The Witcher Quyển 5 – Thử thách của lửa

The Witcher Quyển 5 – Thử thách của lửa

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 7

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Và rồi nữ tiên tri nói với witcher: “Ta sẽ cho ngươi lời khuyên này: hãy đi ủng làm từ sắt, cầm lấy một cây gậy thép. Rồi đi đến tận cùng thế giới. Cùng với cây gậy hãy khám phá những vùng đất trước mắt ngươi và tưới ướt chúng bằng lệ của mình. Hãy đi qua lửa và nước, đừng dừng lại giữa đường, đừng ngoái lại phía sau. Và khi đôi ủng đã mòn, khi cây gậy đã gãy, khi cơn gió và cái nóng đã khiến mắt ngươi không còn nhỏ lệ được nữa, thì ở nơi tận cùng thế giới, ngươi sẽ tìm thấy điều mình muốn và người mà ngươi yêu thương…”

Witcher đi qua lửa và nước, anh không ngoảnh nhìn lại. Anh không đi ủng sắt hay cầm theo cây gậy thép. Anh chỉ mang thanh kiếm của mình.

Anh không nghe theo lời của nữ tiên tri. Và anh làm vậy bởi vì bà ta là một nhà tiên tri dỏm.

Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.

Dòng Ribbon trong vắt như pha lê đổ nước qua bờ vực theo một đường cong mềm mại, chảy xuống thành một dòng thác trắng xóa giữa những tảng đá đen như mã não, trước khi đập vào chúng ở bên dưới và biến mất trong làn bọt, xõa ra thành một lớp nước trong tới nỗi có thể trông thấy từng hòn sỏi, từng đám rêu xanh đổ rạp theo dòng chảy trên nền đá khảm thạch đầy màu sắc.

Cả hai bên bờ đều rải một lớp hà thủ ô, một con chim bói cá bận rộn, quẫy nước và tự hào khoe ra túm lông cổ trắng ngần. Bên trên, những bụi thổ hoàng lấp lánh sắc xanh trên nền tùng bách của khu rừng, mà trông có vẻ như được rắc một lớp bụi ánh bạc.

“Quả thật,” Dandelion trầm trồ. “Nơi đây rất đẹp.”

Một con cá hồi đen cố nhảy qua khe vực của thác nước. Trong một khoảnh khắc, nó lơ lửng trên không, vẫy vẫy cái đuôi sặc sỡ trước khi biến mất vào dòng thác cuồn cuộn.

Bầu trời đen kịt bỗng bị xé toạc bởi một tia chớp ở phía nam, tiếng sấm từ xa vẳng lại qua bức tường của khu rừng. Con ngựa của witcher chồm lên, lúc lắc đầu và nhe răng ra. Geralt cầm chắc sợi dây cương, và con ngựa đứng lại, móng gõ lên nền đá của con đường, rồi bắt đầu lùi lại.

“Ho! Hooo! Thấy không, Dandelion? Nó là vũ công cơ đấy! Mẹ kiếp, tôi sẽ tống khứ con vật chết tiệt ngay khi có cơ hội đầu tiên. Dù có đổi lấy một con la cũng được!”

“Và anh nghĩ cơ hội đó sẽ đến sớm chừng nào?” Nhà thơ gãi cái cổ đang mẩn đỏ hết lên vì muỗi đốt của mình. “Miền hoang vu của thung lũng này chứa đựng vẻ đẹp không bì được, nhưng thành thực thì tôi hài lòng với vẻ đẹp của một quán rượu ấm cúng hơn. Sắp gần một tuần trôi qua kể từ khi tôi bắt đầu ngưỡng mộ sự lãng mạn của tự nhiên, cảnh vật và đường chân trời ở xa rồi. Tôi nhớ nội thất trong nhà. Đặc biệt là những ngôi nhà có một bữa ăn nóng và một cốc bia lạnh.”

“Dĩ nhiên là cậu sẽ vượt qua được thôi.” Witcher quay người trên yên ngựa. “Hy vọng nỗi đau của cậu cũng vơi bớt khi biết rằng tôi cũng nhớ xã hội văn minh một chút. Như cậu biết, tôi đã kẹt ở Brokilon trong đúng 36 ngày. Và trong từng ấy đêm đó, sự lãng mạn của tự nhiên đã làm mông tôi tê cóng, bò dọc sống lưng tôi và bỏ lại sương trên mũi tôi Hoo! Mẹ kiếp cái con ngựa này! Mày có thôi lồng lộn lên không thì bảo?”

“Nó bị muỗi đốt đó mà. Lũ côn trùng đã trở nên táo tợn và khát máu, chuyện này thường hay xảy ra trước một cơn bão. Sấm và chớp ở phía Nam đang ngày càng nhiều hơn.”

“Tôi có để ý thấy.” Witcher nhìn bầu trời, ghìm con ngựa vẫn đang nhảy múa lại. “Cơn gió cũng đã thay đổi, nó có mùi của biển. Thời tiết cũng sẽ thay đổi theo, không nghi ngờ gì. Chúng ta phải đi thôi. Thúc con ngựa béo phị của cậu nhanh lên, Dandelion!”

“Con ngựa của tôi tên là Pegasus.”

“Như thể nó còn có tên nào khác được vậy. Cậu biết không? Chúng ta cũng nên đặt cho con ngựa elves này của tôi một cái tên. Hmm ”

“Vậy Roach thì sao?” Nhà thi sĩ cười.

“Roach.” Witcher đồng ý. “Rất hay.” “Geralt?”

“Hả?”

“Anh đã bao giờ có một con ngựa tên Roach chưa?”

“Chưa.” witcher đáp sau một hồi suy nghĩ. “Tôi chưa. Thúc con ngựa lười biếng của cậu nhanh lên, Dandelion. Chúng ta còn một đoạn đường dài phải đi.”

“Đương nhiên rồi.” Nhà thơ làu bàu. “Theo anh thì từ đây đến Nilfgaard bao nhiêu dặm?” “Rất nhiều.”

“Liệu chúng ta có tới nơi trước mùa đông không?”

“Đầu tiên chúng ta phải tới Verden. Sau đó chúng ta sẽ bàn bạc… vài vấn đề.”

