The Witcher Quyển 6 – Tháp Nhạn
Tác giả: Andrzej Sapkowski
Dịch giả: Tổng hợp
Số chương: 11
Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới
“Ta có thể cho ngươi mọi thứ ngươi muốn”, bà tiên nói. “Của cải, vương miện và quyền trượng, danh tiếng, một cuộc đời hạnh phúc dài lâu. Chọn đi.”
“Tôi không muốn của cải hay danh tiếng, vương miện hay quyền trượng,” nữ witcher trả lời. “Tôi ước một con ngựa đen và nhanh như ngọn gió đêm. Tôi ước một thanh kiếm sắc và sáng như ánh trăng rằm. Tôi muốn bước qua thế giới trên con ngựa đen trong đêm thâu, tôi muốn đánh bại sức mạnh của Cái Ác bằng thanh kiếm sáng. Đó là tất cả những gì tôi khao khát.”
“Ta sẽ cho ngươi một con ngựa đen hơn màn đêm và nhanh hơn ngọn gió,” bà tiên hứa. “Ta sẽ cho ngươi một thanh kiếm, sắc và sáng hơn ánh trăng rằm. Nhưng ngươi đòi hỏi ở ta rất nhiều, nữ witcher, và cái giá phải trả sẽ là rất lớn.”
“Bằng cái gì? Bởi tôi không có gì cả.” “Bằng máu của ngươi.”
– Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.
Có một sự thật phổ cập rằng Vũ Trụ, cũng như cuộc sống, xoay quanh một vòng tròn. Bên rìa vòng tròn này, chia thành từng cặp đối lập với nhau là tám điểm ma thuật, xoay đều thành một chu kỳ tự nhiên. Những điểm đó, nằm đối lập nhau trên rìa vòng tròn, là: Imbaelk – Nảy Mầm, Lammas –Trưởng Thành, Belleteyn – Đâm Hoa, Saovine – Lụi Tàn. Rìa vòng tròn cũng được đánh dấu bởi hai điểm chí – đông hay còn gọi là Midinvaerne và hè hay còn gọi là Midaete. Và tồn tại song song hai điểm phân – xuân hay còn gọi là Birke và thu hay còn gọi là Velen. Những ngày này chia vòng tròn ra làm tám phần – và đó là cách phân chia lịch của người elves.
Khi con người cập bến ở cửa sông Yaruga và đồng bằng thung lũng Pontar, họ đem theo lịch riêng của mình, chia năm ra thành 12 tháng – bao gồm đủ toàn bộ các vụ thu hoạch thường niên – từ tháng Một cho đến kết thúc – là khi mùa đông biến đất đai trở nên khô cứng. Nhưng dù cho con người có chia năm và đếm ngày khác đi, họ vẫn chấp nhận vòng tròn tám điểm của người elves: Imbaelk, Lammas, Belleteyn, Saovine cùng cả hai ngày điểm chí và điểm phân. Đối với con người, chúng trở thành những ngày lễ quan trọng. Tách biệt hẳn so với những ngày còn lại như thân cây đứng giữa cánh đồng trơ trọi.
Những ngày này khác biệt bởi do ma thuật.
Không có gì là bí mật rằng trong tám ngày và đêm đó, hào quang phép thuật được nhân lên cực mạnh. Không ai ngạc nhiên trước những hiện tượng kỳ diệu và bí ẩn xảy ra trong tám ngày này, đặc biệt là vào điểm chí và điểm phân. Mọi người đều đã quen với chúng và hiếm khi xảy ra chuyện gì đáng gây xôn xao.
Nhưng năm nay khác.
Năm nay, khi con người tổ chức ăn mừng lễ thu phân thường niên, với những bàn tiệc chứa số lượng hoa quả lớn nhất thu hoạch được trong năm đó, nhưng mỗi loại không quá nhiều. Phong tục là như vậy. Một khi họ đã dùng xong bữa tối và cảm tạ Nữ thần Melitele vì mùa màng bội thu, con người bắt đầu đi ngủ. Và rồi sự kinh hoàng bắt đầu.
Chỉ ít phút trước nửa đêm, một cơn bão hung tợn nổi dậy, gió quật vần vũ, có thể nghe thấy tiếng cành gãy, mái nhà cọt kẹt và cửa sổ đập liên hồi. Nghe thấy những tiếng tru ma quái, gào thét và rên la. Thậm chí cả những đám mây cũng mang hình thù kỳ dị, mà trong số đó nổi bật và lặp lại nhiều nhất là bóng dáng của vó ngựa và kỳ lân phi nước đại. Cơn gió bất chợt ngừng sau khoảng một giờ đồng hồ. Nhưng sự tĩnh lặng không còn nguyên, bởi vì màn đêm bỗng sống dậy với tiếng kêu và đập cánh của hàng trăm con cú muỗi, giống chim bí hiểm, được người ta tin rằng sẽ đậu trên nhà của người sắp chết và hát khúc ca khải hoàn của chúng. Đêm nay, điệp khúc của những con chim lớn và vang xa đến nỗi có cảm tưởng như cả thế giới đang chết.
Những con cú muỗi hát vang khúc khải hoàn trong khi ở phía đường chân trời mây đã che khuất hoàn toàn chút ánh trăng còn sót lại. Rồi đột nhiên tiếng la kinh hoàng của Banshee cất lên, điềm báo cái chết bất ngờ và bạo lực, và Wild Hunt diễu hành qua bầu trời, một đoàn kỵ sĩ ma với cặp mắt rực lửa cưỡi trên lưng những bộ xương ngựa, vạt áo tả tơi tung bay quanh người như cờ hiệu. Cứ đến mỗi dịp, Wild Hunt sẽ lại đi thu hoạch, nhưng cả thập kỷ rồi chưa có lần nào thảm khốc như bây giờ. Ở Novigrad người ta thống kê có đến hơn 20 người đã biến mất không dấu vết.
Khi Đội Săn và đám mây đã tan biến, đôi mắt của con người lại nhìn thấy được ánh trăng, như mọi khi vào đêm thu phân, nó mang một màu nhạt. Nhưng đêm nay, mặt trăng đỏ như máu.
Người dân thường có nhiều cách lý giải cho hiện tượng kỳ dị này, mỗi cái khác nhau một khoảng khá xa tùy theo tín ngưỡng ma quỷ của vùng miền. Các nhà chiêm tinh, druid và pháp sư cũng có lời giải thích của riêng họ, nhưng đa số không chính xác và bị thổi phồng lên nhiều. Có rất ít, rất ít người có thể liên hệ những hiện tượng này với các sự kiện có thật.
Ví dụ, trên Quần đảo Skellige, một nhóm người mê tín coi đó là dấu hiệu của lời tiên tri về Tedd Deireádh, ngày tận thế, mà sẽ bắt đầu bằng trận đánh Ragh nar Roog, cuộc chiến cuối cùng giữa thế lực của Ánh Sáng và Bóng Tối. Nhóm người mê tín cho rằng cơn bão hung tợn vào đêm thu phân và những cơn sóng làm rung chuyển hòn đảo được sinh ra từ mũi tàu Naglfar đến từ Morhogg, dẫn theo một đội quân quỷ dữ trên một con thuyền làm từ móng tay và móng chân người chết. Tuy nhiên, những kẻ khôn ngoan và hiểu biết hơn thì lại liên hệ cơn thịnh nộ của thiên nhiên với nữ pháp sư lừng danhYennefer và cái chết thảm khốc của cô. Và vẫn còn một số khác – thậm chí còn biết nhiều hơn, đã trông thấy ngoài biển cả bão bùng điềm báo cái chết của một ai đó, một người mang trong mình dòng máu cai trị của cả Skellige và Cintra.
Kể từ khi thế giới bắt đầu, đêm thu phân cũng vẫn luôn là đêm của ma quỷ, ác mộng và điềm gở, những lần thức dậy đột ngột giữa đêm khuya, hơi thở và nhịp tim thắt lại trong nỗi sợ vô hình, giữa đống chăn màn nhăn nhúm và thấm đẫm mồ hôi. Điềm gở và sự thức tỉnh thậm chí còn không tha cho những cái đầu sáng suốt nhất. Ở Nilfgaard, tại Tòa Tháp Vàng, Hoàng đế Emhyr var Emreis choàng dậy la hét. Xa trên phương bắc ở tận Lan Exeter, vua Esterad Thyssen nhảy ra khỏi giường, đánh thức vợ mình, hoàng hậu Zuleyka. Ở Tretogor, Dijkstra giật mình thức giấc và với lấy con dao, đánh thức vợ của Bộ trưởng Tài chính. Ở lâu đài Montecalvo, Philippa Eilhart nhảy khỏi ga giường làm từ tơ tằm, mà không làm đánh thức vợ của bá tước de Noailles. Chúng còn làm phiền cả những cái đầu kém sáng suốt hơn tí. Người lùn Yarpen Zigrin ở Mahakam. Witcher già Vesemir ở pháo đài Kaer Morhen. Cậu thu ngân tập sự Fabio Sachs ở thành phố Gors Velen và Crach an Craite trên con tàu Ringhorn. Chúng đánh thức nữ pháp sư Fringilla Vigo tại cung điện Beauclair, nữ tư tế Sigrdrifa tại đền thờ nữ thần Freya nằm trên đảo Hindarsfjall. Chúng đánh thức Daniel Etchevery, bá tước của Garramone, tại pháo đài bị vây hãm Maribor, binh nhất Zyvik của Lữ đoàn Dun Banner, tại đồn canh Ban Glean. Thương nhân Dominik Bombastus Houvenaghel tại thành phố Claremont, và nhiều người khác nữa.
Có rất ít người có thể liên hệ những hiện tượng này với các sự kiện có thật. Và kèm theo một nhân vật cụ thể. May mắn thay, có ba người như vậy đang qua đêm thu phân dưới cùng một mái nhà. Tại Đền thờ của nữ thần Melitele ở Ellander.
***
“Cú muỗi…” Jarre rên rỉ trong khi quan sát bóng đêm đang nuốt trọn công viên trong thánh đường. “Tôi nghĩ là có cả ngàn con, một bầy…Chúng đang khóc vì cái chết của ai đó…Vì cái chết của cậu ấy…Cậu ấy đang chết…”
“Đừng nói chuyện vớ vẩn,” Triss Merigold quay ngoắt lại, giơ nắm tay lên trong một lúc như thể định đẩy hay đấm vào ngực cậu ta. “Cậu tin vào mấy trò mê tín ngu ngốc đó à? Tháng Chín đã qua rồi, chim chóc đang chuẩn bị di trú. Điều đó hoàn toàn là tự nhiên!”
“Cậu ấy đang chết…”
“Không có ai đang chết cả!” nữ pháp sư hét lên, tái nhợt vì giận. “Không ai cả, cậu hiểu chưa? Thôi lảm nhảm đi!”
Bên ngoài hành lang thư viện, các học viên bị đánh thức bởi âm thanh báo động. Gương mặt họ lo lắng và biến sắc.
“Jarre,” Triss bình tĩnh lại, đặt hai tay lên vai cậu bé và siết. “Cậu là người đàn ông duy nhất trong đền thờ. Tất cả mọi người đều đang trông chờ vào cậu. Cậu không được phép hoảng loạn hay sợ sệt. Kiềm chế bản thân đi. Đừng làm chúng tôi thất vọng.”
Jarre thở dài và với cố gắng rõ rệt, kiềm chế cơn run trên môi và bàn tay.
“Tôi không sợ…” cậu thì thầm, tránh nhìn vào mắt nữ pháp sư. “Đó không phải nỗi sợ, mà là lo lắng. Cho cậu ấy. Tôi đã thấy cậu ấy trong mơ…”
“Tôi cũng đã trông thấy cô bé.” Triss cắn môi. “Chúng ta mơ cùng một giấc mơ, cậu, tôi và Nenneke. Nhưng đừng để lộ ra cái gì.”
“Máu trên mặt cậu ấy…nhiều máu quá…”
“Tôi đã bảo cậu im lặng cơ mà. Nenneke đang tới kìa.”
Nữ tư tế tối cao tiến lại phía họ. Gương mặt bà mệt mỏi. Để trả lời câu hỏi thầm lặng của Triss, bà lắc đầu. Nhận thấy Jarre đang mở mồm ra, bà nhanh chóng tiếp lời.
“Không may là, chẳng có gì cả. Khi Wild Hunt bay qua thánh đường, chúng đánh thức gần hết mọi người, nhưng không ai gặp ảo ảnh. Thậm chí mơ hồ như của chúng ta. Đi ngủ đi nhóc con, ở đây không có gì cho con làm đâu. Mấy đứa này, quay lại ký túc xá ngay!”
Bà xoa mặt bằng cả hai bàn tay.
“Heh…Thu phân! Đêm đáng nguyền rủa…Đi ngủ đi, Triss. Chúng ta chẳng thể làm được gì cả.”
“Sự bất lực này làm tôi muốn điên,” nữ pháp sư nói, tay nắm chặt lại. “Chỉ cần nghĩ tới con
bé đang phải khổ sở chịu đựng, chảy máu, tính mạng đang bị đe dọa…Quỷ thần ơi, giá mà tôi biết phải làm gì!”
Nenneke, nữ tư tế tối cao của Đền thờ Melitele, quay lưng đi. “Và cô đã thử cầu nguyện chưa?”
***
Ở phía nam, xa đằng sau dãy núi Amell, ở Ebbing, tại một ngôi làng tên Pereplut, nằm giữa những đầm lầy trải dài tạo nên bởi khúc giao của sông Velda, Lete và Arete, một nơi cách thành phố Ellander và Đền thờ Melitele khoảng 800 dặm theo đường chim bay, vào lúc bình minh, một cơn ác mộng chợt đánh thức một ẩn sĩ già tên Vysogota. Một khi đã dậy, Vysogota không thể nhớ nổi nội dung giấc mơ, nhưng một cảm giác bất an kỳ lạ ngăn ông ta quay trở lại giấc ngủ.
***
“Lạnh, lạnh, lạnh, brr,” Vysogota tự lẩm nhẩm với chính mình khi đi dọc con đường đâm xuyên qua lùm cây. “Lạnh, lạnh, lạnh, brr.”
Cái bẫy tiếp theo trống không. Chẳng có lấy một con mồi nào cả. Cả một ngày đi săn không được cái gì hết. Vysogota lau đi lớp bùn và rêu phủ lên cái bẫy, vừa lầm bầm nguyền rủa và khịt mũi.
“Huh, đã sang đông rồi,” ông ta nói, hướng về phía đầm lầy. “Trong khi tháng Chín vẫn còn chưa qua. Sau cùng thì, chỉ vừa mới qua thu phân được vẻn vẹn bốn ngày. Cả đời ta không thể nhớ nổi có bao giờ lạnh như thế này. Và ta đã sống cũng lâu rồi đó chứ!”
Cái bẫy tiếp theo, cái bẫy cuối cùng, cũng trống rỗng. Vysogota thậm chí còn chẳng buồn chửi thề.
“Không nghi ngờ gì,” ông già tự lẩm nhẩm, “là khí hậu đang ngày càng lạnh đi qua từng năm. Và giờ thì có vẻ như nhiệt độ tụt nhanh như tuyết lở. Ha, đám elves đã dự đoán được điều này từ hàng thế kỷ trước rồi, nhưng ai mà lại đi tin dự đoán của người elves kia chứ?”
Phía trên đầu ông già, những đôi cánh phấp phới, và những bóng đen nhỏ thó bắt đầu phi qua phi lại. Làn sương phủ lên khu đầm lầy bỗng sống dậy với tiếng la hoang dại của cú muỗi, và âm thanh những đôi cánh đập điên cuồng. Vysogota không quan tâm đến lũ chim. Ông ta không phải một người mê tín và trong đầm lầy luôn có cũ muỗi, đặc biệt là vào lúc bình minh, khi chúng bay gần đến nỗi ông phải thắc mắc sao chúng vẫn chưa đâm vào đầu mình. Chà, có thể là chưa ngày nào chúng tập trung đông như hôm nay và không phải với mấy tiếng hét chói tai đó…Tuy nhiên, dạo gần đây thiên nhiên có vẻ thích bày những trò chơi khăm như vậy, và những sự kiện lạ lùng cứ liên tiếp xảy ra, cái đi sau kỳ dị hơn cái đi trước.
Ông già đang kéo cái lưới cuối cùng lên khỏi mặt nước, cũng trống không, thì nghe thấy một tiếng ngựa hý. Bài ca của đàn cú muỗi bỗng ngưng bặt như thể được ra hiệu.
Ngay cả trong vùng đầm lầy, Pereplut cũng có những bụi cây khô ráo mọc trên những nơi cao, những gò đất phủ đầy phong đen, trăn, dương đào và mận hoang. Đa số chúng đều được bao vây xung quanh bởi những hồ nước kín mít tới nỗi một con ngựa hay một người kỵ sĩ không thể nào nhận ra nổi nếu không biết đường. Thế nhưng tiếng hý – Vysogota lại nghe thấy lần nữa – lại vọng ra từ một trong những gò đất như vậy.
Tính hiếu kỳ đã đánh bại sự cảnh giác.
Vysogota không biết nhiều lắm về ngựa, nhưng ông là một chuyên gia thẩm mỹ và biết cách thưởng thức và trân trọng vẻ đẹp. Và con ngựa đang đứng giữa những thân cây trăn kia, bờm sáng bóng như than, là một tác phẩm nghệ thuật đích thực. Nó đẹp tới nỗi tưởng như là ảo.
Nhưng con ngựa là thật. Và nó thật tới mức bị mắc bẫy, máu đỏ phủ lên một bụi dương đào bên cạnh.
Khi Vysogota lại gần, con ngựa vểnh tai lên, duyên dáng lắc đầu, quay đi và giậm chân cho đến khi mặt đất rung chuyển. Giờ thì ông ta có thể thấy con vật đang bị mắc bẫy là một con ngựa cái. Ông già còn phát hiện ra một chi tiết nữa. Một thứ mà khiến tim ông nhảy ra ngoài và những ngón tay vô hình siết lấy cổ họng.
Đằng sau con ngựa, nằm dưới một cái hố nông, là một cái xác.
Vysogota ném túi đồ xuống đất. Ông ta cảm thấy xấu hổ vì suy nghĩ đầu tiên của mình là quay đầu và bỏ chạy. Ông lại gần một cách cẩn thận, bởi vì con ngựa đen đang giậm chân và lắc đầu có vẻ như chỉ cần một cơ hội để cắn hoặc tặng cho kẻ lạ mặt một cú đá.
Cái xác là một thiếu niên. Cậu ta nằm sấp mặt xuống đất, một tay nép vào người, tay kia vươn sang bên với những ngón tay cắm xuống đất. Cậu ta mặc một chiếc áo da lộn, quần bó và ủng theo kiểu elves có khóa cao đến đầu gối.
Vysogota cúi xuống và ngay khoảnh khắc đó cái xác phát ra một tiếng rên thật lớn. Con ngựa hí lên một tiếng sắc lẹm và giậm chân.
Tay ẩn sĩ quỳ xuống và cẩn thận lật ngửa người thiếu niên. Theo bản năng, ông ta giật đầu ra sau và rít lên khi trông thấy lớp mặt nạ gớm ghiếc tạo nên từ bùn và máu khô trên mặt thằng nhóc. Cẩn thận, ông ta lau đi lớp rêu, lá và cát bám trên môi cùng với nước miếng, gỡ một lọn tóc dính trên má do máu tụ. Người thiếu niên bị thương rên lên, cơ thể căng cứng và bắt đầu run rẩy. Vysogota gạt tóc cậu ta ra khỏi mặt.
