The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn

The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 11

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


“Ta có thể cho ngươi mọi thứ ngươi muốn”, bà tiên nói. “Của cải, vương miện và quyền trượng, danh tiếng, một cuộc đời hạnh phúc dài lâu. Chọn đi.”

“Tôi không muốn của cải hay danh tiếng, vương miện hay quyền trượng,” nữ witcher trả lời. “Tôi ước một con ngựa đen và nhanh như ngọn gió đêm. Tôi ước một thanh kiếm sắc và sáng như ánh trăng rằm. Tôi muốn bước qua thế giới trên con ngựa đen trong đêm thâu, tôi muốn đánh bại sức mạnh của Cái Ác bằng thanh kiếm sáng. Đó là tất cả những gì tôi khao khát.”

“Ta sẽ cho ngươi một con ngựa đen hơn màn đêm và nhanh hơn ngọn gió,” bà tiên hứa. “Ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, sắc và sáng hơn ánh trăng rằm. Nhưng ngươi đòi hỏi ở ta rất nhiều, nữ witcher, và cái giá phải trả sẽ là rất lớn.”

“Bằng cái gì? Bởi tôi không có gì cả.” “Bằng máu của ngươi.”

Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.

“Họ và tên của nhân chứng?”

“Selborne, Kenna. Xin lỗi, ý tôi là Joanna.” “Nghề nghiệp?”

“Phục vụ linh tinh.”

“Nhân chứng đang đùa đấy à? Nhân chứng nên để ý đến sự thật rằng đây là một phiên tòa xử tội phản quốc, bởi Tòa án tối cao của Đế chế! Mạng sống của nhiều người sẽ phụ thuộc vào lời khai của nhân chứng, bởi phản quốc là tội chết! Nhân chứng sẽ được nhắc nhở rằng mình đã không tự nguyện ra mặt trước tòa, mà được chuyển tới từ thủ đô, nơi mình đang bị biệt giam, và việc nhân chứng phải quay lại đó hay được phóng thích là phụ thuộc vào lời khai của chính mình, cùng nhiều yếu tố khác nữa. Tòa đã cho phép kéo dài cuộc đối thoại này để nhân chứng nhận ra rằng mình lố bịch thế nào khi đem những trò đùa và lời cợt nhả như vậy vào căn phòng này! Chúng không chỉ nhạt nhẽo, mà còn có thể gây hậu quả nghiêm trọng đến cho nhân chứng. Nhân chứng có nửa phút để suy ngẫm về điều này. Sau đó, Tòa sẽ lại hỏi lại câu hỏi đó.”

“Tôi đã sẵn sàng, thưa Tòa.”

“Xin hãy gọi chúng ta là ‘Quý Tòa’. Nghề nghiệp của nhân chứng?”

“Tôi là một   nhà ngoại cảm, thưa Quý Tòa. Nhưng chủ yếu phục vụ trong Sở Tình Báo   của Đế chế, có nghĩa là…”

“Xin hãy đưa ra câu trả lời ngắn gọn và chắc chắn. Nếu cần giải thích thêm, nhân chứng sẽ được yêu cầu. Tòa biết rất rõ sự hợp tác giữa nhân chứng và Sở Tình Báo. Tuy nhiên, ta yêu cầu ghi lại vào biên bản ý nghĩa của từ ‘nhà ngoại cảm’, mà nhân chứng đã dùng để miêu tả về mình.”

“Tôi có PPS thuần khiết, thế có nghĩa tôi thuộc ngoại cảm loại 1, không có chút PK nào. Chi tiết hơn, tôi có thể làm những việc sau: nghe được suy nghĩ của người khác, giao tiếp từ khoảng cách xa với một pháp sư, elf, hoặc một nhà ngoại cảm khác. Và thâm nhập tâm trí để truyền dẫn mệnh lệnh. Thế có nghĩa tôi có thể bắt người khác làm điều mình muốn. Tôi cũng có khả năng tiên tri, nhưng chỉ dưới trạng thái ngủ sâu.”

“Hãy ghi lại vào biên bản rằng nhân chứng, Joanna Selborne, là một nhà ngoại cảm, với những khả năng cảm nhận khác thường. Nhân chứng có thể đọc suy nghĩ, tương tác tâm linh, và tiên tri dưới trạng thái hôn mê, nhưng không có khả năng tương tác vật lý bằng tư tưởng. Nhân chứng được nhắc nhở rằng việc sử dụng phép thuật và khả năng ngoại cảm trong căn phòng này là bị nghiêm cấm hoàn toàn. Chúng ta sẽ tiếp tục thẩm vấn. Nhân chứng đã được tiếp xúc với người mạo danh là Cirilla, công chúa của Cintra khi nào, ở đâu và dưới hoàn cảnh gì?”

“Sự thật là tôi chưa hề nghe nói đến cái tên Cirilla cho đến khi ở trong khám…ý là, bị biệt giam, thưa Quý Tòa. Trong suốt cuộc điều tra, tôi đã được cho biết rằng cô ta chính là một với người mà luôn được nhắc đến bằng cái tên Falka, hay người Cintra, dưới sự có mặt của mình. Tuy nhiên, hoàn cảnh khá là phức tạp đến mức tôi cần phải miêu tả các mốc thời gian, mà sẽ khiến cho mọi chuyện được rõ ràng hơn. Sự việc như sau: Tôi đã được tiếp cận trong một quán rượu tại Aetolia bởi Dacre Silifant, người đang ngồi ở kia…”

“Hãy ghi vào biên bản rằng nhân chứng, Joanna Selborne, đã tự nguyện cho gọi bị cáo Silifant lên trước tòa. Xin tiếp tục.”

“Dacre, thưa Quý Tòa, lúc đó đang trong quá trình đi tuyển mộ một nhóm…Một đơn vị vũ trang. Những kẻ giết người và sát thủ, cả nam và nữ…Dufficey Kriel, Neratin Ceka, Chloe Stitz, Andres Vierny, Til Echrade…Tất cả đều không còn sống nữa…Và những ai còn sống đa số đều ngồi ở đây cả, dưới sự canh gác…”

“Xin hãy làm rõ chi tiết thời điểm nhân chứng tiếp xúc với bị cáo Silifant.”

“Đó là vào năm ngoái, gần cuối tháng Tám. Tôi không nhớ chính xác ngày. Dù sao thì nó cũng không phải là tháng Chín, bởi vì tháng Chín năm đó, ha, đã để lại ấn tượng rất sâu sắc với tôi! Dacre, người đã nghe đến tên tôi ở đâu đó, nói rằng anh ta đang cần một nhà ngoại cảm cho nhóm của mình, và phải là một người không sợ phép thuật, bởi vì họ sẽ phải đương đầu với các pháp sư. Công việc, như anh ta nói, là để phục vụ Hoàng đế cùng Đế chế, trả lương tốt, và chỉ huy của nhóm không ngoài ai khác chính là Cú Nâu.”

“Bằng cái tên ‘Cú Nâu’ có phải nhân chứng muốn nhắc tới Stefan Skellen, thanh tra trưởng Hoàng gia?”

“Đó chính là người tôi muốn nhắc tới.”

“Hãy ghi vào biên bản. Nhân chứng đã được gặp thanh tra Skellen khi nào và ở đâu?”

“Đó là tháng Chín, vào ngày 14, tại pháo đài Rocayne. Nếu Quý Tòa cho phép, pháo đài Rocayne là một đồn biên phòng bảo vệ tuyến đường giao thương từ Maecht tới Ebbing, Geso và Metinna. Đó là nơi Dacre Silifant đã dẫn nhóm của chúng tôi tới, 15 con ngựa. Tổng thể chúng tôi có khoảng 22 người, bởi một số đã đang đóng quân sẵn ở Rocayne, dưới quyền chỉ huy của Ola Harsheim và Bert Brigden.”

***

Sàn gỗ vang vọng âm thanh của những đôi ủng nặng nề, gai thúc ngựa và khóa sắt leng keng. “Xin chào, Stefan!”

Cú Nâu không chỉ ngồi im, ông ta còn không thèm bỏ chân khỏi bàn. Ông ta phẩy tay một cái, một cử chỉ rất cao ngạo. “Cuối cùng.” Ông ta chợt nói. “Ngươi đã khiến ta đợi khá lâu đấy, Silifant.”

“Lâu?” Dacre Silifant cười. “Hay đấy. Ngài, Stefan, đã cho tôi 4 tuần để tìm được cho ngài cỡ một tá những kẻ giỏi nhất trong toàn bộ Đế chế và những vùng lân cận. Tôi đã đem tới một nhóm không ai bì được kể cả với một năm huấn luyện đi chăng nữa! Thế chẳng đáng tuyên dương hay sao, hả?”

“Cứ tạm dừng tuyên dương đã,” Skellen nói lạnh lùng, “cho tới khi ta kiểm tra xong nhóm của ngươi.”

“Sao không phải bây giờ luôn. Xin giới thiệu, trung úy Neratin Ceka và Dufficey Kriel của tôi – và giờ là của ngài, Stefan!”

“Xin chào, xin chào.” Cú Nâu cuối cùng quyết định đứng dậy, và hầu cận của ông ta cũng làm theo. “Cứ tự nhiên như ở nhà, các quý ngài…Bert Brigden, Ola Harsheim.”

“Chúng tôi biết rõ nhau.” Dacre Silifant nói trong khi nhiệt liệt bắt tay Ola Harsheim. “Chúng tôi đã cùng nghiền nát bọn nổi loạn ở Nazair dưới cờ của Braibant già. Hồi đó thật tuyệt, nhỉ, Ola? Ah, những ngày xưa cũ! Máu dâng đến tận mắt cá chân ngựa! Và ngài Brigden đây, nếu tôi không nhầm, thì đến từ Gemmera phải không? Từ Đội Trị An Gemmera? Chà, ông có bạn trong nhóm đấy! Tôi đã mang về vài Trị An viên.”

“Ta sẽ rất vui nếu được nhìn qua họ một cái,” Cú Nâu thêm vào. “Chúng ta đi chứ?”

“Đợi chút đã,” Dacre nói. “Neratin, đi bảo với anh em là họ cần phải gây ấn tượng tốt trong buổi xét duyệt với ngài thanh tra.”

“Đó là cô hay anh vậy, Neratin Ceka ý?” Đôi mắt của Cú Nâu nheo lại trong khi nhìn người sĩ quan rời đi. “Đó là phụ nữ hay đàn ông?”

“Ngài Skellen…” Dacre Silifant hắng giọng, nhưng khi nói, giọng anh ta thật bình thản và ánh mắt lạnh như băng. “Cái đó tôi không biết. Có vẻ như đó là một người đàn ông, nhưng tôi vẫn chưa xác minh được. Mặt khác, nếu xét đến những phẩm chất sĩ quan của Neratin Ceka, tôi không có nghi ngờ gì cả. Điều mà ngài hỏi sẽ là quan trọng nếu tôi có ý định tán tỉnh anh ta. Nhưng tôi không muốn tán tỉnh anh ta. Hay cô ta, tôi cho là vậy.”

“Ngươi nói đúng,” Skellen thừa nhận sau một hồi cân nhắc. “Không còn gì để bàn nữa. Hãy xem qua một lượt nhóm của ngươi nào, Silifant.”

Neratin Ceka, người mà giới tính vẫn còn chưa rõ ràng, đã không bỏ phí chút thời gian nào. Khi Skellen cùng các sĩ quan của mình bước vào trong sân, cả đơn vị đã sắp thành hàng nghiêm chỉnh. Không có một cái đầu ngựa hay móng chân nào thò ra lạc lõng. Cú Nâu hắng giọng để lấy trật tự. Đúng là một nhóm đáng gờm, ông ta nghĩ. Ôi, giá mà luật không cấm…Một nhóm như vậy có thể cùng nhau đột nhập vào các vương quốc giáp ranh để cướp, giết, hiếp và reo rắc xung đột…đủ để khiến một người cảm thấy trẻ lại…Ôi, giá mà luật lệ cho phép!

“Thế nào, ngài Skellen?” Dacre Silifant hỏi, gương mặt hơi đỏ với vẻ phấn khích ẩn giấu. “Ngài thấy họ thế nào, Cú Nâu cao quý của tôi?”

Cú Nâu lướt mắt qua từng gương mặt, từng bóng người. Một số ông ta quen biết – chưa thể nói thế là tốt hay xấu. Những kẻ khác ông ta chỉ nghe đến tên, hoặc danh tiếng.

Til Echrade, gã elf trinh sát tóc vàng đến từ Đội Trị An Gemmera. Rispat La Pointe, một trung sĩ đến từ cùng đơn vị. Và một viên ngọc nữa: Cyprian Fripp Trẻ. Skellen đã có mặt tại buổi hành quyết anh trai hắn. Cả hai anh em đều được người ta đồn là có tính cuồng sát.

Đang điềm nhiên ngồi trên một con ngựa cái và dáng hơi khom là Chloe Stitz, một tên trộm chuyên nghiệp, người thỉnh thoảng được thuê bởi Sở Mật Vụ. Cú Nâu nhanh chóng quay đi khỏi đôi mắt ngang tàng và nụ cười xảo quyệt của cô ta.

Andres Vierny, một người Redania và một đồ tể. Stigward, một hải tặc đến từ Quần đảo Skellige. Dede Vargas, một sát thủ điêu luyện. Cabernet Turent, một kẻ giết người đầy đam mê.

Và những người khác nữa. Tất cả đều tương đương nhau. Họ đều giống nhau, Skellen nghĩ. Một hội anh em mà mỗi thành viên đều đã giết ít nhất 5 người. Tất cả đều giống nhau. Cùng động tác, phong thái, cùng kiểu nói chuyện, cung cách đi đứng, ăn mặc.

Và cùng những đôi mắt. Lạnh lùng và thờ ơ, vô cảm như mắt rắn, không bao giờ thay đổi ánh nhìn, kể cả trước những tội ác ghê tởm nhất.

“Thế nào? Ngài Stefan?”

“Không tồi. Một nhóm không tồi, Silifant.”

Dacre lại đỏ mặt và chào theo kiểu Gemmera, đấm tay lên ngực.

“Tuy nhiên,” Skellen nhắc nhở anh ta. “Ta đã đặc biệt yêu cầu một vài người quen với phép thuật. Không sợ phép thuật hay pháp sư.”

“Tôi đã cân nhắc điều đó. Quả thực, có Til Echrade đây! Và người đi bên cạnh anh ta, quý cô yêu kiều trên lưng con ngựa màu hạt dẻ, bên cạnh Chloe Stitz.”

“Lát nữa mang người đó đến chỗ ta.”

Cú Nâu tựa người vào lan can, gõ mấy cái bằng cán roi cầm trên tay. “Xin chào, các quý vị!”

“Xin chào, ngài thanh tra!”

“Nhiều người trong số các vị,” Skellen tiếp tục, một khi những tiếng xin chào đã lịm xuống, “đã từng làm việc với ta, cho ta hay dưới mệnh lệnh của ta. Đối với những ai không biết, hãy để ta giải thích những gì mình trông đợi hay không thể chấp nhận trong mỗi người dưới quyền. Hãy biết rằng ta nói không phải để mình ta nghe.”

“Kể cả ngày hôm nay một số sẽ được phân công nhiệm vụ mà bắt đầu vào sáng mai. Trong lãnh thổ Ebbing. Ta nhắc nhở rằng Ebbing chính thức là một quốc gia độc lập, và chúng ta không có quyền thực hiện những hành động bạo lực ở đó, vậy nên ta yêu cầu các ngươi tiến hành công việc thận trọng và kín đáo. Các ngươi đang đứng trong hàng ngũ những người phục vụ cho Đế chế, nhưng ta nghiêm cấm các ngươi tưởng tượng ra rằng đó là một cái cớ để khoe khoang và coi thường chính quyền địa phương. Ta nghiêm cấm bất kỳ ai được phép có những hành động như vậy. Đã rõ chưa?”

“Rõ, thưa chỉ huy!”

“Ở Rocayne này chúng ta là khách, và ta trông đợi các ngươi sẽ cư xử như những người khách. Ta nghiêm cấm các ngươi được rời bỏ vị trí mà không có lý do chính đáng. Ta nghiêm cấm các ngươi được liên lạc với bất kỳ ai bên ngoài pháo đài này. Các sĩ quan sẽ nghĩ ra cái gì đó để giúp các ngươi đỡ buồn. Ngài Harsheim, ngài Brigden, xin hãy đưa đơn vị đến nơi nghỉ của họ!”

