The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn
Tác giả: Andrzej Sapkowski
Dịch giả: Tổng hợp
Số chương: 11
Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới
“Ta có thể cho ngươi mọi thứ ngươi muốn”, bà tiên nói. “Của cải, vương miện và quyền trượng, danh tiếng, một cuộc đời hạnh phúc dài lâu. Chọn đi.”
“Tôi không muốn của cải hay danh tiếng, vương miện hay quyền trượng,” nữ witcher trả lời. “Tôi ước một con ngựa đen và nhanh như ngọn gió đêm. Tôi ước một thanh kiếm sắc và sáng như ánh trăng rằm. Tôi muốn bước qua thế giới trên con ngựa đen trong đêm thâu, tôi muốn đánh bại sức mạnh của Cái Ác bằng thanh kiếm sáng. Đó là tất cả những gì tôi khao khát.”
“Ta sẽ cho ngươi một con ngựa đen hơn màn đêm và nhanh hơn ngọn gió,” bà tiên hứa. “Ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, sắc và sáng hơn ánh trăng rằm. Nhưng ngươi đòi hỏi ở ta rất nhiều, nữ witcher, và cái giá phải trả sẽ là rất lớn.”
“Bằng cái gì? Bởi tôi không có gì cả.” “Bằng máu của ngươi.”
– Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.
Một cơn gió mạnh thổi vào từ biển, làm căng cánh buồm và phả một cơn mưa phùn vào mặt những người trên tàu đau điếng. Nước từ Kênh Chính bám đầy dầu, bị cơn gió thổi bay và trút xuống thành từng giọt như mưa.
“Xin ngài hãy đi lối này. Con thuyền đang đợi.”
Dijkstra thở dài, ông ta ghét phải đi bằng đường biển, ông ta hài lòng với vài giây phút hiếm hoi được cảm nhận mặt đất vững chãi dưới chân và cái ý nghĩ phải quay lại boong tàu chòng chành khiến ông ta muốn bệnh. Nhưng ông ta còn làm gì được nữa. Lan Exeter, thủ phủ mùa đông của Kovir, khác biệt rất nhiều so với những thành phố khác trên thế giới. Tại bến cảng của Lan Exeter, những người lữ hành đã vượt biển tới đây đặt chân xuống nền đá của cầu tàu chỉ để lại ngay lập tức bước lên một con thuyền khác, một con thuyền nhỏ hơn với mũi cao và đuôi thấp, được đẩy bởi một tổ hợp mái chèo. Lan Exeter được dựng lên từ nước, tại cửa sông Targo rộng lớn. Thay vì phố xá, thành phố có kênh rạch, và mọi giao thông qua lại đều được thực hiện bằng thuyền.
Ông ta bước lên thuyền và được chào đón bởi đại sứ Redania, người đang đứng đợi. Con thuyền trôi khỏi bờ, các mái chèo đồng thời quạt xuống nước, con thuyền di chuyển và tăng tốc. Ngài đại sứ Redania im lặng.
Một sứ thần, Dijkstra nghĩ thầm. Đã bao nhiêu năm rồi kể từ lần cuối Redania cử một sứ thần tới Kovir? Hơn 120 năm. Và hơn 120 năm kể từ lần cuối Kovir và Poviss cùng chia sẻ chung một biên giới với Redania. Mọi chuyện không phải lúc nào cũng như vậy.
Từ thưở sơ khai Redania đã đối xử với các vương quốc nằm về phía bắc Vịnh Praxeda như là chư hầu của mình. Poviss và Kovir, như trong triều đình Tretogor hay nói, đã từng là viên ngọc quý của vương miện. Chúng được cai trị bởi các bá tước tự xưng là Troydenian, những người sinh ra hoặc nhận là mình được sinh ra từ cùng một tổ tiên, Troyden. Hoàng tử Troyden là em trai của vua Redania, Radovid đệ Nhất, sau này được gọi là Radovid Vĩ Đại. Ngay từ lúc còn trẻ, Troyden đã bị coi là lươn lẹo và xảo quyệt. Người ta khiếp sợ khi nghĩ đến ông ta sẽ trở nên như thế nào một khi đã trưởng thành. Vua Radovid cũng không phải không để ý đến vấn đề này và ghét em trai mình như dịch bệnh. Thế là ngài phong cho ông ta làm bá tước Kovir để đuổi ông ta đi, xa nhất có thể. Và không còn nơi nào xa hơn ngoài Kovir.
Bá tước Troyden của Kovir chính thức là một chư hầu của Redania, nhưng không hẳn là một chư hầu bình thường với trọng trách đầy đủ. Thậm chí ông ta còn chẳng cần phải làm lễ tuyên thệ trung thành, chỉ cần hứa là không làm gì có hại. Có người nói Radovid thương hại ông ta, biết rằng “Viên ngọc của vương miện” không có khả năng dâng cống phẩm hay làm tròn bổn phận nào cả. Trong khi đó nhiều người khác lại nói Radovid đơn giản không muốn nhìn thấy mặt vị bá tước trẻ, và phát bệnh mỗi khi nghĩ đến cảnh tượng em trai mình xuất hiện ở Tretogor cùng tiền bạc hay hỗ trợ quân sự. Sự thật là gì, không ai biết, nhưng dù sao đi nữa, mọi thứ vẫn giữ nguyên. Nhiều năm trôi qua sau cái chết của Radovid đệ Nhất, Redania vẫn thực hiện đúng luật lệ được ban ra dưới thời của vị vua vĩ đại. Đầu tiên, vương quốc Kovir là một nước chư hầu, nhưng không cần nộp cống phẩm hay phụng sự. Thứ hai, việc truyền ngôi là hoàn toàn thuộc quyền của gia tộc Troyden. Thứ ba, Tretogor sẽ không can thiệp vào nội vụ của gia tộc Troyden.
Thứ tư, thành viên của gia tộc Troyden không được mời đến Tretogor để dự các ngày lễ quốc gia. Thứ năm, hay bất kỳ sự kiện gì đi chăng nữa.
Nói ngắn gọn, rất ít người biết được sự thật về những gì đã xảy ra trên phía Bắc, chứ chưa nói đến là quan tâm về nó. Tin tức được gửi tới Redania, chủ yếu thông qua Kaedwen, về bá tước Kovir xung đột với các tiểu lãnh chúa phương Bắc khác. Liên minh và chiến tranh với Hengfors, Malleore, Creyden, Talgar và nhiều quốc gia với tên khó mà nhớ nổi. Người này chinh phạt và sát nhập người kia, ai đó kết giao với ai đó, kẻ này đánh bại kẻ khác và yêu cầu cống nạp. Nói tóm lại, chẳng ai biết là ai, vì sao hay thế nào.
Tuy nhiên, tin tức về chiến tranh và xung đột trên phía Bắc đã thu hút lũ tội phạm, những kẻ phiêu lưu và đủ các thành phần nhiệt huyết khác đi tìm kiếm của cải và cơ hội làm giàu. Những kẻ này đến từ khắp nơi trên thế giới, kể cả tít xa như Cintra hay Rivia. Nhưng chủ yếu là từ Redania và Kaedwen. Thậm chí có cả lính đào ngũ từ các trung đội kỵ binh Kaedwen bỏ chạy sang Kovir. Tin đồn nói rằng thủ lĩnh của nhóm này là Aideen lừng danh, cô con gái nổi loạn và ngoài giá thú của vua Kaedwen. Tại Redania còn truyền đi tin tức rằng triều đình Ard Carraigh đang chơi đùa với ý tưởng đánh chiếm các tiểu vương quốc phía Bắc và giật đi viên ngọc quý trên vương miện của Redania. Có người thậm chí còn bắt đầu kêu gào một cuộc can thiệp vũ trang.
Tuy nhiên, Tretogor tuyên bố rằng mình không có hứng thú với phương Bắc. Được công nhận bởi bồi thẩm đoàn hoàng gia, luật pháp nêu rằng hoàn cảnh giữa hai bên là như nhau, vương quốc Kovir không có nghĩa vụ đối với ngai vàng nên ngai vàng cũng chẳng việc gì phải cung cấp trợ giúp cho Kovir cả. Đặc biệt là khi Kovir không bao giờ yêu cầu trợ giúp.
Trong khi đó ở Kovir và Poviss, chiến tranh đã khiến phương Bắc ngày càng mạnh mẽ. Mặc dù chỉ rất ít người biết. Dấu hiệu rõ nhất cho quyền lực đang lên của phương Bắc chính là tần suất các hoạt động xuất khẩu tăng đột biến. Trong hàng thập kỷ, người ta đã nói của cải duy nhất của Kovir là cát và nước biển. Trò đùa đã không còn là trò đùa nữa khi mà với các nhà máy muối được thành lập, Kovir gần như độc chiếm hoàn toàn thị trường thủy tinh và muối của thế giới.
Nhưng kể cả khi hàng trăm người đang uống nước từ bình thủy tinh đóng mác Kovir và rắc muối Poviss vào súp của mình, trong tâm trí họ, chúng vẫn là những vương quốc quá xa vời, không thể tiếp cận, khắc nghiệt và thù địch.
Ở Redania và Kaedwen, thay vì nói “cút xuống địa ngục đi”, người ta nói “cút lên Kovir đi”. “Nếu anh không ưa tôi”, người khách lữ hành trả lời, “thì có một con đường thẳng tắp tới Kovir đó”. “Đừng có cư xử kiểu Kovir ở đây!” vị giáo sư quở trách các sinh viên bất trị. “Lên Poviss đi”, anh con trai của ông nông dân hét lên bức bối với phương pháp cày bừa và làm ruộng cổ lỗ sĩ của ông nội mình.
Bất kỳ ai không thích trật tự cũ, đều được bảo rằng có một con đường thẳng tắp tới Kovir.
Những người phải nghe thông điệp này dần dà suy ngẫm và sớm nhận thấy rằng đúng thật là con đường dẫn tới Kovir và Poviss chẳng gặp chướng ngại vật nào cả. Một làn sóng di cư thứ hai hướng lên phương Bắc. Và như lần đầu, nó được tạo nên bởi những con người kỳ lạ bất mãn với cái cũ và mong mỏi những cái mới. Tuy nhiên, lần này họ không chỉ là những kẻ phiêu lưu không quê hương hay gia đình.
Lên phía Bắc là các nhà khoa học dám đứng sau luận điểm của mình, kể cả khi họ bị gọi là phi thực tế và điên khùng. Lên phía Bắc là các kỹ sư và nhà sáng chế, những người tin rằng bất chấp quan điểm số đông, họ có thể tạo nên những loại máy móc và công cụ mang tính cách mạng. Lên phía Bắc là các pháp sư, những người không coi việc dùng ma thuật để đào giếng lấy nước là tội ác báng bổ. Lên phía Bắc là các thương nhân đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp và cứng nhắc về rủi ro để vươn tới lợi nhuận. Lên phía Bắc là các nông dân và chủ trang trại tin tưởng rằng kể cả vùng đất khô cằn nhất cũng có thể đâm hoa kết trái và luôn có thể chăn nuôi một loại gia súc sinh trưởng mạnh mẽ đối với một vùng khí hậu nhất định.
Lên phía Bắc cũng là các công nhân mỏ và địa chất học, bởi sự khắc nghiệt của vùng đồi núi hoang vu Kovir là dấu hiệu chắc chắn cho thấy nếu bề mặt nghèo nàn đến vậy thì bên dưới ắt phải ẩn giấu của cải vô giá. Bởi Thiên Nhiên rất yêu chuộng cân bằng.
Bên dưới bề mặt quả đúng có của cải.