“Cái gì? Đừng có cố thử tống khứ tôi đi nữa! Tôi sẽ đi cùng anh, tôi đã quyết thế rồi!” “Để rồi xem. Như tôi đã nói, chúng ta phải đi qua Verden trước.”

“Nó có xa không? Anh biết rõ vùng này à?”

“Tôi biết khá rõ. Chúng ta đang ở gần thác Ceann Treise, phía trước chúng ta là một nơi có tên Dặm Bảy. Ngọn đồi đằng sau con sông gọi là Đồi Cú Vọ.”

“Và chúng ta đang hướng đến phía nam, vượt qua sông? Dòng Ribbon cắt qua Yaruga tại một pháo đài nằm đâu đó gần Bodrog………………. ”

“Chúng ta sẽ đến phía nam, dọc theo bờ sông. Chúng ta sẽ đi qua khu rừng nơi dòng Ribbon ngoặt sang phía tây. Tôi muốn đến một nơi gọi là Drieschot, hay là Tam Giác. Tại đó, biên giới của Verden, Brugge và Brokilon giao nhau.”

“Và từ đó?”

“Chúng ta sẽ vượt qua Yaruga. Đến cửa sông. Đến Cintra.” “Và rồi.”

“Và rồi chúng ta sẽ xem xét. Nếu được thì phiền cậu giục con Pegasus lười biếng đó đi nhanh hơn một chút giùm tôi.”

Cơn mưa bắt kịp họ khi đang đi qua đoạn nông, ở giữa con sông. Đầu tiên, một cơn gió hung bạo nổi lên, rú rít như thể một cơn bão, giật tóc và thổi tung quần áo họ, cắt qua mặt họ với những chiếc lá và cành gãy từ cây cối mọc bên bờ sông. Họ thúc ngựa về phía bờ thật nhanh, bọt sùi lên quanh móng guốc của chúng. Khi gần tới bờ, cơn gió đột nhiên ngừng lại và một tấm màn mưa xám xịt hiện lên trước mắt họ. Bề mặt của dòng Ribbon bắt đầu vỡ và sủi tăm như thể có ai đó ném cả tỉ viên đạn chì từ trời xuống.

Sau khi vất vả đến được bờ, cơn mưa trút xuống đầu họ xối xả. Họ phải nhanh chóng tìm nơi ẩn nấp ở trong rừng. Những tán cây tạo nên một mái hiên rậm rạp, xanh rì trên đầu họ. Tuy nhiên chúng cũng không thể bảo vệ được họ trước một cơn bão như vậy. Mưa nhanh chóng làm sũng hết lá, cành cây bị bẻ cong xuống và chỉ phút sau, trong rừng cũng đổ mưa y như ngoài trời.

Họ quấn hàng lớp áo quanh mình và kéo mũ trùm đầu lên. Giữa những hàng cây chỉ có bóng tối, thỉnh thoảng bị xuyên thủng bởi sấm chớp, mà ngày càng xuất hiện nhiều. Cơn bão vần vũ không có điểm dừng, không gián đoạn, và gào thét đến điếc cả tai. Roach hoảng sợ, giậm chân và lồng lộn. Pegasus giữ nguyên vẻ điềm tĩnh không suy chuyển.

“Geralt!” Dandelion la lên, cố át tiếng sấm chớp bão bùng, cuốn qua khu rừng như một chiếc xe hàng khổng lồ. “Chúng ta phải tìm nơi trú ẩn ở chỗ khác!”

“Ở đâu?” witcher đáp lại lớn tiếng. “Cứ đi đi!” Họ tiếp tục đi.

Sau một lúc, cơn mưa dịu hẳn, gió lại huýt sáo qua tán cây, tiếng ầm ầm của sấm sét không còn làm họ inh tai nữa. Họ thấy mình đang ở giữa một hàng cây trăn dày đặc, dẫn tới một khoảng rừng thưa. Ở giữa khoảng rừng mọc lên một cây giẽ gai vĩ đại, bên dưới tán của nó, phía trên lớp quả và những chiếc lá nâu rụng đầy, là một chiếc xe hàng được kéo bởi hai con la. Người lái xe dò xét họ với một cây nỏ cầm trên tay. Geralt nguyền rủa, nhưng sấm chớp át đi tiếng của anh.

“Hạ cây nỏ xuống đi, Kolda.” một người đàn ông nhỏ thó đội mũ rơm lên tiếng, đứng dậy khỏi gốc cây, nhảy lò cò và cài cúc quần. “Đây không phải là người chúng ta đang trông đợi. Nhưng họ là khách hàng. Đừng đe dọa khách hàng. Chúng ta không có nhiều thời gian, nhưng luôn có thể mặc cả một chút!”

“Cái quái gì vậy?” Dandelion làu bàu đằng sau Geralt.

“Lại gần đây đi, quý ông người elves,” người đàn ông đội mũ cất lời. “Đừng sợ, tôi là đồng loại của ngài. N’ess and tearth! Va, seidh. Ceadmil! Tôi là đồng loại của ông, hiểu chứ, elf? Để buôn bán ý? Thế nào, lại chỗ gốc cây giẽ gai này đi, lá không rụng xuống đầu ông nhiều lắm đâu!”

Geralt không thấy ngạc nhiên bởi sự nhầm lẫn. Anh và Dandelion đều đang khoác trên mình những tấm áo choàng của elves. Bản thân anh thì đang mặc một chiếc áo chẽn được các dryad tặng cho, thêu mẫu họa tiết hoa lá được người elves ưa chuộng. Gương mặt anh giấu một phần trong mũ trùm đầu, và anh đang ngồi trên lưng một con ngựa với bộ yên cương trang trí điển hình. Còn về phần Dandelion, cậu ta đã rất nhiều lần bị nhầm với một người elves hoặc nửa- elves, đặc biệt từ khi cậu bắt đầu để tóc dài ngang vai và thỉnh thoảng lại làm xoăn.

“Coi chừng,” Geralt lẩm bẩm, xuống ngựa. “Cậu là một người elves. Đừng mở mồm khi không cần thiết.”

“Tại sao?”

“Chúng bán hàng rong.”

