cố lên! Con sẽ đến cứu mẹ!” Cánh cửa kế tiếp. Ciri quay mặt đi. Hối hận. Và xấu hổ.

Geralt. Và một người phụ nữ mắt xanh lục với mái tóc đen cắt ngắn. Cả hai đều khỏa thân.

Nâng lên, hạ xuống cùng nhau. Hòa hợp trong khoái cảm.

Ciri kiểm soát lại cổ họng kẹt cứng và thúc Kelpie. Tiếng móng guốc vang vọng. Bóng tối rung động với những tiếng thì thầm.

Cánh cửa kế tiếp. Chào, Ciri. “Vysogota?”

Ta biết rằng cô sẽ thành công mà, cô thiếu nữ khôn ngoan của ta. Con chim nhạn dũng cảm của ta. Cô có bị thương không?

“Tôi đã đánh bại chúng. Trên băng. Tôi có một bất ngờ dành sẵn cho chúng. Đôi giày trượt của con gái ông…”

Ta đang nói về tổn thương tâm thần…

“Tôi đã kìm lại tham vọng báo thù…tôi đã không giết hết những kẻ mình muốn giết…tôi đã không xuống tay với Cú Nâu…mặc dù chính hắn mới là kẻ đã làm tôi bị hủy hoại. Tôi đã tự chủ.”

Ta biết là cô sẽ chiến thắng mà, Zireael. Và cô sẽ vào được tòa tháp. Ta đã đọc về nó. Bởi vì nó đã được tiên đoán…mọi thứ đều đã được tiên đoán…cô có biết một người có bằng đại học nhờ vào cái gì không? Khả năng sử dụng tài nguyên.

“Sao chúng ta lại có thể nói chuyện với nhau được…Vysogota…ông…?”

Phải, Ciri. Ta đã chết rồi. Ôi, đừng bận tâm! Điều quan trọng là ta đã biết được những gì mình tìm kiếm…ta biết những ngày mất tích đó đã đi đâu rồi, chuyện gì đã xảy ra trong Sa mạc Korath, làm sao cô lại biến mất được trước con mắt của những kẻ truy đuổi…

“Và làm sao tôi lại tới được tòa tháp này?”

Dòng Máu Cổ Xưa chảy trong huyết quản của cô đã cho cô quyền năng thống trị thời gian. Và không gian. Quyền năng thống trị các thế giới và tinh cầu. Giờ đây cô là Nữ thần của Thế giới, Ciri. Cô là một thế lực hùng mạnh. Đừng để những kẻ tội phạm thấp hèn chiếm đoạt và sử dụng cô cho mục đích của chúng.

“Tôi sẽ không để.”

Tạm biệt, Ciri. Tạm biệt, Chim Nhạn.

“Tạm biệt, lão quạ già.”

Cánh cửa kế tiếp. Ánh sáng, ánh sáng lóa mắt. Và mùi hương hoa.

***

Màn sương bao phủ cái hồ nhanh chóng bị thổi bay đi bởi cơn gió. Mặt nước phẳng lặng như gương và những bông huệ trắng nổi bật trên lớp thảm xanh lục.

Bờ hồ tràn ngập cây cỏ và hoa lá. Không khí ấm áp.

Đang là mùa xuân.

Ciri không thấy ngạc nhiên. Sao mà cô có thể ngạc nhiên trước bất kỳ cái gì bây giờ? Bởi vì giờ đây, mọi thứ đều có thể. Tháng Mười Một, băng, tuyết, mặt đất đông cứng, những chồng đá trên sườn đồi trơ trọi – vẫn còn đấy. Nhưng ở đây, tòa tháp bazan mềm mại với đỉnh răng cưa lởm chởm phản chiếu trên mặt hồ xanh thẳm rải đầy hoa huệ. Đây là tháng Năm, bởi vì chỉ có tháng Năm mới mọc hồng hoang và dâu dại.

Gần đó, một người đang chơi một cây sáo sậy, thổi một giai điệu vui tai.

Đứng bên bờ hồ, chân nhúng xuống nước, là hai con ngựa trắng như tuyết. Kelpie khịt mũi và cào móng lên những tảng đá. Hai con ngựa ngẩng lên và nước nhỏ từ mũi chúng, và Ciri trầm trồ.

Bởi vì chúng không phải ngựa, mà là kỳ lân.

Ciri không thấy ngạc nhiên. Cô trầm trồ ngưỡng mộ, không phải kinh ngạc.

Giai điệu vang lên rõ ràng hơn, nó tới từ đằng sau những bụi dâu dại điểm vài bông hoa trắng. Kelpie tự hướng về phía đó, không cần phải mời. Ciri nuốt khan rồi đi theo. Cả hai con kỳ lân đứng bất động như tượng, nhìn cô bé chằm chằm. Bóng chúng in trên mặt hồ phẳng lặng.

Đằng sau bụi dâu dại, một người elves tóc vàng với gương mặt góc cạnh và đôi mắt hạnh nhân to lớn ngồi trên một tảng đá tròn. Anh ta đang chơi nhạc, ngón tay lướt trên những lỗ sáo. Mặc dù để ý thấy Ciri và Kelpie, mặc dù đang nhìn vào họ, anh ta vẫn không dừng lại.

Những bông hoa trắng nhỏ và dâu đen tỏa ra một thứ mùi mà Ciri chưa từng cảm nhận trong đời bao giờ. Cũng chẳng có gì ngạc nhiên, cô bé nghĩ. Ở thế giới nơi mình sống, dâu chỉ có mùi khác mà thôi.

Ở thế giới đó, mọi thứ đều khác biệt.

Người elves kết thúc giai điệu với một nốt cao, đặt cây sáo xuống, và đứng lên. “Cô làm gì mà lâu vậy?” Anh ta hỏi, mỉm cười.

About The Author

Ngo David

Power is Power