Một phần tư thế kỷ trôi qua, và Kovir đã thu lợi từ nguồn tài nguyên khoáng sản của nó nhiều không kém Redania, Aedirn và Kaedwen cộng lại. Khả năng khai thác và xử lý quặng sắt chỉ có thể bị vượt qua bởi Mahakam. Tuy nhiên, kể cả Mahakam cũng phải nhập kim loại quý từ Kovir để chế tạo hợp kim. Kovir và Poviss chiếm một phần tư trong tổng lượng khai thác quặng kẽm, chì, thiếc, niken và bạc của thế giới, nửa tổng lượng khai thác đồng và ba phần tư tổng lượng khai thác quặng mangan, nhôm, titan và vôn–phram, cùng với các kim loại chỉ xuất hiện dưới dạng nguyên chất như bạch kim, ferroaurum và dimeritium.
Và hơn 80 phần trăm lượng vàng của thế giới.
Với số vàng, Kovir và Poviss mua tất cả những gì không thể mọc hay sinh sản ở phương Bắc. Và tất cả những gì Kovir và Poviss không sản xuất được. Không phải vì họ không thể hay không biết cách làm. Mà bởi vì nó không có lợi nhuận. Các thợ thủ công của Kovir và Poviss, những người con và cháu đã tới đây với hành lý trên lưng, giờ kiếm được gấp bốn lần những người đồng nghiệp của mình ở Redania hay Temeria.
Kovir trao đổi và muốn trao đổi với cả thế giới trên quy mô rộng. Nhưng vấp phải trở ngại.
Radovid đệ Tam lên ngôi vua Redania. Người thừa hưởng từ ông nội mình cái tên cùng sự xảo quyệt và tham lam. Đức vua, được mệnh danh là Gan Dạ bởi lũ xun xoe và nịnh hót, và Đỏ bởi tất cả những người còn lại, đã nhận ra điều mà trước đây chưa ai từng nhận ra. Tại sao thương mại của Kovir lại phát triển rầm rộ như vậy trong khi Redania không nhận được xu nào? Chẳng phải Kovir chỉ là một tiểu vương quốc, một nước chư hầu, một viên ngọc trên vương miện của Redania hay sao. Đã tới lúc chư hầu Kovir bắt đầu phụng sự chủ nhân của mình rồi!
Một cơ hội sớm đến, Redania vướng vào xung đột biên giới với Aedirn, tranh chấp chủ quyền Thung lũng Pontar như mọi khi. Radovid đệ Tam quyết định can thiệp bằng vũ lực và bắt đầu công cuộc chuẩn bị. Ông ta tung ra một loại thuế chiến tranh mới gọi là “thuế Pontar”. Mọi thần dân và chư hầu đều phải trả thuế này. Tất cả. Bao gồm cả Kovir. Vị vua tóc đỏ xoa tay vào nhau. Mười phần trăm tổng thu nhập của Kovir, quả là một ý kiến không tồi!
Tới Pont Vanis, vẫn bị coi là một ngôi làng bé xíu với hàng rào gỗ bao quanh, là các sứ thần của Redania. Khi trở về với đức vua, họ mang theo tin sốc.
Pont Vanis không còn là một ngôi làng nữa. Nó là một thành phố khổng lồ, thủ phủ mùa hè của vương quốc Kovir, mà người trị vì, đức vua Gedovius, đã gửi tới vua của Redania thông điệp sau đây:
Vương quốc Kovir không là chư hầu của ai cả. Tuyên bố của Tretogor là vô căn cứ và được xây dựng trên cơ sở một điều luật đã chết từ lâu, mà chưa hề bao giờ có hiệu lực. Các vua của Tretogor chưa bao giờ là chủ nhân của Kovir bởi các lãnh chúa của Kovir, mà có thể kiểm tra dễ dàng qua các văn bản, chưa bao giờ nộp cống phẩm cho Tretogor hay thực hiện nghĩa vụ quân sự, hay quan trọng hơn, được mời đến dự bất kỳ ngày lễ quốc gia nào. Hay bất kỳ sự kiện nào đi chăng nữa.
Vua Gedovius của Kovir chuyển tới các sứ thần lời xin lỗi của mình, và lấy làm tiếc phải nói rằng không thể coi vua Radovid là chủ nhân của ngài, chứ chưa nói đến trả thuế. Điều tương tự cũng áp dụng với tất cả thần dân của Kovir, vì họ nợ lòng trung thành của mình với các lãnh chúa của Kovir.
Nói ngắn gọn, Tretogor hãy tự đi bảo vệ cái mũi của mình và đừng xía nó vào chuyện của Kovir, một vương quốc độc lập.
Tóc đỏ bùng lên tức giận. Một vương quốc độc lập? Ngoại bang? Được thôi, vậy thì ta sẽ đối xử với Kovir như một quốc gia thù địch.
Redania, Kaedwen và Temeria trả đũa Kovir quyết liệt. Một người thương nhân Kovir đi xuống phía nam phải bày hàng của mình, dù thích hay không, ở một thành phố của Redania và bán hết. Hoặc quay về nhà. Điều tương tự cũng áp dụng với các thương nhân từ phía nam đi lên Kovir.
Hàng hóa của Kovir được chuyên chở qua đường biển đều bị Redania đánh thuế hải quan nặng nề, kể cả khi không cập bến tại bất kỳ cảng nào của Redania hay Kaedwen. Tàu của Kovir dĩ nhiên là không trả và chỉ trả khi không chạy thoát được. Trò chơi mèo vờn chuột bắt đầu trên biển này sớm kết thúc bằng một tai nạn. Một tàu tuần tra Redania cố bắt một tàu buôn Kovir, nhưng rồi xuất hiện hai chiến hạm của Kovir và tàu tuần tra bị phóng hỏa. Toàn bộ thủy thủ thiệt mạng.
Đó là giọt nước làm tràn ly. Vua Radovid Đỏ quyết định dạy cho tên chư hầu láo lếu của mình một bài học. Một đội quân Redania bao gồm 4 ngàn người đã vượt sông Braa, trong khi lực lượng viễn chinh của Kaedwen di chuyển về Caingorn.
Sau một tuần, hai ngàn quân Redania sống sót vượt sông Braa theo hướng ngược lại và tàn dư thê thảm của quân đội Kaedwen rút lui về nhà qua những khe núi của Dãy Chim Ưng.
Đội quân vẫn đứng vững của Kovir được tạo nên từ 25 ngàn sát thủ chuyên nghiệp, thiện nghệ trong chiến tranh, các lính đánh thuê được tuyển mộ từ góc xa nhất của thế giới, trung thành vô điều kiện với ngai vàng của Kovir bởi sự hào phóng chưa từng có của đức vua và lương bổng được đảm bảo bằng hợp đồng đàng hoàng. Họ sẵn sàng đối mặt mọi hiểm nguy vì phần thưởng không hề nhỏ cho mỗi trận đánh thắng lợi. Những người lính giàu có này được dẫn vào chiến trận bởi các chỉ huy đầy kinh nghiệm, tài năng, và giờ cũng rất giàu. Những người mà Benda của Kaedwen hay Radovid đệ Tam đều biết rất rõ. Họ là các sĩ quan mà cho đến gần đây vẫn còn phục vụ trong quân đội của các vị vua, nhưng đã đột ngột xin về hưu và ra nước ngoài.
Đỏ không phải một kẻ ngốc, ông ta biết học từ sai lầm của mình. Ông ta làm dịu các tướng lĩnh đang kêu gào viễn chinh, ông ta không nghe lời các thương nhân, những người đòi hỏi cấm vận kinh tế để an ủi Benda của Kaedwen, lúc này đang điên cuồng muốn trả đũa cho thất bại của đội quân tinh nhuệ của mình. Thay vào đó, ông ta chủ động đàm phán hòa bình. Kể cả sự nhục nhã cũng không ngăn cản được vị vua Redania, đó là một viên kẹo đắng mà ông ta phải nuốt – Kovir đã đồng ý thương lượng nhưng phải trên lãnh thổ của nó, Lan Exeter. Ngọn núi đã phải cúi chào người mục tử.
Họ đã tới Lan Exeter như kẻ bầy tôi, Dijkstra nghĩ, quấn tấm áo choàng quanh người.
Khiêm nhường như kẻ ăn mày. Cũng như ta ngày hôm nay.
Hạm đội Redania tiến vào Vịnh Praxeda và giương buồm lên bờ biển của Kovir. Trên con tàu dẫn đầu Alata, Radovid Đỏ, Benda của Kaedwen và giám mục của Novigrad, được cử đi trong vai trò người hòa giải, đã đứng nhìn ngỡ ngàng những cơn sóng chồm lên từ biển và quất vào bức tường cùng những tháp canh và pháo đài đứng hiên ngang bảo vệ lối vào thành phố Pont Vanis. Và hướng lên phía bắc, tới cửa sông Targo, các vị vua trông thấy bến cảng nối tiếp bến cảng, xưởng tàu nối tiếp xưởng tàu. Họ trông thấy một rừng cột buồm và một biển buồm trắng đến lóa mắt. Kovir hóa ra đã chuẩn bị sẵn sàng cho lệnh cấm vận, trả đũa hay chiến tranh. Kovir đã sẵn sàng để làm chủ biển cả.
Con tàu Alata tiến vào cửa sông rộng lớn của Targo và thả neo ở bến cảng bên ngoài. Nhưng các vị vua đã không trông đợi một chuyến đi bằng thuyền nữa. Thành phố Lan Exeter không có đường, mà là kênh rạch. Chạy giữa chúng là Kênh Chính, con đường huyết mạch và trung tâm của thủ đô, dẫn trực tiếp từ bến cảng tới cung điện của người trị vì. Các vị vua được chở bằng một chiến hạm trang trí vòng hoa với cờ đỏ vàng, mà trước sự ngạc nhiên của Đỏ và Benda, mang hình đại bàng của Redania và kỳ lân của Kaedwen.
Trên suốt quãng đường dọc Kênh Chính, các vị vua và tùy tùng nhìn xung quanh và giữ im lặng. Thực ra nói họ không thốt lên lời thì hay hơn. Họ đã lầm khi tưởng rằng mình biết giàu sang và phú quý là như nào, họ đã sửng sốt trước sự xa xỉ và giàu có của Lan Exeter.
Chạy dọc Kênh Chính, họ nhìn qua tòa nhà đồ sộ của Tổng bộ Hải quân và trụ sở của Hội thương nhân. Họ căng buồm qua những khu vui chơi, tràn ngập đám đông đầy sắc màu và ăn diện. Họ đi thuyền qua giữa một hàng cung điện quý tộc và dinh thự của thương nhân, phản chiếu trên mặt nước của con kênh một dải cầu vồng những mặt tiền được trang trí đẹp đẽ nhưng hẹp đến phi thường. Ở Lan Exeter, họ phải trả thuế cho mặt tiền của ngôi nhà, mặt tiền càng to thì thuế càng nhiều.
Tòa nhà duy nhất với mặt tiền vĩ đại là ngôi nhà mùa đông của vua Kovir, Cung điện Ensenada. Trên những bậc thang dẫn từ cung điện tới bờ con kênh là đoàn tiếp đón đang đợi cùng cặp đôi hoàng tộc, người trị vì của Kovir, Gedovius, và vợ của ngài, Gemma. Họ chào đón các vị khách đầy lịch thiệp, tôn trọng…và khác thường. “Bác họ thân mến,” Gedovius nói với Radovid, “Ông ngoại thân mến,” Gemma cười với Benda. Gedovius đương nhiên là một Troydenian, trong khi Gemma hóa ra lại tới từ dòng tộc của Aideen nổi loạn, người đã bỏ chạy khỏi Kaedwen và mang trong mình dòng máu vua của Ard Carraigh.