***

“Tôi  còn  chưa  kịp  xuống ngựa, thưa            Quý Tòa, khi Dacre túm lấy tay tôi. “Ngài Skellen,” anh ta nói, “muốn nói chuyện với cô, Kenna.” Thế là chúng tôi đi. Cú Nâu đang ngồi vắt chân lên bàn, cán roi gõ lên mũi giày. Và ông ta xổ ra cùng một câu hỏi – liệu tôi có đích thực là Joanna Selborne đã dính dáng đến vụ mất tích con tàu Ngôi sao phương Nam không. Rồi tôi nói với ông ta rằng tôi chẳng cần phải chứng minh cái gì cả. Ông ta bắt đầu cười. “Ta thích những người không cần phải chứng minh gì hết.” Ông ta nói vậy. Rồi ông ta hỏi những khả năng PPS của tôi có phải là bẩm sinh hay không. Khi tôi xác nhận, ông ta trở nên nghiêm trọng và nói, “Ta nghĩ sẽ dùng khả năng của cô để đối phó với lũ pháp sư, nhưng trước hết cô sẽ phải xử lý một người khác, một người không kém phần bí ẩn.”

“Nhân chứng có chắc chắn là thanh tra Skellen đã dùng chính xác những từ đó không?” “Có. Tôi là một nhà ngoại cảm mà.”

“Xin hãy tiếp tục.”

“Thế rồi một liên lạc viên cắt ngang chúng tôi. Người anh ta bụi bặm và có thể thấy là anh ta đang rất vội. Anh ta có tin khẩn cấp cho Cú Nâu, nên Dacre Silifant dẫn tôi tới chuồng ngựa và nói rằng anh ta có cảm giác tin tức mà người liên lạc viên đã đưa tới sẽ xua chúng tôi lên lưng ngựa trước cả khi đêm xuống. Và anh ta đã đúng, thưa Quý Tòa. Trước khi bất kỳ ai kịp nghĩ đến bữa tối, một nửa đơn vị đã phải yên cương sẵn sàng. Lần đó tôi thoát, họ chọn đưa gã elf Til Echrade theo cùng. Và tôi cũng rất mừng, vì mấy ngày tiếp theo mông đau khủng khiếp do phải ngồi lâu…và ngay lúc đó tôi còn bắt đầu đến kỳ kinh nguyệt…”

“Nhân chứng sẽ không thêm vào những mô tả sống động về cảm giác của mình. Và trả lời đúng chủ đề. Khi nào thì nhân chứng được biết danh tính của “nhân vật bí hiểm” đã được thanh tra Skellen nhắc tới này?”

“Tôi sẽ trả lời, nhưng tôi phải kể theo đúng trình tự, nếu không mọi thứ sẽ trở nên phức tạp tới nỗi Quý Tòa sẽ không thể hiểu được! Vào lúc đấy, những người phải mau chóng lên ngựa trước bữa tối đều là thợ săn. Họ khởi hành từ Rocayne đến Malhoun, và quay về cùng một thiếu niên nào đó…”

***

Nycklar tức giận với chính bản thân mình, tới nỗi cậu ta thực sự chỉ muốn đứng lên và rời đi.

Giá như cậu ta ghi nhớ lời cảnh báo mà những con người khôn ngoan đã nói với mình! Hay

thậm chí nếu cậu ta nhớ được thành ngữ, đặc biệt là câu nói về con quạ không biết ngậm mỏ lại! Giá như cậu ta chỉ làm xong việc cần làm rồi quay về nhà ở Ghen Tuông luôn! Nhưng không! Bị kích thích bởi lòng tự trọng, phiêu lưu, cưỡi một con ngựa, và một túi tiền đầy ự, Nycklar đã không thể kháng cự lại cơ hội để tỏa sáng. Thay vì ngay lập tức đi từ Claremont về Ghen Tuông, cậu ta đã ghé thăm Malhoun, nơi nhiều bạn bè của mình đang trú ngụ, nhiều trong số đó là các thiếu nữ cậu ta đang tán tỉnh. Ở Malhoun cậu ta vênh váo như ngỗng đực vào mùa xuân, la ó và cười đùa, cưỡi ngựa dọc con phố. Cậu ta đãi rượu cho cả quán trọ và ném tiền vung vãi mà không thay đổi sắc mặt, như thể mình là hoàng tử, hay ít nhất cũng một bá tước.

Và cậu ta nói.

Cậu ta kể lại những gì đã xảy ra 4 ngày trước ở Ghen Tuông. Cậu ta kể hết, rồi quay sang phiên bản dài dòng, thêm thắt, thổi phồng, rồi cuối cùng là bịa đặt – mà chẳng khiến các thính giả bận tâm tí nào. Các khách quen của quán trọ, dân địa phương, và người mới đến chăm chú lắng nghe. Và Nycklar biết mới nhiều làm sao. Càng ngày cậu ta càng đưa chính bản thân mình vào trung tâm của sáng tác.

Vào buổi tối thứ ba, cái lưỡi khiến cậu ta gặp rắc rối.

Sự im lặng chết người bao trùm trước cảnh tượng những kẻ vừa mới bước vào quán rượu. Sự im lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng ủng kêu lách cách, khóa sắt leng keng. Âm thanh nghe như tiếng chuông ngân vang từ trên đỉnh tháp trước khi tai họa ập xuống một ngôi làng.

Nycklar thậm chí còn không kịp có cơ hội đóng vai người hùng. Cậu ta bị lôi ra khỏi quán rượu nhanh tới nỗi có thể nói gót giày chạm xuống sàn nhà được đúng ba lần. Những người thân quen, mà mới ngày trước còn uống rượu bằng tiền của cậu ta, thề thốt bạn bè cho tới chết, giờ im lặng cúi đầu, như thể dưới gầm bàn là những người phụ nữ khỏa thân đang nhảy múa, hay một điều kỳ diệu nào đó khác đang đòi hỏi sự chú ý của họ. Kể cả đại diện của luật pháp đang có mặt trong quán cũng quay mặt vào tường và không hé nửa lời.

Nycklar cũng chẳng hé nửa lời, không hỏi ai, cái gì, nơi nào hay tại sao. Nỗi khiếp đảm đã biến cái lưỡi của cậu ta thành một cục gỗ cứng ngắc.

Họ đặt cậu ta lên ngựa và bắt cưỡi. Trong vài tiếng đồng hồ. Rồi tới một pháo đài với chiến hào và tháp canh. Một khoảnh sân đầy ắp những người lính kiêu căng, ồn ào và vũ trang đầy đủ. Và một thư viện. Ba người ngồi bên trong. Một chỉ huy và hai cấp dưới, có thể thấy rõ ràng ngay lập tức. Người chỉ huy, có phần hơi lùn, da ngăm đen và ăn mặc bảnh bao, nói bằng giọng lịch sự đến bất ngờ. Mồm Nycklar há hốc khi nghe ông ta xin lỗi vì những rắc rối và bất tiện mà mình đã gây ra, và bảo đảm rằng cậu ta sẽ không hề hấn gì cả. Nhưng Nycklar đâu dễ bị lừa. Những người này gợi cho cậu ta nhớ đến Bonhart.

Ấn tượng ban đầu đó hóa ra lại chính xác đến ngạc nhiên. Bởi những người này đang tìm đích danh Bonhart. Nycklar, vì đúng quả thật chính cái lưỡi đã ném cậu vào hoàn cảnh khó khăn này, ngay lập tức bắt đầu nói khi được ra hiệu.

Cậu ta đã được cảnh báo phải nói đúng sự thật và không tô vẽ cái gì. Cậu ta được cảnh báo một cách tử tế, nhưng cứng rắn và có ý nhấn mạnh. Người đàn ông ăn mặc bảnh bao là người đã đưa ra những lời cảnh báo đó, ông ta không ngừng chơi đùa với cây roi cầm trong tay và đôi mắt toát lên vẻ ghê tởm và hiểm ác.

Nycklar, con trai của người thợ đóng quan tài ở làng Ghen Tuông, kể lại sự thật – toàn bộ sự thật và không gì ngoài sự thật. Cậu ta kể lại buổi sáng ngày mùng 9 tháng Chín ở Ghen Tuông, khi gã thợ săn tiền thưởng Bonhart tiêu diệt toàn bộ băng Rats, tha mạng cho đúng một kẻ – tên cướp nhỏ tuổi nhất, người được gọi là Falka. Cậu ta kể lại người dân ở Ghen Tuông đã tụ tập như thế nào để chứng kiến Bonhart hành quyết ả tù nhân, nhưng đám đông đã bị lừa, bởi kỳ diệu thay, Bonhart đã không hành quyết Falka – hắn thậm chí còn không thèm tra tấn cô ta! Hắn chẳng làm gì cả, thậm chí cả cái việc mà một người đàn ông làm với vợ mình vào một tối thứ bảy sau khi quay về từ quán rượu – để nói rõ hơn, là vài cái đạp, đôi cái vào mặt – và không gì nữa.

Người đàn ông ăn mặc bảnh bao ngừng chơi với cây roi khi Nycklar kể lại cách mà Bonhart đã cưa đầu những tên cướp của băng Rats trước mặt Falka ra sao, về cách mà hắn giật đứt những cặp khuyên tai vàng ra khỏi từng cái đầu như thể nhặt nho khô khỏi một cái bánh nướng như thế nào. Về Falka, bị trói ở cây cột buộc ngựa, đã nôn thốc nôn tháo khi trông thấy cảnh tượng đó.

Cậu ta kể lại cách mà Bonhart đã gô cổ Falka lại, như thể đóng xích cho chó, và lôi cô ta đến quán Đầu Chimera. Và rồi…

***

“Và rồi,” thằng nhóc nói trong khi cứ liếm môi liên tục, “ngài Bonhart gọi bia, bởi vì ông ấy ra mồ hôi kinh khủng và cổ họng thì bỏng rát. Rồi bất thình lình, ông ấy kêu lên rằng muốn cho ai đó một con ngựa tốt và 5 đồng floren tiền mặt. Ông ấy đã nói vậy đó, chính xác từng từ một. Tôi ngay lập tức tình nguyện để không ai có cơ hội hẫng tay trên, và cũng bởi tôi muốn một con ngựa và ít tiền. Cha tôi uống sạch số tiền kiếm được từ việc đóng quan tài. Vậy nên tôi hỏi ông ấy mình có thể lấy con ngựa nào, chắc là một con của băng Rats chứ hả? Ngài Bonhart nhìn tôi, một cái nhìn khiến tôi lạnh sống lưng, và nói tôi có thể nhận miễn phí một đá vào mông, nhưng phải làm việc nếu muốn có được những thứ còn lại. Tôi có thể làm gì đây? Một con ngựa ngay trong tầm với, nói đúng nghĩa đen luôn, vì đám ngựa của băng Rats đang buộc ngay ngoài sân. Đặc biệt, tôi muốn con ngựa đen của Falka – một con vật đẹp đẽ độc nhất vô nhị. Vậy nên tôi cúi đầu và hỏi mình phải làm gì để có chúng. Và ngài Bonhart đáp rằng tôi phải tới Claremont, tiện thể ghé qua Fano trên đường đi. Trên bất kỳ con ngựa nào mà tôi muốn. Mặc dù ông ấy chắc hẳn biết là tôi đã để mắt đến con ngựa đen, nên ông ấy cấm tôi được lấy nó. Thế nên tôi lấy con ngựa có chấm vàng…”

“Nói về màu ngựa ít thôi,” Stefan Skellen nhắc nhở nó. “Và sự thật chắc chắn nhiều lên.

Bonhart đã đưa cái gì cho cậu?”

“Ngài Bonhart đã viết mấy lá thư và dặn tôi phải bảo quản chúng thật tốt. Tôi phải đưa tận tay chúng đến cho người nhận ở Fano và Claremont.”

“Thư à? Chúng viết cái gì?”

“Làm sao mà tôi biết được, thưa ngài? Tôi chưa kịp đọc thì chúng đã bị niêm phong rồi.

Niêm phong bằng cái nhẫn của ngài Bonhart.”

“Nhưng cậu có nhớ những lá thư được đưa cho ai không?”

“Vâng, tôi có nhớ. Ngài Bonhart đã bắt tôi nhắc lại 10 lần để khỏi quên. Tôi rời đi không chậm trễ, và đích thân giao những lá thư cho đúng người. Cả hai đều khen rằng tôi là một chàng trai sáng lạn, và quý ngài thương nhân này thậm chí còn cho tôi một xu nữa…”

“Cậu đã giao những lá thư cho ai? Lan man ít thôi!”

“Lá thư đầu tiên được gửi đến ngài Esterhazy, một thợ rèn kiếm và đồ sắt ở Fano. Và lá thư thứ hai được gửi đến ngài Houvenaghel, một thương nhân ở Claremont.”

“Có khả năng nào là họ đã mở thư ra trước mặt cậu không? Có thể là có người đã thốt lên câu gì đó sau khi đọc xong? Nghĩ kỹ đi, nhóc.”

“Tôi không biết. Lúc đó tôi không để ý, và giờ tôi không thể nhớ được…”

“Ola, Mun.” Skellen hất đầu về phía các phụ tá, mà không lên giọng chút nào. “Tụt quần thằng nhóc xuống. Ta muốn để lại khoảng 30 dấu roi da.”

“Tôi nhớ rồi,” thằng nhóc la lên. “Tôi vừa mới nhớ lại!”

“Không gì tốt hơn là hạt dẻ chấm mật ong hay một cái roi quật lên mông” – Cú Nâu nhe răng cười – “để gợi lại ký ức. Bắt đầu nói đi.”

“Ở Claremont, ngài thương nhân Houvenaghel đã đọc to lá thư bởi vì còn một quý ông khác cũng có mặt tại đó – một người halfling bé nhỏ. Ngài Houvenaghel đã bảo với ông ta rằng…ờ…

ông ấy nói rằng bất kỳ lúc nào thôi sẽ có một cuộc chạy đua đến ngân hàng, một cuộc đua mà thế giới chưa từng trông thấy bao giờ. Ông ấy đã nói thế đó!”

“Đó là tất cả những gì cậu nhớ được sao?”

“Thề trên mộ mẹ tôi, đó là tất cả những gì tôi nhớ được! Xin đừng đánh tôi, thưa ngài! Hãy rủ lòng thương!”

“Chà, chà, đứng dậy đi. Đừng liếm giày ta! Đây, cầm lấy một xu này.” “Cảm ơn vạn lần…thưa ngài…”

“Ta đã bảo, đừng liếm giày ta mà lại. Ola, Mun, các ngươi nghĩ sao? Ngân hàng thì liên quan gì…”

“Chạy loạn,” Boreas Mun chợt nói. “Không phải chạy đua, chạy loạn.”

“Đúng rồi,” thằng nhóc kêu lên. “Ông ấy đã nói thế đó! Như thể ngài trực tiếp đứng đó nghe vậy!”

“Chạy loạn và chạy đua!” Ola Harsheim đấm tay vào nhau. “Một mật mã khôn khéo, nhưng cũng không quá phức tạp. Từ “chạy đua”, hay “chạy loạn”, là một lời cảnh báo những kẻ truy dấu hoặc một cuộc tập kích. Bonhart đã cảnh báo rằng họ nên đào tẩu! Nhưng khỏi ai mới được chứ? Chúng ta ư?”

“Ai mà biết được,” Cú Nâu trầm ngâm. “Ai mà biết được. Chúng ta sẽ phải cử người đến Claremont…và cả Fano nữa. Ngươi sẽ chịu trách nhiệm cho việc đó, Ola. Chia đều công việc ra cho cả nhóm…Nghe này, nhóc…”

“Vâng, thưa ngài?”

“Trong khi cậu rời đi để đưa thư cho Bonhart, ta cho là ông ta vẫn ở lại Ghen Tuông chứ hả? Nhưng ông ta đang chuẩn bị để khởi hành? Ông ta có vội không? Ông ta có nói là mình định đi đâu không?”

“Ông ấy không nói. Nhưng ông ấy cũng chưa sẵn sàng khởi hành ngay. Ông ấy đã ra lệnh đem quần áo của mình, mà vấy máu kinh khủng, đi giặt sạch, thế nên ông ấy chỉ mặc mỗi cái áo sơ mi, quần, và thắt lưng đeo kiếm. Tuy nhiên, tôi nghĩ là ông ấy vội. Ông ấy đã giết băng Rats và cắt đầu chúng để lĩnh thưởng, và cần phải nhanh chóng đem chúng đi giao nộp. Và đem nộp luôn cả cái ả Falka mà ông ấy đã bắt sống cho ai đó nữa. Đó là việc của ông ấy mà, phải không?”

“Cái ả Falka này…Cậu có được nhìn rõ cô ta không? Cậu cười cái gì, thằng đần?”

“Ôi, thưa ngài! Tôi có được nhìn rõ cô ta không ư? Ngài có thể chắc chắn! Đầy đủ chi tiết luôn!”

***

“Cởi quần áo ra,” Bonhart nhắc lại. Có thứ gì đó trong giọng nói của hắn khiến Ciri giật mình theo bản năng. Nhưng ham muốn nổi loạn ngay lập tức chiến thắng.

“Không!”

Cô bé thậm chí còn không kịp nhìn chuyển động nắm tay của hắn, mà táng thẳng ngay vào mắt mình. Đôi mắt cô nổ đom đóm và mặt đất rung chuyển, kéo đi dưới chân và đập vào bên hông chợt đau điếng của cô. Má và tai Ciri nóng bừng như lửa – cô nhận ra rằng mình không bị đánh bởi một nắm đấm, mà là một cái bạt tai.

Hắn đứng bên trên cô, nắm tay dứ dứ trước mặt. Cô trông thấy một cái nhẫn ấn tín nặng nề mang hình một cái đầu lâu, mà vừa mới đốt sưng mặt mình như một con ong vò vẽ.

“Bởi vì mi đã không bay mất một cái răng cửa lần này,” giọng hắn lạnh như băng, “nên lần sau mà còn nghe thấy từ “không”, ta sẽ đánh bay cả hai cái luôn. Cởi quần áo ra.”

Cô bé lảo đảo đứng dậy và bắt đầu cởi khóa và cúc áo bằng bàn tay run rẩy. Đám đông ở trong quán trọ Đầu Chimera của Ghen Tuông bắt đầu xì xào, hắng giọng, và nhìn thô lố. Bà chủ quán, một góa phụ của trận hỏa hoạn, cúi xuống quầy rượu và giả vờ như đang tìm cái gì đó.

“Cởi hết mọi thứ ra. Cho đến mảnh vải cuối cùng.”

Mình không ở đây, Ciri nghĩ trong khi trút bỏ quần áo và thẫn thờ nhìn xuống sàn. Không có ai ở đây. Mình thậm chí còn không ở đây.

“Dạng chân ra.”

Mình không ở đây. Chuyện đang xảy ra ngay lúc này không có ý nghĩa gì với mình cả.

Không gì cả. Mình không cảm thấy gì hết.

Bonhart cười. “Ta có cảm giác là mi tự đề cao bản thân mình quá rồi đó. Ta phải loại bỏ những ảo tưởng này mới được. Ta bắt mi cởi quần áo ra, đồ ngu, là để ta có thể chắc chắn rằng mi không giấu diếm bất kỳ dấu ấn ma thuật, mề đay hay bùa chú gì trên người cả. Không phải để ta có thể chiêm ngưỡng cái thân hình trần trụi thảm hại của mi. Ta không thể tưởng tượng ra ai lại có thể thích nó cho được. Mi là một con nhãi quắt queo, phẳng lỳ như cái bánh rán và xấu xí như bảy tội lỗi. Kể cả nếu có thích những cái đó đi chăng nữa, ta nghĩ mình thà đi phang một con gà tây còn hơn.”

Hắn bước lại gần hơn và phân loại quần áo của cô bằng ngón chân, nhìn với vẻ xét nét. “Ta bảo tất cả cơ mà! Nhẫn, khuyên tai, dây chuyền, vòng tay!”

Cô nhanh chóng trút bỏ đống trang sức trên người. Với một cú đá, hắn đẩy cái áo khoác xanh viền lông cáo, chiếc khăn quàng sặc sỡ, sợi dây lưng làm từ xích bạc, và đôi găng tay của cô vào một góc.

“Mi sẽ không ăn diện như một con vẹt hay một ả nửa–elves đến từ một cái nhà thổ! Mi có thể mặc số quần áo còn lại. Và các ngươi nhìn cái gì? Ai đó mang cho ta chút đồ ăn đi, đói lắm rồi! Và ông, gã béo ú kia, trông chừng quần áo của ta ở chỗ giặt đó!”

“Tôi là thị trưởng ở đây!”

“Thế thì tốt,” Bonhart gằn giọng. Dưới ánh mắt của hắn, ông thị trưởng của Ghen Tuông trông như gầy đi. “Nếu trong lúc giặt mà đồ của ta bị hỏng, ta sẽ bắt ông phải chịu trách nhiệm. Đi đi! Tất cả những kẻ còn lại, cút hết! Và ngươi, thằng nhóc kia, ngươi vẫn còn đợi ở đây làm gì? Ngươi đã có thư và ngựa đã đóng yên cương sẵn rồi, nên khởi hành đi chứ còn gì nữa! Và nhớ đấy: nếu ngươi không giữ lời, nếu ngươi đánh mất thư hay gửi nhầm địa chỉ – ta sẽ tìm ngươi và khiến cho mẹ ngươi cũng không còn nhận ra ngươi được nữa!”

“Tôi đi ngay đây, thưa ngài!”

***

“Ngày hôm đó,” – Ciri mím môi – “hắn đánh tôi hai lần bằng nắm tay và thắt lưng. Rồi hắn hết hứng. Chỉ ngồi đó và nhìn tôi trong im lặng. Đôi mắt hắn…có gì đó giống như mắt cá.”

“Không lông mày, không lông mi…trông như hai hòn bi nước, mỗi cái chìm giữa một lòng đen. Hắn nhìn tôi bằng cặp mắt đó và im lặng. Nó còn khiến tôi sợ hơn cả bị đánh. Tôi không hề biết ý định của hắn là gì.”

Vysogota giữ im lặng. Chuột chạy qua căn chòi.

“Hắn liên tục hỏi tôi là ai, nhưng tôi không nói gì cả. Như cái hồi bị bắt ở Lòng Chảo trong sa mạc Korath, tôi bỏ trốn vào sâu trong tiềm thức, nếu ông hiểu ý tôi là gì. Nó như thể tôi chỉ là một con búp bê, một con rối gỗ, và tôi vô cảm với mọi thứ xảy ra xung quanh con búp bê này. Như thể tôi đang nhìn xuống từ trên cao. Có quan trọng không nếu hắn đánh tôi, giẫm đạp tôi, cùm cổ tôi lại như một con chó? Đó không phải là tôi. Tôi không hề ở đó…Ông có hiểu không?”

“Ta hiểu.” Vysogota gật đầu. “Ta hiểu, Ciri.”

***

“Lần này, thưa Quý Tòa, là đến lượt chúng tôi. Nhóm của chúng tôi. Neratin Ceka nhận lệnh và Boreas Mun được chỉ định làm người truy dấu. Boreas Mun, thưa Quý Tòa, có thể tìm ra dấu vết của một con cá trong nước, người ta nói vậy. Ông ta đúng là một người truy dấu giỏi! Họ nói rằng ông ta có thể…”

“Nhân chứng không nên đi lạc đề.”

“Cái gì? À, vâng,…tôi biết rồi. Vậy là, chúng tôi đóng yên cương và khởi hành tới Fano. Đó là buổi sáng ngày 16 tháng Chín…”

***

Neratin Ceka và Boreas Mun đi đằng trước, phía sau họ – vai kề vai – là Cabernet Turent và Cyprian Fripp, bám theo là Kenna Selborne và Chloe Stitz, và cuối cùng là Andres Vierny và Dede Vargas. Hai người đó đang nghêu ngao một bài ca người lính kiểu mới, mà đã được sáng tác và phát hành bởi Bộ Chiến Tranh. Kể cả đám thú vật sinh sống trong vùng đất hoang tàn mà đoàn lữ hành đi qua cũng phải rùng mình trước vần điệu cay đắng kinh khủng và sự coi thường nghiêm trọng đối với ngữ pháp cơ bản của bài hát. Nó có tiêu đề Phải, ngay tiền tuyến, và tất cả những khúc hát – có hơn 40 khúc cả thảy – đều bắt đầu bằng những từ này.

Phải, nó xảy ra ở tiền tuyến, Cái lúc có kẻ mất đầu,

Hay hóa ra lại ngày mai, Tùy lòng dạ can đảm ra sao.

Kenna khẽ huýt sáo. Cô ta bằng lòng với việc được đi cùng những người bạn tốt đã làm quen trên chuyến hành trình dài từ Aetolia tới Rocayne. Sau khi nói chuyện với Cú Nâu, cô ta đã trông đợi mình sẽ được phân công vào một nhóm ngẫu nhiên nào đó, như cái nhóm của Brigden hay Harsheim. Til Echrade đã được phân vào một nhóm như vậy, nhưng người elves quen biết hầu hết các anh em mới của mình, và họ cũng quen anh ta.

Mặc dù Dacre Silifant đã ra lệnh đi nhanh hết mức có thể, họ vẫn di chuyển với tốc độ vừa phải. Họ là dân chuyên nghiệp. Họ phi nước đại cho đến chừng nào người ta vẫn còn nhìn được họ ở pháo đài, rồi sau đó chậm lại. Phóng như điên có thể phù hợp với mấy đứa nhãi ranh và lũ nghiệp dư, nhưng ai cũng biết rằng, lúc duy nhất cần vội là lúc ta bị chấy!

Chloe Stitz, tên trộm tới từ Ymlac, đã kể với Kenna về lần hợp tác trước đây của cô ta với thanh tra Stefan Skellen. Cabernet Turent và Cyprian Fripp Trẻ ghìm ngựa lại, thường xuyên ngó sang bên và nghe ngóng.

“Tôi biết ông ta rất rõ. Tôi đã từng phục vụ cho ông ta vài lần rồi…”

Chloe hơi vấp khi nhận ra ý nghĩa kép của câu nói vừa rồi, nhưng ngay lập tức nở một nụ cười thoải mái. “Và tôi cũng đã phục vụ rất tốt dưới sự chỉ huy của ông ta.” Cô ta tiếp tục. “Không, Kenna, đừng lo. Đấy không phải là điều bắt buộc đối với Cú Nâu. Ông ta không cưỡng ép tôi – tự tôi đã tìm và chớp lấy cơ hội. Nhưng để rõ ràng, tôi sẽ nói với cô rằng không thể có được sự bảo hộ bằng cách này, không phải với ông ta.”

“Tôi chưa bao giờ làm chuyện gì như thế cả!” Kenna bậm môi và nhìn với vẻ thách thức gương mặt đang mỉm cười của Turent và Fripp. “Tôi không tìm kiếm một cơ hội hay sự bảo hộ. Tôi không dễ bị đe dọa như vậy. Đặc biệt không phải bởi một con gà trống!”

“Đừng biến đây thành một cuộc chọi gà, các quý cô,” Boreas Mun nhắc nhở, ghìm con tuấn mã màu xám lại để chờ Chloe và Kenna. “Hãy nói về chuyện khác đi,” ông ta tiếp tục, đi bên cạnh họ. “Bonhart là không có đối thủ với kiếm trong tay. Tôi sẽ rất mừng nếu hóa ra giữa hắn và ngài Skellen không có thù hằn gì cả – nếu mọi thứ được giải quyết êm thấm.”

“Và tôi cũng không trông đợi phải buộc chặt dây đeo kiếm,” Andres Vierny thú nhận từ đằng sau. “Tôi đã tưởng là chúng ta sẽ lần theo tên pháp sư, bởi vì họ đã cử nhà ngoại cảm Kenna Selborne đây đi cùng. Thế mà giờ chúng ta lại đuổi theo Bonhart và một đứa con gái nào đấy!”

“Bonhart, gã thợ săn tiền thưởng,” – Boreas Mun hắng giọng – “đã có một giao kèo với ngài Skellen. Và hắn đã phá vỡ nó. Mặc dù đã hứa với ngài Skellen rằng sẽ giết đứa con gái, hắn đã tha mạng cho cô ta.”

“Chắc chắn bởi vì có người trả hắn nhiều tiền cho đứa con gái còn sống hơn là Cú Nâu trả cho cái đầu của cô ta.” Chloe Stitz nhún vai. “Thợ săn tiền thưởng là thế đó. Chẳng có chút danh dự nào cả!”

“Bonhart khác,” Fripp Trẻ phản bác, quay mặt lại. “Đặc điểm của hắn đó là không bao giờ nuốt lời.”

“Càng lạ hơn khi hắn lại bắt đầu phá lệ vào lúc này.”

“Nhưng tại sao?” Kenna hỏi, “Tại sao đứa con gái này lại quan trọng như vậy? Tại sao cô ta phải chết, và tại sao phải sống?”

“Chúng ta quan tâm làm gì?” Boreas Mun cau mày. “Chúng ta có lệnh! Và ngài Skellen có quyền đối với những gì chính đáng thuộc về mình. Bonhart lẽ ra nên biến Falka thành cái xác lạnh, nhưng hắn đã không làm. Ngài Skellen yêu cầu phải có người chịu trách nhiệm.”

“Cái gã Bonhart này,” Chloe Stitz lặp lại, hoàn toàn tin tưởng, “chắc chắn được trả nhiều tiền hơn nếu để cô ta sống. Đó là toàn bộ bí mật.”

“Đó cũng chính là suy nghĩ đầu tiên của ngài thanh tra,” Boreas Mun nói, “Bonhart đã được thuê bởi một trong các nam tước của Geso, người mà vô cùng tức giận với băng Rats và hứa hẹn phần thưởng cho bất kỳ ai bắt sống được Falka – để ông ta có thể từ từ tra tấn cô ta cho đến chết. Nhưng hóa ra sự việc lại không như vậy. Chúng ta không biết Bonhart đang để dành Falka cho ai, nhưng rõ ràng là không phải cho tay nam tước đó.”

***

“Ngài Bonhart!” Ông thị trưởng béo ú của Ghen Tuông xông vào quán trọ, thở hồng hộc và đớp không khí. “Ngài Bonhart, đang có vài người vũ trang tiến vào trong làng! Họ cưỡi ngựa!”

“Chà, một chuyện như vậy,” Bonhart vét nốt đĩa bằng mẩu bánh mỳ, “sẽ thực sự kỳ lạ nếu họ lại đi cưỡi khỉ chẳng hạn. Có bao nhiêu?”

“Bốn.”

“Và quần áo của ta đâu?”

“Chỉ vừa mới giặt xong…vẫn chưa phơi khô.”

“Các người có thể xuống địa ngục được rồi đó. Bởi vì ta sẽ phải đi tiếp khách trong cái quần lót này. Dĩ nhiên, khách thế nào thì tiếp thế đó.”

Hắn di chuyển thắt lưng, buộc kiếm lên, nhét gấu quần vào trong ủng, rồi siết chặt dây buộc cổ Ciri và kéo xích. “Đứng lên, con chuột nhắt này.”

Lúc hắn lôi cô bé ra ngoài hiên cũng là lúc bốn kỵ sĩ đến trước quán trọ. Có thể thấy họ đã đi một quãng đường xa qua chốn hoang dã – chăn chiếu, bát đĩa và ngựa đều bám đầy bùn và bụi.

Có bốn người bọn họ, nhưng họ cũng mang theo một con ngựa thồ hàng. Khi trông thấy con ngựa người Ciri nóng bừng lên, mặc dù trời đang rất lạnh. Đó chính là con ngựa trắng của cô bé, vẫn còn đóng nguyên bộ yên cương cũ trên người. Và dải băng buộc đầu, một món quà từ Mistle. Các kỵ sĩ chính là những kẻ đã giết Hotsporn.

Họ dừng lại trước cửa quán trọ. Một người, chắc hẳn là thủ lĩnh, bước lên trước, cưỡi ngựa lại gần và gỡ bỏ chiếc mũ lông chồn trên đầu để chào Bonhart. Làn da hắn rám nắng và gương mặt mang một bộ ria mép trông như có người đã kẻ một đường phía trên môi hắn bằng một mẩu than. Ciri để ý thấy hắn cứ liên tục nhếch môi trên – khiến mình trông lúc nào cũng có vẻ bực tức. Có thể hắn bực thật.

“Xin chào, ngài Bonhart!”

“Xin chào, ngài Imbra. Xin chào, các quý ngài.” Không vội vã, Bonhart buộc xích cổ Ciri vào một cái móc treo ngoài mái hiên. “Xin thứ lỗi cho bộ trang phục thiếu đứng đắn này, nhưng tôi không trông đợi các anh. Các anh đã đi một quãng đường xa đó…Các anh tới Ebbing từ Geso à? Và ngài nam tước tốt bụng thế nào rồi? Ông ấy vẫn khỏe chứ?”

“Ông ấy vẫn tràn đầy sức sống,” người đàn ông rám nắng thờ ơ đáp, rồi lại nhếch môi trên. “Nhưng chúng ta không có thời gian để tán gẫu. Chúng tôi đang vội.”

Bonhart đặt tay lên thắt lưng. “Vậy đừng để tôi làm phiền các anh.” “Chúng tôi nghe nói ông đã xử xong băng Rats.”

“Đúng vậy.”

“Và theo như lời hứa của ông với ngài nam tước” – người đàn ông rám nắng tiếp tục nhếch môi khi trông thấy Ciri trên ngưỡng cửa – “ông đã không giết Falka.”

“Tôi cho là cũng đúng.”

“Vậy là ông may hết phần chúng tôi rồi.” Người đàn ông liếc nhìn con ngựa trắng. “Thôi cũng được. Chúng tôi sẽ đem đứa con gái về nhà. Rupert, Stavro, bắt lấy nó.”

“Bình tĩnh đã, Imbra.” Bonhart giơ tay lên. “Anh sẽ không đem ai đi hết. Bởi một lý do đơn giản là tôi sẽ không đưa ai cho anh cả. Tôi đã đổi ý rồi. Tôi sẽ giữ lấy đứa con gái vì mục đích riêng.”

Người đàn ông rám nắng, mà Bonhart gọi là Imbra, nghiêng người trên yên ngựa, ho, và khạc một bãi bay xa ấn tượng, gần như chạm đến mấy bậc thang dẫn lên hiên nhà. “Ông đã hứa với nam tước rồi.”

“Tôi đã hứa. Nhưng tôi đã đổi ý.”

“Cái gì? Tôi nghe có đúng không thế?”

“Imbra, tôi không quan tâm anh có nghe thấy cái gì không.”

“Trong ba ngày ông đã được tiếp đón ở lâu đài. Bởi vì lời hứa đã trao cho ngài nam tước, ông đã được ăn uống no say trong ba ngày đó. Thứ rượu vang tốt nhất dưới tầng hầm, công quay, thịt hươu, bánh nướng, cá chó phết kem. Trong ba đêm ông ngủ như một vị vua trên chiếc giường không ai bì được. Và giờ thì ông đổi ý? Có phải không?”

Bonhart giữ im lặng, gương mặt lộ vẻ thờ ơ và chán chường.

Imbra nghiến răng để ngăn mình không nhếch môi lên nữa. “Bonhart, ông nhận ra rằng chúng tôi có thể cướp lấy ả Rats từ ông bằng vũ lực chứ?”

Gương mặt Bonhart, mà nãy giờ chán chường và tủm tỉm, ngay lập tức trở nên tập trung. “Thử đi. Các anh có bốn, tôi có một. Thêm nữa, tôi đang mặc đồ lót. Nhưng với lũ khốn các người thì tôi không cần mặc quần.”

Imbra lại khạc ra, giật dây cương, và quay đầu con ngựa. “Ugh, Bonhart, ông bị làm sao thế hả? Người ta nói ông là một dân chuyên nghiệp đích thực luôn giữ lời kia mà. Nhưng giờ hóa ra lời của ông còn không đáng giá bằng một bãi cứt! Và bởi vì bản chất con người có thể được đánh giá dựa vào lời nói, nên bản thân ông cũng không đáng giá bằng…”

“Cẩn thận đấy,” Bonhart cắt ngang bài diễn thuyết bằng giọng lạnh lùng, tay đặt lên khóa thắt lưng. “Đừng phun ra cái gì quá đáng. Bởi vì nó sẽ rất đau khi tôi nhét lại vào mồm anh…”

“Ông có thể can đảm trước bốn người! Nhưng liệu ông có đủ can đảm trước 14 người hay không? Bởi vì tôi có thể cam đoan rằng nam tước Casadei sẽ không bỏ qua chuyện này đâu!”

“Tôi sẽ nói với anh rằng tự tôi sẽ đến tìm ngài nam tước – nếu như không phải xung quanh ông ta lúc nào cũng có người, trong số đó là phụ nữ và trẻ em. Vậy nên thay vào đó tôi sẽ bảo anh rằng tôi sẽ ở lại Claremont trong vòng 10 ngày. Bất kỳ ai muốn đem Falka đi hay trả thù tôi đều được hoan nghênh tới Claremont.”

“Tôi sẽ tới đó!”

“Tôi sẽ đợi. Giờ thì biến khỏi đây đi.”

***

“Chúng sợ hắn. Vô cùng sợ. Tôi có thể cảm thấy nỗi khiếp đảm toát ra từ người chúng.” Kelpie hý lên một tiếng và vắt đầu qua lại.

“Chúng có bốn người, vũ trang tận răng. Và hắn chỉ có một mình, trong chiếc quần lót và một cái áo ngắn tay rách rưới. Cảnh tượng đó sẽ thật khôi hài nếu như…nếu như hắn không quá kinh khủng.”

Vysogota nhắm đôi mắt đang nhoèn nước vì gió lại. Họ đứng trên một ngọn đồi nhìn xuống vùng đầm lầy của Pereplut, gần chỗ mà ông già đã tìm thấy Ciri hai tuần trước. Cơn gió thổi rạp những cây sậy và tạo sóng lăn tăn trên mặt sông.

“Một trong bốn tên,” Ciri tiếp tục trong khi họ để con ngựa uống nước, “có mang một cái nỏ bé trên yên ngựa, và bàn tay hắn hơi bò lại gần nó. Tôi gần như có thể nghe thấy suy nghĩ và cảm nhận nỗi sợ của hắn. “Liệu mình có kịp lên dây không? Để bắn? Và nếu mình quá chậm thì sao?” Bonhart cũng nhận ra cây nỏ và bàn tay đang bò gần đến nó, và thậm chí còn đoán được suy nghĩ của tên kỵ sĩ như tôi đã đoán, chắc chắn vậy. Và tôi cũng chắc là gã kỵ sĩ đó sẽ không kịp lên dây được đâu.”

Kelpie ngẩng đầu lên và bắt đầu hý, hàm răng gặm dây cương.

“Tôi biết rõ hơn. Tôi, người đã rơi vào tay hắn. Tuy vậy, tôi vẫn không hiểu động cơ của hắn là gì. Cuộc đối thoại của chúng gợi cho tôi nhớ lại những gì Hotsporn đã nói lúc trước. Cái tay nam tước Casadei này muốn bắt sống tôi, và Bonhart đã hứa với ông ta là sẽ làm vậy. Nhưng giờ thì Bonhart lại sẵn sàng đối đầu với ông ta vì tôi. Tại sao? Hắn muốn nộp tôi cho người nào đó trả nhiều tiền hơn à? Phải chăng bằng cách nào đó hắn đã khám phá ra bí mật của tôi, danh tính thực sự của tôi? Và phải chăng hắn đang định nộp tôi cho người Nilfgaard?”

“Chúng tôi rời khỏi ngôi làng vào tối hôm đó. Hắn để tôi cưỡi Kelpie. Nhưng tay tôi bị trói trước mặt và hắn luôn giữ chặt sợi xích buộc cổ tôi. Mọi lúc. Chúng tôi đi, gần như không ngừng nghỉ, suốt ngày suốt đêm. Tôi tưởng mình sẽ chết vì kiệt sức. Nhưng thế nào đó mà hắn lại không hề mệt tí nào. Hắn không phải là người. Hắn là hiện thân của quỷ dữ.”

“Hắn đã đưa cô đi đâu?” “Tới một nơi gọi là Fano.”

***

“Khi chúng tôi tới Fano, thưa Quý Tòa, trời đã tối mịt, tối đến mức mắt không còn nhìn nổi

đầu nữa. Đó chỉ mới là ngày 16 tháng Chín, nhưng với một đêm như vậy – mây mù, lạnh lẽo, đáng nguyền rủa – người ta có thể nghĩ đã sang tháng Mười Một rồi cũng nên. Chúng tôi không cần tốn nhiều thời gian để tìm được công xưởng của người thợ rèn, không chỉ bởi vì nó là tòa nhà lớn nhất trong thị trấn, mà cũng bởi đó là nơi duy nhất phát ra tiếng búa đập không ngừng. Neratin Ceka…ngài thư ký không cần phải ghi lại cái tên này đâu, bởi vì tôi không biết là mình đã nói chưa, nhưng Neratin không còn sống nữa, anh ta đã bị giết tại một ngôi làng tên Kỳ Lân…”

“Xin đừng hướng dẫn người ghi chép biên bản. Làm ơn hãy tiếp tục.”

“Neratin gõ cửa. Chúng tôi được hỏi lịch sự, rằng mình là ai và muốn gì. Chúng tôi lịch sự hỏi xin gặp mặt. Họ để chúng tôi vào. Công xưởng của người thợ rèn là một tòa nhà rất đẹp, đồng thời cũng là một pháo đài đích thực – hàng rào bằng cọc gỗ thông, chòi canh bằng gỗ sồi, tường trong bằng gỗ diệp tùng đánh bóng…”

“Tòa không có hứng thú với các chi tiết kiến trúc. Nhân chứng có thể nói tóm gọn lại đi.

Nhưng trước hết ta yêu cầu nhân chứng nhắc lại tên của người thợ rèn để ghi vào biên bản.” “Esterhazy, thưa Quý Tòa. Esterhazy của Fano.”

***

Tay thợ rèn Esterhazy nhìn Boreas Mun một lúc lâu và không hề vội trả lời câu hỏi mình đã được hỏi.

“Có thể Bonhart đã ở đây,” cuối cùng ông ta lên tiếng, tay nghịch ngợm một cái sáo xương treo trên cổ. “Hay có thể là không? Ai mà biết được? Các quý ngài và quý cô, đây là một công xưởng sản xuất kiếm. Với bất kỳ vấn đề nào liên quan đến kiếm, chúng tôi rất sẵn lòng đưa ra một câu trả lời nhanh chóng, trơn tru và kỹ càng. Nhưng tôi không thấy có lý do nào mình phải đi trả lời những câu hỏi liên quan đến các khách hàng.”

Kenna rút một cái khăn mùi soa ra từ ống tay áo và giả bộ như đang sì mũi.

“Có một lý do đấy,” Neratin Ceka đáp lại. “Ông có thể tìm được nó, ngài Esterhazy. Hoặc tôi có thể. Ông có muốn chọn không?” Trái với vẻ nữ tính của Neratin, gương mặt của anh ta có thể nghiêm nghị và giọng nói có thể đe dọa.

Nhưng tay thợ rèn chỉ khịt mũi trong khi nghịch cây sáo. “Chọn giữa hối lộ và dọa nạt? Tôi không muốn. Cả hai lựa chọn đó đều đáng nhổ vào mặt.”

Boreas Mun hắng giọng. “Chỉ một chút thông tin thôi. Thế có quá đáng không? Chúng ta đã quen nhau được một thời gian rồi, ngài Esterhazy, và tên của thanh tra Skellen cũng chẳng lạ lẫm gì…”

“Không lạ,” tay thợ rèn cắt lời. “Không lạ chút nào. Những cuộc điều tra và hành động đi kèm cái tên đó cũng chẳng lạ gì với tôi. Nhưng chúng ta đang ở Ebbing, một vương quốc với chính quyền độc lập của riêng mình. Kể cả nếu chỉ là hình thức. Do vậy, tôi sẽ không nói cho các người cái gì hết. Đi đi. Nếu cần an ủi thì tôi hứa rằng nếu có ai hỏi về các người trong vòng một tuần hay một tháng tới, họ cũng sẽ không biết gì từ tôi hết.”

“Nhưng, ngài Esterhazy…”

“Các người cần nói rõ hơn sao? Đây nhé – Biến khỏi nơi này đi!”

Chloe Stitz rít lên giận dữ, bàn tay của Fripp và Vargas bò về phía chuôi kiếm của mình, và bàn tay của Andres Vierny đặt lên chiếc búa giắt ở thắt lưng anh ta. Neratin Ceka không di chuyển, gương mặt thậm chí cũng không co giật. Kenna trông thấy anh ta liếc mắt về phía chiếc sáo xương. Trước khi họ bước vào đây, Boreas Mun đã cảnh báo rằng âm thanh của chiếc sáo là một tín hiệu để triệu tập lính gác cưỡi chiến mã, những người được công xưởng thuê để làm “thanh tra chất lượng sản phẩm”.

Nhưng Neratin và Boreas đã dự đoán được và lên kế hoạch cho điều này. Họ vẫn còn một quân át chủ bài dự trữ.

Kenna Selborne. Nhà ngoại cảm.

Kenna đã thám thính trong đầu của tay thợ rèn, cẩn thận dò xét mạch đập của ông ta, và thận trọng tiến sâu vào trong tiềm thức. Giờ thì cô ta đã sẵn sàng. Với chiếc khăn bịt mũi – luôn có nguy cơ bị chảy máu – cô ta thao túng ý chí ngạo mạn của tay thợ rèn. Esterhazy bắt đầu khò khè và đỏ ửng. Ông ta bám lấy cạnh chiếc bàn mình đang ngồi lên bằng cả hai tay, như thể sợ rằng nó sẽ bay mất đến nơi nào đó ấm áp – cùng với một đống hóa đơn, một lọ mực, và một cái chặn giấy hình một nymph biển đang ôm hai con sò.

Trật tự, Kenna ra lệnh, không có gì, không có gì đang xảy ra cả. Ông chỉ muốn cho chúng tôi biết điều chúng tôi muốn biết thôi. Ông biết chúng tôi muốn gì mà, và chưa gì ông đã muốn đẩy những câu từ đó ra khỏi mồm rồi. Vậy hãy làm đi. Nhanh nào. Ông sẽ thấy là một khi bắt đầu mở miệng, không còn giọng nói nào vang lên trong đầu nữa, không còn âm thanh đập vào thái dương và màng nhĩ cho đến khi ông không thể chịu nổi. Và cơn co giật ở má sẽ biến mất.

“Bonhart,” Esterhazy cất lời bằng một giọng khàn khàn, mất đi sự rõ ràng trong từng âm tiết, “đã ở đây bốn ngày trước, vào ngày 12 tháng Chín. Ông ta đem theo một đứa con gái, mà ông ta gọi là Falka. Tôi đã trông đợi cuộc viếng thăm của họ, bởi vì hai ngày trước đó tôi đã nhận được một lá thư từ ông ta…”

Một dòng máu đỏ bắt đầu chảy xuống từ lỗ mũi bên trái của ông ta.

Nói đi, Kenna ra lệnh. Nói đi. Kể cho tôi mọi thứ. Rồi ông sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều.

***

Người thợ rèn Esterhazy nhìn Ciri với vẻ tò mò, mà không đứng dậy khỏi cái bàn làm từ gỗ sồi. “Cho con bé.” ông ta đoán trong khi gõ bút lên cục chặn giấy hình thù kỳ dị. “Thanh kiếm mà ông yêu cầu trong lá thư là cho con bé. Đúng chứ, Bonhart? Vậy thì, hãy xem nào…để coi có khớp với những gì ông đã viết không. Cao khoảng 1m7…Chuẩn rồi. Nặng tầm 50 cân…Chúng ta có thể cho con bé nhẹ hơn 50 cân, nhưng đó không phải vấn đề chính. Một đôi bàn tay, như ông đã viết, để vừa với một cái găng cỡ 5…Hãy xem đôi tay đó nào, cô nương…Chà, ông viết đúng đấy.”

“Tôi luôn đúng.” Bonhart nói khô khan. “Ông có mẩu sắt nào tử tế cho chúng không?” “Trong cái nghề này,” Esterhazy đáp tự hào, “chúng tôi không chào mời bất kỳ thứ gì làm

bằng sắt không tử tế. Tôi hiểu là ông yêu cầu một thanh kiếm để chiến đấu, chứ không phải đem trưng bày. Ồ phải, ông đã viết như vậy rồi. Không cần bàn cãi, một món vũ khí cho cô nương đây có thể dễ dàng tìm được. Một thanh kiếm dài 90 phân sẽ là phù hợp với chiều cao và cân nặng này, hàng tiêu chuẩn. Đối với thân hình gọn nhẹ và bàn tay nhỏ nhắn, con bé sẽ cần một cây trường kiếm cỡ bé với 20 phân tay cầm và chuôi kiếm tròn. Chúng tôi cũng có thể cung cấp một thanh Taldaga của elves, hay một thanh đao Zerrikania, hay một thanh Viroledaner…”

“Cho chúng tôi xem hàng đi, Esterhazy.”

“Bộ chúng ta đang có kiến bò trong quần hay sao? Được rồi, vậy thì hãy đi xem…đi xem… đợi đã, Bonhart? Cái quái gì thế? Tại sao ông lại xích cổ nó như vậy?”

“Giữ cái mũi của ông cho chính ông đi, Esterhazy. Đừng xía nó vào nơi không cần xía, kẻo mất đấy!”

Esterhazy nghịch ngợm cây sáo treo trên cổ và nhìn gã thợ săn tiền thưởng mà không sợ hãi hay tôn trọng, tuy nhiên vẫn phải quay đi thật nhanh.

Bonhart vuốt ria mép và hắng giọng. “Tôi,” hắn nói khẽ khàng hơn, nhưng vẫn đầy giận dữ, “không can thiệp vào công việc của ông và những mối quan tâm của ông. Chẳng lẽ ông thấy ngạc nhiên khi tôi trông đợi điều ngược lại hay sao?”

“Bonhart,” – người thợ rèn không run rẩy hay ấp úng – “nếu ông rời khỏi nhà tôi, nếu ông đóng cửa sau lưng lại, tôi sẵn sàng tôn trọng quyền riêng tư của ông, bí mật những mối quan tâm của ông, và chi tiết nghề nghiệp của ông. Và tôi sẽ không xía mũi vào chúng, ông có thể chắc chắn. Tuy nhiên, ở trong nhà tôi, tôi không cho phép nhân phẩm con người bị chà đạp. Ông có hiểu không? Phía sau cánh cửa kia, ông có thể kéo lê con bé này đằng sau ngựa nếu thích. Nhưng ở trong nhà tôi ông sẽ tháo cái vòng cổ đó ra. Ngay lập tức.”