“Một đứa con gái,” ông nói lớn, không thể tin nổi thứ đang ở trước mắt mình. “Một đứa con gái.”
***
Nếu vào nửa đêm ngày hôm sau, có người lén lại gần căn chòi nằm ẩn sâu trong đầm lầy và
nhìn qua khe nứt trên ô cửa sổ, trong ánh sáng le lói của đèn dầu, họ sẽ thấy một thân hình mảnh mai nằm bất động, đầu băng bó, dở sống dở chết, chăn đắp kín người. Họ cũng sẽ thấy một ông già ngồi đó, với chòm râu bạc dài lòng thòng và những sợi tóc trắng hếu trên cái đầu hói gần hết đổ xuống vai. Họ sẽ thấy cái bóng của ông già hắt lên tường bởi một ngọn nến cháy dở, thấy trên chiếc bàn có đặt một cái đồng hồ cát, thấy ông già mài nhọn ngòi bút trong khi đang cúi xuống một tấm giấy da. Thấy cái cách ông chăm chú theo dõi cô gái bị thương và tự lẩm nhẩm một mình.
Nhưng làm gì có chuyện đó, chẳng ai có thể thấy cả. Căn chòi với mái lợp phủ đầy rêu phong nằm lạc lõng giữa làn sương, bỏ hoang giữa đầm lầy, nơi không ai dám bước chân vào.
***
“Ta ghi chép lại lịch trình như sau,” Vysogota nhúng ngòi bút vào mực. “Đã qua ba tiếng kể từ sau cuộc phẫu thuật. Chẩn đoán – vulnus incisivm, một vết cắt gây ra bởi một lực tương đối mạnh từ một vật thể không xác định, có lẽ là một thanh đao cong. Vết thương bắt đầu ở bên dưới mắt trái và chạy qua vùng thái dương tới mang tai. Phần sâu nhất của vết cắt, mà gần chạm đến xương, nằm bên dưới mắt. Dự đoán thời gian từ khi bị thương cho tới lần chữa trị đầu tiên, mười giờ đồng hồ.”
Ngòi bút sột soạt trên giấy, nhưng tiếng sột soạt không diễn ra được quá vài phút. Bởi vì trên giấy chỉ viết có vài dòng. Vysogota rõ ràng là không coi toàn bộ những gì mình đã nói là xứng đáng để lưu lại.
“Quay trở lại quá trình điều trị vết thương,” ông già tiếp tục dán mắt vào ngọn lửa le lói và tí tách của cây nến mỡ bò. “Ghi chép lại như sau. Ta đã không cắt dọc vết thương, chỉ giới hạn ở mức làm sạch những nơi không chảy máu hay tụ máu, dĩ nhiên rồi. Ta rửa vết thương bằng một dung dịch chiết xuất từ vỏ liễu. Ta lau hết bụi bẩn và vật thể lạ. Rồi khâu miệng vết thương, bằng
sợi gai. Ở quanh đây không có loại sợi nào khác. Cuối cùng, ta đắp một chút cúc núi và băng bó vết thương lại.”
Một con chuột chạy qua phòng. Vysogota ném cho nó một mẩu bánh mỳ. Cô gái đang nằm trên chiếu thở từng hơi rời rạc và rên rỉ.
***
“Đã qua tám giờ kể từ sau cuộc phẫu thuật. Tình trạng bệnh nhân – không biến chuyển. Tình trạng bác sĩ…nói cách khác, là ta đây, đã tốt hơn trước, kể từ khi ta chợp mắt được một lúc…Ta lại có thể tiếp tục ghi chép. Bởi vậy cần thêm vào những trang giấy này vài mô tả về bệnh nhân của ta. Dành cho những thế hệ tương lai. Phòng trường hợp những thế hệ tương lai có thể tới được nơi đầm lầy này trước khi nó mục rữa và hóa tro hoàn toàn.”
Vysogota thở dài, nhúng ngòi bút vào mực.
“Với bệnh nhân,” ông lầm bầm, “ghi chép lại như sau. Khoảng 16 tuổi, cao, thân hình hơi gầy, nhưng ít ra cũng không yếu ớt, hay có dấu hiệu suy dinh dưỡng. Cơ bắp và ngoại hình gần tương tự một thiếu niên elf, nhưng ta không quan sát thấy dấu hiệu nào của con lai…hay thậm chí là lai một phần tư. Một lượng nhỏ huyết thống của Giống Loài Cổ Xưa, theo như nghiên cứu, có thể không để lại dấu vết nào cả.”
Chỉ lúc đó Vysogota mới nhận ra rằng mình chưa viết gì lên giấy cả, không một từ. Bàn tay cầm bút để sẵn sàng, nhưng mực đã khô. Ông già có vẻ không chú tâm đến điều đó.
“Hãy cũng ghi lại rằng,” ông tiếp tục, “cô gái chưa từng sinh con bao giờ. Và trên người cũng không có vết sẹo cũ nào còn sót lại sau bất kỳ tai nạn hay chấn thương trước đây, không có dấu hiệu của những người sống một cuộc sống vất vả hay liều lĩnh. Ta nhấn mạnh vào phần vết sẹo cũ. Bởi vì hiện tại trên cơ thể không thiếu sẹo. Cô gái đã bị đánh đập. Đánh đập thật sự chứ không phải bằng bàn tay của cha cô ta. Có lẽ là cũng bị đá nữa.”
“Ta cũng tìm thấy trên người một dấu ấn khá kỳ lạ…Hmm, có lẽ điều này được ghi lại chỉ vì mục đích khoa học…Trên háng, gần gò mu, có săm một hình bông hồng đỏ.”
Vysogota nghiên cứu cái ngòi bút sắc nhọn, mà sau đó ông nhúng vào mực. Tuy nhiên, lần này ông đã không quên mục đích của hành động đó – ông bắt đầu viết cho đến khi mực khô.
“Nửa tỉnh nửa mê,” ông tiếp tục. “cô gái bắt đầu la hét và nói mớ. Chất giọng và ngữ điệu, nếu bỏ qua những ngôn từ tục tĩu và tiếng lóng của tội phạm thường xuyên được chêm vào, gây ra một sự bối rối không hề nhỏ, và cực kỳ khó để xác định, nhưng ta dám nói rằng cô gái tới từ phía bắc chứ không phải phía nam. Có một vài từ…”
Lại lần nữa ngòi bút sột soạt. Rất ngắn, ngắn hơn nhiều so với khoảng thời gian cần thiết để ghi lại mọi thứ ông vừa nói. Ngay sau đó, ông già tiếp tục cuộc độc thoại, ngay tại chỗ vừa mới ngắt.
“Một vài từ, tên và biệt danh mà cô gái nói mớ trong lúc ngủ, có lẽ tốt hơn là không nên ghi lại. Tuy nhiên vẫn đáng để điều tra. Mọi nghi vấn đều ám chỉ rằng một cá nhân rất, rất đặc biệt đã tìm được đường tới căn chòi của Vysogota già nua này…”
Ông già im lặng một hồi, nghe ngóng.
“Ta hy vọng,” ông lầm bầm, “rằng căn chòi của Vysogota già nua này sẽ không là điểm dừng cuối cùng trên con đường của con bé.”
***
Vysogota cúi xuống tấm giấy da và tựa vào cây bút, nhưng không viết gì cả, không một chữ. Ông ném cây bút lên bàn. Ông thở gấp trong một giây, lầm bầm giận dữ và khụt khịt. Ông nhìn chiếc giường và lắng nghe âm thanh đang phát ra từ nó.
“Ta buộc phải thừa nhận,” ông nói bằng giọng mệt mỏi, “rằng nỗi sợ của mình là hoàn toàn có căn cứ. Mọi cố gắng của ta có vẻ như vẫn là chưa đủ và vô tác dụng. Tình trạng bệnh nhân vẫn đang trầm trọng và giờ đang lên cơn sốt. Vết thương đã bị nhiễm trùng. Chúng ta đã chứng kiến ba trong số bốn triệu chứng chủ yếu của viêm cấp tính. Mẩn đỏ, nóng và sưng tấy giờ có thể dễ dàng được phát hiện bằng mắt thường. Một khi chấn động sau phẫu thuật đã qua đi, chắc chắn sẽ xuất hiện triệu chứng thứ tư – đau đớn. Hãy ghi lại rằng đã gần nửa một thế kỷ kể từ lần cuối ta cống hiến bản thân mình cho nghệ thuật chữa bệnh, ta có thể thấy năm tháng đã mài mòn trí nhớ và ảnh hưởng đến độ nhạy của những ngón tay đến mức nào. Ta không thể làm được gì nhiều, thậm chí còn ít hơn là mình tưởng. Ta không có đủ thuốc hay liệu pháp. Tất cả mọi hy vọng của ta giờ phụ thuộc vào khả năng tự vệ của cơ thể đứa trẻ…”
***
“Đã qua 12 giờ kể từ sau cuộc phẫu thuật. Đúng như dự đoán, triệu chứng thứ tư của viêm cấp tính đã xuất hiện – đau đớn. Bệnh nhân gào thét, lên cơn sốt và tần suất co giật tăng lên. Ta không có gì cả, không có phương thuốc nào có thể đưa cho con bé. Ta chỉ có một liều nhỏ chiết xuất cà độc dược, nhưng con bé quá yếu để có thể chống cự được nó. Ta cũng có một ít phụ tử, nhưng nó sẽ giết chết con bé ngay tức thì.”
***
“Đã qua 15 giờ kể từ sau cuộc phẫu thuật. Bình minh đã lên. Bệnh nhân đang bất tỉnh. Cơn sốt vẫn còn tăng và tần suất co giật vẫn không thuyên giảm. Ngoại trừ những điều đó, có vẻ như cơ mặt cũng bị co lại đáng kể. Nếu đó là uốn ván thì con bé không thể cứu được. Nhưng hãy hy vọng đó chỉ là dây thần kinh mặt…hoặc dây thần kinh sinh ba…hoặc là cả hai. Con bé sẽ bị dị dạng…nhưng còn sống…”
Vysogota nhìn xuống tờ giấy, ông đã không viết một từ.
