Trò chơi vương quyền 2A – Hậu duệ Sư tử vàng
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 31
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Bran thích chiếc ghế đá cứng nơi cửa sổ hơn nhiều so với chiếc giường phủ chăn đệm êm ái. Nằm trên giường cảm giác bốn vách tường như co rút lại và trần nhà đè nặng trĩu phía trên. Nằm trên giường, căn phòng giống như một xà lim nhỏ bé trong nhà tù Winterfell. Nhưng ngoài cửa sổ, cả thế giới rộng lớn vẫn đang vẫy gọi cậu.
Cậu không thể đi lại, leo trèo, đi săn, hay luyện tập với cây kiếm gỗ như trước đây nữa, nhưng cậu vẫn có thể quan sát. Cậu thích ngồi bên cửa sổ nhìn toàn cảnh Winterfell sáng lung linh khi nến và lò sưởi được thắp sau các ô cửa sổ hình thoi của các tòa tháp và dọc hành lang, cậu cũng thích nghe tiếng hú dưới bầu trời sao của lũ sói tuyết.
Gần đây cậu thường mơ về sói. Chúng nói chuyện với cậu như những người anh em, Bran tự nhủ như vậy khi nghe thấy tiếng sói tru. Dường như cậu hiểu được ngôn ngữ của chúng… không phải toàn bộ, không thực sự, nhưng cậu hiểu được gần hết… Như thể chúng đang hát bằng một thứ ngôn ngữ mà cậu từng hiểu, nhưng vì một lý do nào đó mà giờ đây cậu đã quên mất. Hai anh em nhà Walder có thể sợ chúng, nhưng người Nhà Stark có dòng máu của loài sói. Già Nan nói với cậu như vậy. “Mặc dù đặc tính đó có thể mạnh hơn ở người này so với người khác.”
Tiếng tru của Mùa Hè thường dài và buồn bã, tràn ngập bi thương và mong nhớ. Nhưng tiếng tru của Lông Xù nghe hoang dã hơn. Những âm thanh đó vang vọng cả khoảng sân rộng, dọc hành lang, rồi văng vẳng khắp cả tòa lâu đài, như thể cả một đàn sói lớn đang vây quanh Winterfell chứ không phải chỉ có hai con… hai trong số sáu con như trước đây. Liệu chúng có nhớ các anh chị em của mình giống như cậu không? Bran tự hỏi. Có phải chúng đang gọi Gió Xám và Bóng Ma, hay gọi linh hồn của Nymeria và Quý Cô? Chúng có muốn về nhà đoàn tụ không?
“Ai mà biết được một con sói nghĩ gì?” Ser Rodrik Cassel trả lời khi Bran hỏi ông tại sao chúng lại tru. Mẹ Bran đã yêu cầu ông cai quản Winterfell khi bà vắng mặt, và trách nhiệm nặng nề đó khiến ông không có nhiều thời gian cho những câu hỏi ngớ ngẩn.
“Chúng đang đòi được tự do,” Farlen diễn giải. Anh ta là người dạy chó, và cũng như đàn chó của mình, anh ta chẳng ưa gì loài sói. “Chúng không thích bị nhốt thì ai trách được chúng? Những con thú đó thuộc về thiên nhiên hoang dã chứ không phải ở trong một lâu đài.”
“Chúng muốn đi săn,” đầu bếp Gage đồng ý, tay thả những tảng mỡ cừu vào một nồi nước sôi. “Khứu giác của sói tốt hơn con người, nên có lẽ chúng vừa đánh hơi được con mồi đấy.”
Maester Luwin không nghĩ thế. “Sói thường tru vào mỗi đêm trăng. Còn hai con sói của chúng ta tru lên khi thấy sao chổi. Bran, cháu có thấy nó rất sáng không? Có lẽ bọn chúng tưởng đó là mặt trăng.”
