The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn

The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 11

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


“Ta có thể cho ngươi mọi thứ ngươi muốn”, bà tiên nói. “Của cải, vương miện và quyền trượng, danh tiếng, một cuộc đời hạnh phúc dài lâu. Chọn đi.”

“Tôi không muốn của cải hay danh tiếng, vương miện hay quyền trượng,” nữ witcher trả lời. “Tôi ước một con ngựa đen và nhanh như ngọn gió đêm. Tôi ước một thanh kiếm sắc và sáng như ánh trăng rằm. Tôi muốn bước qua thế giới trên con ngựa đen trong đêm thâu, tôi muốn đánh bại sức mạnh của Cái Ác bằng thanh kiếm sáng. Đó là tất cả những gì tôi khao khát.”

“Ta sẽ cho ngươi một con ngựa đen hơn màn đêm và nhanh hơn ngọn gió,” bà tiên hứa. “Ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, sắc và sáng hơn ánh trăng rằm. Nhưng ngươi đòi hỏi ở ta rất nhiều, nữ witcher, và cái giá phải trả sẽ là rất lớn.”

“Bằng cái gì? Bởi tôi không có gì cả.” “Bằng máu của ngươi.”

Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.

“Chuyện xảy ra vào ngày mùng 5 của tháng Chín, sau kỳ trăng mới, vào đúng ngày thứ 30 của chuyến hành trình của chúng tôi – bắt đầu với việc rời khỏi Brokilon, và 6 ngày sau trận chiến trên cây cầu.

Bây giờ, các bạn đọc tương lai của tôi, tôi sẽ đi ngược thời gian một chút và miêu tả sự kiện diễn ra ngay sau trận chiến anh hùng và quan trọng trên cây cầu. Đầu tiên, tôi muốn đem đến cho mọi người một chút hoàn cảnh chung, cho những ai không biết gì về trận chiến trên cầu hết – dù là do kết quả của những mối bận tâm khác hay chỉ là tình trạng dốt nát phổ thông. Nó là như vậy: trận chiến diễn ra vào ngày cuối cùng của tháng Tám của Chiến tranh phương Bắc. Nó diễn ra ở Angren, trên cây cầu nối liền hai bờ của con sông Yaruga gần một pháo đài có tên Bến Đỏ. Các bên trong cuộc xung đột đó bao gồm: quân đội Nilfgaard, quân đội Lyria – dẫn đầu bởi nữ hoàng Meve, và chúng tôi, đoàn lữ hành tuyệt vời – bản thân tôi, tác giả của những dòng chữ này, witcher Geralt, ma cà rồng Emiel Regis Rohellec Terzieff–Godefroy, nữ cung thủ Maria Barring, còn gọi là Milva, và Cahir Mawr Dyffryn aep Ceallach, một người Nilfgaard mà thường xuyên nhấn mạnh, với sự quyết liệt không suy chuyển, rằng mình không phải là người Nilfgaard.

Các bạn, độc giả, có thể thấy khó hiểu vì sao nữ hoàng Meve lại còn sống và ở Angren, vì tin tức nói rằng bà đã biến mất và ngã xuống cùng với quân lính của mình khi người Nilfgaard thọc sâu vào Lyria, Rivia và Aedirn hồi tháng Bảy, mà đã kết thúc với sự đầu hàng của ba vương quốc đó cùng với việc đóng chiếm của quân đội Đế chế. Tuy nhiên, Meve đã không bị giết trong chiến trận như người ta tưởng, hay thậm chí bị Nilfgaard bắt giữ làm tù binh. Sau khi đã tụ tập lại, nữ hoàng Meve dũng cảm cùng với một phần lớn lực lượng còn sống sót của quân đội Lyria chiêu mộ bất kỳ ai có thể, bao gồm cả lính đánh thuê và lũ trộm cướp thông thường, và khởi động một chiến dịch du kích chống lại người Nilfgaard. Và vùng Angren hoang dã là vô cùng lý tưởng cho một cuộc chiến như vậy – bất kể họ cần một bụi cây để mai phục hay một bụi cây để nấp khỏi mai phục, Angren đều có thể cung cấp. Bởi vì bụi cây ở Angren mọc khắp nơi. Nói thật thì khu vực đó chẳng có gì đáng để nhắc đến, ngoại trừ mấy bụi cây.

Trung đoàn của Meve – giờ được gọi là Nữ hoàng Trắng đối với quân đội của bà – nhanh chóng lớn mạnh và trở nên táo bạo tới mức họ đã không ngần ngại vượt sang bờ trái của dòng Yaruga, sâu bên trong lãnh địa của quân địch, để hạ trại và thoải mái quấy rối người Nilfgaard.

Giờ chúng ta quay trở lại chủ đề bàn luận chính, trận chiến trên cây cầu. Trận đồ được bố trí như sau: lực lượng của nữ hoàng Meve, sau khi đã ẩn nấp bên bờ trái của dòng Yaruga một thời gian, muốn quay lại bờ bên phải. Tuy nhiên, họ đụng phải một toán lính Nilfgaard mà sau khi đã đóng quân bên bờ phải một thời gian, muốn quay lại bờ bên trái. Chúng tôi nhảy vào tình thế nói trên từ vị trí trung tâm, đó là giữa sông Yaruga và bị bao vây bởi quân lính từ cả hai phía, trái và phải. Do không thể chạy đi đâu nữa, chúng tôi buộc phải trở thành anh hùng, mãi mãi được tôn vinh trong ánh hào quang vĩnh cửu. Trận chiến kết thúc với phần thắng nghiêng về quân Lyria bởi vì họ đã đạt được mục đích của mình, chính là bỏ chạy sang bờ bên phải. Những người Nilfgaard, mà đã bỏ chạy về hướng không xác định, đã thua trận. Tôi nhận ra rằng việc này nghe khá là rối rắm và xin hứa sẽ tham khảo ý kiến của một chuyên gia quân sự trước khi cho xuất bản. Hiện giờ tôi chỉ có thể trông cậy vào thẩm quyền của Cahir aep Ceallach, người lính duy nhất trong đoàn lữ hành của mình – và Cahir đã xác nhận rằng, từ quan điểm của đa số các tài liệu quân sự, chiến thắng một trận chiến bằng cách rút lui thần tốc khỏi chiến trường là có thể chấp nhận được.

Không nghi ngờ gì, sự đóng góp của đoàn lữ hành chúng tôi vào trận chiến là vô giá, tuy nhiên nó cũng để lại một số hậu quả tiêu cực. Milva, người vừa mang thai, đã phải chịu một tai nạn thảm khốc. May mắn đã đủ tốt bụng để bảo vệ những người còn lại chúng tôi và không ai dính phải thương tật nghiêm trọng gì. Tuy nhiên, chẳng ai nhận được phần thưởng nào cả, hay thậm chí là một lời cảm ơn. Ngoại trừ witcher Geralt. Bởi vì, trái với thái độ thờ ơ thường xuyên – và như các bạn có thể thấy, khá đạo đức giả – cùng với lời tuyên bố trung lập của mình, witcher Geralt đã thể hiện lòng nhiệt huyết lớn không kém và ngoạn mục quá mức trong trận chiến. Nói cách khác: anh đã chiến đấu phi thường tới nỗi không thể không nhận ra. Và quả thực, người ta đã không quên anh – Meve, nữ hoàng của Lyria, đã đích thân ban tặng tước hiệp sĩ cho Geralt. Tuy nhiên, vinh dự này lại sớm có vẻ sẽ gây nhiều phiền toái hơn là lợi ích.

Các bạn phải biết, hỡi độc giả thân mến à, rằng witcher Geralt vẫn luôn là một con người khiêm tốn, giản dị, điềm tĩnh và tự chủ, một người luôn giữ kín những cảm xúc của riêng mình và thẳng thắn như một cái cán giáo. Tuy nhiên, sự thăng cấp bất ngờ và sủng ái rõ ràng của nữ hoàng Meve đã thay đổi anh – nếu không hiểu anh rõ hơn, thì tôi sẽ nói rằng vinh quang này đã nhiễm vào đầu witcher. Thay vì nhanh chóng và kín đáo biến mất khỏi hiện trường, Geralt đi vòng quanh khu trại hoàng gia, đắm mình trong vinh dự, tận hưởng lòng yêu mến và ánh hào quang.

Nhưng danh tiếng và sự chú ý là điều cuối cùng chúng tôi cần. Với những người đã quên, tôi xin nhắc lại rằng witcher Geralt được nói ở trên, giờ đã được phong hiệp sĩ, đang bị truy nã do dính dáng tới cuộc nổi loạn trên Thanedd, hòn đảo của các pháp sư, bởi các cơ quan tình báo của cả bốn vương quốc. Đối với tôi, một người chưa từng phạm bất kỳ tội lỗi nào, họ đã cố gán cho cái danh gián điệp. Đi kèm là Milva, người mà hóa ra đã thông đồng với các dryad và Scoia’tael và liên quan đến những vụ thảm sát con người nổi tiếng ở bìa rừng Brokilon. Trên cả đó là Cahir aep Ceallach, một người Nilfgaard mà sau cùng thì vẫn là công dân của vương quốc thù địch, và sự hiện diện trên chiến tuyến ở nhầm bên là rất khó để lý giải và biện minh. Hóa ra, thành viên duy nhất đoàn lữ hành của chúng tôi mà sự nghiệp chưa hề dính một vết nhơ chính trị hay tội ác nào, là một con ma cà rồng. Do vậy, chỉ cần một người bị lật tẩy và xác định danh tính là đủ để tất cả bị đóng cọc. Mỗi ngày chúng tôi tá túc dưới bóng tối của quân kỳ Lyria – mà mới đầu rất thoải mái, no đủ và an toàn – đều nhân lên rủi ro.

Khi tôi nhắc nhở Geralt nhớ về điều này, gương mặt anh hơi tối lại một chút, nhưng anh đã trình bày động cơ của mình cho tôi, mà bao gồm hai mục đích. Thứ nhất, Milva vẫn cần được chăm sóc sau tai nạn không may của cô và có khá nhiều bác sĩ quân y trong đoàn quân. Thứ hai, lực lượng của nữ hoàng Meve đang di chuyển về hướng đông, tới Caed Dhu. Trước khi đoàn lữ hành của chúng tôi bị ép phải đổi hướng và vướng vào cuộc chiến được miêu tả ở trên, chúng tôi cũng đã đang hướng về phía đông, tới Caed Dhu – bởi hy vọng Giáo Hội Druid ở đó có thể cho chúng tôi thông tin hữu ích trong việc tìm kiếm Ciri. Kỵ binh chạy loạn và lính đánh thuê cướp phá ở Angren đã là lý do buộc chúng tôi phải tránh xa con đường thẳng dẫn đến các thầy druid. Giờ đây, dưới sự bảo vệ của quân đoàn Lyria thân thiện, và với lòng tin yêu của nữ hoàng Meve, chúng tôi có thể đường hoàng tới Caed Dhu, dễ dàng và an toàn.

Tôi đã cảnh báo witcher rằng ân huệ của nữ hoàng là rất thất thường và hay lừa phỉnh. Witcher đã không nghe. Tuy nhiên, sớm có thể thấy rằng ai đã đúng. Khi tin tức truyền đến từ phía đông rằng một quân đoàn viễn chinh Nilfgaard đang hành quân tới Angren từ khe núi Klamat, quân đội Lyria quay sang phía bắc mà không chần chừ, hướng tới Mahakam. Các bạn có thể dễ dàng hình dung ra, Geralt không thích việc thay đổi này tí nào – anh muốn tới chỗ các thầy druid sớm nhất có thể, chứ không phải Mahakam! Ngây thơ như một đứa trẻ, anh chạy tới nữ hoàng Meve để xin được giải ngũ và nhận lời chúc phúc của hoàng gia để lo chuyện cá nhân của mình. Và ngay khoảnh khắc đó ân huệ và sự sủng ái của hoàng gia đã chấm dứt, và lòng tôn trọng cùng sự ngưỡng mộ đối với các anh hùng của trận chiến trên cây cầu tan thành mây khói. Vị hiệp sĩ Geralt xứ Rivia được nhắc nhở bằng một chất giọng lạnh lùng, nhưng cứng rắn về nghĩa vụ của mình đối với ngai vàng. Milva vẫn đang đau yếu, ma cà rồng Regis và tác giả của những dòng chữ này đã được khuyên nhủ hãy gia nhập dòng người tị nạn và thường dân đang bám theo doanh trại. Cahir aep Ceallach, một thanh niên cao lớn mà trông chẳng giống thường dân tí nào, được đeo một dải băng xanh–trắng và được cử sang Quân Đoàn Tự Do – một đơn vị kỵ binh được tổng hợp từ đủ các thành phần cặn bã được quân đội Lyria thu nhận dọc đường. Và thế là chúng tôi bị chia cắt và có vẻ như chuyến hành trình đã đi tới hồi kết không thể tránh khỏi.

Như các bạn có thể tưởng tượng, độc giả thân mến, nó chưa kết thúc tí nào. Phải, nó thậm chí còn chưa bắt đầu! Ngay khi biết được tình hình, Milva lập tức tuyên bố mình hoàn toàn khỏe mạnh và sẵn sàng lên đường – và phân phát hiệu lệnh trốn thoát ngay cơ hội đầu tiên. Cahir ném màu cờ hoàng gia vào bụi rậm và biến mất khỏi Quân Đoàn Tự Do, và khuyên Geralt y hệt từ ngôi lều xa xỉ của các hiệp sĩ.