Dandelion hít vào một hơi. Cậu biết chúng là ai.

Tiền bạc thống trị mọi thứ, và cầu tạo ra cung. Các Scoia’tael hoành hành trong rừng luôn thu thập chiến lợi phẩm sau mỗi trận tập kích. Đồ cướp được vô giá trị với họ, tuy nhiên họ có thể đổi chúng lấy dụng cụ và vũ khí khan hiếm. Thế là một ngành nghề lưu động sinh ra trong rừng, và cùng với nó, là những con người tử tế yêu thích loại hình buôn bán này. Những kẻ đầu cơ chuyên giao dịch với Sóc bắt đầu xuất hiện, cùng những chuyến xe hàng trên các ngã tư, đường mòn và khoảng rừng thưa. Người elves gọi chúng là hav’caaren, một từ không dịch được, nhưng đồng nghĩa với “lòng tham không đáy”. Thuật ngữ “bán hàng rong” lan rộng trong cộng đồng con người, và ý nghĩa của nó còn ghê tởm hơn nhiều. Đó là bởi vì những kẻ này xấu xa, tàn nhẫn và máu lạnh, không từ một thủ đoạn nào, kể cả giết người. Nếu bị quân đội bắt, lũ bán hàng rong sẽ không nhận được chút nhân từ nào, thế nên chúng cẩn thận giấu kín thân phận. Nếu bắt gặp người qua đường mà có nguy cơ bán đứng chúng cho quân lính, chúng sẽ với đến nỏ và dao không chần chừ.

Geralt và Dandelion đang ở trong tình thế không hay ho cho lắm, nhưng may là lũ bán rong đã tưởng họ là elves. Geralt buộc chặt mũ trùm đầu và bắt đầu tính xem nên làm gì nếu bị phát hiện.

“Thời tiết xấu thật.” Gã lái buôn xoa tay vào nhau. “Mưa trút như thể có ai đục lỗ ở trên thiên đàng vậy! Tedd ugly, ell’ea? Nhưng không hề gì, không có thời tiết nào là xấu cho buôn bán cả. Không có thời tiết tốt hay xấu, cũng như không có tiền nào là tốt hay xấu cả, nhỉ? Hiểu tôi chứ, elf?”

Geralt gật đầu. Dandelion ậm ực cái gì đó không rõ từ sau mũ trùm đầu. May mắn thay, sự khinh ghét của người elves đối với việc trò chuyện cùng con người không có gì là kỳ lạ hay bất ngờ với bất cứ ai. Tuy nhiên gã lái phụ vẫn chưa hạ cây nỏ xuống. Không phải là dấu hiệu tốt.

“Các ngài là ai và từ đâu tới? Từ biệt đội nào?” Gã bán rong, như bất cứ người lái buôn nghiêm túc nào, không màng đến vẻ u ám của khách hàng. “Coinneach Dá Reo? Angus Bri Cri? Hay là Riordain? Tôi biết là Riordain đã được trông thấy tuần trước, anh ta rạch cổ lũ đại diện hoàng gia đang đi thu thuế xung quanh khu vực này. Tôi muốn tiền, không phải lúa mì. Tôi không chấp nhận thanh toán bằng hắc ín, hay ngũ cốc, hay quần áo vấy máu – chỉ có da chồn và hắc điêu là được. Nhưng tôi vẫn thích nhất là tiền xu, hay đá quý! Nếu các ngài có, chúng ta có thể giao dịch. Tôi có toàn hàng xịn bậc nhất! Evelienn, vara en ard sceddem, ell’ea, hiểu chứ elf? Tôi có tất! Xem đi.”

Gã lái buôn lại gần xe hàng, và kéo tấm vải bạt ướt sũng xuống. Họ trông thấy kiếm, cung, mũi tên và yên cương. Hắn lục lọi trong đống hàng hóa, và rút ra một mũi tên. Phía đầu có răng cưa lởm chởm và góc cạnh.

“Các ngài sẽ không thể tìm thấy ở chỗ nào khác đâu,” hắn nói tự hào. “Không có nhiều người buôn thứ này, bởi vì với số gai góc như vậy, nếu bị bắt đang bán chúng thì quân lính sẽ xé xác họ. Nhưng tôi biết Sóc thích gì, và khách hàng là thượng đế mà. Ngài không thể đi buôn mà không liều lĩnh được, miễn sao là lợi nhuận gấp ba! Còn ở nhà….9 xu một tá này. Aen naev’de tvedeane, ell’ea, hiểu chứ seidhe? Tôi cam đoan là không lừa đảo gì đâu, tôi kiếm được rất ít, tôi thề trên đầu lũ con tôi. Nếu ngài mua ba bó một lúc, tôi sẽ giảm giá 6 phần trăm! Dĩ nhiên là chỉ dịp này mà thôi, đây là khuyến mại một lần duy nhất Này, seidhe, xuống khỏi xe hàng của tôi ngay!”

Dandelion hoảng sợ rụt tay lại khỏi tấm bạt, và kéo mũ trùm lên cao hơn. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu rồi, Geralt nguyền rủa tính tò mò của nhà thơ.

Mir’me vara.” Dandelion lầm bầm, giơ tay lên xin lỗi. “Squaess’me.”

“Không có gì đâu,” gã bán rong ngoác mồm cười. “Nhưng đừng nhìn vào trong xe. Có một, ahem, món hàng, nhưng không để bán, không phải dành cho seidhe. Đó là một món đặt trước! Heh, heh! Chà, chúng ta cứ đứng tán gẫu thế này sao cho tôi xem tiền đi.”

Bắt đầu nào, Geralt nghĩ, nhìn vào chiếc nỏ đang căng sẵn nhắm vào mình. Anh có cơ sở để tin rằng nó được lắp món vũ khí đặc trưng của dân bán rong – đầu mũi tên nhiều mảnh, bắn vào bụng một cái, và chui ra thành ba cái, đôi khi là bốn, nghiền nát nội tạng.

Tedd n’ess,” anh lên tiếng, bắt chước ngữ điệu. “Tearde. Mireann vara, va’en vort. Chúng ta sẽ quay lại biệt đội, rồi giao dịch sau. Ell’ea? Hiểu chứ dh’oine?”