Khi Bran nhắc lại điều này với Osha, cô ta cười lớn. “Những con sói của cậu thông minh hơn vị học sĩ đấy. Chúng biết những sự thật mà con người đã lãng quên.” Cách nói của cô ta khiến cậu rùng mình, và khi cậu hỏi sao chổi kia có nghĩa là gì, Osha trả lời: “Máu và lửa, nhóc ạ, và chẳng có gì tốt đẹp cả.”
Bran hỏi Septon Chayle về sao chổi khi bọn họ đang lựa ra những cuộn da dê còn dùng được trong đám cháy thư viện lần trước. “Sao chổi là thanh kiếm giết chết mùa hè.” Chắc là ông nói đúng, vì con quạ trắng vừa từ Oldtown bay tới và báo tin mùa thu đến.
Nhưng Già Nan lại không nghĩ thế, và bà đã sống lâu hơn tất cả mọi người ở đây. “Những con rồng,” Già Nan ngẩng đầu lên và khịt mũi. Bà gần như mù lòa và không thể nhìn thấy sao chổi được nữa, nhưng bà nói có thể ngửi thấy nó. “Đó là những con rồng, cậu bé ạ,” Già Nan khẳng định. Già Nan không bao giờ gọi Bran là hoàng tử.
Hodor chỉ nói một tiếng. “Hodor,” và đó là từ duy nhất anh ta có thể nói được.
Những con sói vẫn tru lên, đám lính gác thành lẩm bẩm nguyền rủa, lũ chó trong cũi sủa điên cuồng giận dữ, những con ngựa lồng lên trong chuồng, anh em nhà Walder run rẩy bên cạnh đống lửa, và ngay cả Maester Luwin cũng phàn nàn về một đêm mất ngủ. Chỉ có Bran là chẳng bận tâm. Ser Rodrik đã nhốt hai con sói vào rừng thiêng sau khi Lông Xù cắn Walder Nhỏ, nhưng những bức tường đá của Winterfell dường như đang chơi trò ảo thuật lạ lùng với âm thanh, và đôi lúc Bran cảm thấy như tiếng tru của chúng đang phát ra ngay ở sân dưới cửa sổ phòng của cậu. Một vài lần khác, Bran còn đinh ninh chúng đang ở trên tường thành, đi vòng quanh giống như lính gác. Cậu chỉ ước mình có thể nhìn thấy chúng.
Cậu có thể thấy sao chổi treo lơ lửng ngay phía trên Vọng Gác và Tháp Chuông, phía xa là Đại Vọng Lâu tròn trịa và thấp lùn, những máng xối hình thú in bóng lên nền trời tím thẫm phía xa. Bran từng biết rõ mỗi viên đá của tòa thành này, cậu đã leo trèo khắp nơi, chạy trên những bờ tường dễ dàng như chạy trên những bậc thang. Những chóp mái nhà từng là căn cứ mật của cậu, và lũ quạ trên nóc tòa tháp bỏ hoang là những người bạn đặc biệt.
Và cậu bị ngã.
Bran không nhớ cậu ngã như thế nào, nhưng mọi người đều nói thế, nên cậu nghĩ chuyện đó có lẽ là sự thật. Cậu đã suýt chết. Mỗi khi nhìn thấy những máng xối hình quái thú cũ mòn trên đỉnh Đại Vọng Lâu nơi cậu từng bị ngã, Bran lại có cảm giác căng thẳng đến kỳ lạ. Giờ cậu không thể leo trèo, đi lại, chạy nhảy hay đấu kiếm, và ước mơ trở thành kỵ sỹ cũng tan biến dần.
Mùa Hè không ngừng tru lên thảm thiết vào ngày Bran bị ngã, và suốt những ngày sau đó khi cậu nằm mê man trên giường. Robb đã kể lại với cậu như thế trước khi ra chiến trường. Mùa Hè khóc thương cho cậu, rồi Lông Xù và Gió Xám cũng hòa chung với nỗi đau đó. Vào buổi tối con quạ chết tiệt đưa tin về cái chết của cha, những con sói dường như cũng hiểu. Bran lúc đó đang ở cùng với Rickon trong tháp của vị học sĩ và nói chuyện về những đứa con của rừng rậm thì tiếng hú của Mùa Hè và Lông Xù cất lên, át cả giọng nói Luwin.