Mối quan hệ cải thiện được tâm trạng và khơi lên sự cảm thông, nhưng không giúp được gì cho việc đàm phán. Bởi những gì xảy ra tiếp theo chẳng phải đàm phán tí nào. “Lũ trẻ” nói điều họ muốn nói trong vài lời, “Cha chú” ngồi lắng nghe. Và họ ký một văn bản mà sau này được gọi là Hiệp ước Exeter Đầu tiên. Để phân biệt với những cái được ký về sau, Hiệp ước Đầu tiên cũng mang cái tên bắt nguồn từ lời tựa của nó – Mare Liberum Apertum.
Biển cả là tự do và rộng mở. Trao đổi là tự do. Lợi nhuận là kín đáo. Hãy yêu nghề của mình, lợi nhuận của mình và hàng xóm của mình. Cản trở nghề và lợi nhuận của người khác là vi phạm quy luật tự nhiên. Và Kovir không là chư hầu của ai cả. Nó là một vương quốc độc lập, tự chủ và trung lập.
Dường như Gedovius và Gemma sẽ không nhượng bộ dù chỉ một ít, kể cả vì phép lịch sự, để cứu vớt danh dự của Radovid và Benda. Thế nhưng họ vẫn làm. Họ đã đồng ý rằng Radovid Đỏ, cho đến khi qua đời, trên văn bản chính thức sẽ được giữ tước hiệu vua của Kovir và Poviss, trong khi Benda, cho đến khi qua đời, sẽ được giữ tước hiệu lãnh chúa của Caingorn và Malleore.
Dĩ nhiên, là với lời cảnh báo chớ can thiệp lần nữa.
Gedovius và Gemma trị vì trong 25 năm. Gia tộc Troyden chấm dứt với con trai của ngài, Gerard. Rồi Esteril Thyssen, trưởng gia tộc Thyssen, đã lên ngôi vua của Kovir.
Sau một khoảng thời gian ngắn, các vua của Kovir đã có mối liên hệ máu mủ với tất cả các vương triều trên thế giới và nghiêm chỉnh tôn trọng Hiệp ước Exter. Họ không bao giờ can thiệp vào nội vụ của hàng xóm. Không bao giờ có ý muốn chiếm ngai vàng của nước khác, dù cho không chỉ một lần các vua hay hoàng tử Kovir đã có đủ lý do để được coi là thừa kế hợp pháp ngai vàng của Redania, hay Aedirn, hay Kaedwen, Cidaris, hay Verden hoặc thậm chí là Rivia. Kovir hùng mạnh không bao giờ cố mở rộng lãnh thổ, không bao giờ cử tàu chiến trang bị nỏ đến bờ biển nước ngoài, không bao giờ đoạt lấy danh hiệu “Người thống trị biển cả”. Kovir hài lòng với Mare Liberum Apertum, biển cả là tự do và rộng mở để buôn bán. Kovir gần như đã tạo nên một tôn giáo về giao thương và lợi nhuận.
Và một sự trung lập hoàn toàn không suy chuyển.
Dijkstra chỉnh lại cổ áo lông hải ly để bảo vệ cổ khỏi ngọn gió và cơn mưa. Ông ta nhìn quanh, bị lôi ra khỏi cơn mơ màng. Nước của Kênh Chính đen ngòm. Trong làn sương và cơn mưa phùn, ngay cả tòa nhà của Tổng bộ Hải quân, niềm tự hào của Lan Exeter, cũng trông như một trại lính. Kể cả những ngôi nhà của thương nhân cũng mất đi vẻ hào nhoáng mọi khi, và mặt tiền trông hẹp hơn bình thường. Hoặc có lẽ là chúng hẹp đi thật, Dijkstra nghĩ. Nếu vua Esterad đã nâng mức thuế, đám chủ nhà tham lam chắc cũng phải làm hẹp mặt tiền.
“Các ngài đã phải hứng chịu thời tiết xấu như này bao lâu rồi?” ông ta hỏi chỉ để phá vỡ sự im lặng phiền toái.
“Kể từ giữa tháng Chín, bá tước,” ngài đại sứ trả lời. “Kể từ lúc trăng tròn. Năm nay mùa đông sẽ đến sớm. Talgar đã có đợt tuyết rơi đầu tiên rồi.”
“Tôi tưởng ở Talgar tuyết không bao giờ tan.” Dijkstra nói.
Ngài đại sứ liếc nhìn ông ta, để chắc rằng nó là một trò đùa chứ không phải dốt nát.
“Ở Talgar,” ông ta cũng đùa, “mùa đông bắt đầu vào tháng Chín và kết thúc vào tháng Năm. Những mùa khác là xuân và thu. Cũng có cả mùa hè…nó thường rơi vào ngày thứ ba đầu tiên của tháng Tám. Và kéo dài đến tận sáng thứ tư…”
Dijkstra không cười.
“Nhưng kể cả ở đó,” gương mặt ngài đại sứ trở nên u ám, “tuyết vào cuối tháng Mười cũng là khá kỳ lạ.”
Ngài đại sứ, như phần lớn giới quý tộc của Redania, không chịu nổi Dijkstra. Sự thật rằng ông ta phải làm cấp dưới cho Dijkstra là một điều sỉ nhục, và sự thật rằng Hội đồng Nhiếp chính đã bổ nhiệm Dijkstra dẫn đầu phái đoàn ngoại giao với Kovir là một sự xúc phạm ghê gớm. Nhưng điều khiến de Ruyter, thuộc nhánh nổi tiếng nhất trong gia tộc de Ruyter, đã chín đời làm nam tước, tức giận hơn cả đó là phải gọi kẻ hư hỏng và mới nổi này là “bá tước”. Nhưng là một nhà ngoại giao đầy kinh nghiệm, ông ta che giấu sự thù ghét của mình một cách tuyệt vời.
Những mái chèo lên và xuống theo nhịp, con thuyền lướt nhanh qua con kênh. Họ vừa mới đi qua Cung điện Văn hóa và Nghệ thuật, một tòa nhà nhỏ nhưng vô cùng thẩm mỹ.
“Chúng ta đang tới Ensenada phải không?”
“Phải, bá tước,” ngài đại sứ xác nhận. “Bộ trưởng Ngoại giao đã nhấn mạnh rằng ông ấy muốn gặp ngài ngay khi ngài tới nơi, vậy nên tôi sẽ đưa ngài tới thẳng Ensenada. Vào buổi chiều tôi sẽ cử thuyền tới đón ngài vào cung điện, vì tôi muốn mời ngài dùng bữa tối…”
“Ngài sẽ phải thứ lỗi cho tôi rồi,” Dijkstra nhanh chóng cắt lời ông ta, “vì bổn phận không cho phép tôi chấp nhận. Tôi có nhiều vấn đề cần giải quyết và phải giải quyết sớm, chúng ta sẽ phải hy sinh chút thời gian thư giãn vậy. Bữa tối sẽ ăn vào dịp khác. Vào một dịp vui vẻ và yên tĩnh hơn.”
Ngài đại sứ cúi chào và kín đáo thở phào nhẹ nhõm.
***
Dijkstra tiến vào Ensenada, dĩ nhiên là bằng cửa hậu. Và thực sự cảm thấy hài lòng. Cửa chính của ngôi nhà mùa đông nằm bên dưới mái hiên tam giác được chống trên những cây cột khẳng khiu, và dẫn thẳng ra Kênh Chính qua một cầu thang bằng cẩm thạch trắng, mà trông rất ấn tượng, nhưng dài khủng khiếp. Những bậc thang dẫn lên một trong số nhiều cửa hậu kém ấn tượng hơn nhiều nhưng bước đi dễ hơn muôn phần. Bất chấp điều này, Dijkstra vẫn cắn môi và khẽ nguyền rủa trên suốt quãng đường để lính canh và quản gia tháp tùng mình không nghe thấy được.
Bên trong cung điện ông ta trông đợi sẽ gặp nhiều cầu thang và leo trèo hơn nữa. Dijkstra lại chửi thề khe khẽ. Độ ẩm, cái lạnh và chỗ ngồi không thoải mái trên con thuyền khiến chân ông ta, mà đã bị đánh gãy và chữa lành bởi phép thuật, bắt đầu đau âm ỉ. Dijkstra nghiến răng. Ông ta biết rằng witcher cũng đã bị gãy xương. Ông ta hy vọng rằng witcher cũng cảm thấy đau và ước với toàn bộ tâm can rằng nó đau lâu và nhiều nhất có thể.
Bên ngoài trời đã tối mịt, những dãy hành lang trong Ensenada cũng tối. Tuy nhiên, con đường mà họ được dẫn qua bởi người quản gia im lặng lại được chiếu sáng bởi một hàng nô bộc cầm nến. Trước cánh cửa mà người quản gia đã dẫn ông ta đến là lính canh cầm giáo đứng túc trực, căng thẳng và im lìm như thể họ còn một cây giáo dự trữ nữa cắm ở mông. Thêm nhiều người hầu cầm nến, sáng đến đau mắt. Dijkstra hơi ngạc nhiên với cách thức mà mình được chào đón.
Ông ta bước vào căn phòng và dừng lại tức thì, kinh ngạc. Ông ta cúi chào.
“Chào mừng, Dijkstra,” Esterad Thyssen, Vua của Kovir, Poviss, Narok, Velhad và Talgar cất lời. “Đừng có đứng ở cửa, lại gần hơn đi. Hãy dẹp phép tắc qua một bên, đây không phải một buổi chầu chính thức.”
“Đức vua vạn tuế.”
Vợ của Esterad, hoàng hậu Zuleyka, đáp lại lời chào đầy trịnh trọng của ông ta bằng một cái gật đầu, đôi tay đang đan lát không dừng lại một giây.
Ngoại trừ cặp đôi hoàng tộc, chẳng còn ai ở trong phòng hết.
“Đúng đó,” Esterad nhận ra ánh nhìn của ông ta. “Chúng ta sẽ nói chuyện một cách kín đáo, thứ lỗi cho ta nhé, chỉ 6 con mắt với nhau thôi. Ta coi đây là giải pháp hợp tình hợp lý nhất.”
Dijkstra ngồi lên chiếc ghế đối diện Esterad mà đã được mời cho mình. Đức vua khoác một bộ lông chồn trên vai, mặc áo choàng đỏ và một chiếc mũ nhung đồng màu. Như mọi đàn ông trong gia tộc Thyssen, ngài cao lớn, thân hình vạm vỡ và vô cùng điển trai. Trông ngài lúc nào cũng khỏe mạnh và rắn rỏi, như một thủy thủ vừa mới trở về từ một chuyến đi biển, và dường như từ ngài tỏa ra một bầu không khí lạnh của gió biển và muối mặn. Như mọi thành viên gia tộc Thyssen, rất khó để đoán chính xác tuổi của đức vua. Nhìn vào màu tóc ngài, nước da ngài và bàn tay ngài, những nơi thể hiện dấu hiệu tuổi tác rõ rệt nhất, Dijkstra có thể đoán đức vua khoảng tầm 45 tuổi. Nhưng ông ta biết rằng ngài đã bước sang tuổi 56.
“Zuleyka,” đức vua nghiêng sang phía vợ mình, “Nhìn ông ta xem. Nếu nàng không biết ông ta là một gián điệp, liệu nàng có tin nổi không?”
Hoàng hậu Zuleyka nhỏ nhắn, đầm mình và nhìn chung khá bình thường. Bà mặc quần áo đúng theo phong cách của nhiều người phụ nữ thuộc vào tuýp đó, dựa trên nguyên tắc lựa chọn những mẩu trang phục để người khác không nhầm lẫn bà với chính bà ngoại của bà. Chiếc váy của hoàng hậu rộng và xám xịt. Mái tóc bà giấu bên dưới một chiếc nón, mà có vẻ như đã được thừa hưởng từ tổ tiên. Bà không đeo trang sức hay dùng mỹ phẩm.