Tôi sẽ không đi vào chi tiết về mình – sự khiêm tốn không cho phép tôi khoe khoang về thành tích của bản thân trong việc giúp đỡ đoàn lữ hành trốn thoát – mặc dù chúng không hề nhỏ. Tôi sẽ chỉ nêu lên sự thật: vào đêm giữa ngày mùng 5 và mùng 6 của tháng Chín, đoàn lữ hành của chúng tôi êm thấm rút lui khỏi quân đoàn của nữ hoàng Meve. Trước khi nói tạm biệt với quân đội Lyria, chúng tôi đã không bỏ lỡ cơ hội thu thập thêm nhu yếu phẩm, tại nhà kho của quân đội mà không được cho phép. Milva đã dùng từ “ăn cướp”, nhưng tôi nghĩ nó nghe hơi nặng nề quá. Sau cùng thì, chúng tôi xứng đáng được thưởng vì vai trò đã tham gia trong trận chiến lịch sử trên cầu. Và nếu không được thưởng, thì ít ra cũng phải đền bù cho những tổn thất và mất mát đã phải chịu. Ngoại trừ tai nạn không may của Milva và vô số thương tích khác mà Geralt cùng Cahir đã hứng nhận, toàn bộ ngựa của chúng tôi cũng đã bị giết hoặc trọng thương trong trận chiến – ngoại trừ chú ngựa Pegasus đáng tin cậy của tôi và Roach ương ngạnh, con ngựa cái của witcher. Vậy là, để bù đắp, chúng tôi lấy ba con ngựa giống thuần chủng và một con ngựa chở đồ. Chúng tôi cũng mang theo số dụng cụ nhiều nhất mà mình cầm được trên tay – phải nói công bằng là sau này chúng tôi đã vứt đi mất một nửa. Như Milva đã nhắc trước khi bắt đầu, nếu ăn trộm trong bóng tối thì chả biết được mình sẽ vớ lấy cái gì. Những đồ vật hữu dụng nhất tới từ con ma cà rồng, người có thể nhìn trong bóng tối rõ hơn ban ngày. Regis cũng làm giảm đi sức chiến đấu của quân đội Lyria bằng một con lừa xám béo phị, mà ông ta đã có thể dắt ra khỏi doanh trại mà không để nó giậm chân hay kêu một tiếng nào. Do vậy, những câu truyện về việc thú vật có thể cảm nhận ma cà rồng và phản ứng lại với mùi của chúng bằng sự hoảng hốt chắc phải bị coi là truyền thuyết – hay ít ra thì coi là truyền thuyết đối với một loài động vật cụ thể và một ma cà rồng cụ thể. Tôi cũng nên nói thêm rằng con lừa xám vẫn còn lại với chúng tôi cho đến ngày hôm nay. Sau này, khi con ngựa chở đồ bị lũ sói hoang lùa và bỏ rơi chúng tôi trong rừng Riverdell, con lừa đã mang toàn bộ hành lý của đoàn lữ hành – hay đống hành lý còn lại. Con lừa có tên Draakula. Nó nhận được cái tên từ Regis sau khi bị ông ta ăn trộm, và vẫn còn giữ cho đến ngày nay. Cái tên rõ ràng là rất thú vị đối với Regis, và chắc hẳn bao hàm một ý nghĩa hài hước nào đó trong văn hóa và ngôn ngữ của ma cà rồng, nhưng khi chúng tôi muốn ông ta giải thích, ông ta chỉ nói rằng đó là một phép chơi chữ không thể dịch được.

Vậy là đoàn lữ hành lại lên đường, và bản danh sách vốn đã dài những người không ưa chúng tôi lại được dài hơn. Geralt xứ Rivia, vị hiệp sĩ không sợ hãi và không xấu hổ, đã rời bỏ hàng ngũ các hiệp sĩ trước khi lễ phong tước của mình được chứng thực và tấm gia huy được thiết kế. Cahir aep Ceallach – người đã từng chiến đấu, và đào ngũ, khỏi quân đội từ cả hai bên của cuộc chiến giữa các vương quốc phương Bắc và Nilfgaard – đã đem lại cho mình án tử hình vắng mặt từ cả hai phía. Những người còn lại cũng chẳng tốt đẹp hơn là bao – thòng lọng là thòng lọng, và sau cùng thì nó cũng chẳng khác biệt lớn lắm, sự khác biệt duy nhất là vì cái gì – vì dám bôi nhọ danh dự của hiệp sĩ, đào ngũ, hay tặng cho một con lừa của quân đội cái tên Draakula.

Nó cũng không nên làm các bạn ngạc nhiên, độc giả thân mến à, rằng chúng tôi đã nỗ lực hết mình để gia tăng tối đa khoảng cách với quân đoàn của nữ hoàng Meve.

Cùng những con ngựa được vay mượn, chúng tôi đi về phía nam tới Yaruga và vượt qua bờ trái. Không chỉ là để dòng sông chắn giữa chúng tôi và nữ hoàng cùng với đội quân du kích của bà, mà cũng cả vì Riverdell đơn độc ít nguy hiểm hơn rất nhiều so với Angren chìm trong khói lửa. Và thế là chúng tôi lên đường tới gặp Giáo Hội Druid ở Cead Dhu theo bờ trái chứ không phải bờ phải. Nghịch lý thay – vì bờ trái của Yaruga đã thuộc về quân địch, Đế chế Nilfgaard. Tác giả của ý tưởng men theo bờ trái là witcher Geralt, người mà sau khi đã giải nghệ khỏi hội anh em hiệp sĩ, đã có lại được hầu hết sự cảnh giác, suy nghĩ hợp lý và logic thông thường của mình. Tương lai cho thấy rằng kế hoạch của witcher là tối quan trọng và ảnh hưởng mãnh liệt tới số phận của toàn bộ chuyến hành trình. Việc đó nói sau.

Khi chúng tôi tới Yaruga, người Nilfgaard đã đang tràn qua cây cầu được xây lại cạnh Bến Đỏ. Họ đang tiếp tục chiến dịch phản công ở Angren – và rồi sau đó là Temeria, Mahakam và có quỷ mới biết ban chỉ huy quân sự Nilfgaard còn lên kế hoạch ở đâu và làm gì nữa. Rõ ràng là không thể qua cầu trong cuộc hành quân, nên chúng tôi đã phải ẩn nấp và đợi khi quân lính qua hết. Hai ngày trời ngồi trong một bụi cây cạnh bờ sông, dần dần phát triển chứng phong thấp và cho muỗi ăn. Để cộng thêm vào tất cả mớ bực dọc đó, thời tiết trở nên tệ hơn. Mưa phùn, rồi những cơn gió ghê tởm, lạnh đến mức răng đánh cầm cập. Tôi không thể nhớ có tháng Chín nào lạnh như thế này, mặc dù trí nhớ rất tốt. Chính là lúc đó, các bạn độc giả thân mến, tôi đã lục lọi trong đống tư trang mượn từ doanh trại Lyria, tìm thấy một cái bút chì và giấy, và bắt đầu – để giết thời gian và quên đi nỗi bực dọc – ghi chép lại và bất tử hóa chuyến phiêu lưu của mình.

Thời tiết mưa phùn não nề cùng sự buồn chán cưỡng bức làm tâm trạng tất cả xấu đi và khơi lên những suy nghĩ u ám. Đặc biệt là đối với witcher. Geralt gần đây đã nhiễm thói quen nhẩm tính số ngày mình bị chia cắt khỏi Ciri – và mỗi ngày không di chuyển, như anh nói, càng khiến họ xa cách nhau hơn. Dưới những tán cây ẩm ướt, trong cái lạnh và cơn mưa, witcher ngày càng trở nên lầm lì và cáu bẳn. Tôi cũng nhận thấy rằng anh đi cà nhắc hơn, và nếu nghĩ rằng không có ai nghe hay trông thấy mình, anh nguyền rủa và rít lên đau đớn. Các bạn phải biết, độc giả thân mến à, rằng xương của Geralt đã bị đập nát trong buổi đại hội của pháp sư trên Thanedd. Những vết gãy đã lành, nhờ vào công sức của các dryad rừng Brokilon, nhưng rõ ràng vẫn để lại di chứng. Vậy là witcher phải chịu đựng, như người ta nói, cả vết thương thể xác lẫn tâm hồn, và anh bực mình tới độ thích được người khác phớt lờ hơn.

Và lại lần nữa những giấc mơ bắt đầu ám ảnh Geralt. Vào ngày mùng 9 của tháng Chín – vào buổi sáng, vì anh đã đứng gác cả đêm và không ngủ cho tới lúc đó – witcher khủng bố tất cả chúng tôi bằng một tiếng la và chồm dậy rút kiếm. Anh nhìn như có vẻ sắp phát điên tới nơi, nhưng may mắn đã tự chủ lại được ngay tức thì.

Anh bỏ đi, và sớm quay lại cùng gương mặt u sầu, đề nghị ngay lập tức giải thể đoàn lữ hành và tiếp tục đi một mình, bởi vì ở đâu đó một sự kiện kinh khủng đã xảy ra và thời gian đang gấp rút. Anh nói rằng sẽ rất nguy hiểm và không muốn ép buộc ai phải chịu trách nhiệm cho bất kỳ ai. Witcher làu bàu nhạt nhẽo và thiếu chắc chắn tới nỗi chả có ai muốn bàn luận chuyện đó cùng anh. Thậm chí con ma cà rồng thông thái mọi khi cũng phớt lờ anh bằng một cái nhún vai. Milva khạc một bãi, Cahir nhắc lại rằng anh ta tự chịu trách nhiệm cho chính bản thân mình, còn về những mối nguy hiểm, nói rằng anh ta không đeo kiếm để trang trí cho sợi dây lưng. Rồi tất cả chìm vào im lặng và tập trung sự chú ý vào tác giả của những dòng chữ này, không nghi ngờ gì là trông đợi rằng tôi sẽ tận dụng cơ hội này để quay về nhà. Tôi không cần phải nói thêm rằng họ đã sai đến mức nào.

Tuy nhiên, sự kiện này lại giúp chúng tôi đặt dấu chấm hết cho bầu không khí ủ dột, và cung cấp động lực để thực hiện một kế hoạch táo bạo – vượt qua sông Yaruga. Tôi thú nhận rằng mình đã lo về phi vụ này – bản chất của kế hoạch đó là bơi qua sông vào buổi đêm, hay, như Milva và Cahir đã gọi, “bị kéo đi bởi đuôi ngựa”. Kể cả nếu họ có đang nói theo cách ẩn dụ – mà tôi rất nghi ngờ là không – thì tôi cũng không thể tưởng tượng ra nổi một cú vượt sông như thế cùng con ngựa thiến Pegasus của mình, mà cái đuôi tôi phải trông cậy vào. Bơi nói chung, không phải và vẫn chưa phải là thế mạnh của tôi. Nếu mẹ thiên nhiên muốn tôi biết bơi thì trong quá trình tiến hóa, bà đã trang bị cho tôi ngón tay cùng ngón chân có màng rồi. Điều đó cũng áp dụng với Pegasus.

Nỗi sợ của tôi hóa ra là vô căn cứ – ít nhất thì cũng là nỗi sợ về việc bị kéo đi bởi đuôi một con ngựa. Chúng tôi đã vượt sông bằng cách khác. Ai mà biết được, có thể nó thậm chí còn điên rồ hơn. Một cách thực sự táo bạo – ngay trên cây cầu vừa mới được dựng lại ở Bến Đỏ, ngay dưới con mắt của lính tuần tra Nilfgaard. Hóa ra kế hoạch đó chỉ có vẻ liều lĩnh điên rồ và là một trò chơi may rủi chết người, trong khi sự thật thì mọi việc diễn ra trơn tru như đồng hồ. Bám theo đoàn lính bộ binh đang vượt cầu là một đoàn xe chở hàng hóa, gia súc, và đủ mọi loại người, bao gồm cả thường dân trong phục trang giản dị, mà đoàn lữ hành của chúng tôi đã trà trộn vào được dễ dàng, không gây chút nghi ngờ nào. Và thế là vào ngày mùng 10 của tháng Chín chúng tôi sang bờ trái của dòng Yaruga. Chỉ một lần là bị tra hỏi bởi một người lính đi tuần mà bị Cahir, với nét mặt cau có của chỉ huy, bịp bằng lời đe dọa về một hình phạt nào đó của đế chế, tăng tính thuyết phục cho câu chữ của mình với cụm từ truyền thống và luôn tỏ ra hiệu quả của quân đội, “thằng con hoang này”. Trước khi có người kịp đến điều tra, chúng tôi đã sang tới bờ trái của dòng Yaruga, sâu vào trong khu rừng Riverdell – bởi vùng đó chỉ có duy nhất một con đường xa lộ, dẫn xuống phía nam, và hướng đi của con đường cùng số lượng người Nilfgaard đi trên đó đều không phù hợp với chúng tôi chút nào.

Tại lần hạ trại đầu tiên ở Riverdell, tôi cũng đã có một giấc mơ kỳ lạ – không như Geralt, tôi không mơ về Ciri, mà là nữ pháp sư Yennefer. Giấc mơ rất lạ, và đáng lo ngại – Yennefer đang khoác trên người, như mọi khi, trang phục màu trắng và đen và bay qua không trung rời khỏi một tòa lâu đài nhỏ nằm trên núi, trong khi các nữ pháp sư khác đứng bên dưới giơ nắm đấm và ném lời sỉ nhục về phía cô. Yennefer vẫy tay áo dài và bay như một con hải âu đen, hướng tới đại dương vô tận, đối diện về phía mặt trời mọc. Từ giây phút đó, giấc mơ chuyển thành một cơn ác mộng. Khi thức dậy, những chi tiết đã biến mất khỏi tâm trí tôi. Chúng chỉ còn là những hình ảnh mơ hồ không rõ ý nghĩa, nhưng vẫn vô cùng khiếp đảm – tra tấn, la hét, đau đớn, sợ hãi, chết,…Nói theo cách khác: kinh hoàng.

Tôi đã giữ kín giấc mơ của mình khỏi Geralt. Tôi đã không nói một lời. Và hóa ra sau này, tôi đã đúng.”

***

“Yennefer, tên cô ta đó! Yennefer thành Vengerberg. Một nữ pháp sư quyền năng và nổi tiếng! Tôi mà nói điêu thì chết ngay tại chỗ!”

Triss Merigold giật mình và quay lại, cố nhìn xuyên qua đám đông và làn khói xanh tràn ngập gian nhà chính của quán rượu. Cuối cùng cô đứng dậy khỏi bàn, để lại, với chút tiếc nuối, một đĩa cá hồi rải sốt cá cơm, một món đặc sản vùng miền thực sự tuyệt vời. Nhưng cô không tới thăm những quán rượu và nhà trọ của Bremevoord để ăn đặc sản, mà là thu thập thông tin. Cô cần phải chú ý đến lịch trình của mình.

Vòng tròn người mà cô phải chen qua đã đứng chật lắm rồi – ở Bremevoord người ta yêu thích những câu truyện phiêu lưu và tận dụng mọi cơ hội để nghe chúng. Và số lớn thủy thủ qua đây chưa bao giờ làm họ thất vọng – họ luôn mang tới một giai thoại hay truyền thuyết mới. Dĩ nhiên, chúng đa phần là bịa đặt, nhưng điều đó không quan trọng. Một câu truyện là một câu truyện. Nó có những quy tắc của riêng mình.

Người phụ nữ đang kể – và đã nhắc tới Yennefer – là một ngư dân tới từ Quần đảo Skellige. Bà ta mập mạp và vai rộng, mái tóc buộc ngắn, và mặc, như bốn người đồng hành, một chiếc áo khoác da cá voi mòn vẹt tới nỗi bóng loáng.

“Đó là buổi sáng ngày 19 của tháng Tám, sau đêm thứ hai của kỳ trăng tròn,” người phụ nữ đảo ghé cốc lên miệng. Bàn tay bà ta, Triss để ý thấy, có màu như gạch cũ, và cánh tay trần, gân guốc và cơ bắp có đường kính chắc phải 20 phân. Đường kính thắt lưng của Triss là 22 phân.

“Khi tia sáng đầu tiên ló dạng,” người phụ nữ nói trong khi quét mắt qua một lượt các khán giả, “chúng tôi chèo thuyền tới eo biển nằm giữa Ard Skellig và Spikeroog, trên dải hàu nơi mình thường thả lưới bắt cá hồi. Chúng tôi đang vội vì bầu trời phía tây tối mịt và có vẻ như một cơn bão sắp sửa đến. Chúng tôi cần nhặt cá hồi ra khỏi lưới nhanh nhất có thể, nếu không – mọi người biết thế nào mà, chạy ra lưới sau khi bão tan thì thứ duy nhất còn lại chỉ là mấy cái đầu lở loét, cả mẻ cá đi tong.”

Các thính giả, đa phần là cư dân Bremevoord và Cidaris, những người sống ven biển và sự tồn tại hoàn toàn phụ thuộc vào nó, gật đầu và xì xào thông cảm. Triss thường chỉ biết đến cá hồi khi chúng đã thành lát và ở trong miệng mình, nhưng cô cũng gật đầu và xì xào, để tránh thu hút sự chú ý. Cô cần ở đó một cách kín đáo, thực hiện một nhiệm vụ bí mật.

“Chúng tôi tới nơi,” người phụ nữ tiếp tục, sau khi đã uống hết cốc bia và ra hiệu rằng một trong số các thính giả nên mua cho mình một cốc nữa. “Chúng tôi tới và đang sắp sửa kéo lưới lên thì Gudrun, con gái của Sturli, hét lên một tiếng! Và chỉ ngón tay về bên mạn phải! Chúng tôi nhìn và thấy có thứ gì đó đen đen bay qua không khí, nhưng không phải một con chim! Trong một giây tim tôi đứng im, bởi vì ngay lập tức nghĩ rằng đó có thể là một con wyvern hay slyzard nhỏ, mà dĩ nhiên, ai cũng biết là đôi lúc bay qua Spikeroog, đặc biệt là vào mùa đông và khi gió tây thổi đến. Nhưng cái thứ màu đen đó rơi xuống nước! Và dội lên một cơn sóng cao hơn 1 mét!

Ào! Ngay vào lưới của chúng tôi! Nó mắc lưới và giãy dụa như một con hải cẩu, và phải mất đến tất cả sức lực của chúng tôi, tất cả mọi người ở đó, 8 người phụ nữ! Mất đến sức của tất cả mọi người để kéo nó lên thuyền! Và khi đấy chúng tôi mới há hốc mồm! Bởi vì đó là một người phụ nữ! Trong một chiếc váy đen, tóc đen như lông quạ. Lăn lộn trong lưới giữa hai con cá hồi, mà một con, tôi thề, nặng gần 12 cân!”

Người phụ nữ tới từ Quần đảo Skellige thổi bọt khỏi miệng cốc bia mới và hớp một ngụm. Không có khán giả nào nói hay bày tỏ thái độ không tin, dẫu rằng kể cả những người lớn tuổi nhất cũng chẳng thể nào nhớ được đã có ai từng bắt một con cá to ấn tượng như thế bao giờ.

“Ả tóc đen vướng trong lưới,” người phụ nữ đảo tiếp tục, “ho sặc sụa, nhổ nước và cào lưới, và Gudrun, phát hoảng bởi vì đang mang bầu, bắt đầu la hét. “Một con Kelpie! Một con Kelpie! Một nàng tiên cá!”, nhưng bất cứ thằng đần nào cũng có thể thấy đó không phải một con Kelpie, bởi một con Kelpie thì đã xé rách lưới từ lâu rồi, và thể loại quái vật nào lại để mình bị mắc lưới được cơ chứ. Và tiên cá thì càng không phải, bởi cô ta làm gì có đuôi, và tiên cá thì luôn có một cái đuôi! Và cô ta còn rơi từ trên trời xuống nữa, đã có ai từng trông thấy một con Kelpie hay tiên cá biết bay chưa? Nhưng Skadi, con gái của Una, người cũng hơi ngớ ngẩn, cũng bắt đầu hét. “Một con Kelpie!”, và chưa gì đã vớ lấy cái móc câu rồi! Và quơ cái móc về phía lưới! Nhưng từ trong lưới, một tia sáng xanh nhá lên, và Skadi ré lên một tiếng và bay ra sau! Móc câu bên trái, Skadi bên phải, tôi mà nói điêu thì chết tại chỗ, cô ấy lộn ra sau ba vòng và ngã dập mông xuống sàn tàu! Ha, hóa ra một nữ pháp sư khi vướng phải lưới thì xấu tính như một con medusa, bọ cạp hay lươn điện! Và ả phù thủy cũng bắt đầu la hét và nguyền rủa chúng tôi! Và chiếc lưới rít lên và bốc khói, mọi thứ sặc mùi phép thuật! Chúng tôi thấy chuyện này không hay rồi…”

Người phụ nữ uống hết cốc và ngay lập tức bắt đầu cốc mới.

“Chuyện này không hay rồi,” – bà ta ợ một tiếng thật lớn, lau mũi và mồm bằng mu bàn tay – “một nữ pháp sư, và chúng tôi tóm được cô ta trong lưới! Tôi muốn nói rằng ma thuật của cô ta, xin thề, đã bắt đầu làm rung chuyển cả con thuyền. Vậy là không còn thời gian chần chừ nữa! Britta, con gái của Karen, giật lưới bằng móc câu, và tôi thì cầm một cái mái chèo và bắt đầu phang cô ta! Phang cô ta! Phang cô ta!”

Bọt bia bắn ra ngoài, và một vài cốc đổ xuống sàn nhà. Các thính giả lau má và lông mày, nhưng không ai nói một lời phàn nàn hay quở trách. Một câu truyện là một câu truyện. Nó có những quy tắc của riêng mình.

“Thế rồi ả phù thủy hiểu rằng mình đang đối mặt với ai,” người phụ nữ vỗ ngực, nhìn xung quanh với vẻ thách thức. “Không thể đùa với phụ nữ của Skellige được! Cô ta xin hàng và hứa sẽ không làm bất kỳ câu thần chú hay bùa phép gì nữa. Và cô ta nói rằng chúng tôi hãy gọi cô ta bằng tên: Yennefer thành Vengerberg.”

Khán giả bắt đầu lầm rầm. Chưa đầy hai tháng trôi qua kể từ khi xảy ra sự kiện trên Đảo Thanedd, và họ vẫn còn nhớ tên của những kẻ phản bội đã bị Nilfgaard mua chuộc. Đặc biệt là Yennefer lừng danh.

“Chúng tôi tóm được cô ta,” người phụ nữ đảo tiếp tục, “mang cô ta từ Ard Skellig tới Kaer Trolde, tới Chúa đảo Crach an Craite. Kể từ lúc đó tôi không trông thấy cô ta nữa. Người ta nói Chúa đảo lúc đấy đi vắng, và khi quay lại ông ta đã sạc nữ pháp sư một trận, nhưng sau đó lại đối xử với cô ta tử tế và ân cần. Hmm…Tôi đã trông đợi một bất ngờ báo thù từ nữ pháp sư, vì đã phang cô ta mấy nhát bằng một cái mái chèo. Tôi đã tưởng rằng cô ta sẽ kể tội mình với Chúa đảo. Nhưng không. Cô ta không nói một lời phàn nàn mà tôi biết. Đúng là một người phụ nữ tử tế. Sau đó, khi cô ta tự vẫn, tôi thậm chí còn cảm thấy thương hại…”

“Yennefer không còn sống nữa sao?” Triss thốt lên, trong lúc hoảng loạn đã quên mất nhiệm vụ bí mật và sự thật rằng cô lẽ ra phải ẩn danh ở đây. “Yennefer thành Vengerberg không còn sống nữa sao?”

“Đúng, cô ta không còn sống nữa.” Người phụ nữ uống nốt bia. “Chết ngắc như một con cá thu. Cô ta tự vẫn bằng chính phép thuật của mình, trong khi đang làm mấy trò phù thủy đó. Chỉ mới gần đây thôi, vào ngày cuối cùng của tháng Tám, ngay trước kỳ trăng mới. Nhưng đó là một câu truyện khác…”

***                                               

“Dandelion! Đừng ngủ gật trên yên ngựa!” “Tôi không ngủ! Tôi đang bận sáng tác!”

***

“Và thế là chúng tôi tiếp tục trên đường, các bạn độc giả thân mến, xuyên qua rừng Riverdell về phía đông, hướng tới Caed Dhu, trong hành trình đi tìm các thầy druid có thể giúp mình tìm được Ciri. Tôi sẽ kể nó diễn ra thế nào. Tuy nhiên, trước hết tôi muốn viết thêm một chút, để tăng thêm tính chính xác của lịch sử, về đoàn lữ hành của mình – và những cá nhân tạo nên nó.

Ma cà rồng Regis đã sống được khoảng 400 năm. Nếu ông ta không nói dối, thì có nghĩa ông ta là người già nhất trong số chúng tôi. Dĩ nhiên, đó có thể chỉ là một trò bịp bợm thông thường, bởi làm gì có ai trong số chúng tôi có thể chứng thực được? Nhưng tôi muốn tin rằng con ma cà rồng đã thành thật, bởi ông ta cũng kể với chúng tôi rằng đã miễn cưỡng từ bỏ thói quen uống máu người của mình – và nhờ vào lời tuyên bố này, chúng tôi đã ngủ dễ hơn một chút khi đêm xuống. Ban đầu tôi có để ý thấy Milva và Cahir có thói quen lén xoa cổ sau mỗi lần thức dậy, nhưng họ đã nhanh chóng từ bỏ. Regis là – hoặc có vẻ như là – một ma cà rồng trọng danh dự. Ông đã hứa sẽ không hút máu, thì sẽ không hút máu.

Tuy nhiên, ông ta vẫn có điểm yếu, và tôi không nói đến những thứ thuộc về bản chất ma cà rồng. Regis là một nhà học giả và rất thường xuyên chứng tỏ sự uyên bác của mình. Ông ta có thói quen cực kỳ khó chịu đó là thốt ra những tuyên bố và sự thật với tông giọng và kiểu cách của một giáo sư, mà chúng tôi đã sớm thôi không phản ứng lại nữa, bởi những tuyên bố đó hoặc là sự thật, hoặc ít nhất nghe có vẻ rất thuyết phục, hoặc không thể được xác minh, mà thế thì cũng chẳng khác là bao. Thế nhưng cung cách dễ gây bực mình nhất của Regis lại là trả lời một câu hỏi trước khi câu hỏi đó được thốt ra hoàn chỉnh – hay đôi lúc thậm chí là trước cả khi câu hỏi đó được thốt ra. Tôi vẫn thường coi những biểu hiện của trí tuệ siêu việt này là biểu hiện của sự thô lỗ và kiêu ngạo, những đức tính rất phù hợp trong một trường đại học hay một triều đình, nhưng cực kỳ khó chấp nhận từ một người đồng hành mà ta phải dành cả ngày đi kè kè bên cạnh, và đêm thì cũng ngủ luôn cùng một trại. Tuy nhiên, nhờ Milva mà không có xích mích nghiêm trọng nào xảy ra. Trái ngược với Geralt và Cahir, những người mà có vẻ đã sao chép phong cách của con ma cà rồng và thậm chí đôi lúc còn ganh đua với ông ta trong khoản này, nữ cung thủ Milva dùng đến một biện pháp rất đơn giản và không hề đạo đức giả. Lần thứ ba nhận thấy ông ta trả lời một câu hỏi trong khi mình vẫn đang nói dở, cô chửi ông ta một trận ra trò, dùng đến những ngôn từ và cách diễn đạt mà thậm chí còn khiến một người lính già cũng phải đỏ mặt. Và, không thể ngờ được, nó đã hiệu nghiệm – con ma cà rồng từ bỏ ngay thói quen dễ điên tiết đó. Bài học ở đây đó là cách phòng thủ hữu hiệu nhất đối với một người thích văn vở đó là chửi thề.

Tôi có cảm tưởng rằng Milva đang gặp khó khăn trong việc vượt qua tai nạn và mất mát đau thương của mình. Tôi viết: tôi có cảm tưởng, bởi vì trên cương vị một người đàn ông, tôi không thể nào hình dung được một tai nạn và bi kịch như vậy có thể ảnh hưởng ra sao tới một người phụ nữ. Mặc dù là một nhà thơ và một con người của ngòi bút, thậm chí cả trí tưởng tượng được tôi luyện và từng trải của tôi cũng thất bại, và tôi không thể làm được gì.

Nữ cung thủ sớm có lại được khả năng vận động của mình – với tình trạng tâm lý có vẻ tồi tệ hơn. Cô không nói nửa lời trong suốt cả một ngày, từ sáng cho đến tối. Cô thường xuyên biến mất và thích được ở một mình hơn, mà bắt đầu khiến tất cả mọi người hơi lo một chút. Nhưng cuối cùng sự thay đổi cũng đến. Tính cách của Milva đúng như một dryad hay một người elves – bạo lực, bốc đồng và khó hiểu. Vào một buổi sáng, ngay trước mắt chúng tôi, cô rút dao ra và, không nói một lời, cắt phăng bím tóc dài đến cổ. “Tôi không xứng đáng mang cái này, vì tôi không còn là trinh nữ nữa.”, cô nói khi trông thấy chúng tôi ngồi há hốc mồm. “Và cũng chẳng phải một góa phụ.”, cô thêm vào, “Đây là dấu chấm hết cho quãng thời gian thương tiếc của tôi.” Kể từ giây phút đó cô trở lại như xưa – cứng rắn, cảnh giác, với một cái lưỡi vô tư lự và những từ ngữ không được xã hội chấp thuận xổ ra dễ dàng. Chúng tôi rút ra kết luận rằng cô đã thực sự vượt qua được cơn khủng hoảng của mình.

Thành viên thứ ba và cũng không kém phần kỳ lạ trong đoàn lữ hành của chúng tôi là một người Nilfgaard, mà luôn muốn chứng tỏ rằng mình không phải người Nilfgaard. Cahir Mawr Dyffryn aep Ceallach, như anh ta nói…”

***

“Cahir Mawr Dyffryn, con trai của Ceallach,” Dandelion nhấn mạnh từng từ, trong khi chĩa ngòi bút chì về phía người Nilfgaard. “Tôi đã phải chấp nhận nhiều điều mà mình không ưa được trong cái đoàn lữ hành nhiệt huyết này, những điều mà tôi gần như không chịu nổi. Nhưng không phải điều này! Tôi không chịu nổi việc có người đứng nhòm qua vai trong khi mình đang viết! Và tôi không có ý định chấp nhận nó!”

Người Nilfgaard di chuyển ra xa khỏi nhà thơ, và sau một phút lưỡng lự, cầm lấy yên cương và tấm áo choàng, rồi mang qua chỗ Milva, người có vẻ đang ngủ gật.

“Xin lỗi,” anh ta nói. “Xin thứ lỗi, Dandelion. Tôi chỉ đang ngồi nhìn vu vơ, vì tò mò. Tôi cứ tưởng anh đang vẽ bản đồ hay tính toán gì đó.”

“Tôi không phải một kế toán!” nhà thơ nhảy dựng lên, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. “Và tôi không phải một nhà địa lý! Và kể cả nếu có phải đi chăng nữa, nó cũng không biện minh được cho việc anh bắt chước một con sếu để coi lén ghi chép của tôi.”

“Tôi đã xin lỗi rồi,” Cahir nhắc khô khan, trong khi sửa soạn chỗ ngủ ở nơi khác. “Tôi đã phải chấp nhận nhiều điều và làm quen với nhiều điều trong cái đoàn lữ hành nhiệt huyết này. Nhưng tôi vẫn giữ nguyên quan điểm rằng mình chỉ cần xin lỗi một lần là đủ.”

“Quả thực,” witcher tán thành, mà khiến mọi người đều ngạc nhiên, bao gồm cả người

Nilfgaard trẻ tuổi. “Cậu bắt đầu trở nên hơi khó chịu rồi đấy, Dandelion. Rõ ràng là nó có liên quan đến đống giấy mà cậu đã hì hục ghi chép bằng cái mẩu chì đó gần đây.”

“Đúng vậy,” ma cà rồng Regis xác nhận, trong khi bỏ thêm vài cành phong vào đống lửa. “Nhà thi sĩ của chúng ta gần đây trở nên khó chịu và hay thích bí mật ở một mình. Ôi, không, có người chứng kiến mình thực hiện nhu cầu cá nhân không làm phiền cậu ta chút nào, mà ngẫu nhiên trong tình thế của chúng ta đây là không có gì đáng ngạc nhiên cả. Do vậy sự lén lút bẽn lẽn và cáu kỉnh với những con mắt soi mói chỉ liên quan tới đống giấy được nói trên. Tôi thắc mắc có phải cậu ta đang khắc ghi hình ảnh của chúng ta trong một bài thơ? Một bài vè? Anh hùng ca? Trữ tình?”

“Không.” Geralt nói trong khi lại gần đống lửa và quàng chăn qua vai. “Tôi biết cậu ta. Đây không thể là thơ, bởi vì cậu ta không báng bổ, tự lẩm nhẩm một mình, hay đếm âm tiết trên đầu ngón tay. Cậu ta viết trong im lặng, vậy có nghĩa nó là văn xuôi.”

“Văn xuôi,” con ma cà rồng cười để lộ răng nanh, mà ông ta thường cố tránh làm vậy. “Một cuốn tiểu thuyết chăng? Hay một bài luận? Chết tiệt Dandelion! Đừng có tra tấn tôi nữa! Nói xem cậu đang viết cái gì đi!”

“Hồi ký.” “Cái gì cơ?”

“Từ những ghi chép này” – Dandelion cho họ xem một cái ống trụ đựng giấy – “công trình của đời tôi sẽ được dựng lên. Một cuốn hồi ký với tựa đề Năm mươi năm thơ ca.

“Một cái tên ngớ ngẩn.” Cahir nói khô khan. “Thơ ca làm gì có tuổi.”

“Và nếu cậu cứ nhất mực gán một cái tuổi cho thơ ca,” con ma cà rồng thêm vào, “thì nó nên già hơn rất nhiều.”

“Các ông không hiểu. Tiêu đề có nghĩa là tác giả đã dành ra 50 năm, không hơn không kém, để phục vụ người tình của mình, đó là thơ ca.”

“Vậy thì nó còn nhảm nhí hơn,” witcher lên tiếng. “Cậu, Dandelion, vẫn còn chưa đến 40. Viết lách được dạy cho cậu ở trường học của đền thờ bằng một cái gậy vào mông kể từ lúc 8 tuổi. Kể cả nếu chúng tôi có giả sử rằng cậu viết thơ từ dạo đó, thì cậu cũng chỉ mới phục vụ người tình của mình không lâu hơn 30 năm. Nhưng tôi không cần phải giả sử, bởi vì chính cậu đã thường xuyên nói rằng mình thực sự bắt đầu sáng tác nghiêm túc khi lên 19, được truyền cảm hứng bởi tình yêu với nữ bá tước de Stael. Thế có nghĩa là còn ít hơn 20 năm, Dandelion. Vậy nên cậu lôi cái 50 năm ở trên tiêu đề từ ống tay áo nào ra thế? Nó chỉ là một hình ảnh ẩn dụ thôi chăng?”

“Tôi,” nhà thơ nói dõng dạc, “nắm lấy đường chân trời rộng mở bằng trí óc. Tôi miêu tả hiện tại, nhưng với đến tương lai. Công trình mà tôi đang xây dựng, tôi dự định sẽ xuất bản trong khoảng 20 đến 30 năm nữa, và rồi sẽ không ai có thể chối cãi lời tuyên bố ở tiêu đề.”

“Aha. Giờ thì tôi hiểu rồi. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên là tầm nhìn của cậu. Cậu thường quan tâm rất ít đến ngày mai.”

“Tôi vẫn quan tâm cực ít đến ngày mai,” nhà thơ lên giọng kẻ cả. “Tôi nghĩ đến kiếp sau.

Và sự vĩnh hằng!”

“Ít ra thì từ quan điểm của các thế hệ tương lai,” Regis nói, “việc bắt đầu tác phẩm bây giờ là không được đúng đắn cho lắm. Những thế hệ tương lai có thể trông đợi một tác phẩm với tựa đề như vậy được viết dưới góc nhìn của một người đã thực sự tích lũy được nửa thế kỷ tri thức và kinh nghiệm…”

“Một người với kinh nghiệm sống của một nửa thế kỷ,” Dandelion cắt lời ông ta, “sẽ phải là một lão già 70 đang chống chọi với đa xơ cứng. Khi đến tuổi đó tôi sẽ ngồi trước hiên nhà và đánh rắm vào cơn gió, chứ không xuất bản hồi ký, và làm trò cười cho người khác. Tôi sẽ không mắc sai lầm này và sẽ viết hồi ký trước đó, khi vẫn còn đầy đủ năng lực sáng tác trong tay. Về sau, ngay trước khi giải nghệ, tôi sẽ chỉ sửa lại một vài chỗ nhỏ.”

“Cậu ta có thể đúng đó,” Geralt mát xa đầu gối đau nhức và cẩn thận gập nó lại. “Đặc biệt là với chúng ta. Bởi mặc dù rõ ràng sẽ xuất hiện trong tác phẩm của cậu ta, và mặc dù chắc chắn cậu ta sẽ chẳng viết được gì tử tế về chúng ta trong đó, chúng ta cũng sẽ chẳng quan tâm lắm trong 50 năm nữa đâu.”

“Nửa thế kỷ là gì?” Con ma cà rồng mỉm cười. “Một khoảnh khắc, một cái nháy mắt…ồ phải, Dandelion, một lưu ý nhỏ: Nửa thế kỷ thơ ca theo ý tôi thì nghe hay hơn là 50 năm.”

“Vì không người nào phản đối,” nhà thơ cúi xuống một tờ giấy và cây bút chì bắt đầu lạo xạo. “Tôi xin cảm ơn, Regis. Cuối cùng, một ý kiến mang tính xây dựng. Có ai muốn bổ sung thêm gì không?”

“Tôi có đây.” Milva bất chợt lên tiếng và thò đầu ra khỏi chăn. “Sao các anh nhìn tôi thế hả? Bởi vì tôi không biết đọc và viết? Tôi không ngu! Chúng ta đang trên một cuộc hành trình tới cứu Ciri, đi vào lãnh thổ quân địch với vũ khí trong tay. Có thể đống giấy lộn của Dandelion sẽ rơi vào tay chúng. Và chúng ta đều biết nhà thơ rồi, chẳng bí mật gì là anh ta bép xép và buôn dưa lê tới mức nào. Chúng có thể sẽ treo cổ ta vì đống giấy đó.”

“Cô đang phóng đại lên thôi, Milva,” Con ma cà rồng nói từ tốn. “Đúng vậy, và hơi quá mức,” Dandelion nói.

“Đối với tôi cũng có vẻ như cô đang phóng đại,” Cahir vô tư thêm vào. “Tôi không biết với người phương Bắc thì như thế nào, nhưng sở hữu một bản thảo không phải là tội ác trong đế chế, và hoạt động văn chương cũng không có gì là phạm pháp.”

Geralt lườm anh ta một cái, và với một tiếng rắc, bẻ gãy cành cây đang nghịch trong tay. “Ấy vậy mà các thư viện đang bị phóng hỏa trong những thành phố bị đất nước văn minh của cậu chiếm đóng,” anh nói bình thản, nhưng với tông giọng buộc tội rõ ràng. “Nhưng đừng bận tâm. Maria, tôi cũng nghĩ là cô đang phóng đại. Đống chữ gà bới của Dandelion chẳng có ý nghĩa nào hết, như mọi khi. Không can hệ gì đến sự an toàn của chúng ta.”

“Chà, tôi biết cái tôi biết,” nữ cung thủ đốp lại và đứng lên. “Nhờ vào kinh nghiệm! Cha dượng tôi, khi quốc khố đang đi điều tra dân số, đã bỏ chạy và trốn trong rừng, ngồi đó suốt hai tuần. “Nơi nào có thư ký là nơi đó có quan tòa.” Ông ta luôn nói vậy, “Hôm nay họ viết giấy mời ta, ngày mai họ đem ta treo cổ.” Và ông ta đúng, mặc dù cũng vẫn là một kẻ cặn bã như người khác. Cầu sao ông ta đang bị luộc chín dưới địa ngục, đồ khốn khiếp!”

Milva ném chăn sang bên và ngồi xuống cạnh đống lửa, cuối cùng cũng thôi cố đi ngủ.

Geralt nhận thấy có vẻ như đêm nay sẽ lại là một đêm tâm sự dài đằng đẵng nữa.

“Cô không ưa cha dượng của mình, tôi đoán vậy,” Dandelion nói sau một quãng im lặng ngắn.

“Tôi không ưa.” Milva nghiến răng trèo trẹo. “Bởi vì ông ta là một gã khốn. Mỗi khi mẹ tôi không nhìn, ông ta lại chạy tới và sờ mó tôi, rồi sau đó nói mình chẳng làm gì cả. Thế là, cuối cùng tôi mất tự chủ và đánh ông ta bằng một cái cào, và khi ông ta ngã xuống tôi còn tặng thêm một chút nữa – hai cú đá vào sườn và một vào chỗ hiểm. Ông ta nằm đó suốt hai ngày, nhổ máu…và tôi bỏ chạy khỏi nhà, không muốn đợi đến khi ông ta bình phục lại. Rồi tôi nghe nói ông ta chết, và mẹ tôi cũng mất không lâu sau khi…Này, Dandelion! Anh đang ghi lại đấy à? Đừng có mà dám! Đừng có mà dám, nghe rõ chưa?”

***

“Thật kỳ lạ rằng Milva lại gia nhập đoàn lữ hành của chúng tôi và càng ngạc nhiên hơn khi con ma cà rồng cũng lựa chọn ở lại. Nhưng động cơ lạ lùng nhất – và hoàn toàn không thể hiểu được – lại tới từ Cahir, người đột nhiên đi từ kẻ thù sang một thứ gì đó như bạn, hoặc ít nhất là đồng minh. Người thanh niên đã chứng tỏ ở trận chiến trên cầu rằng khi cần phải lựa chọn, không ngần ngại, anh ta đã chọn đứng chung với witcher và chống lại đồng bào của mình. Thông qua hành động đó, anh ta đã có được sự tin tưởng và đập tan ngờ vực của chúng tôi. Khi tôi viết “chúng tôi”, tôi muốn nói đến bản thân mình, con ma cà rồng và nữ cung thủ. Bởi mặc dù đã chiến đấu vai kề vai bên cạnh Cahir, và mặc dù đã đứng đối mặt với cái chết bên cạnh anh ta, Geralt vẫn luôn nhìn người Nilfgaard với vẻ nghi ngờ và chưa bao giờ thực sự tin tưởng. Mặc dù cố che giấu sự thù ghét của mình, nhưng khi một người – như tôi có lẽ đã chỉ ra ở trên – mà có tính cách thẳng thắn như cán giáo, thì sớm muộn nó cũng bộc lộ và sự khó chịu thi thoảng tuồn ra ngoài như một con lươn đựng trong một cái xô thủng.

Nguyên do là quá rõ ràng rồi, và đó là Ciri.

Định mệnh đã sắp đặt tôi có mặt trên hòn đảo Thanedd trong kỳ trăng non của tháng Bảy, khi cuộc xung đột đẫm máu giữa các pháp sư nổ ra. Một bên là các pháp sư trung thành với các vị vua, và bên kia là những kẻ phản bội bị Nilfgaard kích động. Những kẻ phản bội đã được trợ giúp bởi lũ Sóc, những người elves nổi loạn – và bởi Cahir, con trai của Ceallach. Cahir đã được cử tới Thanedd vì một nhiệm vụ đặc biệt – bắt cóc Ciri. Khi Ciri tự vệ, cô bé đã làm anh ta bị thương – vết sẹo trên tay Cahir vẫn làm tôi khô miệng mỗi khi nhìn. Nó chắc hẳn phải đau khủng khiếp, và hai ngón tay vẫn chưa gập lại được.

Và rồi sau đó chúng tôi lại giải cứu anh ta khỏi một xe hàng của lũ bán rong, khi chính đồng bào của anh ta trói và dẫn anh ta đi xử tử. Tôi đã hỏi là vì tội gì? Chỉ bởi thất bại của anh ta trên Thanedd? Cahir không phải là người cởi mở, nhưng tôi biết cách lắng nghe gợi ý. Người thanh niên vẫn chưa đến 30, nhưng có vẻ như đã giữ một chức vụ cao trong quân đội Nilfgaard. Và cũng bởi sự lưu loát trong ngôn ngữ phổ thông, mà là một điều hiếm gặp đối với người Nilfgaard, tôi nghĩ mình biết Cahir đã phục vụ trong nhánh nào và tại sao lại được tiến cử nhanh như vậy. Và vì sao anh ta lại được giao phó với một nhiệm vụ hết sức lạ lùng. Một nhiệm vụ ngoài nước, không hơn.

Bởi vì Cahir đã từng cố bắt cóc Ciri một lần. Gần 4 năm về trước, trong trận thảm sát Cintra. Đó chính là lần đầu tiên anh ta cảm nhận được ý chỉ thần linh chi phối số mệnh của đứa trẻ này.

Tôi cũng tình cờ đề cập đến chuyện này với Geralt. Đó là ngày thứ ba sau khi chúng tôi đã vượt Yaruga, và ngày thứ mười trước thu phân, khi chúng tôi đang băng qua rừng Riverdell. Mặc dù rất ngắn, cuộc trò chuyện vẫn chứa đầy những từ ngữ khó chịu và đáng ngại. Và có gì đó trên gương mặt và trong đôi mắt của witcher báo hiệu trước tai họa sẽ xảy ra vào đêm thu phân, sau khi Angouleme tóc vàng đã gia nhập cùng chúng tôi.”

***

Witcher không nhìn Dandelion. Anh không nhìn lên trước. Anh nhìn vào bờm Roach. “Calanthe,” anh tiếp tục, “đã bắt vài hiệp sĩ tuyên thề trước khi nhảy lầu tự vẫn. Họ không

được phép để Ciri rơi vào tay quân Nilfgaard. Trong cuộc chạy trốn các hiệp sĩ đã bị giết và Ciri bị bỏ mặc một mình giữa đống xác người và lửa, trong con phố chật hẹp của một thành phố đang bốc cháy. Con bé không thể toàn mạng mà thoát được, điều đó là rõ ràng. Nhưng cậu ta đã tìm thấy con bé. Cậu ta, Cahir. Cậu ta nắm lấy cổ con bé và lôi nó ra khỏi đống lửa. Cứu mạng nó. Anh hùng làm sao! Cao thượng làm sao!”

Dandelion ghìm Pegasus lại một chút. Họ đang đi ở cuối – Regis, Milva và Cahir đang đi trên đầu cách khoảng 50 bước chân, nhưng nhà thơ không muốn thậm chí là một từ nào của cuộc trò chuyện này lọt đến tai những người đồng hành.

“Vấn đề là,” witcher tiếp tục, “Cahir của chúng ta đã được ra lệnh phải cao thượng. Cậu ta cao thượng như con bồ nông không ăn sống con cá mồi vì cổ bị đeo nẹp, khiến nó không nuốt được. Nó ngậm con cá trong mồm, nhưng không dám nuốt vì còn phải đem đến cho chủ nhân. Và khi nó không thể thì chủ nhân nổi cơn thịnh nộ với con bồ nông! Con bồ nông không còn danh dự! Có lẽ vì thế mà giờ đây nó tìm kiếm tình bạn từ những con cá? Cậu nghĩ sao, Dandelion?”

Nhà thi sĩ nghiêng về phía trước để tránh một cành bồ đề đang chìa ra đường. Lá trên cành đều mang một màu vàng.

“Tuy vậy anh ta vẫn đã cứu mạng cô bé, như chính anh đã nói đó. Nhờ anh ta, Ciri đã thoát khỏi Cintra không xây xước.”

“Và khóc mỗi đêm khi mơ thấy cậu ta.”

“Nhưng vẫn chính là anh ta đã cứu cô bé. Đừng cố thù dai nữa, Geralt. Quá nhiều thứ đã thay đổi rồi, ý tôi là, quá nhiều thứ đang thay đổi mỗi ngày. Sự thù ghét khó chịu này rõ ràng không ích gì cho anh. Anh ta đã cứu Ciri. Điều đó vẫn và sẽ luôn là một sự thật.”

Geralt cuối cùng rời mắt khỏi bờm Roach, ngẩng đầu lên. Dandelion liếc nhìn gương mặt anh và vội quay đi chỗ khác.

“Sự thật vẫn còn đó.” Witcher nhắc lại bằng một chất giọng ác độc, lạnh lùng. “Ồ phải! Cậu ta đã hét cái sự thật này vào mặt tôi trên Thanedd, nhưng quá sợ khi trông thấy lưỡi kiếm của tôi đến mức không cất lên lời. Sự thật đó và tiếng hét đó lẽ ra phải là nguyên nhân cho việc tôi không xuống tay. Chà, đúng là tôi đã không xuống tay và giờ thì không thể thay đổi được nữa. Quá tệ. Bởi vì kể cả từ lúc đó, trên Thanedd, tôi đã nghĩ sẽ bắt đầu một sợi dây với cậu ta. Một sợi dây dài những cái chết, một chuỗi báo thù, mà người ta vẫn sẽ nhắc về cả sau 100 năm nữa. Mà người ta sợ phải nói đến khi đêm xuống. Cậu có hiểu không, Dandelion?”

“Không hẳn.”

“Vậy thì xuống địa ngục đi.”

***

“Cuộc trò chuyện đó thật ghê tởm, và vẻ mặt của witcher cũng ghê không kém phần. Ôi trời, tôi không thích mỗi khi anh lại rơi vào tâm trạng đó, nói về những chuyện như vậy.

Tuy nhiên, tôi phải thú nhận rằng sau phép so sánh sinh động về con bồ nông – tôi bắt đầu cảm thấy không yên. Con cá ngậm trong mỏ, bị mang tới Nilfgaard, nơi nó sẽ bị tẩm gia vị, mổ xẻ và nướng chín! Một phép phân tích thú vị làm sao, một cái nhìn thật lạc quan…

Tuy vậy vẫn có những lý do chống lại được nỗi sợ đó. Sau cùng thì – nếu các bạn vẫn bám lấy phép ẩn dụ về cá, thì chúng tôi là gì? Tuế, những con cá tuế nhỏ xíu, trơ xương. Cahir không thể nào hy vọng trao đổi ân huệ hoàng gia cho một mẻ lưới nghèo nàn như vậy. Anh ta, theo mọi nghĩa, không hề là con cá chó mà mình ra vẻ đây. Anh ta là một con cá tuế, cũng như chúng tôi. Liệu có ai thèm để ý đến những con cá tuế trong thời chiến không, khi sắt thép định hình thế giới và vận mệnh của con người?

Tôi cược cái đầu của mình rằng chẳng còn ai ở Nilfgaard thậm chí nhớ đến Cahir nữa.”

***

Vattier de Rideaux, người đứng đầu cơ quan tình báo quân đội của Nilfgaard, lắng nghe lời quở trách của đế chế với đầu cúi thấp.

“Thế đó,” Emhyr var Emreis lạnh lùng tiếp lời. “Cái cơ quan tốn tiền của quốc khố gấp ba lần giáo dục công cộng, nghệ thuật và văn hóa cộng lại, thậm chí còn không thể xác định được vị trí của một người. Bởi vì có vẻ như người đó đã đơn giản bốc hơi và ẩn nấp, dù cho ta đã tiêu tốn cả một gia tài cho cái cơ quan nói trên, để chắc rằng không ai có thể nấp được khỏi mắt nó! Một kẻ phạm tội phản quốc đã khiến cơ quan của ngươi trông như một trò đùa, cái cơ quan mà ta đã trao tài nguyên và đặc quyền đủ để khiến cả người vô tội cũng phải thấy mất ngủ. Tin ta đi, Vattier, lần tới khi Hội đồng họp bàn nhu cầu cắt giảm chi phí cho tình báo, ta sẽ lắng nghe với đôi tai cảm thông. Ngươi có thể tin ta!”

“Hoàng đế” – Vattier de Rideaux hắng giọng – “không nghi ngờ gì là sẽ ra được quyết định đúng đắn sau khi cân nhắc hết lợi và hại. Cả những thất bại và thành công mà chúng tôi đã đạt được. Hoàng đế có thể chắc chắn rằng tên phản bội Cahir aep Ceallach sẽ không trốn thoát được công lý. Tôi đã cố gắng hết sức…”

“Ta không trả công cho cố gắng của ngươi, mà là kết quả. Và chúng mới khiêm tốn làm sao, Vattier, rất khiêm tốn! Vấn đề với Vilgefortz đến đâu rồi? Cirilla đang ở chỗ quái nào? Ngươi lầm bầm cái gì thế? Nói to lên!”

“Tôi nghĩ Hoàng đế nên cưới cô gái chúng ta đang giữ ở Darn Rowan. Chúng ta cần cuộc hôn nhân này, quyền trị vì hợp pháp của Cintra, và xoa dịu Quần đảo Skellige cùng quân nổi loạn ở Attre, Strept, và Bắc Mag Turga. Chúng ta cần một vùng nội địa bình yên, an toàn để di chuyển hàng tiếp tế…Chúng ta cần sự trung lập của vua Kovir, Esterad Thyssen.”

“Ta biết. Nhưng đứa con gái ở Darn Rowan không phải đúng người. Ta không thể cưới cô

ta.”

“Xin Hoàng đế thứ lỗi, nhưng nó có quan trọng không, việc cô ta là đúng người? Tình hình chính sự đòi hỏi phải có một nghi lễ chính thức. Và sớm. Cô gái đó sẽ trùm một mảnh vải che mặt. Và khi chúng ta tìm được Cirilla thật sự, việc đơn giản cần làm là…đổi người.”

“Ngươi điên rồi à, Vattier?”

“Chúng ta mới chỉ đưa kẻ mạo danh ra trước công chúng một thời gian ngắn. Cintra đã không được nhìn Cirilla thật sự trong 4 năm rồi, và có vẻ như đằng nào thì cô ta cũng dành nhiều thời gian ở Skellige hơn là Cintra. Tôi xin cam đoan rằng sẽ không ai nhận ra được.”

“Không!”

“Thưa Hoàng đế…”

“Không, Vattier! Ta muốn Ciri thật! Giờ thì nhấc mông lên đi. Tìm Ciri cho ta. Tìm Cahir.

Và Vilgefortz. Bởi vì ta chắc bất cứ nơi nào có Vilgefortz thì Ciri cũng ở gần.” “Thưa Hoàng đế…”

“Ta đang nghe đây, Vattier! Ta đã nghe suốt từ nãy đến giờ đây!”

“Trong quá khứ, tôi đã nghi ngờ vấn đề với Vilgefortz chỉ là một sự khiêu khích đơn giản. Rằng tên pháp sư đã bị bắt hoặc bị giết, và cuộc săn lùng ráo riết và ồn ào của Dijkstra đối với hắn chỉ nhằm để làm tổn hại danh tiếng của chúng ta và biện minh cho việc trả đũa đẫm máu.”

“Ta cũng đã nghi ngờ điều này.”

“Tuy nhiên…đây không phải thông tin đại chúng ở Redania, nhưng tôi đã biết từ các gián điệp của mình rằng Dijkstra đã phát hiện được một nơi ẩn náu của Vilgefortz, và ở đó có nhiều bằng chứng cho thấy tên pháp sư đang thực hiện những thí nghiệm tàn bạo trên cơ thể người. Nói rõ ràng hơn, thí nghiệm trên bào thai…và phụ nữ mang bầu. Vậy nên nếu Vilgefortz có được Ciri trong tay, thì tôi e rằng cuộc tìm kiếm…”

“Câm đi, chết tiệt!”

“Mặt khác,” Vattier de Rideaux nhanh chóng lèo lái cuộc nói chuyện, tuân theo mệnh lệnh vô hình trong con mắt phẫn nộ của Hoàng đế, “đó có thể chỉ là thông tin giả. Để bôi nhọ tên pháp sư. Việc đó rất giống với phong cách của Dijkstra.”

“Ngươi nên loại bỏ hắn và tìm Vilgefortz cùng Ciri đi! Quỷ dữ bắt các người đi! Đừng có đoán mò hay giả định gì nữa! Cú Nâu đâu rồi? Vẫn còn ở Geso sao? Hắn có cần phải lật từng hòn đá và tìm từng cái hố không? “Đứa con gái rõ ràng không ở đó và chưa từng ở đó bao giờ?”. “Tay chiêm tinh hoặc đã mắc sai lầm hoặc nói dối?”. Đây đều là trích dẫn nguyên văn từ báo cáo của hắn. Vậy thì hắn còn ở đó để làm gì?”

“Thanh tra trưởng Skellen, tôi dám nói, đang ấp ủ những mục đích rất không rõ ràng…Đội đặc nhiệm của ông ta, mà Hoàng đế đã ra lệnh triệu tập, đã xây dựng căn cứ cho mình ở pháo đài Rocayne, tại Maecht. Đội đặc nhiệm này, tôi xin nói thêm, là một đám người rất khả nghi. Tuy nhiên, thậm chí còn kỳ lạ hơn khi ngài Skellen còn thuê một sát thủ nổi tiếng vào cuối tháng Tám…”

“Cái gì?”

“Ông ta đã thuê một thợ săn tiền thưởng và yêu cầu hắn thanh lý một băng nhóm đang hoành hành tại Geso. Một việc đáng khen ngợi, nhưng liệu đó có phải là nhiệm vụ của thanh tra trưởng hoàng gia không?”

“Ngươi có chắc rằng mình không ghen tị không đấy, Vattier? Và bản báo cáo của ngươi không hề thiên vị chút nào?”

“Tôi chỉ nêu lên những sự thật, thưa Hoàng đế.”

“Ta muốn nhìn thấy sự thật” – Hoàng đế đột ngột ngắt lời – “Ta chán phải nghe về chúng lắm rồi.”

***

Đó quả thật là một ngày rất mệt mỏi. Vattier de Rideaux cảm thấy rã rời. Lịch trình của ông ta còn một đến hai tiếng lo việc giấy tờ, mà sẽ giúp ông ta khỏi ngập trong đống tài liệu dang dở vào ngày mai, nhưng thậm chí nghĩ đến thôi là cũng đủ khiến ông ta rùng mình. Không, ông ta nghĩ, thần linh ơi, không. Công việc cũng chẳng chạy đi đâu được. Ta sẽ về nhà…không, không phải nhà. Vợ ta cứ việc đợi. Ta sẽ tới chỗ Cantarella. Tới Cantarella đáng yêu, nơi ta có thể thư giãn cũng như…

Ông ta không đợi lâu. Ông ta đơn giản đứng dậy, vớ lấy áo khoác và ra ngoài. Khi người thư ký cố đưa cho Vattier một túi da dê đựng đầy giấy tờ khẩn cấp đang cần chữ ký của ông ta – Vattier bảo cô ta dừng lại với một cử chỉ ghê tởm. Ngày mai! Ngày mai là một ngày khác!

Ông ta rời cung điện qua cửa hậu dọc theo những khu vườn và bước xuống một dãy hành lang ngắn tạo nên bởi hai hàng cây trắc bá. Ông ta bước qua cái hồ nhân tạo chứa một con cá chép đã 132 tuổi. Hoàng đế Torres đã rất yêu quý và trao cho nó một cái huy chương nhỏ bằng vàng, đính vào cái vây của con cá khổng lồ.

“Chào buổi tối, tử tước.”

Vattier lắc tay, nới lỏng con dao găm giấu trong tay áo mình. Cán dao trượt vào lòng bàn tay ông ta.

“Ngươi đang rất liều lĩnh đấy, Rience,” ông ta nói lạnh lùng. “Ngươi đang rất liều lĩnh khi chường cái khuôn mặt cháy xém của mình ra ở Nilfgaard đấy. A, đây chắc hẳn là một ảnh chiếu ma thuật…”

“Ngài đã nhận ra rồi sao? Vậy mà Vilgefortz đã đảm bảo rằng không ai có thể đoán được nó là một ảo ảnh mà không cần chạm vào.”

Vattier cất con dao đi. Ông ta đã đoán nó là một ảo ảnh, nhưng giờ thì biết chắc.

“Rience,” ông ta nói, “ngươi quá nhát để có thể tự mình xuất hiện ở đây. Ngươi biết mình có thể trông đợi điều gì mà.”

“Hoàng đế vẫn còn ôm mối hận với tôi sao? Và chủ nhân Vilgefortz của tôi?” “Sự xấc láo của ngươi là khá thú vị đó.”

“Trời ơi, Vattier. Tôi xin đảm bảo rằng chúng tôi vẫn còn ở bên của ngài, cả tôi và Vilgefortz. Chà, tôi thú nhận là mình đã phản bội ngài, bởi vì chúng tôi đã đưa cho ngài nhầm Cirilla, nhưng việc đó là thiện chí mà, tôi mà nói dối thì chết chìm. Sau khi Cirilla thật đã biến mất, Vilgefortz nghĩ rằng giả còn hơn không. Chúng tôi đã tưởng ngài sẽ không quan tâm…”

“Sự xấc láo của ngươi không thú vị, mà là sỉ nhục. Ta không có ý định lãng phí thời gian với một cái ảo ảnh. Khi cuối cùng ta bắt được ngươi thật sự, rồi chúng ta sẽ xem ngươi có thể giải trí cho ta kiểu gì, và ta sẽ đảm bảo rằng nó diễn ra thật từ từ. Ta hứa đó. Nhưng cho đến lúc đấy…chào nhé, Rience.”

“Tôi không còn nhận ra ngài nữa rồi, Vattier. Vattier mà tôi biết, kể cả nếu quỷ sứ có hiện ra trước mặt mình, thì cũng phải tìm hiểu xem hắn có lợi ích gì hay không trước khi thực hiện lễ trừ tà.”

Vattier không nhìn vào cái ảo ảnh, mà dõi theo con cá chép bám đầy rêu quẫy bùn trong hồ. “Có ích?” Cuối cùng ông ta nhắc lại, và mím môi với vẻ khinh bỉ. “Ngươi? Ngươi có thể cho ta cái gì đây? Có lẽ là Cirilla thật? Có lẽ chủ nhân của ngươi, Vilgefortz? Có lẽ Cahir aep Ceallach?”

“Dừng lại!” Ảo ảnh của Rience giơ tay lên. “Ngài đoán trúng rồi đấy.” “Ta đoán trúng cái gì?”

“Cahir. Chúng tôi sẽ cung cấp cái đầu của Cahir cho ngài. Tôi và chủ nhân của tôi, Vilgefortz…”

“Cho ta xin đi, Rience,” Vattier khịt mũi. “Cứ việc nhắc tên, nhưng…”

“Như ngài muốn. Vilgefortz – cùng với sự trợ giúp khiêm nhường của tôi – sẽ cung cấp cho ngài cái đầu của Cahir, con trai của Ceallach. Chúng tôi biết hắn đang ở đâu, chúng tôi luôn có thể lôi hắn ra từ trong tay áo, nếu cần.”

“Ngươi đã có cơ hội, có thể như vậy. Làm ơn đi, chẳng lẽ ngươi đang nói với ta rằng mình có gián điệp tin cậy đến thế trong quân đội của nữ hoàng Meve?”

“Ngài muốn thử tôi?” Rience cau mày. “Hay ngài thực sự muốn biết? Có lẽ là vế sau. Cahir, tử tước đáng kính của tôi, đang…chúng tôi biết hắn đang ở đâu, chúng tôi biết hắn muốn đi đâu, và chúng tôi biết hắn đang đi cùng ai. Ngài muốn cái đầu của hắn? Chúng tôi sẽ lấy được.”

“Cái đầu,” Vattier mỉm cười, “mà sẽ không còn có thể kể lại những gì đã xảy ra trên Thanedd được nữa.”

“Như thế có lẽ sẽ tốt hơn,” Rience đáp lại nham hiểm. “Sao phải cho Cahir cơ hội lên tiếng làm gì? Công việc của chúng ta là làm dịu mối bất hòa giữa Vilgefortz và Hoàng đế, chứ không phải làm căng thẳng thêm. Tôi sẽ cung cấp cái đầu im lặng của Cahir aep Ceallach. Chúng ta sẽ thỏa thuận sao cho công trạng là của ngài và chỉ riêng ngài. Giao hàng trong vòng 3 tuần.”

Con cá chép già quẫy nước bằng vây trước. Con cá, Vattier nghĩ, chắc phải rất thông thái. Nhưng nó cần thông thái để làm gì? Lúc nào cũng trong cùng một vũng bùn và cùng những cây hoa súng.

“Giá của ngươi, Rience?”

“Vặt vãnh. Stefan Skellen đang ở đâu và kế hoạch của ông ta là gì?”

***

“Ta đã nói cho hắn những gì hắn muốn biết.” Vattier de Rideaux nằm dài trên gối trong khi nghịch ngợm một lọn tóc vàng của Carthia van Canten. “Nàng thấy đấy, có một vài chuyện phải được xử lý một cách thông minh. Và ‘thông minh’ có nghĩa là phù hợp. Nếu làm khác đi, ta sẽ chẳng có gì cả. Chỉ là một vũng bùn hôi thối trong một cái chậu. Và dẫu cho cái chậu làm từ cẩm thạch và cách cung điện chỉ có vài bước chân thì sao chứ? Ta nói có đúng không?”

Carthia van Canten, biệt danh là Cantarella, không trả lời. Vattier không trông đợi là cô sẽ trả lời. Cô gái mới chỉ 18 tuổi và nói cho cùng thì, cũng không được sáng lạn cho lắm. Mối quan tâm của cô chỉ giới hạn trong việc – ít nhất là vào lúc này – làm tình, cùng với – ít nhất là vào lúc này – Vattier. Khi nói đến tình dục thì Cantarella có một tài năng thiên bẩm, kỹ năng của cô chỉ có thể bị vượt qua bởi sự đam mê và nhiệt huyết cháy bỏng. Nhưng đây không phải là phẩm chất quan trọng nhất của cô gái.

Cantarella nói rất ít và hiếm, nhưng là một người nghe tuyệt vời và tự nguyện. Vattier có thể trút hết tâm tư với cô, thư giãn, thư giãn, thư giãn, và tự vực lại bản thân mình.

“Trong cái nghề này, người ta sẽ phải trông đợi nhiều lời quở trách,” Vattier nói cay đắng, “bởi vì họ vẫn chưa tìm ra được Cirilla. Tuy nhiên, nhờ vào công sức của thuộc hạ của ta mà quân đội mới dành được những thắng lợi như vậy, và điều đó không là gì sao? Và bộ chỉ huy quân sự biết được tường tận mọi động thái của quân địch, điều đó không là gì sao? Và một vài pháo đài mà các gián điệp của ta đã mở sẵn ra cho quân đội đế chế, thay vì buộc họ phải bao vây chúng hàng tuần mới chiếm được? Nhưng không, chẳng có lời khen ngợi nào cả. Cirilla mới là điều quan trọng nhất!”

Khịt mũi giận dữ, Vattier de Rideaux cầm lấy cái chén rót đầy rượu Est Est hảo hạng của Toussaint từ tay Cantarella. Đó là một vật kỷ niệm gợi lại những ngày khi mà Hoàng đế mới chỉ là cậu bé Emhyr var Emreis, bị tước mất quyền thừa kế và sỉ nhục tàn nhẫn – còn Vattier de Rideaux vẫn mới là một sĩ quan trẻ trong đơn vị tình báo, chẳng chiếm chức vụ quan trọng nào trong thể chế chính trị cả.

Đó đã là những năm tháng tuyệt vời. Đối với rượu vang.

Vattier uống một chút, tay mân mê bộ ngực tròn trịa của Cantarella, và tâm sự. Cantarella chăm chú lắng nghe.

“Stefan Skellen, cô gái ngọt ngào của ta à,” người đứng đầu cơ quan tình báo của đế chế lầm rầm, “là một tên lừa đảo và mưu mô. Nhưng ta đã biết những dự định của hắn từ trước cả khi Rience…ta đã cài một người ở đó rồi…một người rất thân cận với Skellen…rất thân cận…”

Cantarella cởi bỏ chiếc khăn buộc tóc và cúi xuống. Vattier cảm nhận được hơi thở của cô và khẽ thở dài, chờ đợi khoái lạc sắp đến. Một tài năng thiên bẩm, ông ta nghĩ. Và rồi đôi môi mềm mại, nóng bỏng với cảm giác như nhung khi chạm vào làm tan biến mọi suy nghĩ trong đầu ông ta.

Carthia van Canten dâng hiến tài năng của mình cho Vattier de Rideaux, trưởng cơ quan tình báo của đế chế, thật chậm rãi và điêu luyện. Đây không phải là tài năng duy nhất của Carthia. Nhưng Vattier de Rideaux không biết điều đó.

Ông ta không biết rằng, bất chấp vẻ bề ngoài, Carthia van Canten sở hữu một trí nhớ siêu việt và trí khôn nhanh nhạy không kém.

Mọi thứ Vattier đã kể cho mình, mọi mẩu thông tin, mọi từ ngữ mà ông ta thốt ra trong cuộc gặp của họ – Carthia nhắc lại vào buổi sáng hôm sau cho nữ pháp sư Assire var Anahid.

***

“Phải, tôi cược cái đầu của mình rằng không có ai ở Nilfgaard thậm chí còn nhớ đến Cahir nữa, kể cả hôn thê của anh ta, nếu anh ta có hôn thê.

Nhưng nói chuyện đó sau, trước hết chúng ta sẽ quay lại cái ngày và nơi mà chúng tôi đã vượt qua Yaruga. Chúng tôi di chuyển có phần vội vã về phía đông, hướng tới Rừng Đen, còn gọi là Caed Dhu trong Cổ Ngữ. Chúng tôi tìm kiếm các thầy druid có thể dự đoán được vị trí của Ciri và giải mã những giấc mơ kỳ bí đang ám ảnh Geralt. Chúng tôi vượt xuyên qua những khu rừng của Riverdell, mà cũng chính là cái tên của bờ trái, một vùng đất hoang dã và gần như không có người ở. Nó nằm giữa Yaruga và chân dãy núi Amell, một khu vực được gọi là Chân Dốc. Nó nằm giáp ranh giới phía đông của thung lũng Dol Angra và ranh giới phía tây một khu đầm lầy, mà tên tôi không thể nhớ được.

Nơi này chưa bao giờ có ai tuyên bố chủ quyền cả. Do vậy, cũng chẳng có ai biết người nào thực sự làm chủ ở đây và ai cai trị nó. Những nhà trị vì của Temeria, Sodden, Cintra và Rivia, cũng đôi lúc lên tiếng về vấn đề này. Họ coi những cánh rừng rộng lớn bên bờ trái là thuộc quyền sở hữu của mình, và thỉnh thoảng làm rõ quan điểm bằng lửa và máu. Nhưng rồi quân Nilfgaard tới từ đằng sau dãy núi Amell và không ai hé nửa lời. Và chút nghi ngờ còn lại về luật pháp cai trị hay quyền sở hữu cũng tiêu tan – mọi thứ nằm về phía nam của Yaruga thuộc về Đế chế. Vào thời điểm tôi viết những dòng này, thậm chí nhiều vùng đất nằm về phía bắc cũng là của Đế chế. Nhưng do thiếu thông tin chính xác, tôi không biết tầm ảnh hưởng của họ đã được mở xa đến mức nào.