Hôm nay chúng đang khóc than cho ai? Hay có kẻ thù nào đã giết chết Vua Phương Bắc – anh trai Robb của cậu? Có chuyện gì xảy ra với người anh cùng cha khác mẹ Jon Snow ở Tường Thành sao? Mẹ cậu đã chết ư, hoặc là các chị của cậu? Hay lời tiên đoán của học sĩ, Septon và Già Nan trở thành sự thật?
Nếu mình thực sự là một con sói tuyết, mình sẽ hiểu chúng hát gì, cậu nghĩ một cách tiếc nuối. Trong những giấc mơ về lũ sói, cậu có thể sải chân chạy trên sườn núi, những ngọn núi băng cao hơn bất kỳ tòa tháp nào. Và cậu đứng ngay dưới vầng trăng tròn vành vạnh với cả thế giới dưới chân mình, thế giới giống như ngày xưa.
“Húúúúú,” Bran lấy tay chụm quanh miệng, ngước nhìn ngôi sao chổi và ngập ngừng kêu thử. “Húúúúúúúúú, ahúúúúúúúúúúúú,” cậu tru lên, một âm thanh ngu ngốc, cao vống, rỗng tuếch và run rẩy. Đó là tiếng hú của một cậu bé chứ không phải của một con sói. Nhưng Mùa Hè vẫn trả lời, tiếng tru trầm trầm của nó át đi tiếng kêu mỏng manh của Bran, rồi đến Lông Xù cùng hòa giọng. Bran lại tru lên lần nữa, tiếng tru của những con sói cuối cùng còn lại trong đàn.
Một lính gác tức tốc chạy tới trước cửa phòng Bran, đó là Hayhead với cục u trên mũi. Anh ta ngó vào phòng, thấy Bran đang hướng ra cửa sổ hú bèn hỏi: “Thưa hoàng tử, có chuyện gì vậy?”
Bran cảm thấy kỳ quặc khi mọi người gọi cậu là hoàng tử, dù cậu là người thừa kế sau Robb và Robb giờ là Vua Phương Bắc. Cậu quay đầu lại và hú vào mặt người lính gác. “Húúúúúúúúú, ahúúúúúúúúúúúú,”
Hayhead cau mặt, “Ngài hãy dừng lại đi.”
“Húúúúúúúúú, húúúúúúúúúúúú,”
Tên lính gác lui ra, và một lúc sau quay lại cùng với Maester Luwin trong bộ áo choàng xám, với sợi xích nặng trịch trên cổ.
“Bran, những con sói kia làm ồn là đủ rồi, không cần con giúp thêm vào đâu.” Ông đi dọc căn phòng, tới chỗ Bran và đặt tay lên trán cậu bé. “Muộn lắm rồi, con phải đi ngủ thôi.”
“Con đang nói chuyện với sói.” Bran đẩy tay ông ra.
“Ta nói Hayhead bế con lên giường nhé?”
“Con có thể tự mình lên giường được.” Mikken đã đóng một tay vịn sắt quanh tường để Bran có thể tự mình di chuyển trong phòng. Kiểu đi lại như vậy rất vất vả, chậm chap, và nó làm cho vai cậu rất đau, nhưng Bran ghét bị người khác bế. “Dù sao con cũng không cần ngủ nếu không muốn.”
“Mọi người đều phải ngủ, Bran, ngay cả hoàng tử cũng thế.”
“Khi con ngủ, con sẽ biến thành một con sói.” Bran quay mặt đi nhìn vào đêm tối. “Những con sói có mơ không?”
“Ta nghĩ không chỉ con người mà mọi sinh vật đều có thể mơ.”