“Đó là nếu,” ông nói nhạt, “con bé sống sót khỏi vết nhiễm trùng.”
***
“Đã qua 20 giờ kể từ sau cuộc phẫu thuật. Cơn sốt vẫn tăng. Tình trạng bệnh nhân đang nguy kịch. Mẩn đỏ, nóng, vết sưng và đau đớn, đối với ta, có vẻ như vẫn chưa lên đến đỉnh điểm. Nhưng con bé không có lấy một cơ hội sống sót để chạm đến được giới hạn đó. Vậy nên ta viết…Ta, Vysogota của Corvo, không tin vào sự tồn tại của thánh thần. Nhưng nếu họ thực sự có thật, thì xin hãy bảo vệ đứa trẻ này. Và xin hãy tha thứ cho những gì ta đã làm…nếu những gì ta làm hóa ra lại là sai lầm.”
Vysogota đánh rơi cây bút, dụi mí mắt mà đang sưng phồng và ngứa ngáy, và dựa tay vào thái dương.
“Ta đã cho con bé uống một hỗn hợp phụ tử và cà độc dược,” ông nói thật khẽ. “Vài giờ tiếp theo sẽ quyết định tất cả.”
***
Ông già không ngủ, mà chỉ đang gật gà khi bỗng dưng nghe thấy một tiếng kiêu. Một tiếng kêu phẫn nộ hơn là đau đớn. Ở bên ngoài, ánh sáng nhạt nhòa của bình minh rọi qua khe cửa. Cát trong đồng hồ đã chảy hết từ lâu. Vysogota, như mọi khi, đã quên lật ngược nó lại. Ngọn nến đã tắt hẳn, chỉ còn ánh lửa le lói trong lò sưởi chiếu sáng góc phòng. Ông già đứng dậy và kéo tấm rèm ngăn cách chiếc giường và phần còn lại của căn phòng sang một bên để trấn an bệnh nhân.
Bệnh nhân đang đứng dậy khỏi sàn nhà mà mình vừa mới ngã xuống một phút trước và ngồi lên mép giường, cố gãi da mặt bên dưới lớp vải băng bó. Vysogota ho một tiếng.
“Ta khuyên cô bé không nên đứng dậy. Cô vẫn còn yếu. Nếu cần gì thì hãy gọi ta. Ta luôn ở gần.”
“Tôi lại không muốn ông ở gần,” cô nói nhẹ nhàng, nhưng rất rõ. “Tôi muốn đi đái.”
Khi ông quay trở lại để đem chiếc bô đi, cô gái đang nằm ngửa trên giường, mát xa lớp vải băng bó bên má, trán và cổ. Khi quay trở lại sau một lúc nữa, ông thấy cô vẫn nằm nguyên như cũ.
“Bốn ngày?” cô hỏi, nhìn lên trần nhà.
“Năm. Đã qua gần một ngày kể từ lần cuối chúng ta nói chuyện với nhau. Cô đã ngủ suốt cả ngày. Thế là tốt. Cô cần phải ngủ.”
“Tôi thấy đỡ hơn.”
“Ta rất mừng khi nghe vậy. Hãy gỡ lớp băng gạc ra nào. Cầm lầy tay ta, ta sẽ giúp cô ngồi dậy.”
Vết thương hồi phục tuyệt vời, nó đã khô và không còn đau nữa khi ông già gỡ lớp băng gạc ra. Cô gái chạm vào má mình và nhăn mặt. Vysogota biết rằng nó không phải là vì đau. Cứ thỉnh thoảng cô lại muốn kiểm tra vết thương, cảm nhận độ nghiêm trọng của nó. Muốn đảm bảo – với sự kinh hãi – rằng cái thứ mà cô vừa mới chạm phút trước không phải là một cơn ác mộng gây ra bởi sốt cấp tính.
“Ông có gương không?” “Không.” Ông nói dối.
Cô nhìn ông, có lẽ là lần đầu tiên trong trạng thái tỉnh táo.
“Thế có nghĩa là nó tệ lắm à?” cô hỏi, lướt ngón tay dọc vết khâu.
“Nó…là một vết cắt dài và sâu.” Ông ngập ngừng, cảm thấy khó chịu vì phải giải thích và biện minh cho hành động của mình với một con nhãi. “Mặt cô vẫn còn rất sưng. Trong vài ngày tới, ta sẽ cắt chỉ, nhưng cho đến lúc đấy ta sẽ bôi dầu liễu lên đó. Cô bé không cần phải quấn băng cả đầu nữa. Vết thương đang lành rất nhanh.”
Cô không trả lời. Cô di chuyển miệng và quai hàm, vặn vẹo da mặt, thử xem vết thương có thể cho phép mình làm gì và không làm gì.
“Ta đã nấu súp gà. Ăn đi.”
“Tôi sẽ ăn. Nhưng lần này là tự mình. Tôi không muốn bị bón như một thằng què.”
Cô ăn trong một khoảng thời gian dài. Cái thìa gỗ được giơ lên miệng thật nhẹ nhàng và khó khăn như thể nó nặng phải đến hai cân. Nhưng cô đã làm được mà không cần Vysogota giúp, ông già ngồi nhìn với vẻ thích thú. Vysogota thấy tò mò – và sự tò mò đốt cháy tâm can ông. Ông biết rằng sự hồi phục của cô gái sẽ bắt đầu sự trao đổi qua lại từ ngữ mà có thể làm rõ vài phần lý do mà cô đã xuất hiện một cách bí ẩn trong vùng đầm lầy này. Ông biết và không thể đợi được cho đến lúc đó. Ông đã dành quá nhiều thời gian sống cô độc giữa nơi hoang dã.
Cô gái ăn xong và lại nằm xuống gối. Trong một lúc cô dán mắt lên trần nhà như thể đã chết, và rồi quay đầu sang. Đôi mắt xanh lục, Vysogota lại nghĩ, khiến gương mặt con bé trông như một đứa trẻ vô tội, tương phản với một bên má giờ đây bị dị dạng thật khủng khiếp làm sao. Vysogota biết vẻ đẹp kiểu này, cặp mắt lớn của một đứa trẻ vĩnh cửu, khơi gợi lên sự cảm thông gần như là bản năng. Một đứa trẻ vĩnh cửu, dù cho khi sinh nhật tuổi 20, 30, hay thậm chí là 40 đã chìm vào quên lãng từ lâu rồi. Phải, Vysogota biết vẻ đẹp này. Người vợ thứ hai của ông cũng giống vậy. Và cả con gái ông nữa.
“Tôi phải rời khỏi đây,” cô gái bất chợt lên tiếng. “Và thật nhanh. Tôi đang bị truy đuổi.
Ông biết điều đó mà.”
“Ta biết,” ông gật đầu. “Đó là những từ đầu tiên cô thốt ra mà bất chấp bề ngoài, không phải là mê sảng. Hay nói chính xác hơn, một trong số những từ đầu tiên. Trước hết, cô hỏi về con ngựa và thanh kiếm của mình. Theo thứ tự đó. Khi ta trấn an cô rằng con ngựa và thanh kiếm đã được chăm sóc chu đáo, cô tiếp tục chuyển sang nghi ngờ rằng ta là một đồng minh của Bonhart và được cử đến không phải để giúp cô, mà là tra tấn và trao cho cô hy vọng giả tạo. Một khi, không phải là không cố gắng, cô nhận ra sai lầm của mình, cô tự giới thiệu là Falka và cảm ơn ta vì đã cứu cô.”
“Thế là tốt.” cô nhìn xuống gối, như để tránh chạm mắt với ông. “Tốt là tôi đã không quên cảm ơn ông. Trí nhớ của tôi giờ như sương mù. Tôi không biết cái gì là thật và cái gì là mơ nữa. Tôi đã sợ là mình chưa cảm ơn ông. Nhưng tên tôi không phải là Falka.”
“Ta cũng biết cả điều này, nhưng nhờ do may mắn thì đúng hơn. Cô đã nói trong khi lên cơn sốt.”
“Tôi là một kẻ đào tẩu.” cô nói mà không quay đầu đi. “Một kẻ đào tẩu. Chứa chấp tôi là rất nguy hiểm. Biết tên thật của tôi cũng là rất nguy hiểm. Tôi phải lên ngựa và rời đi trước khi bị phát hiện…”
“Một lúc trước,” ông nói nhạt, “cô còn gặp khó khăn khi ngồi lên bô để tiểu. Ta không thể tưởng tượng cô định ngồi lên lưng ngựa kiểu gì. Nhưng ta đảm bảo với cô rằng nơi này rất an toàn. Không ai có thể tìm thấy cô ở đây cùng với ta.”
“Chúng đang truy lùng tôi. Chúng sẽ lần theo dấu vết của tôi, sục sạo khắp các vùng lân cận…”
“Bình tĩnh đi. Mưa đã nhiều ngày rồi và nước đã rửa trôi hết dấu vết. Và khu vực này bị bỏ hoang. Cô đang nằm trong nhà một ẩn sĩ đã cách li bản thân với phần còn lại của thế giới. Đến mức mà thế giới khó lòng mà tìm được ông ta. Tuy nhiên, nếu cô muốn, ta có thể tìm cách mang tin tức về người thân và bạn bè đến cho cô.” “Ông thậm chí còn không biết tôi là ai…”
“Cô là một cô gái bị thương,” ông cắt lời, “trốn chạy khỏi một ai đó không ngần ngại hãm hại một đứa con gái. Cô có muốn ta gửi lời nhắn tới cho ai đó không?”
“Chẳng còn ai cả,” cô nói sau một hồi, Vysogota bắt được sự thay đổi trong giọng nói của cô. “Bạn bè tôi chết cả rồi. Họ đã bị giết.”
Ông không hỏi gì hết.