Bonhart nắm lấy cái vòng cổ và nới lỏng nó, nhưng hắn không quên giật nó một cái thật mạnh đến mức Ciri suýt ngã.

Esterhazy coi như chưa trông thấy gì và bỏ tay ra khỏi cái sáo. “Thế tốt hơn rồi đấy,” ông ta nói. “Đi nào.”

Họ đi qua một phòng tranh nhỏ tới một cái sân khác hơi bé hơn, nối liền với phía sau lò rèn ở một bên và một vườn cây ở phía bên kia. Bên dưới một mái nhà được đỡ bởi những cây cột chạm trổ là một cái bàn nơi người hầu đang chờ, vừa mới bày biện xong vài thanh kiếm. Esterhazy ra hiệu cho Bonhart và Ciri lại gần cái bàn.

“Xin hãy xem đi, đây là những gì tôi có thể chào mời.” Thế là họ xem.

“Đây,” – Esterhazy chỉ vào dãy kiếm dài xếp trên bàn – “chúng ta có các sản phẩm của tôi, chủ yếu đều được rèn ở nơi này. Ông có thể thấy cái móng ngựa, biểu tượng của tôi. Giá từ 5 đến 9 floren, bởi vì mỗi thanh kiếm đều là hàng tiêu chuẩn. Mặt khác, ở đằng này, chúng ta có những thanh mà tôi chỉ lắp ráp hay mài bén. Đa phần chúng đều là hàng nhập khẩu. Mà ông có thể nhận ra nhờ dấu hiệu riêng của người thợ rèn. Con dấu hình búa bắt chéo là từ Mahakam, con dấu hình đầu đội vương miện hay một con ngựa là từ Poviss, và con dấu hình mặt trời là từ những công xưởng in ấn nổi tiếng của Viroleda. Giá khởi điểm là 10 floren.”

“Thế nó dừng tại đâu?”

“Còn tùy. Ví dụ, nhìn cây Viroledaner đẹp đẽ này xem.” Esterhazy nhấc thanh kiếm lên khỏi bàn, cúi chào nó, rồi thủ thế và thực hiện một động tác tay và cẳng tay phức tạp có tên Đánh lừa thiên thần. “Nó giá 15 floren. Một tác phẩm cũ kỹ, hàng sưu tầm. Có thể thấy là nó được đặt làm. Hàng chữ khắc trên kiếm ám chỉ rằng nó dành cho một người phụ nữ.” Ông ta xoay thanh kiếm, giữ sao cho họ có thể trông thấy phần dẹt của lưỡi kiếm. “Những ký tự truyền thống mô tả cách sử dụng một thanh Viroledaner. ‘Không rút khỏi vỏ mà không lý do, không tra lại vỏ mà không danh dự’. Ha! Ở Viroleda người ta vẫn còn khắc những dòng chữ như vậy. Nhưng trên khắp vương quốc, những lưỡi kiếm này đều được rút bởi những tên lừa đảo và lũ ngu đần. Và cũng như danh dự của vương quốc đã đi xuống, giá cả cũng phải tương tự, bởi những ngày này hiếm người cần…”

“Đừng nói nhiều quá, Esterhazy. Đưa thanh kiếm cho con bé đi, nó nên thử cầm trong tay.

Cầm lấy món vũ khí đi, con nhóc.”

Ciri nhận lấy thanh kiếm và ngay lập tức cảm thấy bàn tay nắm chắc xung quanh cán kiếm.

Trọng lượng của nó như chảy ra và mời gọi cô bé thủ thế và tấn công.

“Một thanh trường kiếm cỡ nhỏ,” cô giải thích thừa thãi với Esterhazy. Cô biết cách nắm cán kiếm dài, với 3 ngón tay đặt lên chuôi.

Bonhart bước hai bước ra sau khoảng sân. Hắn rút thanh kiếm của mình ra khỏi vỏ và làm một động tác cắt qua không khí. “Vào đây!” hắn nói với Ciri. “Giết ta đi. Mi có một thanh kiếm. Mi có một cơ hội. Tận dụng đi, bởi mi sẽ không có lần thứ hai một sớm một chiều đâu.”

“Ông điên rồi à?”

“Im miệng đi, Esterhazy.”

Cô bé lừa hắn bằng một cái liếc mắt, đánh lạc hướng hắn bằng một cái nhún vai, rồi tấn công như một tia chớp từ bên trái. Lưỡi kiếm đánh trúng thế phản đòn của hắn, mà mạnh tới mức Ciri vấp chân và phải nhảy lùi lại, đập hông vào cạnh chiếc bàn trưng bày. Cố giữ thăng bằng, cô bé hạ kiếm xuống theo bản năng – cả hai đều biết rằng vào giây phút này, nếu muốn, hắn có thể giết cô một cách dễ dàng.

“Các người điên hết rồi hay sao?” Esterhazy cao giọng, cây sáo lại nằm trong tay người đàn ông nhìn giống gnome. Người hầu và công nhân xung quanh nhìn với vẻ choáng váng.

“Ném thanh sắt đi.” Bonhart nói, mắt không rời khỏi Ciri. Hắn không thèm để tâm chút nào tới người thợ rèn. “Ta bảo, ném đi. Bằng không, ta sẽ chặt cụt tay mi!”

Sau một giây lưỡng lự, cô bé vâng lời.

Bonhart mỉm cười u ám. “Ta biết mi là ai, con rắn độc à. Nhưng ta sẽ bắt mi tự thú nhận.

Bằng lời nói hay hành động! Ta sẽ bắt mi tự thú nhận. Và rồi ta sẽ giết mi.” Esterhazy rít lên như thể có người làm đau mình.

“Và thanh kiếm đó,” – Bonhart liếc nhìn nó – “là quá nặng cho mi. Vậy nên mi mới quá chậm. Mi chậm như một con ốc sên đang mang bầu vậy. Esterhazy! Thứ mà ông đưa cho nó phải nặng quá ít nhất là 1 lạng.”

Người thợ rèn tái nhợt. Ánh mắt ông ta đảo giữa cô bé và Bonhart, liếc qua liếc lại, và gương mặt lộ vẻ kỳ lạ. Cuối cùng, ông ta gật đầu với một phụ tá và ra lệnh nho nhỏ.

“Tôi có một thứ,” ông ta nói chậm, “có thể khiến ông hài lòng, Bonhart.”

“Vậy tại sao không cho tôi xem luôn ngay từ đầu?” tên thợ săn tiền thưởng làu bàu. “Tôi đã viết là cần một thứ độc nhất vô nhị. Lẽ nào ông nghĩ rằng tôi không có tiền trả cho một thanh kiếm tốt hơn sao?”

“Tôi biết ông có thể trả được cái gì,” Esterhazy nhấn mạnh. “Tôi vừa biết chỉ mới vài phút trước. Và tại sao tôi không cho ông xem ngay từ đầu ư? Tôi không thể biết được ông sẽ đưa ai tới…bị xích cổ và đeo vòng. Tôi không thể tưởng tượng nổi thanh kiếm dành cho ai hay vì mục đích gì. Nhưng giờ thì tôi biết hết rồi.”

Người phụ tá quay lại, mang theo một cái hộp trưng bày dài. “Lại đây, cô gái,” Esterhazy nói khẽ. “Nhìn đi.”

Ciri lại gần. Cô nhìn. Và trầm trồ.

***

Cô rút thanh kiếm ra bằng một động tác nhanh như cắt. Ánh lửa của lò sưởi đỏ rực và lấp lánh trên đường viền uốn lượn của lưỡi kiếm.

“Đây chính là nó,” Ciri nói. “Ông nghĩ sao? Đương nhiên là ông có thể cầm thử nếu muốn. Nhưng cẩn thận, nó còn sắc hơn dao cạo. Ông có thể cảm nhận cán kiếm bám vào lòng bàn tay như thế nào không? Nó được làm từ da của một con cá dẹt, mà có một ngòi chích độc ở đuôi.”

“Một con cá đuối.”

“Có thể. Con cá này có những cái răng rất nhỏ mọc trên da, nên cán kiếm không bao giờ trượt khỏi tay ông, kể cả khi đổ mồ hôi. Nhìn những gì khắc trên lưỡi kiếm đi.”

Vysogota nghiêng tới trước và nheo mắt lại.

“Một hình mandala của người elves,” ông nói sau một hồi và ngước lên. “Một Blathan Caerme, hay vòng hoa của định mệnh: hoa sồi, trân châu và kim tước tạo kiểu. Một tòa tháp bị sét đánh – biểu tượng của hỗn mang và hủy diệt trong văn hóa của Giống Loài Cổ Xưa…Và trên đỉnh tháp…”

“Một con chim nhạn,” Ciri kết luận. “Zireael. Tên tôi.”

***

“Quả thực, không tồi,” Bonhart nói. “Một vũ khí của gnome – có thể nhận ra ngay tức thì. Chỉ có người gnome mới rèn được sắt màu tối như vậy. Chỉ có người gnome mới mài được lưỡi kiếm uốn lượn như lửa, và chỉ có người gnome mới phá được mối hàn để tối giản trọng lượng… Thú nhận đi, Esterhazy. Đây là hàng nhái có đúng không?”

“Không,” người thợ rèn nói. “Một nguyên mẫu. Một thanh gwyhyr thực sự của gnome. Lưỡi kiếm đã 200 năm tuổi rồi. Dĩ nhiên là nó mới được hoàn thiện gần đây, nhưng tôi sẽ không gọi nó là hàng nhái. Những người gnome ở Tir Tochair đã làm ra nó theo đơn đặt hàng của tôi. Theo đúng các kỹ thuật, phương pháp và hoa văn cổ truyền.”

“Chết tiệt. Tôi có thể sẽ không đủ tiền trả cho thanh kiếm này mất. Ông muốn bao nhiêu?”

Esterhazy im lặng trong một lúc. Biểu cảm trên gương mặt ông ta khó hiểu vô cùng. “Tôi không muốn gì hết, Bonhart.” Cuối cùng ông ta nói thẳng. “Đó là một món quà. Để hoàn thành những gì cần phải hoàn thành.”

“Cảm ơn,” Bonhart đáp lại, thực sự ngạc nhiên. “Cảm ơn ông, Esterhazy. Một món quà vương giả, thực sự vương giả…tôi chấp nhận. Và tôi mắc nợ ông.”

“Ông không nợ gì cả. Thanh kiếm là để cho con bé, không phải cho ông. Lại đây, cô gái với chiếc vòng cổ. Hãy nhìn những biểu tượng khắc trên lưỡi kiếm đi. Cô không hiểu, dĩ nhiên rồi. Nhưng tôi sẽ nói cho cô. Nhìn này. Vòng tròn vận mệnh bị gấp khúc, nhưng nó dẫn tới tòa tháp ở đây. Tới sự hoang tàn, tới sự phá hủy của trật tự. Và trên tòa tháp, cô có thấy không? Một con chim nhạn. Biểu tượng của hy vọng. Cầm lấy thanh kiếm này đi. Cầu cho nó sẽ hoàn thành được những gì phải hoàn thành.”

Ciri nhẹ nhàng vươn tay ra và vuốt ve thanh kiếm u ám với lưỡi sáng như một chiếc gương lấp lánh.

“Cầm lấy nó đi,” Esterhazy từ tốn nói, nhìn Ciri với đôi mắt mở to. “Cầm lấy đi. Cầm lấy nó lên tay đi, cô gái. Cầm…”

“Không,” Bonhart chợt gầm lên. Hắn nhảy tới, nắm lấy vai Ciri và thô bạo đẩy cô bé sang bên. “Tránh ra!”

Ciri ngã xuống và những hòn sỏi dưới đất cắm vào lòng bàn tay đau đớn.

Bonhart đóng sầm nắp hộp lại. “Chưa tới lúc,” hắn gầm gừ. “Không phải ngày hôm nay! Mi chưa sẵn sàng.”

“Dĩ nhiên rồi,” Esterhazy đồng tình và nhìn vào mắt hắn. “Phải, dĩ nhiên là con bé chưa sẵn sàng. Thật đáng tiếc.”

***

“Chẳng có mấy thông tin hữu ích trong tâm trí tay thợ rèn, thưa Quý Tòa. Chúng tôi ở đó vào ngày 16 tháng Chín, ba ngày trước trăng tròn. Nhưng trên đường quay về Rocayne từ Fano, chúng tôi bắt gặp Ola Harsheim, đang dẫn theo 7 người – phần còn lại của đơn vị. Bởi vì ngày hôm trước, ngày 15 tháng Chín, đã có một cuộc thảm sát ở Claremont…về vấn đề này chắc tôi không cần phải nói nữa, vì Quý Tòa hẳn đã biết về vụ thảm sát ở Claremont…”

“Xin hãy cứ khai mà không cần lo lắng xem tòa biết cái gì.”

“Bonhart đã đi trước chúng tôi một ngày. Vào ngày 15 tháng Chín hắn đã đem Falka tới Claremont…”

***

“Claremont,” Vysogota nhắc lại. “Ta biết thành phố đó. Hắn đã đưa cô tới chỗ nào?”

“Tới một ngôi nhà lớn nằm giữa khu chợ quảng trường. Với cột chống và mái vòm trước cổng. Ông có thể thấy ngay rằng một người giàu có đang sống tại nơi này…”

***

Những bức tường của căn phòng được bao phủ bởi thảm thêu và tranh vẽ cực kỳ tinh xảo, miêu tả những khung cảnh trong tôn giáo, cảnh săn bắn hay cuộc sống thôn dã có phụ nữ ở trong. Nội thất bằng đồng lấp lánh, và thảm trải dày tới nỗi chân lún đến tận mắt cá nếu bước qua. Nhưng Ciri không có thời gian để mắt đến những chi tiết này bởi Bonhart băng qua căn phòng thật nhanh, kéo theo sợi xích của cô bé.

“Xin chào, Houvenaghel.”

Những tia nắng bảy màu chiếu xuyên qua một ô cửa sổ bằng kính và soi tỏ một bức tranh vẽ cảnh săn bắn. Đằng trước bức tranh là một người đàn ông to lớn, cao ráo, mặc một chiếc áo khoác thêu chỉ vàng và một cái áo thụng lông thú dài đang đứng. Dù đang ở độ tuổi sung mãn, đầu ông ta trọc lốc và má xệ xuống như một con chó bull.

“Xin chào, Leo.” Ông ta nói. “Và cô, cô…”

“Cô nương đây,” Bonhart chỉ vào sợi xích và chiếc vòng cổ, “không cần phải được chào.” “Lịch sự có mất gì đâu.”

“Tiết kiệm được thời gian.” Bonhart giật xích, lại gần người đàn ông, và vỗ lên lớp mỡ trên bụng ông ta một cách vô tư. “Ông đã tăng cân lên nhiều đấy,” hắn nói. “Houvenaghel, phải nói thật là nếu ông đứng ngáng đường thì nhảy qua còn dễ hơn là đi vòng để tránh.”

“Cuộc sống tốt lành.” Houvenaghel nói vui vẻ. “Chào mừng, Leo. Thật tuyệt khi được đón tiếp ông, bởi hôm nay tôi đang vô cùng vui vẻ. Việc làm ăn thuận lợi tới nỗi ta gần như muốn đập gỗ – tiền cứ chảy vào không ngừng! Để tôi cho ông một ví dụ mới nhất, ngày hôm nay tôi đã mua được từ một tay đại úy Nilfgaard, một sĩ quan quân nhu, một chuyến hàng tiếp tế từ tiền tuyến – 6 ngàn cây cung. Tôi có thể bán lại giá gấp 10 lần số tiền mua vào cho đám thợ săn, trộm cướp, elves, và các thể loại chiến binh tự do khác. Tôi cũng vừa mua một tòa lâu đài với giá cắt cổ từ một quý tộc…”

“Ông cần một tòa lâu đài làm cái quái gì?”

“Tôi phải sống cho xứng chứ. Nói lại, việc làm ăn đang rất thuận lợi. Có một thứ tôi thực sự nợ ông. Một con nợ có vẻ vô vọng vừa mới trả tiền. Ngay mấy phút trước thôi. Tay hắn run bần bật. Hắn trông thấy ông và nghĩ rằng…”

“Tôi biết hắn nghĩ cái gì. Ông đã nhận được thư của tôi chưa?”

“Rồi.” Houvenaghel nặng nề ngồi xuống, bụng đập vào cạnh bàn khiến cốc chén rung rinh. “Và tôi đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ. Ông chưa xem qua tỉ lệ à? Con bé đúng thật là đã kéo được một lượng khán giả đông đến…Họ đang ở ngoài đấu trường sẵn rồi. Bên thu ngân đang rủng rỉnh…Ngồi xuống đi, Leo. Chúng ta có thời gian. Nói chuyện nào, uống tí rượu đi…”

“Tôi không muốn rượu của ông. Mà chắc chắn là đã bị đánh cắp từ một đoàn xe chuyên chở của Nilfgaard.”

“Ông đang đùa rồi. Đây là Est Est của Toussaint, và những quả nho đã được chuẩn bị từ cái hồi Hoàng đế Emhyr nhân từ của chúng ta vẫn còn là một thằng nhóc con, ị đùn trong cái bỉm bông bé nhỏ. Một năm tốt đối với rượu vang…Mừng sức khỏe của ông, Leo.”

Bonhart nâng cốc trong im lặng.

Houvenaghel bắt đầu tặc lưỡi khi nhìn sang Ciri với vẻ dò xét. “Vậy ra đây chính là con hươu ngây dại đó sao,” cuối cùng ông ta nói. “Mà bức thư đã hứa hẹn là chắc chắn sẽ mang đến một màn giải trí ra trò? Tôi có nghe nói là Windsor Imbra đang ở trong thành. Và rằng anh ta có mang theo vài tên côn đồ cùng với mình…”

“Hàng của tôi đã bao giờ làm ông thất vọng chưa, Houvenaghel?”

“Chưa, đúng vậy. Nhưng tôi cũng đã không nhận được gì từ ông trong một khoảng thời gian lâu rồi.”

“Giờ tôi không còn làm việc thường xuyên như trước nữa. Tôi đang tìm một cơ hội để giải nghệ.”

“Điều đó cần đến một sự nhanh nhạy nhất định để hoàn thành. Tôi có thể biết vài cách… muốn nghe không?”

“Vì không còn trò gì khác.” Bonhart chuyển mình và gác chân lên một cái ghế, bắt Ciri phải ngồi xuống.

“Ông đã bao giờ nghĩ đến việc di cư lên phương bắc chưa? Tới Cintra, hay vùng Chân Dốc của Yaruga? Ông có biết rằng bất kỳ ai muốn kéo lên đó và định cư ở những nơi đã bị chinh phạt đều sẽ được Đế chế cấp cho một mảnh đất rộng 4 hécta không? Và 10 năm miễn thuế?”

“Tôi,” tên thợ săn tiền thưởng điềm tĩnh đáp lời, “không muốn sở hữu một trang trại. Tôi không thể đào đất hay nuôi gia súc được. Tôi quá nhạy cảm. Chỉ cần nhìn thấy giun đất hay phân là tôi sẽ nôn ngay.”

“Cũng như tôi.” Houvenaghel vặn vẹo quai hàm. “Nói tổng thể, thứ duy nhất tôi chấp nhận được từ ngành nông nghiệp đó là chế rượu. Số còn lại thì thật ghê tởm. Họ nói rằng nông nghiệp là xương sống của nền kinh tế và đảm bảo phát triển. Tôi lại cho nó là không xứng đáng và sỉ nhục khi ám chỉ rằng của cải của mình phải dựa vào thứ gì đó bốc mùi như cứt. Tôi đã suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Không việc gì phải cày ruộng hay nuôi gia súc. Chỉ cần sở hữu mảnh đất là đủ rồi. Nếu phát triển hợp lý, ông có thể thu được một khoản tiền cho thuê kha khá. Tin tôi đi, thế là đủ sống rồi. Phải, tôi đã suy nghĩ nhiều về vấn đề này, vậy nên câu hỏi về việc di cư lên phía bắc của tôi vẫn giữ nguyên. Bởi vì ông thấy đó, Bonhart, tôi có một công việc cho ông ở đấy. Một công việc cố định, trả lương hậu hĩnh, và vô cùng dễ dàng đối với ông. Và nó cũng rất phù hợp với ông nữa: không phân, không giun đất.”

“Tôi sẵn sàng nghe đây. Mà không xen ngang, dĩ nhiên rồi.”

“Với một chút đầu óc kinh doanh và một khoản đầu tư nhỏ, ta có thể tập hợp được vài điền trang khá lớn từ số đất mà Đế chế cung cấp cho những người di cư.”

“Tôi hiểu.” Tên thợ săn tiền thưởng cắn ria mép. “Tôi hiểu ý định của ông. Tôi đã lường trước được một vài bước đi của ông rồi. Ông cho rằng sẽ không có khó khăn sao?”

“Phải, trừ hai ngoại lệ. Đầu tiên, chúng ta phải thuê người đóng giả làm dân di cư và nhận đất. Nhưng vì tôi đã lo chuyện đó rồi, chỉ có khó khăn còn lại mới phải nhờ đến ông thôi.”

“Tôi nghe đây.”

“Một vài kẻ định cư sẽ nhận đất và rồi không muốn từ bỏ chúng. Họ sẽ quên đi cái bản hợp đồng đã ký với tôi và số tiền nhận được từ tôi. Ông không biết bản chất con người ta có thể lừa lọc, vô tâm và thối nát đến thế nào đâu.” “Tôi tin là như vậy.”

“Họ phải bị thuyết phục rằng dối trá không thể tồn tại lâu được. Rằng mình sẽ bị trừng phạt.

Đó là lúc cần đến ông.” “Nghe có vẻ tốt.”

“Nó tốt hệt như nghe vậy. Tôi đã từng thử nghiệm rồi. Theo sau đợt sát nhập chính thức Ebbing vào Đế chế, khi số đất ấy được phân chia. Và về sau, khi luật thuế trong thành phố bắt đầu có hiệu lực. Như Claremont, cái thành phố bé nhỏ này, nằm trên đất của tôi, thế nên nó thuộc về tôi. Cả khu vực này thuộc quyền sở hữu của tôi. Cho đến tận đường chân trời xanh–xám mờ ảo. Đó đều là của tôi. Một trăm năm mươi hécta. Hécta của Đế chế, không chia cho cái nông trại nào hết. Đó là gần mười ngàn yoke. Hoặc mười tàm ngàn chín trăm tính theo đơn vị tiêu chuẩn.”

“Ôi cái vương quốc vô luật, cận kề cái chết,” Bonhart ngâm nga một cách mỉa mai. “Một đế chế nơi ai cũng trộm cắp rồi sẽ phải sụp đổ. Ích kỷ và tham lam là điểm yếu của nó.”

“Và cũng chính là sức mạnh của nó.” Houvenaghel nói. “Ông, Bonhart, đã nhầm trộm cắp với kinh doanh rồi.”

“Quá thường xuyên,” tên thợ săn tiền thưởng điềm tĩnh thú nhận. “Vậy chúng ta có hợp tác không đây?”

“Chúng ta có đang chia chác những vùng đất trên phương bắc sớm quá không? Chẳng phải chúng ta cứ nên chắc ăn và đợi cho đến khi Nilfgaard chiến thắng xong đã?”

“Chắc ăn? Đừng ăn nói khôi hài thế. Kết quả của cuộc chiến này đã được phân định rồi.

Chiến tranh được đánh thắng bằng tiền. Đế chế có thứ mà phương Bắc không có.” “Sẵn nói đến tiền…”

“Xong xuôi cả rồi.” Houvenaghel lục lọi đống văn bản trên bàn. “Đây là một tờ hóa đơn ngân hàng cho 100 floren. Đây là bản hợp đồng cho khoản chuyển nhượng từ nhà Varnhagen của Geso đến tôi, dựa trên phần thưởng cho cái đầu của lũ cướp. Làm ơn hãy ký vào đây. Cảm ơn. Một phần trăm tiền lãi cho ý tưởng thuộc về ông, nhưng biên lai vẫn chưa viết xong, tiền vẫn đang vào. Người ta đặc biệt quan tâm đến con bé, Leo. Đặc biệt. Những người dân thị trấn của tôi luôn cảm thấy buồn chán và khổ sở vô cùng.” Ông ta tạm ngừng và liếc nhìn Ciri. “Tôi thành thực hy vọng là ông đã không nhầm về người này. Rằng con bé thực sự có thể cho một màn giải trí ra trò…rằng con bé sẽ hợp tác vì mục đích chung là lợi nhuận…”

“Đối với nó,” – Bonhart nhìn Ciri thờ ơ – “chẳng có lợi nhuận gì ở đây cả. Ông biết điều đó mà.”

Houvenaghel nhăn mặt và nhìn có vẻ phật ý. “Chết tiệt, thật tồi tệ cho con bé nếu biết được!

Lẽ ra ông không nên kể với nó! Ông bị sao thế hả Leo? Thế nếu nó không muốn giải trí thì sao, thế nếu nó hóa ra lại không đáng tin và nham hiểm thì sao? Làm gì lúc đó bây giờ?”

Nét mặt Bonhart không hề thay đổi. “Lúc đó,” hắn cất lời, “chúng ta sẽ để mặc con bé trong đấu trường và thả chó ra. Chúng, như tôi vẫn nhớ, luôn đáng tin cậy và rất giải trí.”

***

Ciri im lặng trong một lúc lâu, xoa bên má bị biến dạng.

“Tôi bắt đầu hiểu,” cuối cùng cô tiếp tục. “Tôi bắt đầu hiểu chúng muốn tôi làm gì. Tôi căng thẳng, sẵn sàng bỏ trốn ngay cơ hội đầu tiên…bất chấp rủi ro. Nhưng chúng làm gì cho tôi cơ hội. Chúng canh giữ tôi rất cẩn thận.”

Vysogota giữ im lặng.

“Chúng lôi tôi xuống cầu thang. Khách khứa của cái gã Houvenaghel béo ú này đang đợi ở đó. Lại lần nữa, một lũ dị hợm! Tất cả những kẻ quái đản như vậy đến từ chỗ quái nào thế, hả Vysogota?”

“Các cô nhân giống. Chọn lọc tự nhiên.”

***

Kẻ đầu tiên cực kỳ lùn và mập mạp. Ông ta trông như một người halfling hơn là một con người, và thậm chí còn ăn mặc như một người halfling – khiêm tốn, tử tế, gọn gàng trong bộ trang phục xanh lá. Kẻ còn lại, mặc dù nhiều tuổi, đang diện một bộ quần áo và tác phong của một quân nhân. Hắn đeo một thanh kiếm, và trên vai chiếc áo khoác da đen lấp lánh một cây trâm bạc hình một con rồng với đôi cánh dơi. Một người phụ nữ tóc vàng mảnh mai, với sống mũi hơi cong và đôi môi mỏng. Chiếc váy màu hồ trăn của bà ta có viền cổ rất trễ. Đây có lẽ không phải là một ý tưởng hay ho, vì chẳng có mấy ngực để mà khoe, ngoại trừ nếp nhăn và lớp da khô, nứt nẻ như giấy, được che lại bởi một lớp trang điểm dày.

“Hầu tước phu nhân de–Nementh Uyvar cao quý,” Houvenaghel giới thiệu. “Ngài Declan aep Maelchlad Ros, đại úy trực thuộc Quân dự bị của Hoàng đế Nilfgaard. Ngài Pennycuick, thị trưởng Claremont. Và đây là ngài Leo Bonhart, người anh họ và chiến hữu lâu năm của tôi.”

Bonhart chào cứng nhắc.

“Vậy ra đây chính là tên cướp bé nhỏ sẽ giải trí cho chúng ta hôm nay,” hầu tước phu nhân cất lời bằng đôi môi mỏng và cặp mắt xanh nhạt dán vào Ciri. Giọng bà ta nghe khàn, choáng váng, và run sợ. Nó toát lên vẻ dâm dục. “Ta phải nói là, không được xinh cho lắm. Nhưng cũng không tồi…ta cho rằng nó là một…cơ thể đẹp.”

Ciri giật mình và đẩy bàn tay đang duỗi ra của hầu tước phu nhân, người đầy phẫn nộ và rít lên như rắn.

“Xin đừng chạm,” Bonhart nói lạnh lùng. “Đừng cho ăn. Đừng chọc tức. Tôi sẽ không chịu trách nhiệm cho bất cứ hậu quả nào nếu bà không nghe theo lời cảnh báo của tôi.”

“Cơ thể,” – hầu tước phu nhân liếm môi, phớt lờ hắn – “luôn có thể bị trói vào giường, khiến việc sử dụng nó dễ dàng hơn. Ông định lấy đi thú vui của ta sao, ngài Bonhart? Hầu tước và ta rất thích những cơ thể như này, nhưng ngài Houvenaghel sẽ quở trách nếu chúng ta bắt đi lũ trẻ con nông dân và chăn cừu trong vùng. Hầu tước không còn cách nào để săn trẻ con nữa. Ông ấy chạy không được nhanh, vì bệnh hạ cam và mụn nhọt bùng phát mỗi khi ông ấy chạy…”

“Đủ rồi, đủ rồi, Mathilda.” Houvenaghel nói nhẹ nhàng, nhưng nhanh chóng, khi trông thấy vẻ ghê tởm trên gương mặt Bonhart. “Chúng ta phải ra đấu trường. Ngài thị trưởng vừa mới báo cáo rằng Windsor Imbra đã tới thành phố cùng một đoàn tùy tùng của nam tước Casadei. Tới lúc chúng ta xuất phát rồi.”

Bonhart lôi ra một cái lọ tí hon từ trong túi, lấy ống tay áo lau đi bề mặt mã não của một cái bàn nhỏ, và đổ một ít bột trắng lên đó. Hắn kéo sợi xích gắn với vòng cổ của Ciri.

“Mi biết cách dùng không?” Ciri nghiến răng.

“Hít vào bằng mũi. Hoặc khạc một ít nước bọt lên ngón tay để ướt rồi xoa nó vào lợi.” “Không!”

Bonhart không thèm quay đầu lại. “Hoặc là mi tự làm,” hắn nói nhẹ nhàng, “hoặc ta sẽ làm cho, nhưng theo cách để mọi khán giả có mặt đều thấy hài hước. Cơ thể mi không chỉ có tuyến chất nhờn ở mũi và mồm, con chuột nhắt à. Mà còn ở vài chỗ kỳ quặc khác nữa. Ta sẽ cho gọi người hầu, bắt chúng giữ mi, và tận dụng mấy chỗ kỳ quặc đó.”

Hầu tước phu nhân de–Nementh Uyvar cười lớn và nhìn khi Ciri với lấy nhúm thuốc phiện bằng bàn tay run rẩy.

“Vài chỗ kỳ quặc,” bà ta nói trong khi liếm môi. “Một ý tưởng thú vị. Một lúc nào đó ta sẽ phải thử mới được! Này nhóc con, cẩn thận, đừng lãng phí fisstech ngon! Để lại cho ta một ít!”

***

Món thuốc phiện mạnh hơn nhiều so với loại mà cô bé đã từng thử với băng Rats. Vài phút sau khi dùng Ciri bị choáng ngợp bởi một cảm giác hưng phấn tột độ, mọi hình ảnh trở nên sắc nét hơn, ánh sáng và màu sắc như muốn đâm thủng mắt, mùi vị quyến rũ trong mũi, âm thanh ồn ào không chịu nổi, và mọi thứ trở nên mờ ảo, trôi qua như mảnh ghép của một giấc mơ. Có vài bậc thang, có những tấm thảm và tranh treo tường bụi bặm, bốc mùi, có tiếng cười giòn dã của hầu tước phu nhân de–Nementh Uyvar. Có một khoảng sân, có những hạt mưa rơi trên mặt cô bé, cái giật của chiếc vòng cổ, mà cô vẫn đang đeo. Một tòa nhà khổng lồ với tháp canh bằng gỗ và một bức tranh vĩ đại, lòe loẹt trước mặt. Bức tranh miêu tả một con chó đang cắn một con quái vật – có thể là rồng, griffin hay wyvern. Nhiều người đang đứng đợi bên ngoài cửa ra vào. Một trong số họ đang la hét và chỉ trỏ.

“Chuyện này thật kinh tởm! Kinh tởm và tội lỗi, ngài Houvenaghel! Một ngôi đền cổ mà lại bị sử dụng cho một hoạt động vô thần, vô nhân đạo và vô tính đến như vậy! Bắt ép chúng giết nhau vì lợi nhuận và giải trí cho đám đông là một tội ác!”

“Bình tĩnh nào, quý ngài ngoan đạo! Và đừng can thiệp vào hoạt động kinh doanh cá nhân! Vả lại, ngày hôm nay sẽ chẳng có con thú nào bị đem ra hết. Không một loài động vật! Chỉ có con người thôi!”

“Thế à, vậy hãy chấp nhận lời xin lỗi của tôi!”

Bên trong của tòa nhà đầy ắp người ngồi trên băng ghế, tạo nên một dạng kiểu như nhà hát. Ở giữa trung tâm có đào một cái hố dưới đất, một vòng tròn đường kính khoảng 9 mét, bao xung quanh là những cây cột gỗ tạo thành một hàng rào. Mùi hôi và tiếng ồn là không thể chịu nổi. Ciri lại cảm thấy một cú giật từ sợi xích cổ, và ai đó kéo tay cô bé dậy, rồi đẩy về phía trước. Đột nhiên cô thấy mình nằm giữa cái hố, lăn lộn trên đống cát.

Bên trong đấu trường.

Phản ứng bộc phát ban đầu đã trôi qua, giờ đây món thuốc phiện chỉ khiến cô bé hưng phấn và kích thích các giác quan. Ciri bịt tai lại – trên những băng ghế của nhà hát, đám đông chật ních và chen chúc như phát cuồng, huýt sáo ầm ĩ. Âm thanh muốn điếc cả tai. Cô để ý thấy một mảnh giáp da quấn vòng quanh cổ và cẳng tay phải mình, đem lại một chút bảo vệ. Cô không thể nhớ được người ta đã đeo chúng cho mình khi nào.

Cô nghe thấy chất giọng choáng váng quen thuộc, trông thấy hầu tước phu nhân mảnh mai trong chiếc váy màu hồ trăn, tay đại úy Nilfgaard, ông thị trưởng xanh lá, Houvenaghel, và Bonhart đang ngồi ở một bục riêng phía trên đấu trường. Cô bỏ tay bịt tai ra vừa lúc ai đó chợt gõ một cái chiêng đồng.

“Xin chào, các quý vị! Ngày hôm nay, trong đấu trường, chúng ta không có sói, quỷ lùn, hay endrega! Ngày hôm nay, trong đấu trường, chúng ta có ả sát nhân Falka tới từ băng cướp Rats! Hãy đặt cược tại văn phòng gần lối ra vào! Xin hãy hào phóng! Các vị không thể ăn hay uống món giải trí này, nhưng nếu tằn tiện, các vị sẽ chẳng được gì ngoài mất!”

Đám đông ồ lên và vỗ tay. Món thuốc phiện có hiệu quả. Người Ciri run rẩy vì phấn khích và giác quan của cô bé ghi nhận mọi chi tiết. Cô nghe thấy tiếng cười như pháo rang của Houvenaghel, tiếng khúc khích choáng váng của hầu tước phu nhân, chất giọng trầm lạnh lùng của Bonhart, tiếng la của gã thầy tu bảo vệ quyền lợi động vật, tiếng hét của phụ nữ, và tiếng khóc của trẻ con. Cô trông thấy những vệt máu đen bám trên những cây cọc xung quanh đấu trường, và những ô cửa bịt chấn song bốc mùi đằng sau đó. Cô trông thấy những gương mặt bóng nhẫy mồ hôi, nhăn nhó khủng khiếp phía bên trên hàng rào.

Những chuyển động đột ngột, những giọng nói cất cao, chửi rủa. Vũ khí giương lên và chen qua đám đông, nhưng dừng lại khi đụng phải một bức tường lính giáo tua tủa. Cô đã từng trông thấy những người đó, cô nhớ gương mặt rám nắng và hàng ria mép trông như than chì quệt lên đôi môi cứ nhếch lên đầy lo lắng.

“Ngài Windsor Imbra?” giọng của Houvenaghel. “Từ Geso? Quản gia của nam tước Casadei cao quý? Chào mừng, chào mừng các vị khách từ xa tới. Xin hãy ngồi xuống đây, tiết mục giải trí sắp bắt đầu rồi. Nhưng chớ quên trả tiền ở cửa ra vào.”

“Tôi không ở đây để giải trí, ngài Houvenaghel! Tôi ở đây là vì công chuyện! Bonhart biết tôi đang nói về cái gì đấy!”

“Thật sao? Leo? Ông có biết ngài quản gia đang muốn nói gì không?”

“Không đùa đâu! Tôi mang theo 15 người! Chúng tôi muốn Falka! Giao nộp cô ta ra đây, bằng không là sẽ có rắc rối!”

“Tôi không hiểu sao ngài lại bực tức như vậy, Imbra.” Houvenaghel nhăn mặt. “Nhưng tôi muốn chỉ ra rằng đây không phải Geso, và đây không phải địa phận của nam tước của ngài. Nếu ngài muốn làm ầm lên và gây rối, tôi sẽ quất ngài biến khỏi đây bằng roi đánh bò.”

“Chúng tôi không muốn rắc rối gì cả, ngài Houvenaghel!” Windsor Imbra hạ giọng. “Nhưng luật pháp ủng hộ chúng tôi! Bonhart đã hứa sẽ giao nộp Falka cho nam tước Casadei. Ông ta đã thề. Và ông ta phải giữ lời.”

“Leo?” Houvenaghel lắc lư quai hàm. “Ông có biết chuyện này là sao không?”

“Tôi biết và tôi đồng ý với anh ta.” Bonhart đứng dậy và phẩy tay. “Tôi sẽ không phản đối hay biểu tình. Con bé đang ở đây, nơi tất cả mọi người đều trông thấy. Bất cứ ai muốn nó cứ việc mang nó đi.”

Windsor Imbra tỏ vẻ ngạc nhiên. Đôi môi co giật không ngừng. “Như thế nào?”

“Con bé,” Bonhart lặp lại và nháy mắt với Houvenaghel, “đang ở ngay đó nếu có ai muốn mang nó đi khỏi đấu trường này. Còn sống hay chết, tùy các anh.”

“Như thế nào?”

“Mẹ nó, tôi đang sắp hết kiên nhẫn đây!” Bonhart giả vờ gầm lên bực tức. “Cứ hỏi ‘như thế nào’ mãi thôi! Mấy con vẹt này! Như thế nào sao? Bất kỳ thế nào các người thích! Nếu muốn, hãy ném một mẩu thịt tẩm độc xuống cho nó, như khi các người đi săn chó sói vậy. Nhưng tôi không biết liệu nó có ăn hay không. Trông nó đâu có ngu, nhỉ? Không, Imbra à. Bất kỳ ai muốn con bé thì tự đi mà bắt lấy nó. Ngay dưới đấy, trong đấu trường. Anh muốn Falka? Xuống đấy mà đem nó lên!”

“Ông treo Falka trước mũi tôi như mồi nhử,” Windsor Imbra gầm gừ. “Tôi không tin ông, Bonhart. Tôi ngửi thấy mùi bẫy. Miếng mồi có mắc một cái lưỡi câu!”

“Anh có thể cảm tạ thời tiết tốt đẹp vì cái lưỡi câu đó.” Bonhart nói trong khi đứng dậy và lôi ra thanh kiếm ở Fano từ dưới băng ghế. Hắn rút nó ra khỏi vỏ và ném xuống đấu trường, thật khéo để thanh kiếm cắm thẳng đứng xuống cát, cách Ciri hai bước chân. “Bởi vì không có thời tiết tốt thì cái lưỡi câu đã chẳng ở đấy. Rõ rành rành, không hề che đậy. Bởi đối với tôi con bé này không có giá trị gì hết, bất cứ ai muốn đều cứ việc lấy nó. Nếu có thể.”

Hầu tước phu nhân de–Nementh Uyvar cười lo lắng. “Nếu có thể,” bà ta nhắc lại bằng chất giọng khàn khàn của mình. “Bởi vì giờ đây, cái thân mình nhỏ bé xinh xắn đó đã có một thanh kiếm. Hoan hô, ngài Bonhart. Ta không khoái lắm cái ý tưởng để cho lũ du côn này thoải mái giày vò thân xác bất lực của con bé.”

“Ngài Houvenaghel.” Windsor Imbra chống tay lên hông, không thèm liếc nhìn quý bà học giả gày gò thậm chí một cái. “Buổi biểu diễn này được thực hiện dưới quyền của ngài, vì đấu trường này thuộc về ngài. Hãy nói xem chúng ta nên chơi theo luật của ai đây, ngài hay Bonhart?”

“Luật của đấu trường.” Houvenaghel đáp lại. “Bởi kể cả khi nó đúng thuộc về tôi, nhưng các khách hàng ở đây mới là vua chúa, những người ủng hộ chúng tôi về mặt tài chính! Các khách hàng mới là người ra luật. Và thương nhân chúng tôi phải tuân theo luật đó: Khách hàng muốn gì là được nấy.”

“Khách hàng? Ý ông là những người này?” Windsor Imbra quét tay qua một lượt các băng ghế chật ních. “Tất cả những người này đã trả tiền để đến đây xem kịch?”

“Kinh doanh là kinh doanh.” Houvenaghel nói. “Nếu có cầu, cớ gì không cung? Người ta trả tiền cho một trận đấu chó sói? Cho một con endrega và lợn đất? Cho một bầy chó săn thỏ? Sao anh lại thấy ngạc nhiên, Imbra? Con người ta muốn giải trí cũng thường xuyên như bánh mỳ ăn hàng ngày – từ những gì mà tôi quan sát, thậm chí có khi còn nhiều hơn. Nhiều người ngồi đây đã phải nhịn vài bữa. Nhưng nhìn xem mắt họ lấp lánh thế nào kìa. Họ không thể chờ được tới khi tiết mục bắt đầu.”

“Nhưng để được như vậy,” Bonhart thêm vào với một nụ cười hiểm độc, “ít nhất cũng phải có một tí tinh thần thể thao. Và giờ đứa con gái đã có một thanh kiếm. Mọi người nghĩ sao? Tôi nói có đúng không?”

Đám đông nháo nhào xác nhận, nhưng ầm ĩ và vui mừng đúng như Bonhart đã dự đoán. “Nam tước Casadei,” Windsor Imbra nói từ tốn, “sẽ không thích việc này đâu, ngài

Houvenaghel. Tôi nói mà nghe, ông ấy sẽ không thích đâu. Tôi không biết liệu chọc tức ông ấy có đem lại lợi ích gì cho ngài không.”

“Kinh doanh là kinh doanh,” Houvenaghel nhắc lại. “Nam tước Casadei biết rất rõ điều này

– ông ấy đã vay của tôi rất nhiều tiền với mức lãi suất thấp, và khi ông ấy lại đến để vay thêm, chúng tôi khắc sẽ tìm được cách giải quyết mâu thuẫn này. Nhưng không có vị nam tước nào được phép can thiệp vô các hoạt động kinh doanh cá nhân của tôi. Tiền cược đã đặt xong và người ta đã trả phí vào cửa. Máu phải đổ xuống cát dưới đấu trường này.”

“Phải?” Windsor Imbra gầm lên. “Còn cứt ấy mà phải! Tôi rất muốn cho ông thấy rằng chả có gì phải đổ xuống cái đấu trường này hết! Tôi có thể quay đầu bỏ đi và không thèm ngoái lại nhìn ông. Và rồi ông có thể tự đi mà đổ máu của mình xuống! Cái ý nghĩ rằng mình phải hợp tác để tiêu khiển cho cái lũ bần nông này khiến tôi muốn bệnh!”

“Cứ để anh ta đi.” Có người chợt kêu lên từ đám đông, một gã mập mạp trong chiếc áo khoác làm từ da ngựa. “Cứ để anh ta đi nếu anh ta thấy bệnh. Tôi không phiền đâu. Bởi có một phần thưởng dành cho bất cứ ai hạ được ả Rats. Tôi sẽ vào đấu trường.”

“Không! Dẹp ngay,” một thuộc hạ của Imbra hét lại, trông không lớn lắm, nhưng gân guốc và khỏe mạnh. Tóc hắn dày, tết lại thành từng lọn. “Chúng ta đến đây trước! Có phải không anh em?”

“Chứ còn gì!” một thuộc hạ thứ hai của Imbra tán thành, một người gầy gò mang một bộ râu dê. “Chúng ta được quyền thử trước! Và ngài cũng đừng nên quá nhạy cảm về danh tiếng làm gì, Windsor! Đám đông biểu tình thì làm sao? Falka đang ở dưới đấu trường và chúng ta chỉ cần với tay ra và bắt nó đi. Thế nếu mọi người phản đối thì sao, ai quan tâm!”

“Và chúng ta còn làm gì được nữa!” một người thứ ba hét lên, khoác trên mình một chiếc áo chẽn đỏ tía sặc sỡ. “Phải có tí tinh thần thể thao, đúng chứ, ngài Houvenaghel? Vậy thì đây là một nơi hợp lý để chơi rồi! Và thậm chí còn có giải thưởng là đằng khác!”

Houvenaghel cười ngoác mồm và gật đầu tán thành, kiêu hãnh và vương giả, trong khi hai bên má xệ đung đưa qua lại.

“Và tỉ lệ là bao nhiêu?” Râu Dê hỏi.

“Hiện tại,” người thương nhân trả lời, mỉm cười, “người ta vẫn chưa đặt cược kết quả trận đấu! Tạm thời tỉ lệ là 3 ăn 1, vì không ai trong số các anh dám đặt chân xuống đấu trường.”

“Úi giời!” Da Ngựa rống lên. “Tôi sẽ cược! Tôi dám!”

“Biến đi.” Tóc Lọn hét lại. “Chúng ta đến trước và được xuống trước. Nhanh nào, còn đợi gì nữa?”

“Bao nhiêu người xuống cũng được hả?” Đỏ Tía chỉnh lại thắt lưng. “Hay lần lượt?”

“Ôi, lũ khốn khiếp!” ông thị trưởng trong bộ trang phục xanh lá gầm lên – khá là bất ngờ với chất giọng như bò rừng mà không hợp chút nào với thân mình thấp bé như vậy. “Có lẽ các người muốn chơi 10 đấu 1? Có lẽ các người muốn có thú cưỡi? Hay một cái chiến xa luôn? Có lẽ các người nên kiểm tra kho vũ khí và hỏi xin một cái trục cẩu, để có thể ném đá vào đứa con gái từ xa? Thế nào?”

“Được rồi, được rồi.” Bonhart đang bàn bạc với Houvenaghel vài câu nhanh chóng vội quay sang ngắt lời. “Tinh thần thể thao, nhưng cũng phải vui vẻ nữa. Các anh có thể đi 2 người. Thành từng cặp.”

“Nhưng phần thưởng,” Houvenaghel cảnh báo, “sẽ không được nhân đôi đâu! Nếu đi thành cặp, các anh sẽ phải chia nhau.”

“Sao lại thành cặp? Sao lại 2 người?” Tóc Lọn hất một lọn tóc ra khỏi vai với một chuyển động thô bạo. “Các cậu không thấy xấu hổ à? Đó chỉ là một đứa con gái mà thôi! Ugh! Lùi lại đi. Tôi sẽ xuống một mình. Tôi nên làm gì nó đây.”

“Ta muốn Falka còn sống!” Windsor Imbra phản đối. “Kệ mẹ mấy cái trò đấu vật này! Ta không quan tâm đến màn trình diễn của Bonhart, ta muốn đứa con gái đó! Còn sống! Các cậu vào thành từng cặp, cậu và Stavro. Và đem nó ra khỏi đây.”

“Đối với tôi,” Stavro, người đàn ông với bộ râu dê, nhắc lại, “thật nhục nhã khi lại đối đầu với một thứ quắt queo như vậy theo cặp.”

“Ngài nam tước sẽ làm dịu mối nhục này bằng một đồng floren. Nhưng chỉ nếu khi cậu bắt sống nó!”

“Vậy ngài nam tước đúng là người hà tiện.” Houvenaghel cười lớn, cái bụng mỡ và hai bên má xệ rung rinh. “Ông ấy không có tinh thần thể thao và cũng chẳng đưa ra được phần thưởng nào ra hồn! Tuy nhiên, tôi lại là người ủng hộ môn chơi này. Và do vậy tôi sẽ nâng mức tiền thưởng. Bất kỳ ai đi vào đấu trường và tự đi ra được trên chính đôi chân của mình – tôi sẽ trả bằng chính đôi tay này, từ chính cái túi này, không phải 20, mà là 30 floren.”

“Chúng ta còn đợi gì nữa?” Stavro la lên. “Tôi xuống trước!”

“Đợi đã.” Ông thị trưởng tí hon lại kêu bằng chất giọng như sấm rền. “Đứa con gái chỉ có mỗi mảnh vải trên người! Vậy các anh phải cởi áo giáp ra, binh lính. Công bằng tí chứ!”

“Quỷ tha ma bắt các người đi!” Stavro bỏ chiếc áo khoác đính sắt và kéo áo sơ mi qua đầu. Hắn để ngực trần, gầy gò, và lông lá. “Quỷ tha ma bắt các vị đi, cùng với cái môn thể thao nhảm nhí này nữa! Tôi sẽ cởi trần! Oh! Tôi có nên cởi cả quần luôn không?”

“Cởi quần đi!” Hầu tước phu nhân de–Nementh Uyvar khục khặc đầy dâm dục. “Rồi chúng ta sẽ xem anh là một người đàn ông không chỉ nói mồm!”

Được tán thưởng bởi một tràng pháo tay, Stavro cởi trần tiến lại phía đấu trường và vắt một chân qua hàng rào, cẩn thận giữ Ciri nằm trong tầm mắt. Ciri bắt tay qua ngực. Cô bé thậm chí còn không bước đến chỗ thanh kiếm đang cắm dưới cát. Stavro lưỡng lự.

“Đừng làm vậy.” Ciri nói rất khẽ. “Đừng bắt tôi…đừng chạm vào tôi.”

“Không có ý gì đâu, nhóc.” Stavro nhảy qua hàng rào. “Tôi không thù hằn gì cô cả. Nhưng công việc là công việc…”

Hắn không nói hết bởi Ciri đã đang xáp lại gần rồi, Swallow nắm trong tay – đó là cái tên mà cô đã đặt cho thanh gwyhyr của gnome. Cô dùng một mánh khóe đơn giản, gần như đảm bảo thất bại có tên “Ba Bước Nhỏ” – nhưng Stavro đã mắc lừa. Hắn lùi lại một bước và giơ kiếm lên theo bản năng, và chưa gì đã nằm dưới quyền sinh sát của cô – hắn đứng dựa lưng vào hàng rào bao quanh đấu trường và nhìn xuống mũi kiếm của Swallow, chỉ cách mũi mình có vài phân.

“Mánh đó,” Bonhart giải thích cho hầu tước phu nhân bên trên tiếng gầm và hoan hô của khán giả, “gọi là “Ba Bước Nhỏ, Động Tác Giả, và Đâm.” Một trò rẻ tiền, tôi đã trông đợi thứ gì đó tinh tế hơn từ đứa con gái. Nhưng bà phải thừa nhận – nếu nó muốn, gã đó chắc chắn không sống nổi.”

“GIẾT! GIẾT!” đám đông la ó, trong khi giơ ngón cái chỉ xuống đất ra cho ông thị trưởng và Houvenaghel nhìn. Mặt Stavro cắt không còn hột máu, khiến vài nốt mụn và vết sẹo xấu xí nổi bật trên gương mặt.

“Tôi đã bảo đừng ép tôi,” Ciri rít lên. “Tôi không muốn giết các người! Nhưng các người sẽ không chạm vào tôi. Quay về nơi mà các người đã đến từ đi!”

Cô bé lùi lại, quay lưng, hạ kiếm xuống và nhìn lên khán đài. “Các người muốn chơi tôi?” Cô hét bằng giọng khản đặc. “Các người muốn ép tôi chiến đấu? Giết chóc! Các người không ép được tôi đâu. Tôi sẽ không đánh!”

“Anh nghe thấy không, Imbra?” Chất giọng mỉa mai của Bonhart vang lên giữa sự im lặng. “Hoàn toàn thuận tiện! Và không nguy hiểm gì! Con bé sẽ không đánh. Anh có thể xuống và bắt sống nó ra khỏi đấu trường, và mang nó về cho nam tước Casadei để ông ấy có thể hài lòng với anh. Anh có thể đem nó đi mà không gặp nguy hiểm nào cả! Bằng tay không!”

Windsor Imbra khạc một bãi. Stavro, lưng vẫn dựa vào hàng rào, thở khò khè và hoảng loạn nắm lấy thanh kiếm trong tay.

Bonhart mỉm cười. “Nhưng Imbra à, tôi cá một cục kim cương lấy một hạt dẻ, rằng anh sẽ không làm được.”

Stavro thở ra một hơi. Có vẻ như đứa con gái đứng quay lưng lại phía hắn đang bị phân tâm, mất tập trung. Hắn gầm lên giận dữ, tủi nhục và căm phẫn. Hắn không thể chịu được. Hắn tấn công. Nhanh nhẹn và quỷ quyệt.

Khán giả không thể thấy được cô bé tránh và phản đòn như thế nào. Mọi thứ chỉ trông như là Stavro ngã đè lên Falka và rồi chợt bật dậy như một vũ công ba lê – hắn thậm chí còn múa một chút trước khi đổ gục về phía trước, máu thấm xuống cát ngay lập tức.

“Bản năng sẽ chiến thắng!” Bonhart la lên phía trên tiếng reo hò của đám đông. “Phản xạ luôn có hiệu quả! Tôi đã nói gì với ông nào, Houvenaghel? Ông sẽ thấy là không cần phải thả chó ra!”

“Đúng là một màn kịch hay ho và có lãi.” Houvenaghel nói với niềm vui sướng trong mắt.

Stavro chống tay lên, toàn thân run rẩy, lắc đầu qua lại, rú rít, thở gấp, nhổ máu và lại đổ xuống cát.

“Đòn đánh đó là gì vậy, ngài Bonhart?” Hầu tước phu nhân de–Nementh Uyvar hỏi trong khi cạ đầu gối vào nhau một cách lẳng lơ.

“Đó là một đòn ứng biến.” Bên dưới đôi môi đang trả lời hầu tước phu nhân là những cái răng lóe sáng. “Một đòn ứng biến đẹp đẽ, sáng tạo, và có thể nói, gần như là bản năng. Tôi đã từng nghe tới một nơi mà họ dạy những thế kiếm như vậy. Tôi cược là tiểu thư của chúng ta đây biết nơi này. Tôi biết nó là ai rồi.”

“Đừng ép tôi,” Ciri hét lên bằng giọng thực sự đáng sợ. “Tôi sẽ không đánh! Có nghe không? Tôi sẽ không đánh!”

“Đứa con gái này đến từ địa ngục!” Đỏ Tía nhảy qua hàng rào và ngay lập tức lượn vòng quanh đấu trường để đánh lạc hướng Ciri khỏi nhận ra Tóc Lọn, lúc này cũng đang nhảy xuống. Da Ngựa lao theo sau Tóc Lọn.

“Không công bằng!” Thị trưởng Pennycuick la lên, và đám đông tán thành. “Ba đấu một!

Không công bằng!”

Bonhart mỉm cười. Hầu tước phu nhân liếm môi và bắt đầu cựa quậy chân tay nhiều hơn trước.

Kế hoạch của bộ ba rất đơn giản – dồn đứa con gái lùi dựa vào hàng rào, rồi hai kẻ chặn đường nó trong khi kẻ thứ ba kết liễu. Chẳng có tí hiệu quả nào hết. Bởi một lý do đơn giản. Đứa con gái không rút lui, mà tấn công.

Ciri trượt giữa chúng với một vũ điệu xoay hông, uyển chuyển tới mức gần như không chạm chân xuống cát. Cô đánh trúng Tóc Lọn khi sượt qua, và hắn đổ xuống tại chỗ. Cô cắt trúng động mạch cảnh của hắn. Nhát kiếm ngọt tới nỗi Ciri thậm chí còn không mất nhịp di chuyển, cô làm thật duyên và chớp nhoáng tới mức vòng xoay kết thúc trước cả khi một giọt máu bắn ra từ cái cổ vươn dài của Tóc Lọn. Đỏ Tía, đang đứng ngay sau lưng, muốn chém một nhát vào cổ cô, nhưng đường kiếm đánh trúng thế đỡ trên phần dẹt của lưỡi gươm cong. Ciri quay người, bật nhảy, và cắt bằng cả hai tay, được gia lực bởi một cú xoay hông. Lưỡi kiếm gnome đen sắc như dao cạo, cô mở toang bụng hắn. Đỏ Tía rú lên và cuộn người dưới cát. Da Ngựa lại gần và nhảy, cố gắng cắt cổ Ciri. Cô ngửa ra sau, nhưng vặn mình, nhẹ nhàng xoay lại và tặng cho hắn một đường kiếm qua mặt, mũi, mắt, mồm và cằm.

Khán giả reo hò, huýt sáo, giậm chân và la hét. Hầu tước phu nhân de–Nementh Uyvar đặt cả hai tay lên đầu gối run rẩy, liếm đôi môi sơn bóng và cười lớn. Tay đại úy Quân dự bị Nilfgaard trắng bệch như tờ giấy. Một người phụ nữ cố che mắt con mình lại – nó cố thoát ra cho bằng được. Một ông già tóc bạc ngồi hàng đầu nôn mửa dữ dội, đầu chúi giữa hai chân.

Da Ngựa nức nở, chạm tay lên mặt. Từ bên dưới ngón tay hắn ứa ra máu trộn với nước mũi và nước miếng. Đỏ Tía đang lăn lộn và ré lên như lợn. Tóc Lọn đang cố bò tới hàng rào, máu tuôn ra theo từng nhịp tim đập.

“Cứứứứuuu tôôôiii!” Đỏ Tía rên rỉ trong khi tay ôm giữ nội tạng trong người. “Cááááccc aaannnhhh eeemmm! Cứứứứuuuu tôôôôiiii!”

“Làààààmmm…ơơơơnnnn…” Da Ngựa khạc và nôn ra máu.

“GIẾT! GIẾT!” Đám đông hét lên đồng thanh và giậm chân theo nhịp. Ông già vừa mới nôn mửa đứng dậy khỏi ghế và bám vào hàng rào.

“Kim cương đổi hạt dẻ,” tiếng Bonhart mỉa mai giữa sự huyên náo, “rằng không ai dám vào đấu trường nữa. Kim cương đổi hạt dẻ, Imbra! Ôi, tôi đang nói gì thế này – kim cương đổi vỏ hạt dẻ luôn đi!”

“GIẾT!” Tiếng la hét, giậm chân, vỗ tay. “GIẾT!”

“Cô gái!” Windsor Imbra hét và chỉ tay về phía thuộc hạ của mình. “Hãy để chúng tôi đem người bị thương đi! Hãy để chúng tôi vào đấu trường và mang họ đi trước khi họ chảy máu đến chết! Hãy cao thượng, cô gái!”

“Cao thượng.” Ciri nhắc lại trong khi cảm thấy adrenalin sục lên trong người. Cô nhanh chóng làm chủ nó bằng cách thở ra vài lần như đã được dạy. “Vào mà đem họ đi.” Cô nói. “Nhưng hãy vào tay không. Hãy cao thượng. Ít ra là lần này.”

“KHÔNG!” Đám đông gầm lên. “GIẾT! GIẾT!”

“Lũ súc vật!” Ciri quay lại và quét mắt qua một lượt các băng ghế trên khán đài. “Lũ lợn! Quân vô lại! Lũ chó đẻ! Các người muốn máu hả? Xuống đây, xuống đây – xuống mà ngửi, mà liếm! Liếm đi trước khi nó khô mất! Bọn vô nhân tính! Lũ ma cà rồng!”

Hầu tước phu nhân khẽ rên, bắt đầu rùng mình, đảo mắt và nhẹ nhàng tựa vào Bonhart, mà không bỏ tay ra khỏi giữa đùi. Bonhart nhăn mặt và đẩy bà ta đi, cố không để ra vẻ thiếu tế nhị. Đám đông hú hét. Có người ném một nửa cái xúc xích ăn dở xuống đấu trường, người khác ném một chiếc giày, rồi thậm chí có người ném một quả dưa chuột vào Ciri. Cô bé cắt quả dưa ra làm hai bằng thanh kiếm, mà khiến đám đông ồ lên còn kinh hơn.

Windsor Imbra và thuộc hạ nhấc Đỏ Tía và Da Ngựa dậy. Khi họ đem Đỏ Tía đi, hắn bắt đầu rống. Da Ngựa thì ngất xỉu. Tóc Lọn và Stavro không còn dấu hiệu sống nào nữa. Ciri rút lui tối đa có thể, xa nhất mà đấu trường cho phép. Người của Imbra cũng cố giữ khoảng cách.

Windsor Imbra đứng bất động. Hắn nhìn Ciri từ bên dưới mí mắt khép nửa, nhưng bàn tay đặt lên cán thanh kiếm mà mình đã hứa sẽ không mang vào khi xuống đấu trường.

“Đừng,” cô cảnh báo hắn, môi gần như không động đậy. “Tôi không muốn. Xin đừng.” Imbra tái nhợt. Đám đông giậm chân, la ó.

“Đừng nghe nó.” Tiếng Bonhart la lớn. “Rút kiếm ra đi! Bằng không hãy cho cả thế giới thấy anh là một thằng hèn và một đứa nhát cáy! Từ Alba cho tới Yaruga người ta sẽ nghe rằng Windsor Imbra bỏ chạy khỏi một con nhóc – như chó cúp đuôi giữa hai chân!”

Thanh kiếm của Imbra trượt khỏi vỏ một phân. “Đừng,” Ciri nói.

Thanh kiếm tra lại.

“Đồ hèn!” Ai đó kêu lên từ đám đông. “Đồ hèn! Nhát cáy!”

Với gương mặt sắt đá, Imbra tiến lại rìa đấu trường. Trước mặt hắn là bàn tay thò ra của những thuộc hạ đã tấn công cô bé. Hắn ngoái lại một lần.

“Cô hẳn đã biết điều gì đang đợi mình rồi,” hắn nói khẽ. “Cô hẳn đã biết Leo Bonhart là ai. Cô hẳn đã biết Leo Bonhart có thể làm gì. Điều gì khiến hắn thích thú. Sẽ có thêm nhiều kẻ giáp mặt cô trên đấu trường. Cô sẽ giết vì niềm vui thích của lũ thú vật như những kẻ đang ngồi đây. Và thậm chí còn tệ hơn. Và nếu chúng không còn cảm thấy thú vị ngồi nhìn cô giết, hay nếu Bonhart đã phát chán với màn biểu diễn bạo lực của cô, hắn sẽ giết cô. Hắn sẽ cử vào đấu trường nhiều tới mức cô không thể giết hết được. Hắn sẽ xua cô, thả chó đuổi cô. Chó sẽ xé xác cô, đám đông sẽ ngửi mùi máu và reo hò, và cô sẽ nằm chết dưới lớp cát bẩn thỉu. Cũng như những gì cô đã làm với những người này hôm nay. Hãy nghĩ kỹ những lời tôi nói.”

Thật kỳ lạ, chỉ tới lúc này cô mới để ý thấy cái ghim cài trên cổ áo hắn. Một con kỳ lân bạc trên nền đen.

Một con kỳ lân.

Ciri cúi đầu. Cô nhìn xuống lưỡi kiếm. Đột nhiên mọi thứ trở nên thật im lặng.

“Mặt Trời Vĩ Đại ơi,” Declan Ros aep Maelchlad, tay đại úy Quân dự bị Nilfgaard, người mà từ đầu tới giờ kín miệng, chợt thốt lên. “Không. Đừng làm vậy, cô gái. Ne tuv’en que’ss, Luned!

Ciri nuốt khan và từ từ xoay ngược tay, cắm cán kiếm xuống cát. Cô khuỵu gối. Tay phải giữ lưỡi kiếm, đầu mũi kiếm chĩa thẳng vào bên dưới ngực trái. Mũi kiếm chọc xuyên qua áo.

Chỉ cần đừng khóc là được, Ciri nghĩ trong khi ấn mình mạnh hơn vào lưỡi kiếm. Chỉ cần đừng khóc, không có gì để khóc cả. Một chút đau đớn và rồi mọi thứ sẽ kết thúc…

“Mi không làm được đâu,” giọng Bonhart vang lên giữa sự im lặng tuyệt đối. “Mi không làm được đâu, nữ witcher. Ở Kaer Morhen họ đã dạy mi giết, để mi có thể giết như một cỗ máy. Theo bản năng. Nhưng để tự sát cần phải có sức mạnh, lòng quyết tâm, và can đảm. Những cái đó họ không thể dạy cho mi được.”

***

“Như ông thấy, hắn đã đúng,” Ciri thừa nhận khó khăn. “Tôi đã không làm được.”

Vysogota im lặng. Ông đang cầm một bộ da chồn. Bất động. Ông đã ngồi yên như vậy một lúc thật lâu. Ông gần như đã quên bộ da có tồn tại.

“Tôi nhát gan. Tôi là một đứa hèn. Và tôi đã phải trả giá cho nó. Như mọi kẻ hèn nhát phải trả giá. Bằng đau đớn, tủi hổ, nhục nhã, và căm hận bản thân tột cùng…”

Vysogota im lặng.

***

Nếu có người lén lại gần căn chòi với mái lợp rêu phong vào buổi đêm, và nhìn qua khe nứt trên ô cửa sổ, họ sẽ thấy trong ánh sáng mờ ảo một ông già râu xám và một cô gái với mái tóc màu tro ngồi cạnh lò sưởi. Họ sẽ thấy cả hai đều đang chăm chú dõi theo lớp than hồng trong im lặng.

Nhưng làm gì có ai nhìn thấy được. Căn chòi được ẩn giấu trong màn sương, giữa rừng sậy vô tận của vùng đầm lầy Pereplut, nơi không ai dám bước chân vào.

Kẻ nào làm đổ máu, rồi máu hắn sẽ đổ.

  • Sách sáng thế, 9.6.

Quả thực, phải cần đến sự kiêu ngạo và đui mù mới có thể gọi máu chảy từ đài hành hình là công lý.

  • Vysogota của Corvo.

About The Author

Ngo David

Power is Power