“Vậy người chết có mơ không ạ?” Bran hỏi và nghĩ đến cha cậu. Dưới khu lăng mộ tối tăm của Winterfell, một thợ đá đang dùng đá gran-nit để khắc chân dung cha cậu.
“Một số người nói có, một số khác lại phản đối,” vị học sĩ trả lời. “Người chết tự họ không thể nói cho chúng ta về vấn đề này.”
“Cây cối có mơ không ạ?”
“Cây cối? Không…”
“Chúng có mơ.” Bran quả quyết một cách bất ngờ. “Chúng mơ những giấc mơ của cây. Đôi khi con cũng mơ về cây. Một cây đước giống như trong rừng thiêng. Nó gọi tên con. Những giấc mơ về lũ sói thì hay hơn. Con có thể ngửi, và đôi khi còn nếm được mùi vị của máu.”
Maester Luwin sờ lên sợi xích trên cổ. “Ta muốn con dành thời gian chơi với những đứa trẻ khác.”
“Con ghét bọn chúng,” Bran nghĩ đến anh em Walder. “Con ra lệnh cho thầy đuổi chúng đi.”
Luwin nghiêm mặt. “Mẹ con là người giám hộ của những đứa trẻ nhà Frey, chính bà ấy đưa chúng đến đây để nuôi nấng. Vì vậy con không có quyền đuổi chúng đi, mà làm như vậy cũng không hay chút nào. Nếu chúng ta đuổi chúng đi thì chúng biết đi đâu?”
“Về nhà. Vì hai đứa nó mà thầy không cho con gặp Mùa Hè.”
“Thằng bé Nhà Frey không thích bị sói cắn đâu,” vị học sĩ nói, “ta cũng vậy.”
“Đó là Lông Xù,” con sói đen khổng lồ của Rickon bất kham đến mức đôi khi Bran còn cảm thấy sợ nó. “Mùa Hè không bao giờ cắn ai cả.”
“Mùa Hè đã xé toạc yết hầu của một người đàn ông trong căn phòng này, hay là con đã quên rồi? Sự thật là những con sói con đáng yêu mà con và các anh em con tìm thấy trong tuyết giờ đã trở thành những quái thú nguy hiểm. Hai thằng bé nhà Frey rất khôn ngoan đấy khi biết sợ chúng.”
“Chúng ta nên để mấy đứa Walder đó trong rừng thiêng. Chúng có thể chơi trò Thần Giữ Cầu đúng như chúng thích, và Mùa Hè lại có thể ngủ cùng con. Nếu con là hoàng tử, vì sao thầy không nghe lời con? Con muốn cưỡi Vũ Công, nhưng Alebelly không cho con bước qua cánh cổng kia.”
“Và cậu ta đã làm rất đúng. Rừng sói đầy rẫy hiểm nguy. Lần cưỡi ngựa cuối cùng đáng lẽ phải cho con một bài học rồi chứ. Hay con muốn bị bắt cóc và bán cho nhà Lannister?”
“Mùa Hè sẽ bảo vệ con,” Bran kiên trì. “Chẳng phải các hoàng tử có quyền rong thuyền ra biển, săn lợn lòi trong rừng sói, và cưỡi ngựa đấu thương hay sao?”
“Bran à, bé con, tại sao con thích tự tra tấn mình thế? Sẽ có ngày con làm được những điều này, nhưng giờ con mới chỉ là đứa trẻ 8 tuổi thôi.”
“Con muốn trở thành một con sói tuyết mạnh mẽ, có thể sống trong rừng, ngủ bất cứ khi nào con muốn và con có thể tìm thấy Arya và Sansa. Con sẽ đánh hơi để biết họ đang ở đâu và đến cứu họ, và khi Robb ra chiến trường, con sẽ sát cánh cùng anh ấy chiến đấu giống như Gió Xám. Con sẽ xé toạc họng của Sát Vương bằng hàm răng của mình. Sau đó chiến tranh kết thúc và mọi người có thể trở về Winterfell. Ước gì con là một con sói…” Cậu lại tru lên: “Húúúúúúúúú.”
Luwin cao giọng. “Một hoàng tử đích thực sẽ biết tiếp đón…”
“HÚÚÚ, AHÚÚÚÚÚ,” Bran tru lên to hơn, “AAHÚÚÚÚ.”
Vị học sĩ đầu hàng: “Tùy con đấy.” Với ánh mắt buồn phiền và bất lực, ông rời khỏi căn phòng.
Còn lại một mình Bran trong phòng, tiếng tru cũng mất dần ý nghĩa. Một lúc sau cậu cũng yên lặng. Mình có tiếp đãi chúng đấy chứ, cậu tự nhủ một cách bực bội. Mình là lãnh chúa thành Winterfell, một lãnh chúa thực sự mà không ai có thể chối cãi được. Khi anh em nhà Walder từ Song Thành tới đây, chính Rickon muốn đuổi chúng đi. Mới có 4 tuổi, Rickon đã gào khóc đòi gặp cha mẹ và Robb, chứ không phải những kẻ xa lạ kia. Chính Bran đã phải dỗ dành cậu em và chào đón anh em nhà Frey. Cậu đãi chúng thịt, bánh mỳ và để chúng ngồi bên lò sưởi, ngay cả Maester Luwin cũng khen cậu đã làm rất tốt.
Nhưng đó là trước khi diễn ra trò Thần Giữ Cầu.
Trò chơi này cần một khúc gỗ, một cây quyền trượng, diễn ra ở chỗ có dòng nước chảy qua và cần phải hò hét rất nhiều. Nước đóng vai trò tối quan trọng, hai anh em nhà Walder nói với Bran như vậy. Có thể sử dụng một tấm ván gỗ hoặc thậm chí một loạt những viên đá, và dùng cành cây giả làm quyền trượng. Cũng không nhất thiết phải hét to, nhưng nếu không có nước thì không thể chơi được. Khi Maester Luwin và Ser Rodrik không cho phép bọn trẻ vào sâu trong rừng thiêng để tìm một dòng suối, chúng phải chơi ở một cái hồ u ám gần bìa rừng. Anh em nhà Walder chưa bao giờ nhìn thấy hồ nước nóng sủi bọt tự nhiên, nhưng chúng vẫn nhất trí điều đó sẽ giúp trò chơi thêm phần thú vị.
Cả hai cậu nhóc đều có tên là Walder Frey. Walder Lớn nói rằng có cả đám Walder ở Song Thành, tất cả đều được đặt tên theo ông nội của chúng – Lãnh chúa Walder Frey. “Chúng ta có tên riêng ở Winterfell,” Rickon ngạo nghễ tuyên bố khi nghe chúng nói vậy.
Trò chơi diễn ra như sau: đặt một khúc cây lên mặt nước để một người cầm thanh quyền trượng đứng ở trên. Cậu ta sẽ đóng vai thần giữ cầu và khi một trong những người chơi khác tiến đến gần, cậu ta sẽ nói. “Ta là thần giữ cầu. Ai đang tới đó?” Người chơi kia phải trả lời họ là ai và tại sao nên cho họ qua cầu. Thần giữ cầu có thể bắt họ thề và trả lời các câu hỏi. Người chơi không cần phải nói sự thật, nhưng bắt buộc phải giữ lời thề, trừ khi họ nói “có thể.” Vì thế mánh khóe ở đây là phải nói “có thể”thật nhanh để thần giữ cầu không chú ý. Sau đó người chơi có thể đẩy vị thần giữ cầu xuống nước và thay vào vị trí đó. Nếu ai không nói “có thể” sẽ bị loại khỏi trò chơi. Vị thần giữ cầu có quyền đánh ngã bất cứ ai xuống nước khi nào cậu ta thích, và cậu ta cũng là người duy nhất được sử dụng quyền trượng.
Trên thực tế, trò chơi hầu hết là xô đẩy, đánh đấm, và ngã xuống nước, kèm theo đó là việc tranh luận xem ai đó đã nói “có thể” hay chưa. Mọi người thường cùng xô nhau xuống nước ngay khi có ai đó nói to “có thể”. Walder Bé thường hay đóng vai thần giữ cầu.
Tuy là Walder Bé nhưng cậu ta cao to vạm vỡ, khuôn mặt lúc nào cũng đỏ bừng và bụng phệ tròn căng. Walder Lớn có khuôn mặt góc cạnh hơn, dáng người nhỏ bé hơn, và thấp hơn Walder Bé khoảng mười lăm phân. “Anh ta sinh trước tôi năm mươi hai ngày,” Walder Bé giải thích, “cho nên lúc đầu anh ta lớn hơn, nhưng sau đó tôi lớn nhanh hơn.”
“Chúng tôi là anh em họ, không phải anh em ruột,” Walder Lớn thêm vào. “Tôi là Walder con trai của Jammos. Bố tôi là con trai của Lãnh chúa Walder với bà vợ thứ tư. Ông ấy là Walder con trai của Merrett. Còn bà của Walder Bé là vợ ba của Lãnh chúa Walder, thuộc gia tộc Crakehall. Vì vậy mặc dù tôi lớn hơn nhưng cậu ta vẫn đứng trước tôi trong chuỗi thừa kế.”
“Chỉ có năm mươi hai ngày,” Walder Bé phản đối. “Và chẳng ai trong chúng ta được thừa kế Song Thành đâu, đồ ngốc.”
“Tao sẽ được thừa kế,” Walder Lớn tuyên bố. “Không chỉ chúng ta mới mang tên Walder. Ser Stevron có một cháu trai là Black Walder, hắn đứng thứ tư trong chuỗi thừa kế, và còn có cả Walder Đỏ, con trai của Ser Emmon, và gã Walder Con Hoang, kẻ không được liệt vào danh sách. Tên hắn là Walder Rivers, chứ không phải là Walder Frey. Ngoài ra còn có mấy đứa con gái tên Walda nữa.”
“Cả Tyr nữa. Mày luôn quên Tyr.”
“Nó là Waltyr chứ có phải Walder đâu,” Walder Lớn cau có. “Và nó đứng sau chúng ta nên chẳng cần bận tâm. Dù sao thì tao cũng chưa bao giờ thích nó.”
Ser Rodrik đã xếp cho chúng ở trong phòng cũ của Jon Snow, vì Jon đã gia nhập Đội Tuần Đêm và không bao giờ trở về nữa. Bran ghét điều đó, vì nó khiến cậu cảm thấy như anh em nhà Frey đang cướp mất vị trí của Jon.
Bran theo dõi với vẻ thèm muốn khi anh em nhà Walder tranh cãi với Turnet, thằng bé con đầu bếp và hai đứa con gái nhà Joseth là Bandy và Shyra. Anh em nhà Walder đã tuyên bố Bran có quyền phân xử và quyết định xem bọn chúng có nói “có thể” hay không, nhưng khi trò chơi bắt đầu thì chẳng ai còn nhớ đến Bran nữa.
Tiếng cãi nhau inh ỏi nhanh chóng thu hút thêm những đứa trẻ khác: Palla – con gái người dạy chó, Calon – con trai Cayn, TomToo – con trai bác Tom Bự đã chết cùng với cha Bran tại Vương Đô. Không lâu sau, cả lũ đã ướt nhẹp và dính đầy bùn đất. Palla đang cười không kịp thở, từ đầu đến chân con bé toàn một màu nâu và mái tóc dính đầy rong rêu. Từ đêm con quạ chết tiệt mang tin về cái chết của cha, Bran chưa từng nghe thấy nhiều tiếng cười đến vậy. Nếu chân mình còn khỏe mạnh, mình sẽ đánh ngã tất cả bọn chúng xuống nước, Bran cay đắng nghĩ. Sẽ chẳng ai ở đây có thể tranh làm thần giữ cầu với mình.
Cuối cùng Rickon cũng chạy vào rừng thiêng, Lông Xù theo sát đằng sau. Cậu nhóc quan sát Turnip và Walder Bé tranh giành quyền trượng cho đến khi Turnip mất thăng bằng và ngã xuống nước, vùng vẫy loạn xạ. Rickon hò hét. “Em nữa, em nữa. Em cũng muốn chơi!” Walder Bé vẫy tay ra hiệu cho cậu nhập hội và Lông Xù chạy vào theo. “Không, Xù,” Rickon ra lệnh. “Sói không chơi được đâu. Mày ở lại đây với Bran đi!” Và con sói ngoan ngoãn nghe lời….
…cho đến khi Walder Bé vung quyền trượng đánh thẳng vào bụng Rickon. Trước khi Bran kịp chớp mắt, con sói đen đã bay đến tấm ván gỗ, và máu nhuốm đỏ mặt nước. Anh em nhà Walder la hét om sòm, trong khi Rickon ngồi phịch xuống đống bùn cười khanh khách. Anh Hodor ì ạch lội đến và chỉ kêu một tiếng duy nhất. “Hodor! Hodor! Hodor!”
Thật kỳ lạ là sau chuyện đó, Rickon lại yêu quý anh em nhà Walder. Dù không bao giờ chơi lại trò thần giữ cầu nữa, nhưng chúng chuyển sang chơi một loạt các trò khác: người đẹp và quái vật, chuột và mèo, đánh chiếm lâu đài, hay đại loại như thế. Có Rickon bên cạnh, anh em nhà Walder tha hồ xông vào bếp cướp bánh và mật ong, chạy quanh tường thành, ném xương cho mấy con chó trong cũi và luyện tập bằng kiếm gỗ dưới sự trông chừng của Ser Rodrik. Rickon thậm chí còn dẫn bọn chúng xuống khu hầm mộ dưới lòng đất, nơi thợ đá đang khắc chân dung Lãnh chúa Eddard. “Em không được làm thế,” Bran hét lên với cậu em trai khi biết chuyện. “Đó là nơi của riêng chúng ta, của Nhà Stark!” Nhưng Rickon chẳng thèm quan tâm.
Cánh cửa phòng ngủ của cậu lại mở ra. Maester Luwin đang cầm một chiếc bình màu xanh đi vào, lần này có Osha và Hayhead đi cùng. “Bran, ta vừa chế một loại thuốc ngủ cho con đây.”
Osha vươn đôi tay gầy guộc ra ôm lấy cậu. Cô ta cao lớn và có một sức mạnh dẻo dai hơn so với những người phụ nữ bình thường. Cô ta bế Bran lên giường mà không tốn một chút sức lực nào.
“Thứ thuốc này sẽ giúp cháu có một giấc ngủ sâu không mộng mị,” Maester Luwin nói khi mở nút chiếc lọ ra. “Một giấc ngủ êm ái ngọt ngào, và không mơ mộng.”
“Thật chứ?” Bran rất muốn tin vào điều đó.
“Phải, con uống đi.”
Bran uống. Thứ thuốc đó đặc và có màu trắng đục như nghiền ra từ phấn, nhưng vì được chế thêm mật ong nên cậu có thể nuốt nó một cách dễ dàng.
“Sáng mai con sẽ cảm thấy khá hơn,” Luwin mỉm cười và vỗ vai Bran trước khi rời khỏi căn phòng. Osha nấn ná lại một chút. “Có phải lại là giấc mơ về lũ sói không?”
Bran gật đầu.
“Cậu không cần phải gò ép mình quá đâu, cậu bé ạ. Ta đã thấy cậu nói chuyện với cây mặt người. Có lẽ các vị thần đang cố gắng nói chuyện lại với cậu chăng?”
“Các vị thần ư?” cậu thì thầm và chìm vào giấc ngủ. Khuôn mặt của Osha mờ dần và chìm trong bóng tối. Một giấc ngủ ngọt ngào, không mộng mị, Bran thầm nghĩ.
Thế nhưng khi bóng tối bao phủ, cậu lại thấy mình trong rừng thiêng. Cậu đang bước lặng lẽ dưới tán cây cổ thụ xanh sẫm và những cây sồi xương xẩu, già nua. Mình có thể đi bộ được, Bran hân hoan nghĩ. Phần nào đó trong cậu vẫn biết đây chỉ là một giấc mơ, nhưng dù sao cũng còn tốt hơn hiện thực phũ phàng trong bốn bức tường phòng ngủ.
Trong rừng thật rất tối, nhưng ngôi sao chổi đã soi đường giúp Bran, và cậu bước từng bước đi dứt khoát. Cậu đang di chuyển bằng bốn chân, khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Cậu có thể cảm nhận được đất ẩm dưới chân, âm thanh xào xạc của lá khô rơi rụng, những rễ cây to, những hòn đá cứng, và từng lớp, từng lớp đất mùn. Cảm giác này thật dễ chịu. Đủ loại mùi tràn ngập trong tâm trí cậu, sống động và say mê: Mùi ngai ngái của bùn lầy bốc lên từ những chiếc hồ nước nóng, mùi của lớp đất mục dưới chân, của lũ sóc trên tán cây sồi. Lũ sóc khiến cậu nhớ tới mùi vị của dòng máu nóng phun ra khi cắn ngập răng vào khúc xương giòn. Nước bọt trong miệng cậu tứa ra. Cậu vừa mới ăn cách đây chưa đến nửa ngày, nhưng ăn thịt chết chẳng có gì thú vị, ngay cả khi đó là thịt hươu. Cậu có thể nghe thấy tiếng những con sóc kêu ríu rít và thoăn thoắt chuyền cành trên cao, an toàn giữa những tán lá. Chúng biết rõ chúng không nên xuống thấp hơn nữa, nơi anh em cậu đang rình mồi.
Bran cũng ngửi thấy cả mùi của anh trai mình, một mùi quen thuộc, mạnh mẽ và phàm tục, một mùi bẩn thỉu và đen đúa như chiếc áo mà anh đang mặc. Anh trai cậu đang chạy quanh những bức tường với vẻ tức giận. Anh cứ chạy, ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác, chạy không mệt mỏi, để tìm kiếm… con mồi, tìm một lối thoát, tìm mẹ, tìm anh chị và bầy đàn của mình… tìm mãi, tìm mãi, nhưng chẳng bao giờ thấy.
Sau rừng cây là bức tường đá cao được con người dựng lên bao quanh khu rừng này. Bức tường xám xịt và phủ lấm tấm rêu xanh nhưng vẫn dày dạn, kiên cố và cao hơn tầm nhảy của bất cứ con sói nào. Những thanh sắt và gỗ vụn đã bịt hết lỗ trên tường đá, lối ra vào duy nhất của chúng. Đứng trước mỗi cái lỗ, anh trai cậu lại dừng lại, gầm gừ nhe răng, nhưng những lối ra vẫn đóng im ỉm.
Trong đêm đầu tiên, cậu cũng làm điều tương tự như thế, và biết rằng điều đó chẳng đem lại kết quả gì. Gào rú không phải là cách để mở cửa. Chạy vòng quanh tường cũng không đẩy chúng ra được. Tè vào những gốc cây để đánh dấu cũng chẳng khiến con người tránh xa ra. Thế giới như xiết chặt quanh bức tường ấy, nhưng bên ngoài khu rừng bị bao vây này vẫn có những hang động lớn của con người. Winterfell, cái tên chợt hiện ra trong tâm trí cậu. Bên ngoài vách đá cao chọc trời kia là thế giới đích thực đang vẫy gọi, và cậu biết cậu phải trả lời, hoặc chết.