“Tôi hiểu.” Gã lái buôn khạc ra. “Tôi hiểu là các người nghèo xác xơ, và rất muốn mua hàng, nhưng chẳng có lấy một xu nào. Biến ra khỏi đây đi! Và đừng quay lại bởi vì tôi còn phải gặp vài vị khách quan trọng, và nếu các người quý trọng mạng sống thì đừng để họ bắt gặp. Ra khỏi ”

Hắn ngừng lại, nghe thấy tiếng ngựa hý.

“Quỷ sứ!” hắn làu bàu. “Trễ quá rồi! Họ đang ở đây! Giấu mặt vào trong mũ trùm đi, elves!

Đừng di chuyển hay thốt ra câu nào! Kolda, đồ ngu, bỏ cây nỏ xuống, và khẩn trương lên!”

Tiếng mưa rơi, sấm chớp và tấm thảm lá cây che đi âm thanh của vó ngựa, tạo điều kiện cho các kỵ sĩ di chuyển khẽ khàng và bao vây xung quanh cây giẽ gai trong nháy mắt. Họ không phải là Scoia’tael. Sóc không mặc áo giáp, và tám người đứng xung quanh gốc cây thì có. Mưa lách tách trên mũ trụ, giáp vai và áo sợi của họ.

Một kỵ sĩ tiến lại gã bán rong, lừng lững như một quả núi. Ông ta đã rất cao, và lại còn ngồi trên lưng một con ngựa chiến vĩ đại. Hai bên vai được bọc giáp của ông ta khoác một tấm da sói, và gương mặt ông ta bị khuất bởi một chiếc mũ trụ có sống mũi dài đến tận môi dưới. Tay ông ta cầm một món vũ khí ác hiểm, một chiếc búa Nadziak.

“Rideaux!” Giọng ông ta khàn khàn.

“Faoiltiarna!” gã lái buôn la lên, giọng hắn hơi lạc đi.

Người kỵ sĩ tiến lại gần hơn và nghiêng người trên yên ngựa. Những giọt mưa vỡ tung trên cái mũi thép trước khi đổ xuống vai, rồi ánh lên nham hiểm trên đầu của chiếc búa hung tợn.

“Faoiltiarna!” gã bán rong lặp lại, cúi đầu xuống tận thắt lưng. Hắn bỏ mũ ra, và cơn mưa ngay lập tức dán những sợi tóc mỏng của hắn dính xuống đầu. “Faoiltiarna! Tôi là một trong số các ngài, tôi biết ám hiệu và mật khẩu….Tôi đến từ chỗ của Faoiltiarna, thưa ngài tôi đã đến nơi gặp mặt dưới tán cây giẽ gai này, như đã giao hẹn ”

“Những kẻ này, họ là ai?”

“Tùy tùng của tôi.” Gã bán rong cúi còn thấp hơn. “Đây là cái mà người elves gọi là…. ”

“Tù nhân đâu?”

“Trên xe. Trong một cái quan tài.”

“Trong một cái quan tài sao?” người kỵ sĩ phát ra một tiếng gầm, mà một phần bị dìm đi bởi sấm sét. “Ngươi sẽ phải trả giá cho chuyện này! Ngài de Rideaux đã ra lệnh rõ ràng là tù nhân phải còn sống!”

“Hắn còn sống, hắn còn sống,” gã lái buôn nhanh chóng đính chính. “Đúng theo mệnh lệnh….Hắn bị nhốt trong quan tài, nhưng vẫn còn sống Cái quan tài không phải là ý tưởng của tôi, thưa ngài. Đấy là Faoiltiarna….. ”

Người kỵ sĩ vỗ chiếc búa lên yên ngựa. Tuân theo hiệu lệnh, ba người xuống ngựa và gỡ tấm vải bạt phủ trên xe hàng ra. Sau khi họ đã quăng hết đống chăn chiếu và yên cương xuống đất, Geralt trông thấy, trong một ánh chớp nhá lên, một cỗ quan tài bằng gỗ thông mới cứng. Tuy nhiên, anh vẫn cẩn thận không nhìn quá gần. Anh thấy cảm giác ngứa ngáy trên đầu ngón tay. Anh biết điều gì sắp xảy ra.

“Giờ thì tôi phải làm gì đây?” Gã bán rong kêu lên, nhìn vào đống hàng hóa sũng nước dưới đất. “Các ngài đã ném hết đồ của tôi đi!”

“Ta sẽ mua hết. Cả tùy tùng của ngươi nữa.”

“Ahhh,” một nụ cười nở ra trên gương mặt lấm tấm của tay lái buôn. “Đương nhiên rồi, thế sẽ là….để tôi nghĩ xem 500, nếu ngài trả theo đồng Temeria. Nhưng nếu ngài trả bằng floren,

thì 45.”

“Rẻ vậy sao?” Người kỵ sĩ khịt mũi, một nụ cười ma quái hiện lên đằng sau sống mũi của chiếc mũ trụ. “Lại đây đi.”

“Coi chừng, Dandelion.” Witcher thì thầm, bí mật cởi khóa áo ra. Một tia sét nhá lên.

Gã bán rong lại gần người kỵ sĩ, ngây thơ tin vào cuộc giao dịch đổi đời của mình. Nó đúng là cuộc giao dịch đổi đời của hắn thật có lẽ không phải là béo bở nhất, nhưng chắc chắn là cuối cùng. Người kỵ sĩ đứng trên bàn đạp, lấy quán tính và cắm cây búa vào cái đầu trọc của gã bán rong. Hắn ngã xuống mà không kêu một tiếng, tay co giật và gót chân cào xới nền đất. Một kẻ khác chạy lại chiếc xe, quấn dây cương quanh cổ gã lái xe đang ngồi và siết chặt, một kẻ khác xông tới và kết thúc công việc bằng một con dao.

Một tên nhanh chóng giơ cây nỏ lên ngang vai, ngắm vào Dandelion. Tuy nhiên, Geralt đã đang cầm sẵn thanh kiếm rút ra từ trên xe của gã bán rong. Cầm vào giữa lưỡi kiếm, anh ném nó đi như phóng một cây lao. Tên cung thủ ngã xuống, trên mặt vẫn còn vẻ kinh ngạc không tả xiết.