“Tôi là cái chết,” cô tiếp tục bằng chất giọng kỳ lạ. “Tất cả những ai tiếp xúc với tôi đều sẽ chết.”
“Không phải tất cả,” ông phủ nhận. “Không phải Bonhart. Cái tên mà cô hét lên trong giấc mơ, cái tên mà giờ cô muốn chạy thoát. Sự tiếp xúc đã gây hại tới cô nhiều hơn là hắn. Có phải hắn…là người đã làm cô bị thương không?”
“Không,” cô mím môi lại để kìm một tiếng rên hoặc một câu chửi thề. “Kalous là kẻ đã làm tôi bị thương. Stefan Skellen. Và Bonhart…Bonhart làm tôi tổn thương hơn nhiều. Hơn rất nhiều. Tôi có nói về chuyện đó trong cơn sốt không?”
“Bình tĩnh nào. Cô vẫn còn yếu, cô nên tránh cử động đột ngột.” “Tên tôi là Ciri.”
“Ta sẽ đi chuẩn bị một liều phụ tử, Ciri.”
“Đợi đã…ông có thể cho tôi một cái gương không?” “Ta đã bảo là…”
“Làm ơn!”
Ông già đồng ý, ông đã đi đến kết luận rằng điều này là cần thiết và không thể đợi lâu hơn nữa. Ông thậm chí còn mang theo một ngọn nến. Để cô có thể nhìn rõ hơn những gì người ta đã làm với gương mặt mình.
“Chà, phải rồi,” cô nói bằng giọng run rẩy. “Đúng như những gì tôi đã tưởng tượng. Gần như những gì tôi đã tưởng tượng.”
Ông bỏ đi và kéo rèm lại đằng sau lưng mình.
Cô cố khóc thật khẽ, để ông không nghe thấy. Cô cố bằng tất cả sức lực của mình.
***
Ngày tiếp theo Vysogota cắt nửa số chỉ khâu. Ciri xoa má, rít lên như một con rắn, phàn nàn về cơn đau gần mang tai và cổ cùng với phần dưới quai hàm giờ đây rất nhạy cảm. Tuy vậy, cô vẫn đứng lên, mặc quần áo và ra ngoài. Vysogota không phản đối, nhưng tháp tùng cô. Ông già không cần phải giúp hay đỡ cô gái. Cô khỏe mạnh và nhanh nhẹn hơn vẻ ngoài nhiều.
Tuy nhiên, khi đã ở bên ngoài, cô vấp ngã. Cô tựa vào khung cửa.
“Trời…” cô thở ra một hơi, “lạnh quá! Rét cóng luôn. Đã sang mùa đông rồi sao? Tôi đã ở trên giường bao lâu vậy? Mấy tuần?”
“Chính xác là sáu ngày. Hôm nay là ngày thứ năm của tháng Mười. Nhưng có vẻ như tháng Mười này sẽ lạnh bất thường.”
“Ngày thứ năm của tháng Mười?” Cô nhăn mặt, và rồi rít lên đau đớn. “Sao lại có thể như vậy? Hai tuần?”
“Cái gì? Cái gì mà hai tuần?”
“Nó không quan trọng.” Cô nhún vai. “Có lẽ là tôi nhầm…hoặc có thể không. Sao quanh đây lại bốc mùi ghê thế?”
“Da thú. Chuột, hải li, chồn, rái cá và nhiều loại da thuộc khác. Kể cả một ẩn sĩ cũng phải kiếm sống chứ.”
“Ngựa của tôi đâu?” “Trong chuồng.”
Con ngựa đen chào đón họ bằng một tiếng khụt khịt lớn và con dê của Vysogota thì với một tiếng be be, mà tỏ rõ sự không hài lòng của mình khi phải chia sẻ chỗ ở với một người thuê nhà khác. Ciri ôm cổ và vỗ về con ngựa, vuốt ve cái bờm bóng loáng.
“Yên cương và hành lý của tôi đâu?” “Đây.”
Ông không phản đối, bình luận hay bày tỏ thái độ dưới bất kỳ hình thức nào. Ông im lặng, đứng tựa vào cây gậy chống. Ông không di chuyển khi cô hớp hơi trong lúc nhấc bộ yên cương lên, không động đậy khi cô lảo đảo dưới sức nặng và ngã xuống sàn nhà đầy rơm một cách kỳ quặc, kêu lên một tiếng thật lớn. Ông không lại gần hay giúp cô đứng lên. Ông chỉ theo dõi thật tỉ mỉ.
“Chà,” Ciri nói qua hàm răng nghiến chặt, trong khi đẩy con ngựa đang cố dí đầu vào người mình ra chỗ khác. “Rõ ràng rồi. Nhưng tôi phải rời khỏi đây, chết tiệt! Tôi phải đi!”
“Đi đâu?” ông hỏi khô khan.
Cô mát xa khuôn mặt trong khi ngồi trên đống rơm đặt sau bộ yên cương. “Càng xa càng tốt.”
Vysogota gật đầu, như thể câu trả lời đã thỏa mãn ông, làm sáng tỏ mọi thứ và không để lại nghi ngờ nào. Ciri đứng dậy đầy khó khăn. Cô không còn cố nhặt lên bộ yên cương nữa. Cô kiểm tra xem con ngựa có đủ cỏ hay yến mạch để ăn không và bắt đầu xoa lưng và bên sườn nó bằng rơm. Vysogota đợi trong im lặng và quan sát. Cô gái vấp phải cây cột chống mái và mặt trắng bóc như tờ giấy. Ông đưa cho cô cây gậy của mình mà không nói một lời.
“Không có gì đâu. Chỉ là…”
“Chỉ là chóng mặt, bởi vì cô đang bị bệnh và yếu như một đứa trẻ sơ sinh. Quay lại nhà nào.
Cô cần phải nằm xuống.”
***
Vào khoảng lúc hoàng hôn, sau khi đã ngủ được vài giờ đồng hồ, Ciri lại bước ra ngoài.
Vysogota, vừa mới quay về từ bờ sông, gặp cô bé ở bụi cây phỉ.
“Đừng đi quá xa khỏi căn chòi,” ông cảnh báo. “Đầu tiên, cô vẫn còn quá yếu…” “Tôi thấy đỡ hơn rồi.”
“Thứ hai, ở đây rất nguy hiểm. Xung quanh đều là đầm lầy không đáy và rừng sậy trải dài vô tận. Cô không biết đường, cô có thể bị lạc và chết đuối ở chỗ nào đó.”
“Và ông,” cô chỉ vào cái bao tải ông đang vác trên vai, “thì biết đường và dĩ nhiên là có thể di chuyển tùy ý. Ông không thể đi bộ quá xa được, vậy nên cái đầm lầy này cũng không rộng tới mức đó. Rõ ràng là ông thuộc da để kiếm sống. Kelpie, con ngựa của tôi có yến mạch để ăn trong khi tôi không thấy có cánh đồng nào quanh đây. Chúng ta thì ăn thịt gà và lợn. Và bánh mỳ, bánh mỳ thật sự. Tôi không nghĩ là ông có thể bẫy được bánh mỳ. Vậy nên có nghĩa là một ngôi làng nằm gần chỗ này.”
“Một suy đoán hoàn hảo,” ông khẽ thú nhận. “Thế có nghĩa là ta nhận lương thực từ một cơ ngơi định cư gần nhất. Gần nhất, nhưng không có nghĩa là ở ngay cạnh. Nó nằm bên rìa khu đầm lầy. Và khu đầm lầy được bao quanh bởi một con sông. Ta trao đổi da thú để lấy thức ăn mà họ chở tới bằng thuyền. Bánh mỳ, muối, pho mai và đôi khi là một con gà hoặc thỏ. Thỉnh thoảng có thêm cả tin tức nữa.”
Không có câu hỏi nào được xướng lên, nên ông già tiếp tục.
“Vài kỵ sĩ đã xuất hiện trong làng. Hai lần. Lần đầu tiên chúng đe dọa nông dân với lửa và kiếm, cấm không ai được phép giúp đỡ hay che giấu cô. Lần thứ hai, chúng hứa hẹn một món tiền thưởng cho cái xác của cô. Những kẻ truy đuổi có vẻ như tin rằng cô đã bị khuất phục bởi vết thương và giờ đang nằm chết ở đâu đó trong rừng.”
“Và chúng sẽ không dừng lại cho đến khi tìm thấy xác tôi,” cô lầm bầm với vẻ u ám. “Tôi biết rất rõ điều này. Chúng phải có được bằng chứng rằng tôi đã chết. Và chúng sẽ không bỏ cuộc chừng nào chưa tìm ra. Chúng sẽ tìm khắp nơi. Và rồi một lúc nào đó sẽ tới đây…”
“Chúng có vẻ rất hứng thú với cô,” ông nói. “Kể cả ta cũng phải nói rằng chúng đặc biệt hứng thú…”
Cô bé mím môi lại.
“Đừng sợ. Tôi sẽ đi trước khi chúng tìm được mình. Tôi sẽ không khiến ông gặp phải nguy hiểm…đừng sợ.”
“Tại sao cô lại nghĩ là ta sợ?” ông nhún vai. “Có lý do nào để mà sợ? Chẳng có ai đặt chân tới đây và sẽ chẳng có ai tìm ra cô ở đây. Nhưng nếu thò mũi ra khỏi đám sậy, cô sẽ phải mặt đối mặt với những kẻ truy đuổi mình.”
“Nói cách khác,” cô ngửa đầu ra sau với vẻ thách thức. “tôi phải ở lại đây. Có phải ý ông là vậy không?”
“Cô không phải một tù nhân. Cô có thể đi hay ở bất cứ lúc nào mình thích. Hay nói chính xác hơn, bất cứ lúc nào mình có thể. Nhưng cô cũng có thể ngồi đây và đợi. Sẽ tới lúc những kẻ truy đuổi cô nhụt chí, không sớm thì muộn. Luôn là như vậy. Cô có thể tin ta. Ta biết rõ điều này.”