“Quyển sách thiêng dạy rằng,” giọng bà cất lên dịu dàng, dễ chịu, “chúng ta nên cẩn thận trong việc phán xét hàng xóm. Bởi rồi bản thân chúng ta cũng sẽ bị phán xét. Và chắc chắn không phải dựa trên ngoại hình.”
Esterad Thyssen nhìn vợ bằng ánh mắt ấm áp. Chẳng có gì bí mật là ngài yêu hoàng hậu đến vô hạn. Tình yêu, mà trong 29 năm hôn nhân chưa bao giờ phai nhạt, vẫn còn bùng cháy mạnh mẽ. Esterad, người ta nói là chưa bao giờ phản bội Zuleyka lấy một lần. Dijkstra không thể tin sự thật kỳ lạ đó, nhưng đã hơn ba lần ông ta cố cài một nữ gián điệp vào triều đình để chiếm sự sủng ái của đức vua và thu thập tin tức. Chẳng lần nào có kết quả.
“Ta không thích vòng vo,” đức vua cất lời, “vậy nên sẽ nói thẳng vì sao mình lại quyết định trò chuyện trực tiếp với ông. Có vài lý do. Đầu tiên, ta biết ông không ngại hối lộ. Thật ra thì ta tin tưởng khá nhiều vào các quan thần của mình, nhưng sao phải phơi bày họ ra trước thử thách và cám dỗ đó? Ông định hối lộ Bộ trưởng Ngoại giao của ta bao nhiêu?”
“Một ngàn crown Novigrad,” gián điệp nói không chớp mắt. “Nếu ông ta mặc cả thì tôi sẵn sàng đẩy lên tới một ngàn năm trăm.”
“Và đó là lý do vì sao ta thích ông,” Esterad lên tiếng sau một hồi im lặng. “Ông là một thằng khốn đích thực. Ta vẫn còn nhớ thời trai trẻ của mình. Ta nhìn và thấy bản thân mình ở vào tuổi ông.”
Dijkstra cám ơn bằng một cái cúi chào. Ông ta chỉ kém đức vua 8 tuổi. Ông ta chắc rằng Esterad biết rõ điều đó.
“Ông là một thằng khốn,” đức vua lặp lại, nhăn mặt. “Nhưng là một thằng khốn tử tế và trung thực. Và điều đó thật hiếm vào cái thời buổi nhiễu nhương này.”
Dijkstra lại chào lần nữa.
“Ông thấy đấy,” Esterad tiếp tục, “Ở mọi vương quốc, đều có thể tìm được những kẻ cuồng tín mù quáng đi tìm trật tự xã hội lý tưởng. Chúng tận tâm tới mức sẵn sàng làm bất cứ điều gì. Kể cả phạm phải những tội ác ghê tởm nhất, bởi vì đối với chúng kết quả biện minh cho hành động. Chúng không sát sinh, mà là bảo vệ trật tự. Chúng không tra tấn, hay tống tiền, mà là bảo vệ đất nước và công cuộc đấu tranh vì trật tự. Mạng sống của một cá nhân thậm chí còn không đáng một cái nhún vai, nếu cá nhân đó can thiệp vào tôn chỉ của chúng, quy tắc của chúng. Chúng không hề biết rằng cái xã hội mà mình phụng sự đó lại được cấu thành từ chính những cá nhân này. Chúng có một thứ gọi là “tầm nhìn rộng”…một tầm nhìn chắc chắn nhất để khỏi phải thấy người khác.”
“Nicodemus de Boot,” Dijkstra nói.
“Gần đúng, nhưng không hẳn,” vị vua Kovir nhe hàm răng trắng bóng ra. “Vysogota của Corvo. Một triết gia và đạo đức học kém nổi tiếng hơn, nhưng vẫn rất tài giỏi. Đọc tác phẩm của ông ấy đi, ta khuyên đó. Vẫn còn ít nhất một cuốn sách tại vương quốc của ông, chúng vẫn chưa hoàn toàn bị thiêu hủy. Nhưng quay lại vấn đề, quay lại vấn đề. Ông, Dijkstra, cũng vô đạo đức, mưu mô, cũng dùng đến hối lộ, tống tiền và tra tấn. Ông không chớp mắt khi phán xử ai đó tội chết hay ra lệnh ám sát bí mật. Sự thật rằng ông làm mọi thứ vì vương quốc mà ông phụng sự một cách trung thành đó cũng không miễn tội được cho ông hay chiếm được lòng cảm thông của ta. Không hề. Hãy biết điều này.”
Người gián điệp gật đầu để ám chỉ rằng mình biết.
“Nhưng ông,” Esterad tiếp tục, “như ta đã nói, là một thằng khốn. Vậy nên ta coi trọng ông, và đó là lý do vì sao ta đã cho ông một buổi chầu riêng. Bởi ông, Dijkstra, đã có vô số cơ hội để làm giàu, nhưng chưa một lần nào trong đời ông làm gì để trục lợi hay ăn cắp một đồng từ quốc khố. Thậm chí nửa xu đi chăng nữa. Zuleyka, nhìn xem! Ông ta đỏ mặt kìa, hay là ta tưởng tượng ra nhỉ?”
Hoàng hậu ngước lên khỏi công việc dang dở.
“Khi nhìn thấy màu sắc của khiêm tốn, ta sẽ biết diện mạo của trung thực,” bà trích dẫn một đoạn từ Quyển Sách Thiêng, nhưng bà có thể thấy trên gương mặt người gián điệp không có một chút đỏ nào cả.
“Chà,” Esterad nói. “Hãy chuyển sang những vấn đề nghiêm trọng hơn nào. Ông ta đã vượt biển vì tinh thần yêu nước. Redania, quê hương của ông ta đang gặp nguy hiểm. Sau cái chết bi thảm của Vua Vizimir, hỗn mang ngự trị tại đó. Redania đang được cai quản bởi một lũ quý tộc đần độn tự xưng là Hội đồng Nhiếp chính. Những kẻ này, Zuleyka của ta à, sẽ chẳng làm gì cho Redania hết. Ngay khi nguy hiểm cận kề chúng sẽ bỏ chạy hoặc phủ phục như chó và liếm gót giày nạm ngọc trai của Hoàng đế Nilfgaard. Dijkstra bị khinh ghét bởi lũ này vì ông ta là một gián điệp, sát nhân và một kẻ mới nổi, nhưng chính Dijkstra mới là người đã vượt biển để cứu Redania. Cho thấy ai mới là người thật sự quan tâm đến Redania.”
Esterad Thyssen tạm ngừng để hớp hơi và chỉnh lại chiếc mũ đang lệch xuống trán.
“Chà, Dijkstra,” đức vua lên tiếng, “cái gì đang làm phiền vương quốc của ông nào? Ngoại trừ hết tiền, ý ta là vậy?”
“Ngoại trừ hết tiền,” gương mặt gián điệp rắn như đá, “thì không gì cả, mọi người đều vẫn mạnh khỏe, cảm ơn ngài.”
“À,” đức vua gật đầu và lại chỉnh chiếc mũ. “À, ta hiểu rồi. Ta hiểu và tán dương ý tưởng của ông. Có tiền thì bệnh gì cũng khỏi. Điều quan trọng là phải có tiền. Và ông không có. Nếu có thì ông đã chẳng ở đây. Lý luận của ta có đúng không?”
“Thưa vâng.”
“Và ông cần bao nhiêu, ta hỏi vì tò mò thôi?” “Không nhiều lắm. Một triệu.”
“Không nhiều lắm?” Esterad thốt lên, và với một động tác châm chọc, nắm mũ bằng cả hai tay. “Đây là không nhiều lắm? Ôi trời ơi!”
“Đối với bệ hạ,” gián điệp ấp úng, “khoản này chỉ như tiền thừa…”
“Tiền thừa?” Đức vua thả mũ ra và vung tay lên trần. “Ôi trời ơi! Một triệu là tiền thừa, nàng có nghe thấy không, Zuleyka? Ông có biết không, Dijkstra, rằng có một triệu và không có một triệu cộng thành hai triệu? Ta hiểu là ông và Philippa Eilhart đang ráo riết xây dựng phòng thủ trước Nilfgaard, nhưng ông định làm gì đây? Mua cả Nilfgaard à?”
Dijkstra không trả lời. Zuleyka đan hăm hở. Esterad, trong khoảng thời gian này, giả vờ ngưỡng mộ bức tranh nymph khỏa thân treo trên tường.
“Đi theo ta nào,” ngài chợt đứng dậy và gật đầu với gián điệp. Họ bước tới một bức tranh vĩ đại miêu tả Vua Gedovius cưỡi trên một con ngựa xám với cây trượng chỉ cho đội quân vào một thứ không nằm trong khung tranh, có lẽ là hướng đi đúng. Esterad lôi từ trong túi ra một cây đũa mạ vàng bé xíu, gõ vào khung tranh và thì thầm một câu thần chú. Gedovius cùng con ngựa xám biến mất và thay vào đó là một tấm bản đồ thế giới. Đức vua gõ cây đũa vào mép bản đồ và nó thay đổi tỷ lệ, soi vào gần hơn Thung lũng Yaruga và bốn vương quốc.
“Xanh dương là Nilfgaard,” ngài giải thích. “Đỏ là vương quốc của ông. Ông đang nhìn cái quái gì thế? Đây cơ mà!”
Dijkstra quay đi khỏi những bức họa khác, đa phần mô tả cảnh đi biển. Ông ta tự hỏi bức nào trong số chúng là được ngụy trang. Bức nào là tấm biểu đồ lừng danh của Esterad thể hiện các thông tin thương mại và quân sự của Kovir, mạng lưới chỉ điểm và tống tiền hoàn chỉnh, chi tiết các chiến dịch phá hoại và ám sát. Ông ta biết rằng có một tấm biểu đồ như vậy và đã tìm kiếm nó từ lâu mà không có kết quả.
“Màu đỏ là vương quốc của ông,” Esterad nhắc lại. “Trông tệ quá nhỉ?”
Tệ, Dijkstra nghĩ thầm. Dạo gần đây ông ta chẳng làm gì ngoại trừ săm soi các tấm bản đồ chiến thuật, nhưng giờ khi nhìn vào bản đồ của Esterad, tình hình thậm chí trông còn thê thảm hơn. Những đốm xanh xếp thành hình một cái hàm rồng khổng lồ, sẵn sàng xơi tái và xé xác những đốm đỏ tí hon bất kỳ lúc nào.
Esterad nhìn xung quanh để tìm thứ gì đó có thể dùng làm que chỉ, và cuối cùng lôi ra một thanh kiếm trang trí.
“Nilfgaard,” ngài bắt đầu bài học, chỉ bằng cây kiếm vào nơi cần chỉ, “đã tấn công Lyria và Aedirn, tuyên bố vụ công kích vào tiền đồn Glevitzingen là một casus belli. Ta không có hứng thú tìm hiểu xem thực ra ai đã tấn công Glevitzingen trong khi cải trang thành cái gì. Ta cũng không muốn biết trong bao nhiêu ngày hay giờ lực lượng vũ trang của Emhyr đã tiến hành cuộc tấn công tương tự vào Aedirn và Temeria. Ta sẽ để việc đó lại cho các nhà chép sử. Điều ta quan tâm đến là tình hình hiện tại và cái gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Tại thời điểm này, Nilfgaard đang ở Dol Angra và Aedirn, được bảo vệ bởi một tấm khiên dưới dạng vương quốc người elves Dol Blathanna, mà lãnh thổ nằm một phần trên Aedirn và Vua Henselt của Kaedwen, để mô tả một cách sống động, đã giật khỏi mồm Emhyr và tự ngấu nghiến.”
Dijkstra không bình phẩm.