“Chạy đi Dandelion!”

Pegasus bắt kịp nhà thơ và với một cú nhảy hoang dại, cậu bay lên yên ngựa. Nhưng cú nhảy quá hoang dại, và nhà thơ thì thiếu kỹ năng. Cậu không thể ngồi được trên yên và ngã xuống đất ở phía đối diện. Nó vẫn cứu được mạng cậu, lưỡi kiếm của tên kỵ sĩ cắt qua không khí với một tiếng rít ở gần tai Pegasus. Con ngựa phát hoảng, nó vấp ngã và đâm sầm vào con ngựa của kẻ tấn công.

“Chúng không phải elves!” Tên kỵ sĩ đội chiếc mũ với sống mũi thép gầm lên, rút kiếm ra. “Bắt sống chúng! Bắt sống!”

Một trong những kẻ vừa mới nhảy lên xe hàng thấy bối rối bởi mệnh lệnh này, lưỡng lự trong giây lát. Geralt, vừa kịp thời gian để rút thanh kiếm của chính anh ra, đã không mắc sai lầm đó. Sự hăng hái của hai tên còn lại có vẻ như đã nguội bớt bởi dòng suối máu bắn lên người chúng. Geralt nhân cơ hội để giết thêm tên thứ hai, nhưng những kẻ khác đã kịp lấy lại tinh thần. Anh né khỏi đường kiếm của chúng, chặn những cú đánh. Anh nhảy sang bên và đột nhiên cảm thấy một cơn đau ập đến đầu gối phải. Anh cảm thấy mình đang ngã. Nhưng anh vẫn chưa bị thương. Không lời cảnh báo, cái chân đã được chữa lành ở Brokilon từ chối tuân theo anh.

Gã đàn ông đang sắp sửa đánh ngất anh với một cán rìu đột nhiên rên lên và lảo đảo, như thể có ai đó xô hắn.

Trước khi ngã xuống, witcher nhìn thấy một mũi tên với lông vũ dài cắm sâu vào sườn của kẻ tấn công. Dandelion hét lên. Tiếng của cậu bị dìm đi bởi sấm chớp.

Geralt, bám lấy bánh của chiếc xe hàng, trong một ánh chớp chói lòa trông thấy một cô gái với mái tóc gai xuất hiện từ sau những cây trăn, một cây cung ở trên tay cô. Anh cũng trông thấy những tên kỵ sĩ. Tuy nhiên chúng không thể nhìn thấy cô, bởi vì một tên trong số đó vừa ngã ngửa ra sau con ngựa, cổ họng bị đầu mũi tên xé nát. Ba kẻ còn lại, bao gồm cả gã chỉ huy đội mũ trụ, nhận ra sự nguy ngập của tình hình, la lên và phi về phía nữ cung thủ, trốn sau cổ của những con ngựa. Chúng nghĩ rằng như vậy là đủ để che chắn khỏi những mũi tên. Chúng đã lầm.

Maria Barring, biệt danh Milva, kéo căng cây cung. Cô ước lượng, điềm tĩnh, dây cung chạm đến tận mặt.

Kẻ tấn công đầu tiên hét lên và trượt khỏi con ngựa, chân hắn vướng vào bàn đạp, và đầu hắn bị dẫm nát bởi chính móng con ngựa của mình. Mũi tên tiếp theo chỉ đơn giản cuốn bay tên thứ hai khỏi yên. Gã kỵ sĩ thứ ba, cũng chính là kẻ chỉ huy, đã đang ở rất gần rồi. Hắn đứng trên bàn đạp và giơ kiếm lên. Milva thậm chí không thèm chớp mắt. Cô nhìn thẳng vào kẻ tấn công, kéo căng dây cung và từ khoảng cách 5 bước chân, cắm một mũi tên vào giữa mặt hắn, ngay bên cạnh cái sống mũi bằng thép. Mũi tên bay xuyên qua, chiếc mũ rơi xuống đất.

Con ngựa giảm tốc độ lại xuống phi nước kiệu. Mất đi chiếc mũ và một phần lớn hộp sọ, gã kỵ sĩ ngồi được trên yên một lúc, rồi từ từ nghiêng sang bên và cắm đầu xuống vũng bùn. Con ngựa hý lên và chạy mất.

Geralt vất vả đứng dậy. Anh xoa cái chân đau, và ngạc nhiên là thấy khá hiệu quả. Anh có thể đứng tựa vào nó mà không quá khó khăn, và anh có thể bước đi. Dandelion bò lên từ mặt đất cách đó không xa, đẩy một cái xác bị cứa cổ đang nằm đè lên cậu sang bên. Gương mặt của nhà thơ trắng như vôi.

Milva lại gần, lấy lại mũi tên từ gã kỵ sĩ đã chết.

“Cảm ơn cô,” witcher lên tiếng. “Dandelion, đây là Maria Barring. Nhờ cô ấy mà chúng ta vẫn còn sống.”

Milva rút tên ra từ một cái xác khác, kiểm tra đầu mũi tên đẫm máu. Dandelion lẩm bẩm gì đó nghe không rõ, cúi chào trịnh trọng, mặc dù có hơi run, rồi quỳ xuống và bắt đầu nôn.

“Anh ta là ai?” nữ cung thủ chùi đầu mũi tên lên vài cái lá ướt, và bỏ nó lại vào trong ống. “Bạn của anh à, witcher?”

“Phải. Cậu ấy tên là Dandelion, một nhà thơ.”

“Một nhà thơ.” Milva nhìn nhà thi sĩ lúc này đang nôn khan, rồi ngước mắt lên. “Ừ thì, cái đó tôi hiểu. Tuy nhiên cái mà tôi không hiểu là tại sao anh ta lại ở đây nôn mửa, chứ không phải ngồi sáng tác trong một thị trấn yên tĩnh. Dù sao, đó cũng không phải là việc của tôi.”

“Xét theo cách nào đó thì nó cũng một phần là việc của cô. Cô đã cứu mạng cậu ta. Và tôi nữa.”