Đôi mắt xanh lục của cô ánh lên khi nhìn ông.
“Vào cuối ngày,” tay ẩn sĩ già nói nhanh, trong khi nhún vai và tránh ánh mắt của cô, “cứ làm những gì cô muốn. Ta nhắc lại, ta sẽ không giữ cô ở đây.”
“Trong lúc này thì tôi sẽ không đi,” cô khụt khịt. “Tôi thấy yếu quá…và mặt trời thì sắp lặn…và tôi thì không biết đường. Hãy quay lại căn chòi nào. Tôi đang chết cóng đây.”
***
“Ông nói rằng tôi đã ở đây được 6 ngày. Có đúng thế không?” “Tại sao ta phải nói dối?”
“Đừng giận. Tôi đang cố tính ngày…tôi đã trốn thoát…tôi bị thương…vào đêm thu phân. Ngày 23 của tháng Chín. Nếu ông muốn tính theo lịch của người elves, thì là ngày cuối cùng của Lammas.”
“Không thể như vậy được.”
“Tại sao tôi phải nói dối?” Cô kêu lên và rên rỉ khi chạm vào mặt mình. Vysogota nhìn với vẻ điềm tĩnh.
“Ta không biết,” ông nói bình thản. “Nhưng ta từng là một bác sĩ, Ciri. Đã từ lâu rồi, nhưng ta vẫn có thể phân biệt giữa một vết thương gây ra vài giờ trước với một vết thương không được chữa trị trong 4 ngày liên tiếp. Ta tìm thấy cô vào ngày 27 của tháng Chín, vậy có nghĩa cô bị thương vào ngày 26. Ngày thứ ba của Velen, nếu cô muốn tính theo cách của người elves. Ba ngày sau đêm thu phân.”
“Tôi đã bị thương vào đêm thu phân.”
“Không thể như vậy, Ciri. Cô chắc đã đếm nhầm ngày rồi.”
“Chắc chắn là không. Có khi ông đang dùng một quyển lịch cũ rồi, ẩn sĩ.” “Tùy cô thôi. Có quan trọng lắm không?”
“Không. Không hề.”
***
Ba ngày sau, Vysogota gỡ nốt số chỉ còn lại. Ông có mọi lý do để thấy tự hào và hài lòng về thành quả của mình – đường chỉ thẳng và sạch sẽ, không cần phải sợ bụi bẩn lọt vào giữa vết thương. Sự hài lòng của nhà phẫu thuật chỉ hơi bị mai một đi phần nào khi quan sát Ciri nhìn chằm chằm vào vết sẹo trong im lặng, cố xoay gương theo nhiều hướng và cố che giấu nó, mà không thành công, bằng cách phủ tóc qua má. Vết sẹo đã làm cô bé dị dạng. Sự thật là sự thật. Cô không thể làm gì hơn được. Không gì có thể giúp cô vờ như nó không ở đó. Vẫn đỏ và sưng phồng như một sợi dây thừng, chấm vài vết kim khâu và đánh dấu bởi sợi chỉ, vết sẹo quả thật trông rất ấn tượng. Có thể vết thương sẽ lành nhanh hay chậm. Tuy nhiên, Vysogota biết rằng nó sẽ không bao giờ biến mất.
Ciri đã cảm thấy đỡ hơn nhiều, trước sự ngạc nhiên và hài lòng của Vysogota, và không còn nói về chuyện rời đi nữa. Ông già dắt con ngựa đen, Kelpie, ra khỏi chuồng. Vysogota biết rằng ở phương bắc, Kelpie là một con quái vật biển mà theo truyền thuyết có thể mang hình dáng một con ngựa, cá heo hay thậm chí là một người phụ nữ tuyệt đẹp, nhưng hình dạng thật sự của nó trông khá giống một nùi rong biển. Ciri đeo yên cương cho con ngựa và cưỡi vòng quanh cái chuồng và căn chòi, mà sau đó cô bé lại dắt nó về chuồng để đánh bạn với con dê, và Ciri quay trở lại căn chòi để đánh bạn với Vysogota.
Cô bắt đầu giúp ông trong việc thuộc da – có lẽ là do buồn chán. Khi ông phân chia đống da rái cá theo kích cỡ và màu sắc, cô lột lông chồn bằng hai vết rạch trên bụng và lưng, và trải chúng ra trên một chiếc bàn mà họ đã bê vào trong nhà. Những ngón tay của cô cực kỳ khéo léo.
Chính là trong công việc này mà họ đã bắt đầu một cuộc đối thoại kỳ lạ.
***
“Ông không biết tôi là ai. Ông chắc còn chẳng hình dung ra nổi tôi là ai đâu.”
Cô lặp lại lời tuyên bố nhàm chán này cũng phải đến vài lần rồi và nó bắt đầu làm ông già hơi bực. Đương nhiên là cô không nhận ra được sự khó chịu của ông, đời nào mà ông lại hạ thấp mình đến mức để lộ cảm xúc trước mặt một con nhãi như thế cơ chứ. Không, ông không thể để chuyện đó xảy ra, nhưng cũng không thể chống lại được sự tò mò đang gặm nhấm tâm can mình.
Một sự tò mò vô căn cứ, bởi vì ông đã dễ dàng đoán ra được thân thế của cô rồi. Vào cái thời khi Vysogota vẫn còn trẻ, băng đảng không phải là chuyện hiếm. Năm tháng đã qua đi, nhưng cũng không thể xóa nhòa sức hấp dẫn của những băng nhóm này với các thiếu niên có máu phiêu lưu và cá tính. Mà thường xuyên dẫn đến cái kết cay đắng của chính họ. Những ai thoát ra được với một vết sẹo trên mặt có thể tự cho mình là may mắn. Bởi những kẻ đen đủi hơn thì có thể trông đợi vào tra tấn, thòng lọng, lưỡi rìu hay cọc nhọn.
Ha, kể từ thời của Vysogota đến nay chỉ có duy nhất một thứ thay đổi – tiến bộ của tự do. Các băng nhóm không còn chỉ thu hút các thanh niên trẻ mà cả những cô gái phóng khoáng yêu thích thanh kiếm, cưỡi ngựa và cuộc sống tự tại hơn là mũi kim, bát đĩa và ngồi chờ một người chồng phù hợp.
Vysogota không nói trực tiếp với cô bé, nhưng bày tỏ những dấu hiệu đủ rõ ràng cho thấy rằng ông biết mình đang đối phó với ai. Để khiến cô nhận ra rằng nếu có điều gì bí hiểm ở đây thì đó không phải là cô gái này – một đứa trẻ đang ngao du cùng một lũ tội phạm tuổi vị thành niên và đã thần kỳ trốn thoát được một cái bẫy. Một con nhãi dị dạng đang cố trùm xung quanh mình một bức màn ảo diệu…
“Ông không biết tôi là ai. Nhưng đừng lo, tôi sẽ đi sớm thôi. Tôi sẽ không để ông gặp nguy hiểm.”
Vysogota đã chịu đủ rồi.
“Nguy hiểm kiểu gì đây?” ông hỏi. “Kể cả nếu những kẻ truy đuổi cô tìm thấy cô ở đây, mà ta rất nghi ngờ đó, thì chúng làm gì được ta nào? Chứa chấp một tên tội phạm bị truy nã là bất hợp pháp, nhưng không phải với một ẩn sĩ bởi vì ông ta chẳng biết gì về thế giới bên ngoài cả. Quyền lợi của ta là được tiếp đón bất cứ ai tới nơi đầm lầy này. Ừ, cô có thể nói ta không biết cô là ai. Làm sao mà ta, một ẩn sĩ, lại biết được cô là ai, kể cả nếu cô có phạm tội và đang bị luật pháp truy lùng đi chăng nữa? Và luật gì ở đây? Đến ta còn chẳng biết luật của ai đang được áp dụng trong vùng này hay mặt mũi đại diện của nó ra làm sao. Ta không quan tâm và nó chưa bao giờ làm ta quan tâm, ta là một ẩn sĩ.”
Ông nhận ra rằng mình đã quá trớn. Nhưng ông sẽ không lùi bước. Đôi mắt xanh lục của cô tràn đầy phẫn nộ và đâm xuyên qua ông như mũi dao.
“Ta là một ẩn sĩ nghèo hèn. Coi như đã chết đối với thế giới và những cư dân của nó. Ta là một con người đơn giản, không được giáo dục, dốt nát và thiếu hiểu biết đối với tình hình thế sự…”
Ông phóng đại.
“Chắc rồi!” cô la lên, ném bộ da và con dao xuống sàn. “Ông cho rằng tôi là một con ngốc chắc? Đừng có nghĩ tôi ngu như vậy. Một ẩn sĩ đơn giản! Khi ông đi vắng tôi đã nhìn qua căn chòi này. Tôi đã lục lọi cái góc nhà phủ rèm kia. Nơi mà ông cất biết bao nhiêu sách khoa học trên giá, ừ phải, một con người đơn giản, không được giáo dục?”
Vysogota ném một bộ da rái cá xuống chiếu.
“Chúng thuộc về một người thu thuế trong vùng,” ông già vẫy tay một cách bất cẩn. “Khi ông ấy chết, dân làng không biết phải làm gì với chúng nên đã mang tới đây cho ta. Chúng đều là ghi chép về đất đai và sổ kế toán.”
“Ông đang nói dối.” Ciri nhăn mặt và xoa vết sẹo. “Rõ ràng là ông đang nói dối tôi!” Ông không trả lời, giả vờ xem xét màu sắc bộ da tiếp theo.
“Ông nghĩ rằng,” cô tiếp tục, “chỉ vì mình có bộ râu trắng, nếp nhăn và một trăm năm in trên cổ mà có thể dễ dàng lừa được một đứa trẻ ngây thơ hả? Vậy thì để tôi nói cho ông – con vịt đầu tiên bước qua đây thì có thể bị đánh lừa. Nhưng tôi không phải một con vịt.”
Ông nhướng một bên lông mày lên trong một câu hỏi im lặng và châm chọc. Cô không để ông đợi lâu.
“Tôi, ẩn sĩ thân mến à, đã từng được học ở những nơi có nhiều sách hơn như vậy, và từng đọc một số quyển có chung tựa đề với cái đống trên giá kia. Tôi nhận ra được kha khá tựa sách ở đó.”
Vysogota nhướng lông mày lên cao hơn. Cô nhìn thẳng vào mắt ông.
“Một câu truyện phi thường,” cô nói, “mà ông đã kể với đứa trẻ rách rưới, cô bé mồ côi bẩn thỉu, tên trộm hay kẻ cướp mà ông tìm thấy trong đống sậy với khuôn mặt dập nát. Nhưng ông nên biết, ẩn sĩ à, rằng tôi đã đọc Lịch sử Thế giới của Roderick de Novembre. Tôi nghiền ngẫm chán chê Nguyên liệu y học và Thảo dược, mà cũng đang nằm trên giá kia của ông. Tôi cũng biết rằng hình con chồn vắt ngang một tấm khiên đỏ in nổi ở mặt sau cuốn sách của ông nghĩa là gì. Đó là dấu hiệu cho thấy nó được xuất bản bởi Học viện Oxenfurt.”
Cô ngừng lại, vẫn đang nhìn chằm chằm. Vysogota im lặng, ông vật lộn để chắc rằng mặt mình không biểu lộ cảm xúc gì.
“Vậy nên tôi nghĩ,” Ciri tiếp tục, hất đầu ra sau trong một động tác đặc trưng của cô, tự hào và có phần xấc xược, “ông không phải một con người đơn giản hay một ẩn sĩ. Rằng ông không tự nguyện rời bỏ thế giới, mà trốn chạy khỏi nó. Và ẩn náu giữa nơi hoang dã này, đằng sau những đầm lầy không vượt qua nổi.”
“Nếu vậy,” Vysogota mỉm cười, “thì vận mệnh của chúng ta đã gặp nhau một cách rất kỳ lạ, cô thiếu nữ hiểu biết của ta à. Định mệnh đã sắp đặt chúng ta với nhau theo những cách bí hiểm. Vào cuối ngày, cả cô nữa, Ciri, cũng đang chạy trốn. Vào cuối ngày, cả cô nữa, Ciri, cũng đang khéo léo trùm xung quanh mình một bức màn. Ta là một lão già lòng tràn đầy hoài nghi, cay đắng bởi tuổi tác…”
“Hoài nghi đối với tôi?”
“Hoài nghi đối với thế giới, Ciri. Một thế giới mà diện mạo bên ngoài khoác lên mình một lớp mặt nạ lừa đảo để che giấu khỏi sự thật, nhưng sự thật đó, nghiễm nhiên, cũng chỉ giả như lớp mặt nạ kia. Một thế giới mà tấm khiên của Học viện Oxenfurt được tô trên cửa một cái nhà thổ. Một thế giới nơi mà một tên cướp rách rưới hiểu biết, khôn ngoan và thậm chí có khi còn thuộc dòng dõi quý tộc, một học giả thông thái mà từng đọc qua tác phẩm của Roderick de Novembre và biết đến con dấu của Học viện. Bất chấp vẻ bề ngoài. Bất chấp sự thật rằng họ cũng đang mang trên người một dấu ấn khác. Một hình xăm, một bông hồng nằm gần chỗ hiểm.”
“Ông nói đúng,” môi cô mím lại và mặt ửng đỏ tới nỗi đường viền của vết sẹo chuyển màu đen. “Ông là một lão già cay đắng. Và tọc mạch.”
“Trên giá của ta, đằng sau tấm rèm,” ông nói với một cái gật đầu, “là Aen N’og Mab Taedh’morc, một tuyển tập những câu truyện ngắn và lời tiên tri của người elves. Trong đó có một câu truyện rất phù hợp với tình huống và cuộc đối thoại này. Đó là câu truyện về con quạ già và con nhạn trẻ. Cũng như cô, Ciri, ta là một học giả, vậy nên ta muốn trích dẫn một trích đoạn ngắn, hy vọng rằng trí nhớ của ta vẫn chưa quá thất vọng. Con quạ, theo ta nhớ, trách móc con nhạn là nông nổi và nhẹ dạ.”
Hen Cerbin dic’ss aen n’og Zireael Aark, aark, caelm foile, tee veloe, ell? Zireael…
Ông dừng lại và tựa khuỷu tay lên bàn, chống cằm lên những ngón tay đan vào nhau. Ciri lắc đầu, đứng thẳng dậy và nhìn ông đầy thách thức. Cô bé đọc nốt bài thơ.
…Zireael veloe que’ss aen en’ssan irch
Ma bog, Hen Cerbin, vean ni, quirk, quirk!
“Lão già cay đắng, hồ nghi,” Vysogota lên tiếng sau một hồi im lặng, “xin lỗi người thiếu nữ trẻ đã được giáo dục cẩn thận. Con quạ già, mà nhìn đâu cũng thấy lừa gạt và dối trá, cầu xin sự tha thứ từ con nhạn, người mà lỗi duy nhất mắc phải là vẫn còn rất trẻ và tràn đầy sự sống. Và xinh đẹp…”
“Giờ thì ông đang lảm nhảm rồi đó,” cô lầm bầm, che vết sẹo trên mặt một cách vô thức. “Cứ việc giữ lại mấy lời khen. Chúng cũng không làm vết sẹo trên mặt tôi lành được. Nhưng đừng nghĩ rằng đó là cách mà ông chiếm được lòng tin của tôi nhé. Tôi vẫn chưa biết ông thật sự là ai. Tại sao ông lại nói dối tôi về ngày tháng và lịch. Và tại sao ông lại nhìn vào giữa hai chân tôi trong khi vết thương thì ở trên mặt. Và đấy là nếu ông chỉ giới hạn ở nhìn không thôi.”
Lần này thì cô đã làm ông bực.
“Sao cô dám hả, nhóc?” ông la lên. “Ta có thể là cha cô!”
“Ông nội tôi,” cô lạnh lùng sửa lại. “Hoặc cụ nội tôi. Nhưng ông không phải. Tôi không biết ông là ai. Nhưng chắc chắn không phải người mà ông đang giả vờ đây.”
“Ta là người đã tìm thấy cô trong đầm lầy, gần chết cóng, với một cái mặt nạ đen sì thay cho gương mặt, bất tỉnh, bẩn thỉu và rách rưới. Ta là người đã mang cô vào nhà, trong khi không hề biết cô là ai và có quyền được giả định trường hợp tồi tệ nhất. Ta là người đã chữa cho cô và đặt cô nằm lên một cái giường. Cho cô uống thuốc khi lên cơn sốt. Chăm sóc cô. Rửa ráy cho cô. Rất cẩn thận. Cũng gần cả khu vực của cái hình xăm đó.”
Ciri bình tĩnh lại, nhưng đôi mắt vẫn không đánh mất vẻ thách thức và xấc xược.
“Trong cái thế giới này,” cô làu bàu, “có những người với vẻ ngoài giả dối đội lên một chiếc mặt nạ sự thật, như chính ông đã nói. Tôi cũng biết một chút về cách mà cái thế giới này hoạt động. Ông đã cứu tôi, chữa cho tôi. Cảm ơn ông. Tôi rất biết ơn vì…lòng tốt của ông. Nhưng tôi biết rằng không có lòng tốt nào là không đi kèm…”
“Lợi ích cá nhân và ân huệ,” ông nói nốt với một nụ cười. “Phải, ta biết. Ta cũng là một cư dân của thế giới, có lẽ cũng hiểu nó rõ như cô, Ciri? Những thiếu nữ bị thương, đương nhiên là đã bị tước đoạt mọi thứ đáng giá với mình. Nếu họ bất tỉnh hay quá yếu để tự vệ, quyền tự do thường sẽ thuộc về ham muốn và dục vọng của một kẻ khác, theo những cách vô nhân đạo và trái tự nhiên. Không phải sao?”
“Không có gì là giống như vẻ bên ngoài,” Ciri trả lời, mặt lại ửng đỏ.
“Một tuyên bố chính xác,” tay ẩn sĩ già tiếp tục, trong khi đặt thêm một tấm da nữa vào chồng phù hợp. “Và đi đến kết luận không thể chối cãi rằng chúng ta, Ciri, không biết gì về nhau. Chúng ta chỉ biết vẻ bề ngoài và vẻ bề ngoài là giả tạo.”
Ông đợi một lúc, nhưng Ciri không nói gì cả.
“Mặc dù cả hai ta đã thành công trong việc đặt ra những câu hỏi ban đầu, chúng ta vẫn không biết gì hết. Ta không biết cô là ai, và cô cũng không biết ta là ai…”
Lần này ông chủ đích đợi. Cô nhìn ông và đôi mắt bừng lên câu hỏi mà ông đã trông đợi.
Chúng lấp lánh khi cô thốt ra: “Ai sẽ bắt đầu đây?”
***
Nếu có người lén lại gần căn chòi tăm tối với mái lợp phủ đầy rêu phong và ẩm mốc, và nếu họ nhìn vào bên trong, trong ánh sáng của lò sưởi, họ sẽ thấy một ông già râu trắng cúi người xuống một chồng da thuộc. Họ cũng sẽ thấy một cô gái với mái tóc màu tro cùng một vết sẹo xấu xí trên má, vết sẹo mà không phù hợp chút nào với đôi mắt xanh lục lớn như của một đứa trẻ.
Nhưng không ai có thể thấy. Căn chòi lạc lõng giữa rừng sậy vô tận, trong trái tim đầm lầy nơi không ai dám bước vào.
***
“Tên ta là Vysogota của Corvo. Ta từng là một bác sĩ phẫu thuật. Ta từng là một nhà hóa học. Về sau, ta đảm nhận công việc của một nhà nghiên cứu, một triết gia và nhà đạo đức học. Ta từng là một giáo sư giảng dạy tại Học viện Oxenfurt. Ta đã phải trốn khỏi đó sau khi xuất bản một vài nghiên cứu khoa học bị coi là báng bổ và dị giáo. Hồi đó, 50 năm về trước, tội danh này mang án tử hình. Ta phải ẩn thân. Vợ ta không muốn đi theo nên đã rời bỏ ta. Trong khi trốn chạy ta dừng chân ở tít xa phía nam, tại Đế chế Nilfgaard. Ta định cư ở đó sau một thời gian và trở thành một giáo sư triết học và đạo đức tại Học viện Hoàng gia ở Castell Graupian. Ta tại vị được gần 10 năm. Và rồi lịch sử lặp lại – ta buộc phải chạy trốn sau khi công bố một bài khái luận…Thật trùng hợp, bài khái luận đả kích chế độ độc tài toàn trị và bản chất tội ác của chiến tranh xâm lược, nhưng theo như ghi chép chính thức thì tác phẩm của ta và bản thân ta bị đóng dấu là mê tín và tuyên truyền chủ nghĩa thần bí siêu hình. Một cuộc điều tra cho thấy rằng ta là thành viên của một tổ chức giáo sĩ rộng lớn có sức ảnh hưởng không nhỏ lên các vương quốc phương Bắc. Có vẻ như là một trò đùa quá lố, bởi vì cũng chính các giáo sĩ này đã kết án tử hình ta 20 năm trước vì tội vô thần. Thực ra, các thầy tu đã mất ảnh hưởng đối với phương Bắc từ lâu rồi, nhưng ở Nilfgaard họ từ chối công nhận điều đó. Dám kết hợp mê tín và chính trị với nhau là tội đáng bị trừng phạt không thương xót.”
“Ngày hôm nay, nếu xét theo năm tháng, ta nghĩ rằng nếu hồi đó mình đã khiêm nhường và bày tỏ lòng hối cải, thì chắc chắn vấn đề sẽ được giải quyết êm xuôi và cùng lắm ta chỉ bị khinh thường trong con mắt của Hoàng đế, chứ không cần đến những giải pháp cực đoan. Nhưng ta đã tức giận. Ta đã chắc chắn về sự thật của mình. Sự thật vĩnh cửu và đứng trên mọi luật lệ. Ta cảm thấy oan ức. Ta bị kết tội oan uổng dưới tay những tên bạo chúa thống trị. Ta kết nối quan hệ với những người đồng cảnh ngộ muốn bí mật chống lại sự bạo ngược. Trước khi kịp nhận ra, ta đã bị tống vào nhà giam cùng những người bạn mới của mình. Một số người, khi được đao phủ cho xem dụng cụ tra tấn, đã chỉ điểm ta là đầu não của tổ chức ngầm. Nhưng trước khi bị xử tử, ta được cứu bởi ơn phước của hoàng gia và thay vào đó bị kết án lưu đày – và tử hình ngay lập tức nếu có bao giờ dám bước chân vào đất của đế chế.”
“Và rồi ta phát điên với thế giới, với những vương quốc, đế chế và học viện, với những người đồng cảnh ngộ, công dân liêm chính và luật sư. Với đồng nghiệp và bạn bè, những kẻ mà như thể do ma thuật, bỗng dưng không muốn quen biết ta. Với bà vợ thứ hai, mà cũng giống người đầu tiên, nghĩ rằng vấn đề của chồng mình là lý do đủ để li dị. Với con cái, ta bỏ cuộc. Ta trở thành một ẩn sĩ. Ở đây tại Ebbing này, giữa vùng đầm lầy Pereplut. Ta dọn vào căn chòi mà một ẩn sĩ trước đó đã từng ở. Với toàn bộ vận rủi của mình, Ebbing sáp nhập vào Nilfgaard, và thế là trước khi kịp nghỉ ngơi, ta lại ở ngay trong lãnh thổ của đế chế. Ta không còn ý muốn hay sức lực để du hành một chuyến nữa vậy nên quyết định trốn ở đây. Chỉ dụ của hoàng gia là không giới hạn, ngay cả khi vị Hoàng đế ra sắc lệnh đó đã qua đời từ lâu, và vị Hoàng đế tại vị không hơi đâu đào xới những chuyện đó lên. Án tử hình vẫn còn hiệu lực, đúng như truyền thống và luật lệ của Nilfgaard. Án phạt cho tội phản quốc không bao giờ mất và cũng không nằm trong diện ân xá. Tại lễ đăng quang của mỗi Hoàng đế mới, tất cả những người bị kết án bởi Hoàng đế tiền nhiệm đều được tha bổng – ngoại trừ những kẻ phản bội. Vậy nên đối với ta ai ngồi trên ngai vàng cũng không quan trọng – nếu ta vi phạm sắc lệnh đày ải của tòa án và nếu bị bắt, đầu ta sẽ rơi trên đài hành hình.”
“Vậy nên cô thấy đó, Ciri thân mến, chúng ta đang cùng trong một hoàn cảnh như nhau.”
***
“Đạo đức học là gì? Tôi biết, nhưng quên rồi.”
“Khoa học nghiên cứu về đạo đức. Những quy tắc ứng xử thông thường, đức cao thượng, lòng nhân từ và sự trung thực. Từ đỉnh cao của cái thiện, nơi mà sự ngay thẳng và nhân tính nâng cánh tâm hồn con người. Và xuống dưới vực sâu của cái ác, nơi sự nham hiểm và vô nhân đạo ném…”
“Đỉnh cao của cái thiện!” cô bé khụt khịt. “Ngay thẳng! Nhân tính! Đừng làm tôi cười, nếu không vết sẹo lại rách toác ra bây giờ. Ông có sự may mắn của quỷ dữ, rằng họ đã không cử một tên thợ săn tiền thưởng theo gót ông, như…Bonhart. Ông nói đã biết vực sâu của cái ác. Đạo đức? Cái đạo đức của ông có thể đi mà xuống địa ngục, Vysogota của Corvo. Không phải những kẻ nhẫn tâm và vô nhân đạo là người chìm xuống đáy vực thẳm! Ôi, không đâu! Chỉ có những kẻ ác nhưng quyết tâm và những người tử tế, trung thực và cao thượng, nhưng hậu đậu, ngần ngại và tràn đầy hoài nghi.”
“Cảm ơn vì sự dạy dỗ của cô,” ông nói đùa. “Tin ta đi, kể cả nếu cô đã sống cả một thế kỷ, vẫn không bao giờ là muộn để học những điều mới. Quả thực, lắng nghe những con người trưởng thành từng trải trong cuộc sống luôn luôn có ích.”
“Cứ việc cười,” cô lắc đầu, “Cứ việc cười nếu ông có thể, bởi vì giờ đến lượt tôi. Giờ tôi sẽ tiêu khiển cho ông bằng một câu truyện. Tôi sẽ kể cho ông những gì đã xảy ra với tôi. Và khi tôi xong chuyện, hãy xem ông còn muốn đùa nữa hay không.”
***
Nếu có người lén lại gần căn chòi giữa đầm lầy vào buổi đêm, nhòm qua khe nứt trên ô cửa sổ và nhìn vào trong phòng, họ sẽ thấy trong ánh sáng le lói một ông già tóc bạc chăm chú lắng nghe một cô gái với mái tóc màu tro ngồi trên khúc gỗ cạnh lò sưởi. Họ có thể thấy cô nói thật chậm, như thể khó để tìm từ, lo lắng xoa bên má bị biến dạng bởi một vết sẹo, và xen lẫn những khúc im lặng thật dài, kể lại câu truyện về số phận của mình. Một câu truyện về sự dạy dỗ cô nhận được hóa ra chỉ là giả dối và lừa gạt. Một câu truyện về lời hứa mà người ta không giữ được với cô. Một câu truyện về định mệnh mà cô bị bắt phải tuân theo đã phản bội cô nhục nhã ra sao, và tước đi di sản thừa kế của cô như thế nào. Về mỗi lần bắt đầu tin vào định mệnh của mình, cô lại bị hành hạ, giày vò, khổ sở, chịu đựng sự bất công và tủi hổ. Một câu truyện về những người cô yêu mến và tin tưởng đã phản bội cô ra sao, đã không đến giúp khi cô bị đe dọa bằng vũ lực, đau đớn và cái chết. Một câu truyện về những lý tưởng mà cô được giáo huấn phải trung thành, đã khiến cô thất vọng, phản bội và bỏ rơi cô khi cô cần đến chúng, chứng tỏ được cái giá trị của chúng ít ỏi nhường nào. Về cách mà cô đã tìm thấy sự trợ giúp, tình bạn – và tình yêu – từ những người mà cô không bao giờ nên tìm kiếm giúp đỡ hay tình bạn. Chưa kể đến tình yêu.
Nhưng không ai có thể trông thấy, chứ chưa nói đến nghe được. Vì căn chòi với mái lợp rêu phong nằm giữa màn sương dày đặc khu đầm lầy, nơi không ai dám bước chân vào.
Khi một cô gái trẻ đến tuổi dậy thì, những giấc mơ bắt đầu chạm đến những bí mật thầm kín từ trước đến nay chưa bao giờ bộc lộ, thể hiện dưới hình dạng một căn phòng ẩn giấu. Khi cô gái chạm tới ngưỡng đó, cô sẽ phải trèo lên một cầu thang xoắn, và trong mơ thì cầu thang này thường đại diện cho trải nghiệm tình dục. Cô gái bước lên cầu thang tới một cánh cửa nhỏ khóa chặt, có sẵn một cái chìa cắm trong ổ…Một căn phòng nhỏ khóa kín trong mơ thường đại diện cho vùng kín, và hành động xoay chiếc chìa khóa trong ổ tượng trưng cho việc quan hệ tình dục.
– Bruno Bettelheim, Ứng dụng của Bùa chú.