“Ta cũng sẽ để các nhà chép sử phán xét tính đạo đức trong hành động của vua Henselt,” Esterad tiếp tục. “Nhưng chỉ cần một cái nhìn qua tấm bản đồ là đủ để thấy rằng với việc sáp nhập vùng đầm lầy phía Bắc, Henselt đang chặn đường vào Thung lũng Pontar của Emhyr, bảo vệ sườn của Temeria. Và cả Redania của ông nữa. Ông nên cảm ơn ông ta.”
“Tôi sẽ cảm ơn ông ta,” Dijkstra lầm bầm. “Nhưng trong im lặng. Ở Tretogor chúng tôi đang tiếp đón vua Demavend của Aedirn. Và Demavend có một đánh giá rất rõ ràng về tính đạo đức trong hành động của Henselt. Ông ta có thói quen diễn tả chúng bằng những từ ngắn nhưng điếc tai.”
“Ta có thể tưởng tượng,” vị vua Kovir gật gù. “Hãy tạm gác chuyện này trong chốc lát và nhìn về phía nam dòng Yaruga. Tấn công Dol Angra, Emhyr cũng đã đồng thời bảo đảm an toàn cho sườn bên của mình bằng việc ký kết một hiệp ước hòa bình riêng với Foltest của Temeria. Nhưng ngay sau khi hoàn thành xong mục tiêu quân sự ở Aedirn, hoàng đế đã trở mặt và không ngần ngại tấn công Brugge cùng Sodden. Với bản hiệp ước hèn nhát, Foltest đã có được hai tuần yên ổn. Hay chính xác hơn là 16 ngày. Và hôm nay là ngày 26 tháng Mười.”
“Đúng vậy.”
“Tình hình vào ngày 26 tháng Mười như sau: Sodden và Brugge đang bị chiếm đóng. Pháo đài Mayena và Razvan đã thất thủ. Quân đội Temeria bị đánh bại tại trận Maribor và lùa lên phía bắc. Maribor bị bao vây. Cho đến sáng nay, họ vẫn còn trụ vững. Nhưng giờ đã là buổi tối rồi, Dijkstra.”
“Maribor sẽ trụ được. Nilfgaard không thể bao vây họ.”
“Điều đó chính xác. Nilfgaard đã thọc quá sâu vào lãnh thổ đối phương, kéo dài tuyến đường tiếp tế của mình và để sườn bên bị sơ hở nghiêm trọng. Trước khi mùa đông tới, họ sẽ buộc phải phá vòng vây và rút lui trở về sông Yaruga và thu hẹp tiền tuyến. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra vào mùa xuân, hả Dijkstra? Chuyện gì sẽ xảy ra khi cỏ lại mọc bên trên lớp tuyết? Lại đây. Nhìn tấm bản đồ đi.”
Dijkstra nhìn.
“Nhìn tấm bản đồ đi,” đức vua nhắc lại. “Ta sẽ nói cho ông biết Emhyr var Emreis sẽ làm gì vào mùa xuân.”
***
“Mùa xuân đến sẽ khởi đầu một cuộc phản công với quy mô chưa từng có,” Carthia van Canten tuyên bố, chỉnh lại lọn tóc vàng trước gương. “Ôi, tôi biết thông tin này không phải là sốt dẻo gì, ở khắp mọi nơi phụ nữ đều đang bàn tán về nó…”
Assire var Anahid cảm thấy đặc biệt tức giận và thiếu kiên nhẫn ngày hôm đó, ấy nhưng vẫn xoay sở giữ được vẻ điềm tĩnh và ngăn mình không thốt lên câu hỏi vì sao cô gái lại đi nghe ba cái tin vịt này. Nhưng cô ta biết rõ Cantarella. Nếu Cantarella đã nói về thứ gì thì luôn có lý do chính đáng. Và kết luận của cô gái thường khá chuẩn xác.
“Tuy nhiên, tôi biết nhiều hơn một chút so với mấy tin buôn dưa lê,” Cantarella tiếp tục. “Vattier đã kể cho tôi nghe hết những gì đã được thảo luận trong buổi họp với Hoàng đế. Ông ta thậm chí còn đem theo một tập bản đồ, mà tôi đã xem qua khi ông ta thiếp ngủ,…tôi nói tiếp nhé?”
“Chắc rồi,” Assire nheo mắt. “Nói đi.”
“Mục tiêu chính của cuộc tấn công dĩ nhiên là Temeria, Sông Pontar, Novigrad, Vizima và Ellander. Quân Chính Quy, dưới sự chỉ huy của Menno Coehoorn, sẽ làm mũi nhọn. Trong khi Quân Đoàn Đông sẽ chịu trách nhiệm thọc sườn, tấn công Thung lũng Pontar và Kaedwen từ Aedirn…”
“Kaedwen?” Assire nhướng một bên lông mày. “Liệu việc này phải chăng là sự chấm dứt của một tình bạn mong manh, kết thúc sau khi chiến lợi phẩm đã được chia chác xong xuôi cả rồi?”
“Kaedwen đe dọa sườn phải,” Carthia van Canten khẽ hé miệng. Đôi môi như búp bê tạo nên sự trái ngược hoàn toàn so với những câu từ chiến thuật thông thái đang rời khỏi mồm. “Bản chất cuộc tấn công là để ngăn chặn. Một nhánh tách ra từ Quân Đoàn Đông sẽ tấn công vua Henselt và chặn mọi cứu trợ tới giúp Temeria.”
“Tới từ phía tây,” cô gái tóc vàng tiếp tục, “sẽ là các đơn vị tác chiến Verden, với nhiệm vụ kiểm soát Cidaris và phong tỏa Novigrad, Gors Velen và Vizima. Ban chỉ huy quân sự đã dự đoán một cuộc vây hãm kéo dài ba thành phố lớn đó.”
“Cô vẫn chưa tiết lộ tên những người chỉ huy hai đạo quân đó.”
“Quân Đoàn Đông sẽ do Ardal aep Dahy dẫn đầu.” Cantarella mỉm cười. “Và Verden là Joachim de Wett.”
Assire chớp mắt ngạc nhiên.
“Thú vị đây,” cô ta nói. “Hai gia tộc đã cảm thấy bị xúc phạm sau khi con gái của họ bị loại trừ khỏi kế hoạch hôn nhân của Emhyr. Hoàng đế của chúng ta hoặc là rất ngây thơ hoặc là vô cùng xảo quyệt.”
“Nếu Emhyr có biết về âm mưu của các quý tộc,” Carthia nói, “thì cũng không phải từ Vattier. Ông ta không nói gì với Hoàng đế cả.”
“Tiếp đi.”
“Từ trước đến nay chưa từng có một chiến dịch quân sự nào đạt tầm cỡ này. Tổng cộng, nếu tính tất cả các đơn vị tiên phong, dự bị và hậu cần, chiến dịch sẽ bao gồm hơn 300 ngàn người.
Và elves, dĩ nhiên rồi.” “Ngày xuất quân?”
“Vẫn chưa quyết định. Vấn đề chủ yếu là hàng tiếp tế. Và vấn đề với hàng tiếp tế là tình trạng đường xá. Không ai có thể dự đoán khi nào mùa đông sẽ kết thúc.”
“Và Vattier còn nói gì nữa?”
“Ông ta phàn nàn nhiều thứ, con người tội nghiệp đó,” Cantarella cười. “Hoàng đế lại sỉ nhục và khiển trách ông ta. Trước mặt mọi người. Lại lần nữa lý do là vì sự mất tích bí ẩn của Stefan Skellen cùng toàn bộ cơ quan của ông ta. Emhyr đã công khai mắng Vattier là vô dụng và nói rằng ông ta là người đứng đầu một tổ chức thay vì làm kẻ khác biến mất không dấu vết, thì lại ngạc nhiên trước sự biến mất của kẻ khác. Hoàng đế đã xây dựng trên chủ đề này một phép chơi chữ rất hài hước, mà Vattier không thể nhắc lại chính xác được. Rồi Emhyr hỏi đùa Vattier rằng phải chăng còn một tổ chức bí ẩn khác trên vương quốc này, mà thậm chí còn có thể ẩn mình khỏi ông ta. Hoàng đế của chúng ta rất khôn ngoan. Ông ta đang đến gần sự thật rồi.”
“Khá gần.” Assire lầm bầm. “Còn gì nữa, Carthia?”
“Gã gián điệp mà Vattier đã cài cắm vào nhóm của Skellen và đã biến mất cùng với ông ta, có tên là Neratin Ceka. Vattier chắc hẳn quý trọng hắn rất nhiều, bởi vì ông ta vô cùng giận dữ trước sự biến mất của hắn.”
Cả ta nữa, Assire nghĩ, cũng giận dữ vì sự biến mất của Jediah Mekesser. Nhưng ta khác Vattier de Rideaux, ta sẽ sớm biết được sự thật.
“Còn Rience? Vattier có liên lạc lại với hắn không?”
“Tôi không nghĩ vậy. Vattier không nhắc đến chuyện đó.”
Cả hai im lặng trong một lúc. Sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng rên của con mèo của Assire. “Quý cô Assire.”
“Ừ, Carthia.”
“Liệu tôi có phải đóng cái vai người tình ngờ nghệch này lâu nữa không? Tôi muốn quay lại trường, để cống hiến bản thân cho công việc nghiên cứu khoa học…”
“Sớm thôi,” Assire ngắt lời. “Chỉ một chút nữa thôi! Cố lên, cô bé!” Cantarella thở dài.
Họ kết thúc cuộc trò chuyện và nói tạm biệt. Con mèo của Assire var Anahid nhảy khỏi ghế và cô ta bắt đầu đọc lại bức thư từ Fringilla Vigo, người đang ở Toussaint. Cô ta lạc trong suy ngẫm về bức thư chính là nguyên nhân cho sự mất ngủ của mình. Ẩn giấu giữa những dòng chữ, Assire cảm thấy một điều gì đó quan trọng mà mình vẫn chưa giải mã được. Đã quá nửa đêm khi Assire var Anahid, nữ pháp sư Nilfgaard, dựng một thiết bị liên lạc và kết nối tới lâu đài Montecalvo ở Redania.
Philippa Eilhart đang mặc một chiếc váy ngủ hai dây ngắn và mặt cùng cổ cô ta có in vết son môi. Assire, với nỗ lực vô cùng, kiềm chế vẻ không hài lòng. Không bao giờ, không bao giờ ta có thể hiểu được điều này. Và ta không muốn hiểu.
“Chúng ta có thể nói chuyện thoải mái được không?”
Bàn tay Philippa quét qua không khí. Và cô ta tạo nên một quả cầu ma thuật kín đáo quanh mình.
“Giờ thì có thể.”
“Tôi có thông tin,” Assire nói khô khan. “Tôi biết rằng nó không sốt dẻo gì, những lời đồn thổi của các bà vợ nông dân tám chuyện bên miệng giếng. Tuy nhiên…”
***
“Toàn bộ Redania,” Esterad Thyssen nói, nhìn vào tấm bản đồ, “vào lúc này có thể tập hợp được 35 ngàn binh lính, bao gồm 4 ngàn kỵ binh nặng. Đấy là làm tròn, dĩ nhiên rồi.”
Dijkstra gật đầu. Con số khá chính xác.
“Demavend và Meve cũng đã có một đội quân như vậy. Emhyr đập tan nó trong 26 ngày. Điều tương tự sẽ xảy ra với quân đội Redania và Temeria, nếu không nhanh chóng được bổ sung. Ta ủng hộ ý tưởng của ông, Dijkstra, của ông và Philippa Eilhart. Ông cần lính. Ông cần kỵ binh giàu kinh nghiệm, được trang bị tốt và huấn luyện kỹ càng. Ông cần loại kỵ binh mà đáng giá xấp xỉ một triệu lintar.”
Gián điệp gật đầu để xác nhận rằng tính toán này không thể chê được.
“Tuy nhiên, như ông chắc hẳn biết,” đức vua tiếp tục nói khô khan. “Kovir đã và sẽ luôn luôn trung lập. Một hiệp ước đã trói buộc chúng ta với Đế chế Nilfgaard, được ký bởi ông nội ta, Esteril Thyssen và Hoàng đế Fergus var Emreis. Bản hiệp ước không cho phép Kovir hỗ trợ quân sự cho kẻ thù của Nilfgaard. Về tiền bạc hay quân lính.”
“Một khi Emhyr var Emreis đã xong việc với Redania và Temeria,” Dijkstra hắng giọng, “hắn sẽ nhìn lên phía Bắc. Emhyr sẽ không cảm thấy thỏa mãn. Có thể bản hiệp ước của ngài sẽ sớm không đáng giá một xu. Chỉ vừa mới phút trước chúng ta còn nói về Foltest của Temeria, mà bản hiệp ước ký với Nilfgaard đã mua được cho ông ta 16 ngày yên ổn…”
“Ôi trời,” Esterad mỉm cười. “Một tranh luận mà ta không thể tỉnh táo chấp nhận. Hiệp ước cũng giống hôn nhân: ông không thể nhảy vào với suy nghĩ phản bội, và sau khi chốt hạ thì cũng đừng nên nghi ngờ. Và những ai không thích thì đừng nên kết hôn. Bởi ông không thể bị cắm sừng nếu chưa làm chồng, nhưng ta thừa nhận rằng nỗi sợ bị cắm sừng là một lý do lố bịch và thảm hại để ép mình sống độc thân. Và đừng có nói đến cắm sừng trong hôn nhân, chừng nào vẫn chưa xuất hiện cái sừng nào cả. Và nếu có rồi thì chẳng còn gì để nói nữa. Nhân tiện nhắc đến sừng, chồng của Marie xinh đẹp, hầu tước de Mercey, Bộ trưởng Tài chính của Redania dạo này thế nào?”
“Bệ hạ,” Dijkstra hơi cúi đầu, “nắm được thông tin đáng ghen tị.”
“Dĩ nhiên rồi,” đức vua xác nhận, “ông không tưởng tượng nổi ta có bao nhiêu và đáng ghen tị thế nào đâu. Nhưng ông cũng đừng nên thấy xấu hổ vì thông tin của mình. Những người ông đã cài vào cung điện của ta ở đây và Pont Vanis, xin thề danh dự, đều là những cá nhân xuất sắc.”
Dijkstra thậm chí không chớp mắt.
“Emhyr var Emreis,” Esterad tiếp tục, nhìn vào bức tranh nymph trên trần nhà, “cũng có vài gián điệp giỏi và kín đáo. Vậy nên ta nhắc lại – vì an ninh quốc gia, sự trung lập của Kovir không thể thay đổi. Kovir không vi phạm hiệp ước. Kovir thậm chí còn không vi phạm đáp trả sự vi phạm của đối tác bên kia.”
“Tôi xin mạo muội nói rằng,” Dijkstra đáp lại, “Redania không yêu cầu Kovir vi phạm hiệp ước nào cả. Redania không tìm kiếm liên minh hay hỗ trợ quân sự từ Kovir để chống lại Nilfgaard dưới bất kỳ hình thức nào. Redania chỉ muốn…mượn một khoản tiền nhỏ mà họ sẽ hoàn trả…”
“Ta không thấy có cách nào mà ông hoàn trả được,” đức vua xen vào, “Nhưng đây chỉ là nói trên lý thuyết, bởi ta sẽ không cho ông vay xu nào cả. Và tha cho ta mớ lý luận hai mặt đó đi, Dijkstra, nó hợp với ông như yếm đeo cổ sói vậy. Ông còn tranh luận nào nghiêm túc, khôn ngoan hay chính xác hơn không?”
“Tôi e là không.”
“May là ông đã trở thành gián điệp đấy,” Esterad Thyssen nói sau một hồi. “Nếu làm lái buôn thì ông lỗ to.”
***
Kể từ khi thế giới bắt đầu, tất cả cặp đôi hoàng tộc đều có phòng ngủ tách biệt. Vua – với nhiều tần suất khác nhau – đã tới thăm phòng ngủ của hoàng hậu và có những lúc khi hoàng hậu bất chợt ghé thăm phòng ngủ của đức vua. Rồi cặp đôi quay về phòng và giường của mình.
Cặp đôi hoàng tộc của Kovir là một ngoại lệ. Esterad Thyssen và Zuleyka luôn ngủ cùng nhau trong một phòng, trên một chiếc giường vĩ đại có màn che khổng lồ.
Trước khi lên giường, Zuleyka đeo lên cặp kính mà bà cảm thấy xấu hổ khi mang trước mặt thần dân và đọc từ Quyển Sách Thiêng. Esterad Thyssen thường tâm sự. Đêm nay cũng không khác gì. Esterad đội mũ bịt đầu và cầm quyền trượng trên tay. Ngài thích chơi đùa với nó, nhưng không làm vậy trước công chúng vì sợ họ sẽ gọi ngài là tự phụ.
“Nàng biết không, Zuleyka,” ngài tỉ tê, “Dạo gần đây ta hay gặp những giấc mơ kỳ lạ. Vài lần ta đã mơ thấy mẹ ta. Đứng trên đầu ta và nhắc đi nhắc lại, “Ta có một cô vợ cho Tankred, ta có một cô vợ cho Tankred.” Và bà ấy cho ta xem một cô gái xinh xắn nhưng rất trẻ. Nàng có biết cô gái ấy là ai không, Zuleyka? Ciri, cháu ngoại của Calanthe. Còn nhớ Calanthe chứ, Zuleyka?”
“Đương nhiên là em nhớ rồi, chồng yêu quý.”
“Cirilla của Cintra,” Esterad tiếp tục nói, tay nghịch cây quyền trượng, “được người ta đồn rằng sẽ cưới Emhyr của Nilfgaard. Một cuộc hôn nhân kỳ lạ…làm thế quỷ nào mà cô bé có thể trở thành vợ của Tankred được chứ?”
“Tankred của chúng ta,” giọng hoàng hậu luôn dịu dàng mỗi khi nói về con trai mình, “cần một người phụ nữ. Có thể nếu nó chịu…”
“Có thể,” Esterad thở dài. “Mặc dù ta không nghĩ như vậy. Đằng nào đi nữa, hôn nhân vẫn là một cơ hội. Hmm…cô bé Ciri này…Ha! Kovir và Cintra. Cửa sông Yaruga! Nghe hay lắm. Một cuộc hôn nhân không tồi…một liên minh không tồi…Nhưng nếu Emhyr đã để mắt đến con nhỏ…Chỉ là, tại sao nó lại xuất hiện trong giấc mơ của ta nhỉ? Tại sao ta lại đi mơ ba cái thứ nhảm nhí này? Vào đêm thu phân, nàng nhớ chứ, ta cũng đã choàng dậy…Brrr, một cơn ác mộng kinh khủng, ta mừng là mình không nhớ được chi tiết của nó…Hmm…Ta có nên cho gọi một nhà chiêm tinh không? Một thầy bói? Một bà đồng?”
“Quý cô Síle de Tanserville đang ở Lan Exeter.”
“Không,” đức vua nhăn mặt. “Ta không muốn ả phù thủy đó. Quá thông minh. Cô ta đang trở thành một Philippa Eilhart nữa! Những người phụ nữ khôn ngoan này bốc mùi quá nhiều quyền lực, ta không thể tin tưởng họ.”
“Như mọi khi, ngài nói đúng, chồng yêu quý.” “Hmm…nhưng giấc mơ này…”
“Quyển Sách Thiêng,” Zuleyka lật qua vài trang, “có nói rằng khi con người đi ngủ, các vị thần sẽ giỏng tai và cất tiếng. Trong khi đó, nhà tiên tri Lebioda dạy rằng một giấc mơ có thể cho thấy sự thông thái hoặc dại dột. Điều quan trọng là biết cách phân biệt chúng.”
“Cuộc hôn nhân giữa Tankred và hôn thê của Emhyr chẳng có vẻ gì là thông thái cả,” Esterad thở dài. “Và sẵn nói về thông thái, ta sẽ rất vui nếu như nó đến với ta trong mơ. Về cuộc viếng thăm của Dijkstra. Một vấn đề khó nhằn. Bởi vì nàng biết đấy, Zuleyka yêu quý, chẳng có lý do gì để vui mừng trước cái ý tưởng rằng Nilfgaard sẽ tiến lên phương bắc để đánh chiếm Novigrad một ngày không xa. Bởi từ Novigrad trở xuống phía Nam, mọi thứ – kể cả sự trung lập của chúng ta – đều được nhìn dưới góc độ rất khác. Vậy nên có lẽ là tốt nếu Redania và Temeria có thể kìm được bước tiến của Nilfgaard và đẩy lui cuộc xâm lược về sông Yaruga. Nhưng có thật đúng đắn không nếu làm vậy bằng tiền của chúng ta? Nàng có nghe không đấy, vợ yêu quý?”
“Em đang nghe, chồng yêu quý.” “Và nàng nói sao?”
“Tất cả sự thông thái đều nằm trong Quyển Sách Thiêng.”
“Và Quyển Sách Thiêng của nàng có nói rằng chúng ta sẽ lại nhận được một cuộc viếng thăm từ Dijkstra để hỏi vay một triệu lintar nữa không?”
“Quyển sách,” Zuleyka chớp mắt đằng sau cặp kính, “không nói gì về của cải được dùng với mục đích ác hiểm. Nhưng có một đoạn nêu rằng cho thì tốt hơn nhận và giúp đỡ kẻ nghèo khó luôn luôn là điều đáng khen. Nó nói – hãy cho đi tất cả, để tâm hồn ta được chắp cánh.”
“Và để ví tiền cùng giỏ bánh trống không,” Esterad Thyssen lầm bầm. “Zuleyka, ngoại trừ phân đoạn về chắp cánh tâm hồn, quyển sách có chia sẻ thêm tri thức nào về giao dịch nữa không? Quyển sách nói gì về trao đổi đồng giá chẳng hạn?”
Hoàng hậu chỉnh lại cặp kính và nhanh chóng giở qua vài trang. “Có qua có lại.”
Esterad im lặng trong một thời gian dài.
“Có thể là,” cuối cùng ngài nói, “còn gì khác nữa?” Zuleyka lại lục tìm Quyển Sách Thiêng.
“Em tìm thấy,” bà lên tiếng, “thứ gì đó trong lời của nhà tiên tri Lebioda. Em sẽ đọc nó nhé?”
“Làm ơn.”
“Và nhà tiên tri Lebioda nói rằng: quả thực, hãy bố thí cho kẻ nghèo. Nhưng thay vì cho họ cả quả dưa hấu, hãy chỉ cho họ nửa quả dưa hấu, và kẻ nghèo sẽ lấy đó làm may.”
“Nửa trái dưa hấu,” Esterad Thyssen khịt mũi, “Ý nàng là nửa triệu lintar? Nàng biết không, Zuleyka, rằng có nửa triệu lintar và không có nửa triệu lintar cộng thành một triệu lintar?”
“Ngài không để em nói hết,” hoàng hậu quở trách chồng mình bằng một ánh mắt nghiêm nghị qua cặp kính. “Nhà tiên tri Lebioda nói tiếp: đưa cho kẻ nghèo một phần tư quả dưa hấu thậm chí còn tốt hơn. Và điều tuyệt nhất đó là tìm ai đó khác để đưa quả dưa hấu cho kẻ nghèo. Bởi ta nói với ngươi rằng luôn có người cầm một quả dưa trong tay và sẵn sàng đưa cho người khác – nếu không phải vì hào phóng, thì cũng là toan tính cho một mục đích khác.”
“Ha!” Vị vua Kovir đập cây trượng lên tủ đồ bên cạnh. “Nhà tiên tri quả là một con người thông thái! Sắp xếp để một ai đó khác đưa tiền thay vì ta? Ta thích đấy, đó thật sự là những lời vàng ngọc. Hãy tìm kiếm trong tri thức của nhà tiên tri đó, Zuleyka yêu quý. Ta chắc rằng nàng vẫn còn có thể tìm được giải pháp nào đó cho vấn đề của ta với Redania và đội quân mà Redania muốn tập hợp bằng tiền của ta.”
Zuleyka giở sách trong một lúc cho đến khi bắt đầu đọc.
“Một ngày nọ, một môn đệ của nhà tiên tri Lebioda tới gặp ngài và nói – “Xin hãy khuyên răn con, thưa thầy, con nên làm gì? Hàng xóm của con muốn con chó yêu thích của con. Nếu con đưa cho người đó con vật, trái tim con sẽ tan nát vì đau buồn. Nếu con không đưa cho người đó con vật thì anh ta sẽ không hạnh phúc vì lời khước từ của con làm tổn thương hàng xóm của con. Con nên làm gì?”. Nhà tiên tri bèn hỏi, “Con có con vật nào mình yêu thương ít hơn con chó không?”. Người học trò trả lời, “Con có một con mèo hoang, thưa thầy, một con vật xấu tính mà con chưa bao giờ yêu thương.” Và rồi nhà tiên tri nói, “Hãy đem con mèo hoang cho hàng xóm. Con sẽ được giải thoát khỏi con mèo và hàng xóm của con sẽ vui mừng khôn xiết. Bởi vì phần lớn thời gian, người ta không hài lòng với món quà, mà với suy nghĩ rằng mình được tặng quà.”
Esterad im lặng hồi lâu, trán ngài nhăn lại.
“Zuleyka?” cuối cùng ngài hỏi. “Có phải là cùng nhà tiên tri đấy không?” “Đem con mèo hoang…”
“Ta nghe thấy lần đầu rồi!” đức vua la lên, nhưng ngay lập tức bình tĩnh lại. “Thứ lỗi cho ta, vợ yêu quý, vấn đề là ta không hiểu được mèo hoang thì liên quan gì đến…”
Ngài chìm vào im lặng. Và trầm tư.
***
Sau 85 năm, thời thế đã thay đổi đến mức người ta có thể bắt đầu nhắc đến nhiều vấn đề mà không cần phải sợ, và có thể nói đến Guiscard Vermuellen, Công tước của Creyden, cháu ngoại của Esterad Thyssen, con trai của cô con gái cả của ngài, Gaudemunda. Công tước Guiscard đã là một ông già tóc bạc, nhưng sự kiện mà ông đã chứng kiến, ông vẫn còn nhớ rõ. Chính công
tước Guiscard là người đã hé lộ sự thật về một triệu lintar mà người Redania đã dùng để trang bị cho kỵ binh của mình trong cuộc chiến với Nilfgaard. Một triệu đã không đến từ quốc khố Kovir như trông đợi, mà từ ngân quỹ của Novigrad. Esterad Thyssen, Guiscard giải thích rằng đã thu thập khoản tiền từ cổ phần của mình trong một công ty liên doanh đường biển được thành lập cùng Novigrad. Trớ trêu thay, công ty này cũng được góp phần bởi các thương nhân Nilfgaard. Do vậy, hé lộ của ngài công tước đáng kính đã cho thấy rằng Nilfgaard – ở một mức độ nào đó – đã giúp trả tiền cho Redania xây dựng quân đội.
“Ông ngoại ta,” Guiscard Vermuellen hồi tưởng, “đã nói gì đó về dưa hấu, và mỉm cười ranh mãnh. Ông nói rằng luôn có kẻ sẵn sàng đưa tiền cho người nghèo, kể cả vì toan tính cho mục đích riêng. Ông cũng nói rằng chính bản thân Nilfgaard đã góp phần xây dựng quân đội và củng cố sức chiến đấu của Redania, do vậy họ chẳng có quyền gì mà phàn nàn cả.”
“Thế rồi,” ông già tiếp tục, “ông ngoại cho gọi cha ta, người lúc đó đang là trưởng cơ quan tình báo, và Bộ trưởng Bộ Nội Vụ. Khi biết được mệnh lệnh của mình, họ phát hoảng. Mệnh lệnh là phóng thích khỏi nhà tù, trại tập trung và triệu hồi lưu đày hơn ba ngàn người. Thêm vào đó, hàng trăm người khác cũng được dỡ bỏ khỏi lệnh giam lỏng.”
“Không, không chỉ bao gồm bọn trộm cướp, lũ tội phạm thông thường và lính đánh thuê. Lệnh ân xá còn có hiệu lực lên mọi kẻ chống phá. Trong số đó là phe ủng hộ vị vua bị phế truất Rhyd, và tay sai của kẻ chiếm ngôi Idi. Bộ trưởng Bộ Nội Vụ đã rất sốc và cha ta thì cực kỳ lo lắng.”
“Trong khi đó,” công tước tiếp tục, “ông ngoại cười như thể nghe được câu truyện đùa hài hước nhất. Và rồi ông nói, và ta nhớ từng từ: “Thật đáng tiếc, các quý ngài, rằng các ngươi không được nghe truyện lúc đi ngủ như Quyển Sách Thiêng. Nếu được, các ngươi sẽ hiểu ý đồ người trị vì của mình. Và thế là các ngươi sẽ phải thi hành mệnh lệnh, không hiểu được ý nghĩa của chúng. Nhưng đừng lo lắng không cần thiết, đức vua của các ngươi biết ông ta đang làm cái gì. Rồi, giờ hãy đi đi và thả hết toàn bộ lũ mèo hoang của ta ra.”
“Đó là những gì ông đã nói, mèo hoang. Và ý ông muốn nói đến – mà không ai vào lúc đó biết được – những người anh hùng trong tương lai và các chiến tướng hiển hách lẫy lừng. Những con “mèo hoang” này của ông ngoại chính là các lính đánh thuê lừng danh – Adam ‘Adieu’ Pangratt, Lorenzo Molla, Juan ‘Frontino’ Gutierrez…và Julia Abatemarco, người sau này nổi tiếng ở Redania với biệt danh ‘Mèo Con Xinh Xắn’…Lớp trẻ các người có thể không nhớ, nhưng vào thời của ta, khi chúng ta chơi đánh trận, mọi thằng bé đều muốn làm ‘Adieu’ Pangratt và mọi con nhóc đều muốn làm Julia “Mèo Con Xinh Xắn”…Nhưng đối với ông ngoại họ chỉ là lũ thú hoang nghịch ngợm.”
“Thế rồi,” Guiscard Vermuellen lầm bầm, “ông ngoại cầm tay ta và dẫn ta ra sân thượng, nơi bà ngoại Zuleyka đang cho hải âu ăn. Ông ngoại đã nói…đã nói…”
Ông già cố gắng nhớ lại những lời mà 85 năm về trước Esterad Thyssen đã nói với vợ mình, hoàng hậu Zuleyka, trên sân thượng của cung điện Ensenada, cao vút phía trên Kênh Chính.
“Nàng biết không, vợ yêu quý, ta đã học thêm được một sự thông thái nữa từ nhà tiên tri Lebioda rồi. Sự thông thái sẽ giúp ta vẫn có được lợi thế từ việc ủng hộ lũ mèo cho Redania. Lũ mèo, Zuleyka của ta à, sẽ trở về nhà. Mèo luôn trở về nhà. Và khi lũ mèo của ta quay về, mang theo lương bổng, chiến lợi phẩm, của cải giàu sang…ta sẽ đánh thuế bọn chúng!”
***
Khi vua Esterad Thyssen nói chuyện lần cuối cùng với Dijkstra, ngài đã làm vậy một mình, không có cả Zuleyka. Trên sàn căn phòng vũ hội khổng lồ là một thằng nhóc 10 tuổi, nhưng nó không được tính vì đang quá bận chơi cùng tên lính thiếc cầm trong tay để có thể chú ý đến cuộc trò chuyện.
“Đây là Guiscard,” Esterad giải thích, chỉ vào đứa trẻ bằng một cái hất đầu, “cháu ngoại ta, con trai của Gaudemunda và cái gã công tước Vermuellen bất lương đó. Nhưng thằng bé nhỏ xíu này, Guiscard, là hy vọng duy nhất của Kovir nếu có chuyện xảy ra với Tankred Thyssen…Đó là nếu có chuyện xảy ra với Tankred Thyssen…”
Dijkstra đã ý thức được vấn đề của Kovir và vấn đề cá nhân của Esterad. Ông ta biết rằng có chuyện đã xảy ra với Tankred rồi. Nếu chàng trai có bất kỳ tài năng nào để làm vua, thì đó chỉ là để làm một vị vua tồi.
“Việc của ông,” Esterad đổi chủ đề, “về cơ bản đã được giải quyết. Ông có thể bắt đầu tính đến việc sử dụng sao cho hợp lý nhất một triệu lintar mà sẽ sớm được chuyển vào quốc khố ở Tretogor.”
Ngài cúi xuống và cầm lên một tên lính thiếc sặc sỡ, một kỵ binh đang giơ cao thanh kiếm. “Hãy cầm vật này và giữ nó an toàn. Kẻ mà đưa cho ông xem một tên lính thứ hai giống hệt
sẽ là sứ giả của ta, bất kể ngoại hình hắn thế nào, bất kể dù ông không thể tin rằng hắn là thuộc hạ của ta hay biết được về vụ giao dịch một triệu này. Mọi kẻ khác đều là gián điệp khiêu khích.”
“Redania,” Dijkstra cúi đầu, “sẽ không quên việc này, thưa bệ hạ. Tôi, nhân danh họ, xin gửi tới ngài lòng biết ơn trân trọng nhất.”
“Không ơn huệ gì cả, đem một ngàn crown mà ông định dùng để lấy lòng Bộ trưởng Ngoại giao của ta lại đây. Cái gì, bộ lòng tốt của một vị vua không xứng đáng để hối lộ hay sao?”
“Bệ hạ có cần phải hạ thấp…”
“Có chứ, có chứ. Mang tiền ra đây, Dijkstra. Có một ngàn và không có một ngàn…” “…cộng lại là hai ngàn. Tôi biết.”
***
Trong một cánh nhà khác của Ensenada, trong một căn phòng nhỏ hơn nhiều, nữ pháp sư Síle de Tanserville lắng nghe chăm chú lời tường thuật của hoàng hậu Zuleyka.
“Hoàn hảo,” cô ta cúi đầu. “Hoàn hảo, thưa hoàng hậu.” “Ta đã làm mọi thứ theo lời khuyên của cô, quý cô Síle.”
“Cảm ơn người vì điều đó. Lại lần nữa tôi xin đảm bảo với hoàng hậu rằng chúng ta đang hành động vì một mục tiêu chính đáng. Vì sự an toàn của vương quốc. Và triều đại.”
Hoàng hậu Zuleyka hắng giọng, giọng bà thay đổi hơi chút. “Còn…còn Tankred, quý cô Síle?”
“Tôi xin hứa,” Síle de Tanserville nói lạnh lùng. “Tôi xin hứa rằng sẽ đáp trả sự giúp đỡ của người. Hoàng hậu cứ việc yên giấc.”
“Ta cũng ước như vậy,” Zuleyka nói. “Với toàn bộ trái tim. Và sẵn nói tới giấc mơ…đức vua đã bắt đầu nghi ngờ rồi. Những giấc mơ đó làm ngài ngạc nhiên, và khi có thứ làm đức vua ngạc nhiên, ngài sẽ bắt đầu nghi ngờ…”
“Trong một khoảng thời gian tôi sẽ ngừng thao túng những giấc mơ của đức vua,” nữ pháp sư hứa hẹn. “Hiện tại, chúng ta hãy chăm lo đến giấc ngủ của hoàng hậu, tôi nhắc lại, phải thật yên giấc. Hoàng tử Tankred sẽ được tách rời khỏi bạn bè xấu. Ngài ấy sẽ không còn thường xuyên đến thăm lâu đài của nam tước Surcratasse. Hay dinh thự của công nương de Lisemore. Hay vợ của đại sứ Redania.”
“Sẽ không còn cuộc viếng thăm nào những con người đó chứ? Không bao giờ nữa?” “Những người nói trên,” đôi mắt đen của Síle de Tanserville phát sáng lạ kỳ, “sẽ không còn
dám đụng tới Hoàng tử Tankred nữa. Họ ý thức rõ được hậu quả. Tôi xin thề. Tôi cũng đảm bảo rằng Hoàng tử Tankred sẽ quay trở lại học hành và trở thành một sinh viên ưu tú, một chàng thanh niên tỉnh táo và nghiêm chỉnh. Ngài ấy sẽ không đuổi bắt phụ nữ nữa. Ngài ấy sẽ từ bỏ đam mê…cho đến khi thời điểm chín muồi và chúng ta giới thiệu ngài ấy với Ciri, công chúa của Cintra.”
“Ôi, ta không thể tin được,” Zuleyka vỗ tay. “Ta chỉ không thể tin được.”
“Sức mạnh của phép thuật,” Síle de Tanserville chợt mỉm cười với bản thân, “đôi lúc là rất khó tin, thưa hoàng hậu. Và nó nên như vậy.”
***
Philippa Eilhart chỉnh lại dây nịt bộ váy ngủ trong suốt và chùi vết son môi trên cổ. Một người phụ nữ khôn ngoan, Síle de Tanserville nghĩ với vẻ không hài lòng, thế nhưng vẫn không biết cách kiểm soát hóc–môn của mình.
“Chúng ta nói chuyện được không?”
Philippa bao phủ quanh mình một quả cầu ma thuật kín đáo. “Giờ chúng ta có thể.”
“Mọi việc đều đã được sắp xếp xong xuôi ở Kovir.” “Cảm ơn cô. Dijkstra đã quay về chưa?”
“Chưa.”
“Ông ta còn đợi cái gì nữa?”
“Ông ta đang có một cuộc trò chuyện dài với Esterad Thyssen,” Síle de Tanserville mím môi. “Họ đã bất chợt cảm thấy quý mến nhau – đức vua và gián điệp.”
***
“Ông có biết câu đùa về thời tiết ở đây không, Dijkstra? Rằng Kovir chỉ có hai mùa…”
“Xuân và hạ. Tôi biết…”
“Ông có biết làm thế nào để nhận ra được mùa hè đã bắt đầu ở Kovir không?” “Không. Bằng cách nào?”
“Những cơn mưa ấm lên một tí.” “Ha, ha.”
“Đùa là đùa,” Esterad nói nghiêm chỉnh, “nhưng mùa đông đang tới nhanh hơn và kéo dài hơn này bắt đầu khiến ta thấy bất an. Điều này đã được tiên đoán. Ông đã đọc, ta nghĩ là, những lời tiên tri của Ithlinne chưa? Nó nói rằng một thập kỷ mùa đông bất tận đang đến gần. Có người cãi rằng đây chỉ là câu nói bóng gió, nhưng ta có lý do để sợ. Ở Kovir đã có lần chúng ta trải qua bốn năm mùa đông, thời tiết xấu và vụ mùa kém. Nếu không phải vì một lượng thức ăn khổng lồ nhập khẩu từ Nilfgaard, người dân đã chết đói rồi. Ông tưởng tượng nổi không?”
“Nói thật thì, không.”
“Ta thì có. Trong cái lạnh, tất cả chúng ta đều có thể chết đói. Cơn đói là kẻ thù, mà không dễ dàng bị đánh bại.”
Người gián điệp gật đầu thông cảm. “Dijkstra này?”
“Vâng thưa bệ hạ?”
“Đất nước đã yên ổn chưa?”
“Chưa nhiều lắm. Nhưng tôi đang cố.”
“Ta biết, tất cả mọi người đều đang bàn tán về nó. Trong số những kẻ phản bội trên Thanedd, chỉ có Vilgefortz là còn sống.”
“Sau cái chết của Yennefer, đúng vậy. Ngài đã biết chưa, bệ hạ, rằng Yennefer đã chết? Cô ta chết vào ngày cuối cùng của tháng Tám, vì những nguyên nhân bí ẩn, gần Khe vực Sedna tai tiếng, nằm giữa Quần đảo Skellige và Mũi đất Peixe de Mar.”
“Yennefer thành Vengerberg,” Esterad từ tốn nói, “không phải một kẻ phản bội. Cô ấy không phải một đồng minh của Vilgefortz. Nếu ông muốn ta có thể cung cấp cho ông bằng chứng.”
“Tôi không muốn,” Dijkstra đáp sau một hồi. “Hoặc có lẽ là tôi muốn, nhưng chưa phải bây giờ. Cô ta có ích với tôi hơn khi là một kẻ phản bội.”
“Ta hiểu. Đừng tin lũ pháp sư, Dijkstra. Đặc biệt là Philippa.”
“Tôi chưa bao giờ tin cô ta. Nhưng chúng tôi phải hợp tác. Nếu không vì cô ta thì Redania đã chìm vào hỗn mang và tan biến rồi.”
“Ông nói đúng. Nhưng nếu ta có thể cho ông lời khuyên, thì đó là hãy thả lỏng một tí đi. Ông biết ta đang nói cái gì mà. Giá treo cổ và phòng tra tấn trên khắp đất nước, đàn áp nhẫn tâm người elves…và cái pháo đài Drakenborg kinh khủng đó. Ta biết ông làm vì lòng yêu nước.
Nhưng ông đã tự xây cho mình một huyền thoại ác độc. Trong huyền thoại này ông là con ma sói săn lùng máu người vô tội.”
“Có người phải làm công việc đó.”
“Và có người phải chịu tội. Ta biết rằng ông cố tỏ ra công bằng, nhưng sai lầm là không thể tránh khỏi. Ông không thể tiếp tục giữ tay mình khỏi nhúng chàm được nữa. Ông chưa từng hãm hại người nào vì lý do cá nhân, nhưng ai sẽ tin điều đó kia chứ? Ai sẽ tin? Rồi một ngày số mệnh sẽ trở mặt và buộc tội ông giết người vô tội, và tệ hơn, nó sẽ nói ông làm vậy để vu lợi cho bản thân. Một lời nói dối sẽ dính lấy ta như hắc ín.”
“Tôi biết.”
“Chúng sẽ không cho ông cơ hội để tự vệ. Những người như ông không được phép có cơ hội. Chúng sẽ dìm ông trong hắc ín…nhưng là sau này. Sau này. Hãy cẩn thận, Dijkstra.”
“Tôi sẽ cẩn thận. Chúng sẽ không tóm được tôi.”
“Chúng đã tóm được vua của ông, Vizimir. Từ những gì ta nghe được, bằng một con dao vào lưng đến ngập chuôi…”
“Một vị vua thì dễ đâm hơn một gián điệp. Chúng không thể bắt được tôi. Chúng sẽ không bao giờ bắt được tôi.”
“Chúng không được phép. Ông biết vì sao không, Dijkstra? Bởi vì trong cái thế giới như địa ngục này, ít ra vẫn còn lại chút công lý.”
***
Rồi tới một ngày khi họ nhớ lại cuộc trò chuyện đó. Cả hai người. Đức vua và gián điệp. Dijkstra nhớ những lời của Esterad Thyssen khi ông ta nghe thấy tiếng bước chân lũ sát thủ bao vây quanh mình từ mọi phía, xuyên suốt dãy hành lang của tòa lâu đài. Esterad nhớ lại lời của Dijkstra trên những bậc thang cẩm thạch nhẵn nhụi dẫn từ Ensenada ra Kênh Chính.
***
“Ông đã có thể chiến đấu,” Guiscard Vermuellen tiếp tục, đôi mắt mù lòa đục ngầu xoáy sâu vào mê cung ký ức. “Chỉ có ba tên sát thủ và ông ngoại ta là một người to khỏe. Ông đã có thể chiến đấu và tự vệ cho đến khi ta kịp gọi lính gác. Ông đã có thể đơn giản bỏ chạy. Nhưng vẫn còn bà ngoại Zuleyka. Ông ngoại đã che chắn và bảo vệ Zuleyka và chỉ mỗi Zuleyka, không hề quan tâm đến mình. Khi cuối cùng cứu viện đến, trên người Zuleyka không có lấy một vết xước. Esterad đã nhận hơn 20 nhát đâm. Ông chết ba giờ sau đó mà không tỉnh lại một lần.”
***
“Ông đã bao giờ đọc từ Quyển Sách Thiêng chưa, Dijkstra?” “Chưa, thưa bệ hạ. Nhưng tôi biết những gì viết trong đó.”
“Tưởng tượng mà xem, ngày hôm qua ta đã giở bừa một trang. Và ta gặp phải trích đoạn này – “Trên con đường đến cõi vĩnh hằng, mỗi người đều tự bước đi mang theo gánh nặng của riêng mình trên vai.” Ông nghĩ sao về chuyện đó?”
“Thời gian đang cạn dần, vua Esterad. Đã tới lúc chúng ta tự mang theo gánh nặng của
riêng mình rồi.”
“Tạm biệt, gián điệp.” “Tạm biệt, đức vua.”
Chúng tôi rời bỏ thành phố nổi tiếng và cổ xưa Assengard và du hành 16 dặm xuống phía Nam, về vùng nông thôn với cái tên Centloch. Đứng từ trên cao nhìn xuống khu vực đó, ta có thể thấy vô vàn hồ nước đủ hình thù và sắp thành hoa văn đẹp mắt. Người dẫn đường của chúng tôi, người elves Avallac’h, đã bảo chúng tôi hãy tìm trong số các hoa văn một hình trông như trifolium. Và quả thật, chúng tôi đã tìm được. Không phải ba mà là bốn hồ nước, với một cái có dạng kéo dài, chạy từ nam lên bắc như thể cuống lá. Cái hồ đó, giờ gọi là Tarn Mira, được bao xung quanh bằng một khu rừng đen, và ở mạn bắc của nó đáng ra phải nổi lên tòa tháp bí ẩn mang tên Tháp Nhạn, hay trong ngôn ngữ của người elves: Tor Zireael.
Tuy nhiên, vào ngày hôm đó, chúng tôi chẳng trông thấy gì ngoại trừ sương mù. Trước khi kịp hỏi người elves Avallac’h về tòa tháp, anh ta đã ra hiệu cho chúng tôi im lặng và nói những lời này: “Hãy đợi và hy vọng. Hy vọng trở về trong ánh sáng và lời tiên tri. Hãy canh chừng dòng nước vô tận, bởi ở đó ta sẽ thấy sứ giả của điềm lành.”
- Buyvid Backhuysen, Trên những Con đường và Địa danh Phép thuật.
Quyển sách này hoàn toàn nhảm nhí từ đầu đến cuối. Đống tàn tích tại hồ Tarn Mira đã được nghiên cứu kỹ càng. Chúng không phải phép thuật, trái ngược với tuyên bố của B. Backhuysen, và do vậy không thể là vết tích của tòa Tháp Nhạn huyền thoại.
- Ars Magica, Ấn bản XIV.