Milva lau đi gương mặt đẫm nước mưa, mà trên đó vẫn còn nhìn rõ được dấu vết của dây cung hằn lên. Mặc dù cô đã bắn nhiều lần, nhưng chỉ có một dấu vết duy nhất – dây cung luôn đặt ở cùng một chỗ.

“Tôi đã đang đứng dưới mấy cây trăn khi anh bắt đầu nói chuyện với gã bán rong,” cô nói. “Tuy nhiên tôi không muốn lũ tội phạm đó trông thấy mình, vả lại cũng chưa có gì nguy cấp. Nhưng rồi những kẻ kia đến và cuộc vui bắt đầu. Anh đánh ngã vài tên, và rõ ràng là anh rất biết cách dùng kiếm Nhưng anh thật ngu ngốc, lẽ ra anh nên ở lại Brokilon để chữa lành cái chân.

Nếu thương tích nặng hơn, anh có khi phải khập khiễng cả đời. Anh cũng biết điều đó chứ, phải không?”

“Tôi sẽ sống thôi.”

“Quả thực là tôi cũng tin thế. Bởi vì tôi đã bám theo anh để cảnh báo. Để bắt anh quay lại. Cuộc hành trình của anh sẽ chẳng được ích gì đâu. Dưới phía nam là chiến tranh. Lính Nilfgaard hành quân từ Drieschot đến Brugge.”

“Sao mà cô biết?”

“Thì cứ nhìn xung quanh mà xem,” cô gái chỉ về phía những cái xác người và ngựa với vẻ tự phụ. “Chúng là người Nilfgaard! Anh không thấy hình mặt trời trên mũ chúng à? Họa tiết trang trí trên yên ngựa? Thu dọn đồ đi, chúng ta nên ra khỏi đây, có thể còn nhiều tên nữa ở dưới hạ lưu. Những kẻ này được cử tới để trinh sát.”

“Tôi không nghĩ là những kẻ này được cử tới để do thám.” Anh lắc đầu. “Tôi nghĩ chúng đến đây vì thứ khác.”

“Vậy thì chúng ở đây để làm gì?”

“Chúng ở đây vì thứ đó.” Anh chỉ tay về phía cỗ quan tài bằng gỗ thông nằm trên xe. Lớp gỗ đen đi vì ướt. Mưa đã ngớt đi nhiều rồi và sấm đã ngừng. Cơn bão đang di chuyển lên phương Bắc. Witcher cầm lên thanh kiếm nằm giữa đống lá ướt, và nhảy lên chiếc xe, khẽ nguyền rủa cái đầu gối vẫn đang âm ỉ.

“Giúp tôi mở nó ra.”

“Anh định làm gì thế, người chết nên được yên nghỉ.. ” Milva ngắt giữa chừng, trông thấy những cái lỗ tí hon đục trên lớp vỏ. “Chết tiệt! Lũ bán rong nhốt một người sống trong đó sao?”

“Một tù nhân,” Geralt bẩy nắp đậy ra. “Gã lái buôn đang đợi những kẻ người Nilfgaard kia tới để giao cho chúng. Tôi đã nghe chúng trao đổi ám hiệu và mật khẩu ”

Cái nắp đậy bật ra, hé lộ một người đàn ông bị bịt mồm, tay chân bị trói vào thành bằng những sợi dây da. Witcher cúi xuống. Anh nhìn thật gần. Và lại lần nữa, khẽ khàng hơn, anh nguyền rủa.

“Từ từ đã,” anh nói chậm. “Giờ thì, đúng là bất ngờ đây. Ai mà lường được cơ chứ?” “Anh biết hắn sao, witcher?”

Để trả lời câu hỏi của nữ cung thủ, Geralt mỉm cười độc địa trước cặp mắt của tên tù nhân.

“Bỏ dao đi, Milva. Đừng cắt dây cho hắn. Đây là vấn đề nội bộ của Nilfgaard. Chúng ta không nên xen vào.”

“Chúng ta sẽ bỏ mặc hắn như vậy.”

“Tôi nghe có đúng không đó?” Dandelion lên tiếng từ đằng sau họ. Cậu vẫn đang tái nhợt, nhưng sự tò mò đã chiến thắng những cảm giác khác của cậu.

“Anh định bỏ mặc một người bị trói gô ở trong rừng? Suy đoán của tôi là anh đã nhận ra anh ta với một người mà anh đang có thù oán, nhưng chết tiệt, anh ta vẫn là một tù nhân của những kẻ vừa tấn công và suýt giết chết chúng ta! Kẻ thù của kẻ thù ta ”

Cậu ngừng lại, trông thấy witcher rút một con dao ra từ ủng. Milva khẽ hắng giọng. Đôi mắt xanh đen của người tù, nheo lại vì những hạt mưa trút liên tục, giờ mở rộng. Geralt rướn lên và cắt dây trói bên tay trái hắn.

“Nhìn đi, Dandelion,” anh nói, nắm lấy cổ tay hắn và giơ lên. “Thấy vết sẹo không? Đó chính là nơi mà Ciri đã đánh trúng. Trên đảo Thanedd, một tháng trước. Hắn là người Nilfgaard. Hắn đã đến Thanedd chỉ vì một mục đích là bắt cóc Ciri. Con bé đã cắt trúng hắn.”

“Bàn tay này rõ ràng đã không giúp hắn nhiều lắm trong việc tự vệ,” Milva lầm bầm. “Nhưng kể cả thế, vẫn có gì đó không hợp lý ở đây. Nếu kẻ này định bắt cóc Ciri cho Nilfgaard thì tại sao hắn lại ở trong cỗ quan tài đó? Tại sao lũ bán rong lại định bán hắn cho Nilfgaard? Bỏ cái giẻ trong mồm hắn ra đi, witcher. Có lẽ hắn có thể cho chúng ta biết gì đó?”

“Tôi không muốn nghe hắn nói,” giọng anh khàn khàn. “Chỉ cần thấy hắn nằm đó và nhìn tôi là đã ngứa tay lắm rồi. Tôi đang phải chống cự rất khó khăn đây. Nếu hắn bắt đầu mở mồm, tôi sẽ không thể kiềm chế nổi mất. Tôi vẫn chưa kể hết cho cô về hắn đâu.”

“Nếu vậy thì anh thích làm gì thì làm,” Milva nhún vai. “Cứ đập cho hắn một trận, nếu hắn là một thằng khốn như vậy. Nhưng nhanh lên, bởi vì thời gian đang gấp lắm rồi. Như tôi đã nói, bọn Nilfgaard có thể không còn xa đâu. Tôi sẽ đi lấy ngựa.”

Geralt đứng thẳng lên, bỏ bàn tay gã tù nhân ra.

Hắn ngay lập tức bỏ giẻ ra khỏi mồm và khạc nhổ, nhưng không nói gì. Witcher ném con dao xuống ngực hắn.

“Ta không biết chúng nhốt ngươi trong đó vì tội gì, người Nilfgaard,” anh nói. “Ta không quan tâm. Ta bỏ con dao này lại cho ngươi, tự giải thoát cho mình đi. Ở yên đây đợi lũ bạn ngươi hay biến vào trong rừng, sao cũng được.”

Gã tù nhân im lặng. Tay và chân bị trói, nằm dưới đáy một cái hòm gỗ, trông hắn còn thảm hại và đáng thương hơn cả lần ở trên Thanedd, khi mà Geralt đã trông thấy hắn đang quỳ gối, run rẩy trong một vũng máu. Trông hắn cũng trẻ hơn nhiều. Witcher cho rằng hắn không quá 25.

“Ta đã tha mạng cho ngươi trên Thanedd,” anh thêm vào. “Và giờ ta cũng sẽ tha cho ngươi. Nhưng đây là lần cuối cùng. Nếu còn gặp lại, ta sẽ giết ngươi như một con chó. Nhớ lấy điều đó. Nếu ngươi định thuyết phục lũ đồng đội đuổi theo chúng ta, hãy mang theo cái quan tài đó. Ngươi sẽ cần đến nó. Đi thôi, Dandelion.”

“Đi thôi, nhanh lên!” Milva la, phi nước đại ngược con đường dẫn về phía tây. “Nhưng không phải lối đó! Khu rừng! Lũ ngu! Vào trong rừng!” “Làm sao?”

“Một đội quân tới từ dòng Ribbon! Đó là Nilfgaard! Các anh nhìn cái gì? Lên ngựa nhanh lên, trước khi chúng đuổi kịp ta!”

***

Trận đánh trong ngôi làng đã diễn ra được hơn một giờ rồi, nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy là nó sắp kết thúc. Những người lính bộ binh đang cố thủ sau tường đá, hàng rào và công sự lập nên bởi những cỗ xe hàng xếp lại, cho đến giờ đã đẩy lui được ba đợt tấn công bằng kỵ binh từ phía con mương. Chiều rộng của con mương không cho phép kỵ binh lấy đà, giúp cho các bộ binh có thể tập trung phòng vệ. Do vậy, mỗi đợt tấn công đều thất bại thảm hại, từ đằng sau rào chắn, những người lính bộ binh tuyệt vọng nhưng ngang ngạnh trút một cơn mưa tên lên các kỵ sĩ. Hàng tiên phong đổ xuống, và những người bảo vệ nhanh chóng phản công, giết hết tất cả những kẻ còn lại với giáo, rìu và búa. Kỵ binh rút ra sau con mương, để lại sau lưng xác người và ngựa, và những người lính đằng sau hàng rào buông lời sỉ nhục về phía kẻ thù. Sau một lúc, kỵ binh lại tập hợp và tấn công. Và cứ tiếp tục như thế.

“Tôi thắc mắc không biết ai đang đánh ai đây?” Dandelion hỏi, mặc dù khó mà hiểu được cậu đang nói cái gì. Milva đã đưa cho cậu chút bánh mì và nhà thơ đang cố nhai nát chúng trong miệng.

Họ ngồi cạnh mép một vách đá, được che giấu tài tình giữa những bụi bách xù. Họ có thể quan sát trận chiến mà không sợ bị phát hiện. Hay nói đúng hơn thì họ chỉ có thể quan sát mà thôi. Họ không còn lựa chọn khác. Phía trước họ là chiến trận nảy lửa, và sau lưng họ thì khu rừng đang bắt lửa.

“Để đoán thì cũng không khó,” cuối cùng Geralt cũng quyết định trả lời câu hỏi của Dandelion, mặc dù khá miễn cưỡng. “Những người đang ngồi trên ngựa là lính Nilfgaard.”

“Còn bộ binh?”

“Họ không phải Nilfgaard.”

“Những người đang ngồi trên ngựa là kỵ binh tình nguyện của Verden,” Milva, mà lúc này đang rất kín miệng và vẻ mặt u ám, lên tiếng. “Họ là những người đang mặc áo kẻ caro. Và những người ở trong ngôi làng kia là lính của Brugge. Tôi biết quân kỳ của họ.”

Quả thực, vui mừng trước thắng lợi mới có, những người lính bộ binh dựng lên một lá cờ xanh lục với một chữ thập màu trắng trên chiến hào. Cho đến lúc này, Geralt chưa từng nhìn thấy lá quân kỳ nào, nhưng khi cẩn thận quan sát, anh thấy những người bảo vệ giờ mới dựng lên một cái. Có vẻ như họ đã thua khi trận đánh mới bắt đầu.

“Chúng ta sẽ ngồi đây bao lâu?” Dandelion hỏi.

“Trông kìa,” Milva lầm bầm. “Hỏi thế mới là hỏi chứ. Nhìn xung quanh đi! Nếu anh không xoay người được thì nhấc mông dậy mà nhìn.”

Dandelion không cần phải nhìn hay quay người. Toàn bộ đường chân trời dày đặc khói. Ở phía Bắc và phía Tây là tập trung nhiều nhất, nơi mà quân đội đã thiêu trụi khu rừng. Bầu trời phía Nam, nơi mà họ đang hướng theo khi mà trận đánh bất chợt chắn đường, cũng có màu đen. Và chỉ trong một tiếng đồng hồ, khoảng thời gian mà họ ngồi trên ngọn núi, những cột khói cũng đã lan sang phía Đông.

“Dù gì đi chăng nữa,” nữ cung thủ dừng lại một lúc, nhìn vào Geralt, “tôi cũng đang tò mò về ý định của anh bây giờ, witcher. Sau lưng chúng ta là Nilfgaard và khu rừng bốc hỏa, và trước mặt anh thấy rồi đấy. Kế hoạch của anh là gì?”

“Kế hoạch của tôi vẫn không thay đổi. Đợi sau khi trận đánh kết thúc, tôi sẽ hướng về phía nam. Qua dòng Yaruga.”

“Có lẽ anh đã mất trí rồi.” Milva nhăn mặt. “Rồi anh sẽ thấy chuyện gì xảy ra. Anh sẽ thấy rõ ràng rằng cuộc chiến này không phải là một cuộc diễu hành dạo chơi. Nilfgaard tiến thẳng từ Verden. Đi về phía Nam, chắc chắn chúng đã tràn qua Brugge, và có lẽ cũng đã vượt qua Yaruga. Thậm chí Sodden có thể cũng đang bốc lửa ”

“Tôi phải tới Yaruga.” “Tuyệt. Rồi thì sao?”

“Tôi sẽ tìm một cái bè, và trôi theo dòng nước. Tôi sẽ cố xuống được cửa sông. Rồi tìm một chuyến tàu….từ đó, chết tiệt, chắc chắn phải có một chuyến tàu ”

“Đến Nilfgaard?” Cô cười. “Vậy là kế hoạch của anh vẫn không thay đổi?” “Cô không cần phải đi theo tôi.”

“Đương nhiên, tôi không có nghĩa vụ phải làm vậy. Mà nhờ thế mà tôi tạ ơn các thần, bởi vì tôi vẫn chưa muốn chết. Tôi thì chẳng sợ gì cả, nhưng tôi phải nói với anh: đừng can đảm tới mức tự sát.”

“Tôi biết,” anh điềm tĩnh đáp lời. “Tôi hiểu điều này. Tôi đã chẳng đi nếu không phải vì bất đắc dĩ. Nhưng tôi phải đi, và tôi sẽ đi. Không gì có thể ngăn cản tôi.”

“Ha,” cô đo lường anh bằng ánh mắt. “Giọng anh như thể ai đó đang dùng dao cạo đáy nồi vậy. Nếu mà Hoàng đế nghe được anh, ông ta chắc phải sợ đến tuột cả quần. “Lính đâu! Lính đâu! Ta tận mạng rồi! Một witcher đang tìm đến ta trên một cái xuồng, hắn sẽ sớm đến đây và lấy mạng cùng vương miện của ta! Ta tiêu rồi!”

“Thôi đi, Milva.”

“Còn lâu! Đã đến lúc có người bắt anh đối mặt với sự thật rồi. Tôi sẽ không bao giờ lột da một con thỏ nào nữa nếu mà gặp được thằng nào còn ngu hơn cả anh! Anh nghĩ mình sẽ đánh cắp được con bé từ tay Emhyr chắc? Đứa bé đang trong tầm ngắm của hắn? Đứa bé mà hắn đã giật từ tay các vị vua? Móng vuốt của Emhyr khỏe lắm, và không dễ gỡ ra được đâu. Ngay cả vua chúa cũng sợ hắn, và anh còn định cướp từ tay hắn?”

Witcher không trả lời.

“Anh định đến Nilfgaard,” Milva lặp lại, gật đầu ra chiều khinh bỉ. “Để gây chiến với Hoàng đế, và cướp đi cô dâu của hắn. Anh đã từng nghĩ chuyện gì có thể sẽ xảy ra chưa? Khi anh tới đó, khi anh thấy con bé Ciri này trong căn phòng riêng của nó ở cung điện, với tất cả mớ vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc đeo trên người, anh định sẽ nói gì? Lại đây với ta nào con yêu, sao con lại ở đây trong cung điện hoàng gia, trong khi cả hai ta có thể cùng sống trong một cái lều và ăn vỏ cây cho đến mùa thu hoạch? Nhìn lại mình xem, đồ què quặt rách rưới! Ngay cả đôi giầy và tấm áo anh lấy từ các dryad cũng thuộc về gã elf nào đấy trước đó, đã chết vì trọng thương ở Brokilon. Anh biết chuyện gì sẽ xảy ra khi anh tìm thấy cô tiểu thư của mình không? Con bé sẽ nhổ vào mặt anh và cười. Nó sẽ ra lệnh quân lính tống cổ anh ra và ném anh cho chó ăn!”

Milva nói càng ngày càng to, và đến cuối bài phát biểu cô gần như hét lên. Không chỉ đơn giản vì bực tức, mà còn để át đi âm thanh của trận đánh. Từ bên dưới, cả tá, có lẽ là cả trăm cái cổ họng đang gào. Một đợt tấn công mới đang ập đến những người lính của Brugge. Nhưng lần này là từ cả hai phía. Kỵ binh của Verden, trong những chiếc áo caro xanh lam, phi dọc bờ mương, trong khi một toán kỵ sĩ lớn khoác áo đen tới từ đằng sau con mương, tấn công vào sườn những kẻ bảo vệ.

“Nilfgaard,” Milva nói cộc lốc.

Lần này bộ binh Brugge không có cơ hội nào cả. Kỵ binh tràn qua chiến hào và ngay lập tức chia nhỏ những người bảo vệ ra bằng lưỡi kiếm. Lá quân kỳ chữ thập đổ xuống. Một vài người ném vũ khí đi và xin hàng, một số cố chạy thoát vào khu rừng. Tuy nhiên, một đơn vị thứ ba tấn công từ trong rừng ra, một đội kỵ binh nhẹ mặc trang phục đủ mọi màu.

“Scoia’tael.” Milva nói, đứng dậy. “Giờ thì anh đã hiểu chuyện gì đang xảy ra chưa, witcher? Não anh đã thông suốt chưa? Nilfgaard, Verden và Scoia’tael đang thông đồng với nhau. Đây là chiến tranh. Cũng như ở Aedirn một tháng trước.”

“Đây là một cuộc tập kích,” Geralt lắc đầu. “Để cướp chiến lợi phẩm. Chỉ có các kