Trò chơi vương quyền 2A – Hậu duệ Sư tử vàng

Trò chơi vương quyền 2A – Hậu duệ Sư tử vàng

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 31

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Meera thận trọng di chuyển theo vòng tròn, tấm lưới lủng lẳng bên tay trái cô và cây đinh ba thanh mảnh bên tay phải. Mùa Hè chạy theo cô với đôi mắt vàng rực; nó quay tròn, cái đuôi cao và dựng đứng. Quan sát, quan sát…

“Aaa,” cô gái hét lên và đâm cái chĩa ra. Con sói trượt qua bên trái và nhảy đi trước khi cô kịp thu đinh ba lại. Meera quăng lưới, đám lưới rối tung mở rộng ra trước mặt cô. Và Mùa Hè nhảy trúng vào đó. Con sói kéo tấm lưới theo sau khi nó đâm sầm vào ngực cô gái và làm cô ta ngã ngửa ra sau. Cây đinh ba bay mất. Đám cỏ ẩm ướt đỡ cho cú ngã nhưng một tiếng “bộp” vẫn vang lên khi cô ngã xuống. Con sói thu mình trên người cô.

Bran huýt lên. “Chị thua rồi nhé.”

“Chị ấy thắng chứ,” Jojen em trai cô nói. “Mùa Hè mắc bẫy rồi.”

Cậu bé nói đúng, Bran cũng thấy điều đó. Lăn lộn và gầm gừ trong tấm lưới, cố xé lưới thoát ra, Mùa Hè chỉ càng tự khiến nó bị vây chặt hơn. Và nó cũng không thể cắn đứt tấm lưới được. “Thả nó ra.”

Cô bé nhà Reed cười to rồi quàng hai tay quanh con sói mắc bẫy và cả hai cùng lăn tròn. Mùa Hè rên rỉ một cách đáng thương, chân nó đá đá vào những sợi dây lưới trói xung quanh. Meera quỳ xuống gỡ một mối xoắn, kéo góc này, giật góc kia và đột nhiên con sói được giải phóng.

“Mùa Hè, đến đây nào.” Bran giang tay ra. “Cẩn thận,” Bran nói vội trước khi con sói lăn xả vào người. Bran dùng hết sức bám lấy nó và con sói kéo cậu đi trên cỏ. Họ vật lộn, lăn tròn và bám lấy nhau, con sói gầm gừ sủa, còn cậu bé cười đùa vui vẻ. Cuối cùng, Bran nằm đè bên trên con sói lấm bùn. “Ngoan lắm,” Bran thở hổn hển. Mùa Hè liếm lên tai cậu.

Meera lắc đầu. “Nó không bao giờ tức giận ư?”

“Với ta thì không bao giờ.” Bran nắm tai con sói và Mùa Hè quyết liệt đớp lấy cậu, nhưng tất cả chỉ là đùa vui. “Đôi khi nó xé quần áo ta nhưng không bao giờ làm ta chảy máu.”

“Đó là với ngài. Nhưng nếu nó qua được tấm lưới của tôi…”

“Nó không làm hại chị đâu. Nó biết ta thích chị mà.” Các lãnh chúa và hiệp sĩ đã rời đi một hai ngày sau lễ hội ngày mùa, nhưng những đứa trẻ nhà Reed thì ở lại bầu bạn với Bran. Jojen nghiêm nghị đến mức Già Nan gọi cậu bé là “ông cụ non,” nhưng Meera thì gợi Bran nhớ tới người chị gái Arya. Cô không sợ bẩn, và có thể chạy nhảy, chiến đấu và ném tốt như một cậu con trai. Tuy nhiên cô lớn tuổi hơn Arya; gần mười sáu tuổi, một phụ nữ trưởng thành. Cả hai đều lớn tuổi hơn Bran nhưng họ chưa bao giờ đối xử với cậu như trẻ con, dù Bran chỉ mới trải qua ngày lễ đặt tên lần thứ chín.

“Ước gì mẹ ta bảo hộ cho hai người chứ không phải hai thằng nhóc nhà Walder.” Cậu gắng gượng di chuyển về phía cái cây gần nhất. Thật khó mà đứng yên khi phải nhìn cậu bé di chuyển khó khăn như vậy, nhưng khi Meera đến giúp đỡ cậu thì Bran lại từ chối, “Không, đừng giúp ta.” Cậu lăn một cách vụng về rồi đẩy mình, rồi trườn bằng hai cánh tay, cho tới khi cậu có thể ngồi dựa lưng vào thân một cây tần bì lớn. “Thấy chưa, ta đã nói mà.” Mùa Hè nằm gục đầu vào lòng cậu. “Ta chưa từng gặp ai chiến đấu với một tấm lưới,” cậu vừa nói với Meera vừa gãi tai con sói. “Các hiệp sĩ cấp cao dạy cô đánh nhau bằng lưới à?”

“Cha tôi dạy tôi. Chúng tôi không có hiệp sĩ ở Greywater. Không có hiệp sĩ cấp cao, và không có các vị học sĩ.”

“Vậy ai giữ lũ quạ cho cô?”

Cô mỉm cười. “Lũ quạ không tìm được pháo đài Greywater Watch, cũng chẳng kẻ thù nào tìm được.”

“Tại sao không?”

“Bởi nó di chuyển,” cô nói.

Bran chưa bao giờ nghe thấy chuyện lâu đài di chuyển. Cậu nhìn cô gái với vẻ hoài nghi, nhưng cậu không biết chắc liệu cô có đang trêu đùa mình không. “Ước gì ta được nhìn thấy nó. Cô có nghĩ rằng lãnh chúa cha cô sẽ để ta đến thăm khi chiến tranh chấm dứt không?”

“Ngài sẽ luôn được chào đón, thưa hoàng tử. Dù là bây giờ hay về sau.”

“Bây giờ?” Bran đã dành phần lớn cuộc đời ở Winterfell. Cậu khao khát được thấy những nơi xa xôi. “Ta sẽ hỏi Ser Rodrik khi ông ấy trở về.” Vị hiệp sĩ già đang ở phía đông để dàn xếp những rắc rối ở đó. Đứa con hoang của Roose Bolton đã bắt giữ phu nhân Hornwood khi bà trở về từ lễ hội ngày mùa; hắn làm đám cưới với bà ngay đêm hôm đó dù hắn chỉ đáng tuổi con trai bà. Sau đó Lãnh chúa Manderly chiếm lâu đài của bà và nói làm vậy để bảo vệ tài sản của nhà Hornwood khỏi tay gia tộc Bolton. Nhưng Ser Rodrik cũng giận dữ với ông ta chẳng kém gì với tên con hoang kia. “Ser Rodrik có thể sẽ cho ta đi. Nhưng Maester Luwin thì không bao giờ.”

Ngồi khoanh chân dưới cây đước, Jojen Reed nhìn cậu nghiêm nghị. “Sẽ tốt cho ngài nếu rời khỏi Winterfell, Bran ạ.”

“Tốt ư?”

“Đúng vậy. Và càng sớm càng tốt.”

“Em trai tôi có khả năng tiên đoán,” Meera nói. “Nó mơ về những việc chưa xảy ra, nhưng đôi khi chúng biến thành sự thật.”

“Không phải là đôi khi, Meera.” Họ khẽ nhìn nhau; cậu bé có vẻ buồn bã và cô gái thách thức nhìn lại.

“Nói ta nghe chuyện gì sắp xảy ra,” Bran nói.

“Tôi sẽ nói,” Jojen trả lời, “nếu ngài kể tôi nghe về giấc mơ của ngài.”

Rừng thiêng trở nên tĩnh lặng. Bran nghe được cả tiếng lá cây xào xạc và tiếng Hodor té nước từ bể nước nóng phía xa. Cậu nhớ lại người đàn ông tóc vàng và con quạ ba mắt, nhớ lại tiếng xương gẫy giữa hai hàm răng và vị tanh như kim loại của máu. “Ta không mơ thấy gì hết. Maester Luwin cho ta vài liều thuốc ngủ.”

“Chúng có tác dụng không?”

“Thỉnh thoảng.”

Meera nói, “Cả thành Winterfell đều biết ngài thức dậy hét lên giữa đêm khuya và mồ hôi vã ra như tắm, Bran. Phụ nữ nói về chuyện đó ở giếng nước, và lính canh kể với nhau trong sảnh.”

“Hãy kể cho chúng tôi nghe điều gì làm ngài sợ đến vậy?” Jojen tiếp lời.

“Ta không muốn. Dù sao thì đó cũng chỉ là giấc mơ. Maester Luwin nói giấc mơ có thể có ý nghĩa, cũng có thể không.”

“Em trai tôi cũng mơ như các cậu bé khác, và những giấc mơ đó có thể ám chỉ bất kỳ điều gì,” Meera nói, “nhưng các giấc mơ xanh thì khác.”

Đôi mắt Jojen mang màu rêu, và thỉnh thoảng khi cậu ta nhìn ai đó, dường như cậu ta còn nhìn thấy một điều gì khác nữa. Giống như lúc này. “Tôi mơ về một con sói có cánh bị xích xuống đất bằng một dây xích bằng đá xám,” cậu ta kể. “Đó là một giấc mơ xanh, và tôi biết đó là sự thật. Một con quạ đang cố mổ đứt dây xích, nhưng đá quá cứng và mỏ nó chỉ có thể làm mẻ sợi xích một chút thôi.”

“Con quạ đó có ba mắt không?”

Jojen gật đầu.

Mùa Hè đang nằm trên đùi Bran nghển cổ lên, và ngước nhìn Jojen với đôi mắt vàng thẫm.

“Khi còn nhỏ, tôi suýt mất mạng bởi dịch sốt ở Greywater. Đó là lúc con quạ đến với tôi.”

“Nó đến với ta sau khi ta ngã,” Bran thốt lên. “Ta đã ngủ trong một quãng thời gian dài. Con quạ nói ta phải biết bay hoặc là sẽ chết, và ta tỉnh dậy, chỉ có điều ta bị gãy chân và không thể bay được.”

“Có thể nếu ngài muốn.” Meera cầm lưới lên, gỡ nốt các mối rối và bắt đầu gập nó lại.

“Ngài chính là con sói có cánh, Bran,” Jojen nói. “Tôi không chắc lắm khi mới đến, nhưng giờ thì tôi chắc chắn rồi. Con quạ cử chúng tôi tới đây để tháo xiềng xích cho ngài.”

“Con quạ ở Greywater sao?”

“Không. Con quạ ở phía bắc.”

“Ở Tường Thành?” Bran vẫn luôn muốn được chiêm ngưỡng Tường Thành. Người anh cùng cha khác mẹ của cậu là Jon hiện đang ở đó, một thành viên trong Đội Tuần Đêm.

“Phía bên kia Tường Thành.” Meera Reed đeo tấm lưới lên thắt lưng. “Khi Jojen kể cho cha tôi nghe về giấc mơ của nó, ông ấy cho chúng tôi đến Winterfell.”

“Ta sẽ cắt đứt sợi xích bằng cách nào đây, Jojen?” Bran hỏi.

“Hãy mở mắt ra.”

“Ta đang mở mắt. Cậu không thấy sao?”

“Hai mắt đó thì mở.” Jojen chỉ. “Một, hai.”

“Ta chỉ có hai thôi.”

“Ngài có ba. Con quạ cho ngài con mắt thứ ba, nhưng ngài không mở nó.” Cậu từ tốn nói. “Với đôi mắt này, ngài nhìn thấy mặt tôi. Với con mắt thứ ba, ngài thấy trái tim tôi. Với đôi mắt này, ngài thấy cây sồi đằng kia. Với con mắt thứ ba, ngài nhìn thấy hạt mầm mà cây sồi lớn lên từ đó và sẽ thấy cái gốc khi nó chết đi. Với đôi mắt này, ngài không thể nhìn vượt ra ngoài bức tường. Nhưng với con mắt thứ ba, ngài sẽ nhìn được về phương nam tới tận biển Summer và về phương bắc tận phía bên kia Tường Thành.”

Mùa Hè nhổm dậy. “Ta không cần nhìn được xa đến vậy.” Bran cười lo lắng. “Ta mệt mỏi với việc nói về quạ rồi. Hãy nói về sói. Hoặc thằn lằn sư. Cô đã săn một con bao giờ chưa, Meera? Ở đây không có loài đó.”

Meera rút cây đinh ba ra khỏi bụi cây. “Chúng sống trong nước. Trong các dòng suối chảy chậm và đầm lầy sâu…”

Em trai cô ngắt lời. “Ngài mơ về thằn lằn sư sao?”

“Không,” Bran trả lời. “Ta đã nói rồi, ta không muốn…”

“Ngài có mơ thấy sói không?”

Cậu ta làm Bran phát cáu. “Ta không cần phải kể cho cậu nghe về giấc mơ của ta. Ta là hoàng tử. Ta là Stark vùng Winterfell.”

“Đó là Mùa Hè phải không?”

“Ngươi im đi.”

“Vào đêm bữa tiệc mừng vụ mùa, ngài đã mơ ngài là Mùa Hè trong rừng của các vị thần phải không?”

“Dừng lại!” Bran thét lên. Mùa Hè chạy tới dưới cây đước và nhe nanh.

Jojen Reed chẳng bận tâm. “Khi tôi chạm vào Mùa Hè, tôi đã cảm thấy ngài trong đó. Cũng như bây giờ, ngài đang ở trong nó.”

“Ngươi không thể biết được. Lúc đó ta đang nằm trên giường. Ta đang ngủ.”

“Ngài đã ở trong rừng thiêng, toàn một màu xám.”

“Đó chỉ là một cơn ác mộng…”

Jojen đứng lên. “Tôi cảm nhận được ngài. Tôi cảm nhận được cú ngã của ngài. Đó có phải là điều ngài sợ không, cú ngã ấy?”

Cú ngã, Bran nghĩ, và người đàn ông tóc vàng, em trai của hoàng hậu, hắn cũng làm ta sợ, nhưng chủ yếu vẫn là cú ngã. Tuy nhiên, cậu không nói ra. Sao cậu có thể nói ra được chứ? Cậu đã không thể kể cho Ser Rodrik hay Maester Luwin, nên cũng không thể kể cho chị em nhà Reed. Nếu không nhắc đến, có lẽ cậu sẽ quên được nó. Cậu chưa bao giờ muốn nhớ. Thậm chí ký ức đó có thể không đúng sự thật.

“Ngài vẫn ngã xuống hàng đêm phải không, Bran?’ Jojen hỏi nhỏ nhẹ.

Mùa Hè gầm gừ, và lần này không phải là đùa vui nữa. Nó tiến về phía trước, nhe răng và đôi mắt sục sôi. Meera bước ra đứng giữa con sói và em trai với cây đinh ba trong tay. “Bảo nó lùi lại, Bran.”

“Jojen đang làm nó giận dữ.”

Meera lắc tấm lưới ra.

“Đó là cơn giận dữ của ngài, Bran,” em trai cô nói. “Là nỗi sợ hãi của ngài.”

“Không đúng. Ta không phải là sói.” Thế nhưng cậu lại cùng chúng tru lên trong đêm, và nếm được vị máu trong giấc mơ sói của mình.

“Một phần trong ngài là Mùa Hè, và một phần của Mùa Hè là ngài. Ngài biết điều đó, Bran.”

Mùa Hè xông lên phía trước, nhưng Meera chặn nó lại bằng cây đinh ba. Con sói vặn mình né sang một bên, đi vòng tròn và rình rập. Meera quay sang nhìn cậu. “Gọi nó lại đi, Bran.”

“Mùa Hè!” Bran hô to. “Lại đây với ta, Mùa Hè!” Cậu đặt một bàn tay lên đùi mình. Tay cậu ngứa ran như có kim châm, nhưng đôi chân bại liệt không cảm thấy gì cả.

Con sói lại lao lên phía trước, và một lần nữa cây đinh ba của Meera lại phóng ra. Nó tránh được rồi lại đi vòng tròn. Có tiếng sột soạt ở bụi cây và một bóng đen lao vụt ra từ sau cây đước, nhe nanh. Lần này mùi tỏa ra quá mạnh, mùi của cơn giận dữ, và sói em đã đánh hơi được cơn giận đó. Bran thấy dựng tóc gáy. Meera đứng bên cạnh em trai với hai con sói hai bên. “Bran, gọi chúng lại đi.”

“Ta không thể!”

“Jojen, trèo lên cây!”

“Không cần. Hôm nay không phải ngày em chết.”

“Làm đi!” cô hét lên, và cậu em trai bám lên hình khuôn mặt khắc trên thân cây đước để trèo lên. Hai con sói áp sát. Meera vứt bỏ cây đinh ba và lưới, nhảy lên túm lấy cành cây sát trên đầu. Lông Xù táp ngay bên dưới mắt cá chân Meera khi cô đu mình và nhảy thoắt lên cành cây. Mùa Hè ngồi trên hai chân sau và tru lên, còn Lông Xù nhay đi nhay lại tấm lưới trong hàm răng của nó.

Khi đó Bran mới nhớ ra họ không ở đó một mình. Cậu chụm tay quanh miệng và hét, “Hodor!” “Hodor! Hodor!” Bran vừa sợ hãi vừa có đôi chút xấu hổ. “Chúng sẽ không hại Hodor đâu,” cậu nói với những người bạn đang ngồi trên cây.

Một lúc sau họ nghe thấy tiếng ngân nga chẳng theo một giai điệu nào. Hodor đến khi quần áo vẫn còn đang mặc dở, và mình mẩy lấm đầy bùn vì chơi đùa ở hồ nước nóng, nhưng Bran chưa bao giờ vui mừng đến thế khi nhìn thấy anh. “Hodor, giúp ta. Đuổi bọn sói đi. Đuổi chúng đi.”

Hodor hân hoan đi tới, vẫy vẫy hai tay và dậm đôi chân vĩ đại xuống đất, hò hét “Hodor, Hodor,” rồi đuổi theo từng con sói một. Lông Xù chạy đi trước, lùi vào đám cây với một tiếng gầm gừ. Mùa Hè ngoan cố một lúc cũng chạy tới bên Bran và nằm xuống bên cạnh cậu.

Ngay khi chạm chân xuống đất, Meera nhặt cây đinh ba và tấm lưới. Jojen không rời mắt khỏi Mùa Hè. “Chúng ta sẽ còn nói chuyện,” cậu hứa hẹn với Bran.

Đó là lũ sói, không phải ta. Cậu không hiểu tại sao chúng lại hung dữ như vậy. Có lẽ Maester Luwin đã đúng khi nhốt chúng trong rừng thiêng. “Hodor,” cậu nói, “đưa ta tới chỗ Maester Luwin.”

***

Tòa tháp nhỏ nằm bên dưới lùm cây của vị học sĩ là một trong những nơi yêu thích của Bran. Luwin bừa bãi đến khó tưởng tượng, nhưng các quyển sách, những cuộn giấy và chai lọ cũng như cái đầu hói và hai ống tay áo thùng thình của ông luôn mang lại cảm giác thân quen và dễ chịu cho Bran. Cậu cũng thích lũ quạ nữa.

Bran thấy Luwin đang ngồi viết trên chiếc ghế cao. Khi Ser Rodrik đi khỏi, tất cả việc quản lý lâu đài đều do ông đảm trách. “Hoàng tử của ta,” ông chào khi Hodor bước vào, “hôm nay cháu dậy học bài sớm quá.” Vị học sĩ dành vài giờ mỗi buổi chiều để dạy dỗ Bran, Rickon, và hai anh em Walder Frey.

“Hodor, dừng lại.” Bran dùng cả hai tay túm lấy một cái đèn tường và tự nhấc mình lên khỏi chiếc giỏ. Cậu giữ tay ở đó một lúc đợi Hodor đến đưa cậu ra ghế ngồi. “Meera nói rằng em trai cô ấy có tài tiên tri.”

Maester Luwin gãi một bên mũi với cây cọ lông. “Vậy ư?”

Cậu gật đầu. “Thầy nói với con rằng bọn trẻ người rừng nhìn được tương lai. Con nhớ như vậy.”

“Một số người nói họ có quyền năng đó. Những người thông thái đó được gọi là nhà tiên tri.”

“Đó có phải là phép thuật không?”

“Nếu muốn dùng một từ hay hơn thì có thể nói như vậy. Về bản chất thì đó chỉ là một dạng kiến thức khác thôi.”

“Đó là gì?”

Luwin đặt bút lông xuống. “Không ai thật sự hiểu, Bran ạ. Những đứa con của rừng rậm biến mất khỏi thế gian và mang trí tuệ đó đi theo với chúng. Mọi người cho rằng nó có liên quan tới các hình mặt người khắc trên cây. Tiền Nhân tin rằng các nhà tiên tri có thể nhìn bằng đôi mắt của cây đước. Đó là lý do vì sao họ chặt bỏ những cái cây đó khi họ muốn chống lại bọn trẻ. Người ta cho rằng các nhà tiên tri có sức mạnh áp đảo muông thú trong rừng và các loài chim trên cây. Thậm chí các loài cá. Cậu bé nhà Reed có nói rằng cậu ta có sức mạnh như vậy không?”

“Không. Nhưng Meera kể có lúc giấc mơ của cậu ta thành sự thật.”

“Tất cả chúng ta có những giấc mơ đôi khi trở thành sự thật. Con mơ thấy lãnh chúa cha con trong hầm mộ trước khi biết ông ấy chết, phải không nào?”

“Rickon cũng thế. Bọn con có chung một giấc mơ.”

“Con có thể gọi đó là tiên tri nếu con muốn… nhưng hãy nhớ rằng có hàng chục nghìn giấc mơ khác của con và Rickon không trở thành sự thật. Con có nhớ những gì ta đã dạy về chiếc vòng cổ mà mọi học sĩ đều đeo không?”

Bran nghĩ một hồi và cố hồi tưởng lại. “Mọi học sĩ đều rèn chiếc vòng đó tại Citadel ở Oldtown. Đó là một sợi xích đeo cổ bởi người đeo nó thề sẽ làm một bề tôi, và nó được làm ra từ các kim loại khác nhau vì họ phục vụ một vương quốc và vương quốc đó có nhiều loại người khác nhau. Mỗi lần học được điều gì mới, sợi dây sẽ có thêm một mắt xích. Sắt đen tượng trưng cho sự thèm khát, bạc nghĩa là hàn gắn, vàng dành cho tính toán và các con số. Con không nhớ hết được.”

Luwin đưa một ngón tay lên luồn vào bên dưới chiếc vòng cổ và bắt đầu quay nó, từng chút một. Đối với một người nhỏ nhắn thì ông có cái cổ dày, và sợi xích vừa chặt, nhưng chỉ cần kéo vài lần là sợi xích đã quay một vòng quanh cổ. “Đây là thép vùng Valyria,” ông chỉ mắt xích kim loại màu xám thẫm nằm trên yết hầu. “Cứ một trăm học sĩ thì chỉ có một người đeo mắt xích này. Nó chứng minh rằng ta đã học được cái mà Citadel gọi là những điều huyền bí cấp cao – hay còn gọi là phép thuật. Những kiến thức vô cùng hấp dẫn, nhưng ít khi được sử dụng trong thực tế, đó là lý do vì sao rất ít học sĩ quan tâm đến nó.

Tất cả những người học những điều huyền bí cấp cao sớm muộn gì cũng thử bùa chú. Thú thực ta cũng từng thả mình theo những cám dỗ đó. Hừm, ấy là khi ta còn là một cậu bé, và có cậu bé nào lại không muốn bí mật khám phá sức mạnh tiềm ẩn trong chính mình? Nhưng rồi ta cũng chẳng thu lại được gì, giống như hàng ngàn cậu bé trước và sau ta. Thật buồn khi phải nói điều này, nhưng ma thuật không phát huy tác dụng.”

“Đôi khi có đấy,” Bran phản đối. “Con đã có giấc mơ đó, Rickon cũng vậy. Và còn có các pháp sư và thầy phù thủy ở phương đông…”

“Họ là những người tự xưng là pháp sư và phù thủy,” Maester Luwin nói. “Ta có một người bạn ở Citadel có thể rút từ tai con ra một bông hồng, nhưng pháp thuật của ông ta cũng chẳng hơn gì ta cả. Chắc chắn có nhiều điều chúng ta không hiểu được. Hàng trăm hàng nghìn năm trôi qua, nhưng có ai thấy được nhiều hơn vài mùa hè và mùa đông? Chúng ta nhìn những ngọn núi và nói rằng chúng trường tồn, vì trông chúng có vẻ như vậy… Nhưng theo thời gian, núi đỏi sông rời, sao rơi từ trên trời xuống đất, và thành quách chìm sâu dưới đáy biển. Thậm chí thần thánh cũng chết đi. Không có gì là bất biến.

Có lẽ phép thuật từng là một thế lực lớn mạnh trên thế gian nhưng không còn như thế nữa. Những gì còn sót lại chỉ như một vạt khói đọng trong không khí sau khi ngọn lửa đã tàn, và nó cũng nhạt phai dần. Valyria là hòn than hồng cuối cùng trong đám lửa sắp tắt, nhưng Valyria giờ đã không còn nữa. Những con rồng không còn, người khổng lồ cũng đã chết, những đứa con của rừng rậm cùng tri thức của chúng đều đã bị lãng quên.

Không đâu, hoàng tử ạ. Jojen Reed có thể có những giấc mơ cậu ta tin là thành sự thật, nhưng cậu ta không có khả năng tiên tri. Không có người sống nào có sức mạnh đó.”

Bran nói như vậy với Meera Reed khi cô đến gặp cậu lúc chiều tà, lúc đó cậu đang ngồi bên cửa sổ quan sát các ánh đèn được thắp lên. “Ta xin lỗi vì những gì đã xảy ra với lũ sói. Mùa Hè không cố tình hại Jojen, nhưng đáng lẽ Jojen không nên nói tất cả những điều đó về giấc mơ của ta. Con quạ nói dối khi bảo rằng ta bay được, và em trai cô cũng nói dối.”

“Hoặc có thể vị học sĩ của ngài sai.”

“Không đâu. Thậm chí cả cha ta cũng dựa vào lời cố vấn của ông ấy.”

“Tôi không nghi ngờ việc cha ngài lắng nghe ông ấy. Nhưng cuối cùng thì cha ngài vẫn tự quyết định đấy thôi. Bran, ngài hãy để tôi kể những gì Jojen mơ về ngài cùng các anh em nuôi của ngài được chứ?”

“Nhà Walder không phải là anh em của ta.”

Cô phớt lờ câu nói đó. “Ngài đang ngồi dùng bữa tối, nhưng người đem đồ ăn lên cho ngài không phải một người hầu mà là Maester Luwin. Ông ấy đưa cho ngài miếng thịt quay dành cho vua, miếng thịt còn tái và đỏ máu, nhưng mùi thơm của nó khiến mọi người chảy nước miếng. Trong khi đó miếng thịt ông ấy đưa cho anh em nhà Frey là thịt chết, cũ kỹ và xám xịt. Vậy mà họ vẫn thích chúng hơn là ngài thích bữa tối của mình.”

“Ta không hiểu.”

“Ngài sẽ hiểu, em trai tôi nói vậy. Khi ngài hiểu ra, chúng ta sẽ lại nói chuyện.”

Bran gần như sợ hãi khi phải dùng bữa tối ngày hôm đó, nhưng cuối cùng họ chỉ đặt trước mặt cậu món bánh thịt bồ câu. Mọi người khác đều có phần như vậy, và cậu không thấy có gì khác biệt ở phần thức ăn của anh em nhà Walder. Maester Luwin nói đúng, cậu thầm nhủ. Không có chuyện gì xấu xảy đến với Winterfell, dù Jojen có nói gì đi nữa. Bran thấy nhẹ nhõm… nhưng cũng thất vọng. Nếu phép thuật còn tồn tại thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Những con ma đi lại, cây cối biết nói chuyện, và các cậu bé tật nguyền sẽ lớn lên thành những hiệp sĩ. “Nhưng phép thuật không tồn tại,” cậu nói thành tiếng trong đêm tối khi đã nằm trên giường. “Không có phép thuật, và những câu chuyện chỉ mãi là những câu chuyện mà thôi.”

Và cậu sẽ không bao giờ được đi lại, được bay, hay được trở thành hiệp sĩ.

About The Author

Ngo David

Power is Power