Quay trở lại Riverdell, các bạn độc giả thân mến, xin hãy cho tôi xin chút thời gian cho câu truyện lịch sử: câu truyện về nguồn gốc của một vùng đất thường khá là ngẫu nhiên, một tác nhân phụ của xung đột giữa các thế lực ngoại bang. Lịch sử của một quốc gia thường được viết nên bởi những kẻ ngoài cuộc. Kẻ ngoài cuộc là nguyên nhân, nhưng chính những cư dân của nó – luôn luôn và không ngoại lệ – lại là những người phải gánh chịu hậu quả.

Đối với Riverdell, quy luật này được áp dụng triệt để.

Riverdell được gọi là quốc gia sông suối bởi chính người dân của nó. Trải qua nhiều xung đột và chiến tranh ròng rã, họ đã lâm vào cảnh đói nghèo và buộc phải di cư. Những ngôi làng và xóm chài bị thiêu trụi, và tàn tích của nhà cửa cùng ruộng đồng bị vùi lấp bởi thiên nhiên hoang dã. Giao thương đình trệ, các đoàn xe của lái buôn tránh xa những con đường đổ nát. Số còn lại ở Riverdell trở thành những kẻ bắt nạt ngoại hạng. Họ chủ yếu khác biệt so với gấu xám hay chó sói bởi cái quần mặc trên người. Ít nhất là một vài trong số đó. Và ý của tôi khi nói như vậy là: một số mặc quần, số còn lại thì không. Họ chủ yếu là một đám người ích kỷ, thô lỗ và ngớ ngẩn.

Và họ chẳng có khiếu hài hước gì cả.”

***

Cô con gái tóc đen của ông thợ nuôi ong hất cái bím tóc ngỗ ngược ra sau và tiếp tục công việc với cái chày một cách đầy hăng say. Nỗ lực của Dandelion đã thất bại – lời nói của nhà thơ có vẻ như không gây được chút tác động nào lên người nghe. Dandelion nháy mắt với đoàn lữ hành rồi giả vờ thở dài và đảo mắt lên trần nhà. Nhưng cậu không bỏ cuộc.

“Đưa nó cho tôi,” cậu nhắc lại và nhe răng ra. “Để tôi giã cho, và cô hãy chạy xuống tầng hầm đem chút bia lên đây. Chắc phải có một két giấu ở đâu đấy dưới tầng hầm chứ. Tôi nói có đúng không, người đẹp?”

“Để con bé yên đi, thưa ngài,” người vợ bực tức của ông thợ nuôi ong lên tiếng – một người phụ nữ cao và mảnh dẻ cùng sắc đẹp đáng ngạc nhiên, đang làm việc trong bếp. “Tôi đã nói là không có bia rồi.”

“Ngài đã được bảo cả tá lần rồi,” ông thợ nuôi ong nói, ra hiệu cho vợ đứng sang bên và cắt ngang cuộc trò chuyện của witcher và con ma cà rồng. “Chúng tôi sẽ nướng bánh với mật ong, rồi các ngài có thể ăn. Nhưng xin hãy để con bé giã bột trong yên bình, bởi vì trừ khi các ngài có đem theo một pháp sư, không thể nướng bánh mà không có bột! Hãy để con bé làm việc.”

“Cậu không nghe thấy à, Dandelion?” Witcher kêu lên. “Để cô gái làm việc đi và tự làm bản thân mình bận rộn bằng cái gì đó hữu ích. Hay tiếp tục cuốn hồi ký đó!”

“Tôi muốn uống. Tôi thích uống cái gì đó trước khi ăn. Tôi có vài lá thảo mộc và sẽ pha một tí dung dịch. Bà nội ơi, không thể tìm được chút nước nóng nào trong cái chòi này sao? Tôi hỏi – có nước nóng không?”

Bà già ngồi trên băng ghế, mẹ của ông thợ nuôi ong, ngước lên khỏi đôi tất đang đan dở. “Có chứ, có nước nóng chứ,” bà lầm bầm. “Chỉ là nó nguội mất rồi.”

Dandelion thở dài thua cuộc và ngồi xuống chiếc bàn nơi đoàn lữ hành đang trò chuyện cùng ông thợ nuôi ong, người mà họ vừa mới gặp sáng nay trong rừng. Ông thợ nuôi ong là một người đàn ông thấp bé, nặng nề với mái tóc đen mọc dài quá mức. Cũng chẳng lạ gì khi ông ta làm họ khiếp vía khi hiện ra từ trong bụi râm – họ đã tưởng đó là một con ma sói. Điều buồn cười nhất đó là người đầu tiên thốt lên “Ma sói! Ma sói!” lại chính là con ma cà rồng Regis. Có vài sự hiểu lầm, nhưng vấn đề đã nhanh chóng được giải quyết và ông thợ nuôi ong, bất chấp vẻ ngoài hoang dại, đã tỏ ra rất lịch thiệp và hiếu khách. Đoàn lữ hành chấp nhận lời mời về nhà của ông ta không chút do dự. Căn nhà – theo cách nhìn của ông thợ nuôi ong thì là một “biệt thự” – nằm giữa một khoảng rừng thưa. Ông ta sống ở đó cùng mẹ, vợ và con gái. Hai người phụ nữ ở vế sau đều mang một vẻ đẹp hơn mức bình thường và có thể nói thẳng ra là rạng rỡ, rõ ràng cho thấy rằng họ là hậu duệ của người dryad hoặc hamadryad.

Trong những cuộc đàm đạo nối tiếp, ông thợ nuôi ong ngay lập tức tạo ra được ấn tượng rằng mình sẽ chỉ nói về ong, tổ, tổ trên cành cây, đục tổ, phun khói, sáp và mật ong, nhưng đó chỉ là giả bộ.

“Tình hình sao? Nó còn như thế nào được nữa đây? Cũng như mọi khi thôi. Lúc nào cũng phải nộp thuế cao ngất ngưởng. Hai vại mật ong và một đĩa sáp đầy ự. Tôi làm cực nhọc để kiếm đủ và ngồi từ sáng đến tối trên bàn, gỡ sạch tổ ong…Và thuế đó tôi nộp cho ai nào? Chà, bất kỳ người nào đến thu thôi, làm sao tôi biết được quyền lực đang tại vị là ai đây? Dạo gần đây thì có vẻ như là Nilfgaard. Bởi vì chúng tôi giờ thuộc một “Tỉnh của Đế chế” hay gì đó. Và nếu tôi có bán tí mật ong nào để lấy tiền, Hoàng đế cũng lấy một phần trong đó. Hoàng đế thì trông cũng có vẻ tử tế hơn những người khác đấy, nhưng thật sự thì tình hình cũng chẳng khác là bao. Vậy…”

Hai con chó, một đen và một đỏ–nâu ngồi xuống đối diện với con ma cà rồng, ngẩng đầu lên và bắt đầu tru. Người vợ hamadryad của ông thợ nuôi ong quay đi khỏi cái lò và đánh trượt một con bằng cán chổi.

“Một điềm gở,” ông thợ nuôi ong nói, “khi chó tru giữa ngày. Vậy…các ngài muốn hỏi gì đây?”

“Giáo Hội Druid ở Caed Dhu.”

“Ha! Đó có phải là một trò đùa không, thưa các lãnh chúa cao quý? Các ngài thực sự muốn tới chỗ các thầy druid? Các ngài chán sống rồi hay sao? Đó là cái chết! Đám cắt tầm gửi đó bắt giữ bất kỳ ai dám đặt chân vào rừng của mình, trói họ vào một thân cây liễu, và nướng chín họ từ từ.”

Geralt ném một ánh mắt sang phía Regis. Regis nháy mắt với anh. Cả hai đều biết rất rõ những tin đồn xung quanh các thầy druid đều là thêu dệt. Milva và Dandelion, mặt khác, lắng nghe chăm chú hơn bao giờ hết. Và với vẻ lo lắng thấy rõ.

“Có người nói,” ông thợ nuôi ong tiếp tục, “rằng họ đang trả thù người Nilfgaard, những kẻ khơi lên mọi chuyện bằng việc chọc giận các thầy druid, rõ hơn là vì đã hành quân vào những gốc sồi thiêng ở Dol Angra và bắt đầu tấn công các thầy druid không lý do. Người khác lại nói chính các thầy druid mới là người khiêu khích trước vì đã bắt giữ một vài quân lính của Đế chế và tra tấn họ đến chết, và giờ thì Nilfgaard đang trả đũa. Nói thật, không ai thực sự biết cả. Nhưng có một điều chắc chắn, đó là nếu các thầy druid bắt được ngài, họ sẽ trói ngài vào một cái cây và thiêu sống. Đến gặp họ là cầm chắc cái chết.”

“Chúng tôi không sợ họ.” Geralt điềm tĩnh nói.

“Đương nhiên rồi.” Ông thợ nuôi ong nhìn witcher, Milva, và Cahir, người vừa mới bước vào trong chòi sau khi cho ngựa ăn. “Có thể thấy rằng các ngài không phải những người yếu tim, mà máu chiến và cứng cỏi. Ha, những người như các ngài thì có thể vượt qua lành lặn…chà…chỉ có điều là công sức của các ngài đã vô ích rồi – đám cắt tầm gửi đó đã rời khỏi Rừng Đen. Nilfgaard chèn ép và đẩy họ ra khỏi Caed Dhu. Họ không còn ở đó nữa…”

“Chỉ như thế thôi?”

“Chỉ như thế thôi. Đám cắt tầm gửi đã rời đi.” “Họ đã đi đâu?”

Ông thợ nuôi ong ném một ánh mắt về phía người vợ hamadryad và im lặng mất một lúc. “Đi đâu?” Witcher hỏi lại.

Con mèo khoang của ông thợ nuôi ong ngồi xuống trước mặt con ma cà rồng và bắt đầu kêu ầm ĩ. Người vợ hamadryad quạt nó bằng chổi.

“Một điềm gở khi mèo kêu giữa ngày,” ông thợ nuôi ong thốt lên, cảm thấy bối rối kỳ lạ. “Và các thầy druid…họ…bỏ chạy lên Chân Dốc. Phải. Đúng vậy. Lên Chân Dốc.”

“Khoảng 60 dặm về phía nam,” Dandelion nhẩm tính không cau có, gần như là phấn khởi.

Tuy nhiên, dưới con mắt của witcher, cậu trật tự ngay lập tức.

Trong sự im lặng bao trùm, âm thanh duy nhất còn lại là tiếng kêu của con mèo đang bị đuổi ra khỏi nhà.

“Chà,” con ma cà rồng lên tiếng, “có khác biệt gì không chứ?”

***

Buổi sáng tiếp theo mang đến nhiều bất ngờ hơn. Và những câu đố, tuy nhiên, lời giải đã nhanh chóng được tìm ra.

“Sự thật là…” Milva cất tiếng, chui ra khỏi đụn rơm đầu tiên sau khi bị đánh thức bởi những giọng nói. “Sự thật là tôi luôn đúng. Nhìn này, Geralt.”

Khoảng rừng thưa đầy ắp người. Có thể thấy rõ ràng ngay từ cái nhìn đầu tiên rằng 5 hay 6 người thợ nuôi ong đã tụ tập ở đây. Con mắt kinh nghiệm của witcher còn phát hiện được vài người đánh bẫy và ít nhất một thợ đốt lò than trong đám đông. Tổng cộng bao gồm khoảng 20 đàn ông, 10 phụ nữ, một tá thiếu niên từ cả hai giới tính, và quá nhiều trẻ em để có thể đếm được. Đi kèm theo họ là 6 xe chở hàng, 12 con bò kéo xe, 10 con bò sữa, 4 con dê và cừu, cùng một lượng lớn chó mèo đủ thể loại. Số tiếng sủa và meo meo rúng động bầu không khí dưới hoàn cảnh này chắc hẳn phải được coi là điềm gở.

“Tôi muốn biết,” – Cahir dụi mắt – “chuyện này nghĩa là sao đây?”

“Rắc rối,” Dandelion quan sát, gỡ rơm ra khỏi mũ. Regis im lặng, nhưng biểu cảm trên gương mặt ông thật kỳ lạ.

“Chúng tôi xin mời các lãnh chúa cao quý đến dự bữa sáng,” ông thợ nuôi ong thốt lên khi trông thấy họ. Tháp tùng ông ta đến đụn rơm là một người đàn ông vai rộng. “Sẵn sàng cả rồi. Kiều mạch với sữa. Và mật ong…Và, để tôi giới thiệu Jan Cronin, người thợ nuôi ong cao tuổi nhất…”

“Rất hân hạnh,” witcher nói dối, mà không đáp lại cái cúi chào, bởi vì đầu gối anh đang đau không chịu nổi. “Và đám đông này, họ là ai vậy?”

“Chà…” ông thợ nuôi ong gãi đầu. “Ngài thấy đấy, mùa đông sắp tới…Mật ong đã được lấy hết và tổ mới đã được đục…lại tới lúc chúng tôi di tản lên Chân Dốc, tới thị trấn Riedbrune…với số mật ong này, chúng tôi sẽ trú đông ở đó…Nhưng khu rừng, rất nguy hiểm nếu đi…một mình…”

Người thợ nuôi ong cao tuổi nhất hắng giọng. Ông ta hơi ưỡn ngực ra một chút và nhìn Geralt.

“Các ngài có ngựa và vũ trang đầy đủ,” ông ta ấp úng. “Các ngài trông có vẻ dũng cảm và có khả năng chiến đấu. Cùng các ngài, chúng tôi có thể đi bất cứ đâu mà không phải sợ…Và các ngài cũng được lợi nữa…Chúng tôi biết rõ từng con đường, từng khu rừng, từng đầm lầy và bụi cây…Và chúng tôi sẽ cung cấp thực phẩm cho các ngài…”

“Và các thầy druid,” Cahir lạnh lùng nói, “đã rời khỏi Caed Dhu. Và chạy lên Chân Dốc.

Thật là một sự trùng hợp lạ kỳ.”

Geralt chậm rãi bước tới chỗ người thợ nuôi ong. Anh nắm lấy cổ áo ông ta bằng cả hai tay. Nhưng rồi ngay lập tức đổi ý, buông tay ra, và vuốt phẳng phiu chiếc áo. Anh không nói gì. Không hỏi gì. Nhưng người thợ nuôi ong vẫn nhanh chóng giải thích.

“Tôi đã nói sự thật! Tôi xin thề! Tôi mà nói điêu thì chết ngay tại chỗ! Đám cắt tầm gửi đã rời khỏi Caed Dhu! Họ không còn ở đó nữa!”

“Và họ đang ở Chân Dốc, phải không?” Geralt gầm gừ. “Cùng nơi mà ông và cái đám láo nháo này đang muốn tới? Nơi mà các người muốn đi cùng một đoàn tùy tùng vũ trang? Nói nhanh lên, ông bạn. Nhưng cẩn thận đấy, kẻo ông có thể chết ngay tại chỗ không biết chừng!”

Ông thợ nuôi ong hạ mắt xuống và nhìn chằm chằm mặt đất dưới chân. Geralt giữ im lặng. Milva, người vừa mới hiểu witcher ám chỉ điều gì, chửi thề một câu. Cahir khịt mũi với vẻ không bằng lòng.

“Thế nào?” witcher giục. “Các thầy druid đã đi đâu rồi?”

“Thưa ngài, ai mà biết được họ đi đâu cơ chứ,” cuối cùng ông thợ nuôi ong lắp bắp. “Nhưng họ có thể đã tới Chân Dốc…Đó cũng là một khả năng. Chân Dốc có rất nhiều sồi và các thầy druid rất thích sồi…”

Đằng sau trưởng lão Cronin giờ đây là hai hamadryad của ông thợ nuôi ong đang đứng, vợ và con gái ông ta. Có vẻ như, và thật may mắn, là cô con gái được thừa hưởng ngoại hình của mẹ chứ không phải cha. Witcher không thể không nghĩ rằng nếu đem so ông thợ nuôi ong với vợ mình thì cũng như so lợn rừng với ngựa cái. Anh để ý thấy vài người phụ nữ nữa xuất hiện phía sau họ. Trông không thể đẹp bằng, nhưng đều nhìn anh với ánh mắt thỉnh cầu.

Geralt liếc nhìn Regis, không biết nên cười hay nguyền rủa.

Con ma cà rồng nhún vai. “Nói cho cùng thì,” ông ta lên tiếng, “người thợ nuôi ong cũng có lý đó. Rất có khả năng là các thầy druid đã di chuyển lên Chân Dốc. Địa hình ở đó rất phù hợp với họ.”

“Cái khả năng này,” – ánh mắt của witcher rất, rất lạnh – “ông có nghĩ là nó đủ lớn để khiến chúng ta đột nhiên thay đổi phương hướng và ngẫu nhiên tách ra cùng với cái đám láo nháo này không?”

Regis lại nhún vai. “Có khác biệt gì không? Hãy cân nhắc: các thầy druid không có ở Caed Dhu, loại trừ đi phương hướng này. Quay trở lại Yaruga, tôi nghĩ là không cần bàn cãi vấn đề đó. Do vậy bất kỳ hướng nào khác đều là những lựa chọn tốt ngang nhau.”

“Thật sao?” ngọn lửa trong giọng nói của witcher hợp với trong đôi mắt anh. “Và từ tất cả những hướng này, ông nghĩ cái nào là phù hợp nhất? Hướng của đám thợ nuôi ong đang đi? Hay một hướng hoàn toàn khác? Ông có thể xác định điều đó bằng sự khôn ngoan vô tận của mình được không?”

Con ma cà rồng quay sang đám thợ nuôi ong cùng những người phụ nữ. “Và cái gì khiến mọi người sợ tới mức,” ông hỏi thành thực, “phải đi cùng một đoàn hộ vệ, hỡi những con người tốt bụng? Các vị sợ cái gì? Nói thật đi?”

“Ôi, thưa ngài,” Jan Cronin thở dài, và nỗi sợ xuất hiện trong mắt ông ta. “Tôi mừng là ngài đã hỏi…chúng tôi phải đi qua vùng đầm lầy bỏ hoang! Và nó, thưa ngài, kinh hoàng không tả xiết! Có drowner, sawpad, endregas, griffin và đủ loại quái vật hung hãn khác! Lần cuối cùng chúng tôi đi qua đó, hai tuần trước, một linh hồn rừng đã bắt con trai tôi và nó chỉ kịp kêu lên một tiếng trước khi biến mất. Và ngài thấy ngạc nhiên là chúng tôi không muốn tự vào đó cùng phụ nữ và trẻ em sao? Hmm?”

Con ma cà rồng nhìn witcher và gương mặt tỏ vẻ nghiêm trọng. “Với sự khôn ngoan vô tận của mình,” ông ta nói. “Tôi đề nghị rằng con đường phù hợp nhất là con đường phù hợp nhất với một witcher.”

***

“Và thế là chúng tôi khởi hành tới Chân Dốc, một dải đất nằm dưới chân dãy núi Amell. Chúng tôi đi cùng một đoàn lữ hành lớn, bao gồm đủ thể loại: thiếu nữ, thợ nuôi ong, người đánh bẫy, trẻ con, thiếu nữ, thú cưng, đồ đạc tư gia, thiếu nữ. Và một lượng lớn mật ong. Đống mật này bám dính lên mọi thứ, kể cả thiếu nữ.

Đoàn người di chuyển với tốc độ của bò và người đi bộ. Tốc độ của chúng tôi bị chững lại, nhưng không phải vì lạc đường. Trái lại, mọi thứ vận hành trơn tru như đồng hồ – những người thợ nuôi ong biết rõ các tuyến đường, lối mòn và khe rãnh giữa những hồ nước. Và mớ kiến thức này rất có tác dụng. Trời bắt đầu mưa phùn và đột nhiên cả vùng sông nước chìm vào một màn sương dày đặc như cháo chín. Không có đám thợ nuôi ong chúng tôi chắc chắn sẽ lang thang đâu đó sâu trong đầm lầy. Chúng tôi không phải tốn thời gian và công sức để chuẩn bị lương thực – chúng tôi được ăn đầy đủ 3 bữa một ngày, dù khẩu phần có hơi khiêm tốn. Và sau bữa tối chúng tôi còn được nằm nghỉ một lúc.

Nói ngắn gọn, mọi thứ rất tuyệt. Kể cả witcher, lão già cáu bẳn và chuyên gia cằn nhằn, bắt đầu mỉm cười nhiều hơn và tận hưởng cuộc sống, bởi vì anh đã tính rằng chúng tôi đi được 15 dặm mỗi ngày, một thành tích chưa lần nào đạt được kể từ khi rời khỏi Brokilon. Tuy nhiên witcher chẳng đóng góp được phần nào vào thắng lợi đó cả, vì dù cho vùng đầm lầy hoang vu ẩm ướt đến nỗi khó tưởng tượng ra có cái gì khô ráo quanh đây, chúng tôi cũng không chạm trán con quái vật nào hết. Chà, vào buổi đêm những hồn ma có hú một chút, banshee–rừng có la vài câu, vài đốm sáng mờ trên mặt nước có hơi nhảy múa. Nhưng không có gì quá nghiêm trọng.

Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cảm thấy lo, rằng mình lại lần nữa di chuyển ngẫu hứng và không có mục tiêu cụ thể nào cả. Nhưng ma cà rồng Regis đã nói – “Đi mà không có đích, còn tốt hơn có đích mà không đi, và chắc chắn còn tốt hơn nhiều không đi mà cũng không có đích.”

***

“Dandelion! Thắt chặt cái ống giấy đó vào! Sẽ thật tiếc nếu đánh rơi mất nửa thế kỷ thơ ca vào một bụi dương xỉ nào đó.”

“Đừng lo! Tôi sẽ không để mất đâu, anh có thể chắc chắn. Và tôi sẽ không để ai đem nó đi! Người nào muốn lấy cái ống này sẽ phải cậy nó ra khỏi cái xác lạnh cứng của tôi. Tôi hỏi một câu được không Geralt, nguyên nhân cho nụ cười rạng rỡ đó của anh là gì vậy? Đợi đã, để tôi đoán nhé…sự ngờ nghệch bẩm sinh?”

***

Một đội các nhà khảo cổ đến từ Đại học Castell Graupian thực hiện một cuộc khai quật tại Beauclair. Họ đào xuyên qua một lớp than đá cổ xưa – mà cho thấy dấu hiệu của một đám cháy lớn – để tới một lớp với tuổi thọ còn lâu hơn nữa, niên đại thế kỷ 13 trước công nguyên. Bên trong lớp này, những tàn tích sót lại của tường nhà, bùn và vữa tạo nên một hang động kín, mà các học giả đã đào bới nhiệt tình và tìm thấy hai bộ xương người được bảo quản trong điều kiện hoàn hảo: một nam và một nữ. Bên cạnh bộ xương họ còn thấy – cùng với vô số vũ khí và đồ tạo tác nhỏ – một ống đựng giấy da dài hơn 70 phân. Ống giấy có in một hình gia huy mờ, tuy vậy vẫn còn thấy rõ hình thoi cùng 2 cặp sư tử. Trưởng nhóm khai quật, giáo sư Schliemann, một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Biểu tượng Trung cổ, đã xác nhận đây là biểu tượng của Rivia, một vương quốc cổ đại mà chưa rõ vị trí.

Sự phấn khích của các nhà khảo cổ lên đến đỉnh điểm, bởi nhiều bản thảo vào thời kỳ đó đã được cất giữ trong những ống giấy như vậy, và trọng lượng của nó cho thấy bên trong phải chứa khá nhiều. Tình trạng hoàn hảo của ống giấy nhóm lên hy vọng rằng các tài liệu bên trong khá rõ ràng và sẽ làm rõ được vài bí ẩn từ quá khứ đã biến mất. Một thế kỷ lên tiếng! Đó là một may mắn phi thường, một chiến thắng của khoa học, và không được phép bị lãng phí. Như một biện pháp đề phòng, một nhà ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu các ngôn ngữ chết đã được triệu tập từ Castell Graupian, cùng với một nhóm chuyên gia có khả năng mở được ống giấy mà không làm hỏng chút nào những tài liệu vô giá ở bên trong.

Trong khi đó, tin đồn về một “kho báu” rộ lên giữa các nhân viên của giáo sư Schliemann. Thật tình cờ, tin đồn này lọt đến tai của ba cá nhân đã từng có kinh nghiệm trộm mộ, nhưng giờ đây được thuê bởi các nhà khảo cổ để đào bới trong đống đất sét. Tên của chúng là: Grabsch, Zapp, và Kamil Ronstetter. Tin chắc rằng bên trong ống chứa đầy vàng và trang sức, ba kẻ đào thuê đánh cắp món bảo vật vô giá vào giữa đêm và bỏ trốn vào rừng. Ở đó chúng nhóm lên một ngọn lửa nhỏ và ngồi xung quanh.

“Mày còn đợi cái gì?” Zapp nói với Grabsch. “Mở cái ống ra!”

“Tao muốn lắm, nhưng nó chặt quá.” Grabsch phàn nàn với Zapp. “Nó đóng chặt như cứt chuột vậy!”

“Thế thì đạp cho nó một cái, thằng ngu!” Kamil Ronstetter khuyên.

Grabsch không nói gì sau khi mở được khám phá vô giá đó và những thứ bên trong rơi ra ngoài.

“Con mẹ nó!” Zapp thốt lên ngạc nhiên. “Cái gì thế?”

Câu hỏi mới ngu làm sao, bởi vì rõ ràng ngay từ cái nhìn đầu tiên rằng đó là một mớ giấy. Do vậy Grabsch không trả lời, nhưng cầm lên một tờ và giơ ra trước mũi. Trong một lúc lâu hắn nhìn chăm chăm những ký tự kỳ lạ.

“Bị viết cả rồi,” cuối cùng hắn giải thích với vẻ bác học. “Có chữ!” “Chữ?” Kamil Ronstetter kêu lên, mặt tái nhợt. “Chữ viết? Ôi mẹ ơi!”

“Nó viết về ma thuật đấy!” Zapp hoảng sợ và răng đánh cầm cập. “Chữ viết tức là trò phù thủy! Đừng động vào đống cứt chuột này! Bị lây bây giờ!”

Grabsch không cần phải được bảo hai lần, hắn ném ống giấy vào lửa và phủi tay lên quần. Kamil Ronstetter đá những mẩu giấy còn lại vào nốt – sau cùng thì, một đứa trẻ con nào đấy có thể vô tình động vào thứ bẩn thỉu này. Rồi cả ba nhanh chóng rời khỏi nơi nguy hiểm đó. Món cổ vật vô giá từ thời Trung cổ cháy với một ngọn lửa cao, rực rỡ. Trong vài giây cả thế kỷ cất tiếng trong ngọn lửa lách tách và những mẩu giấy sẫm màu. Rồi ngọn lửa tắt, và tro tàn đen như cứt chuột bao phủ mặt đất.

Houvenaghel, Dominik Bombastus (1239–1301) – Trở nên giàu có trong tỉnh Ebbing bằng cách khởi xướng những doang nghiệp lớn và định cư tại Nilfgaard. Đã được quý mến bởi Hoàng đế tiền nhiệm, ông được đưa lên làm tử tước và quản lý các mỏ quặng của Venedal bởi Hoàng đế Jan Calveit, và như là một phần thưởng cho sự phục vụ tận tụy, được đề bạt chức thị trưởng của Neveugen.

Là cố vấn tin cậy của Hoàng đế, Houvenaghel được hưởng lợi rất nhiều từ vị trí này và đồng thời tham dự vào nhiều sự kiện công cộng. Khi còn ở Ebbing, ông đã đóng góp cho vô số hoạt động tình nguyện, tiêu tốn một lượng lớn tiền của để chăm lo đến nhu cầu của người nghèo và xây nhà trẻ mồ côi, bệnh viện cùng cơ sở y tế. Là một người đam mê nghệ thuật và thể thao, ông đã hiến tặng một nhà hát và một sân vận động cho thủ đô, cả hai đều mang tên ông. Ông là một hình mẫu của đạo đức, trung thực và tôn trọng trong giới thương nhân.

Effenberg và Talbot, Đại bách khoa toàn thư về thế giới, Quyển VII.

About The Author

Ngo David

Power is Power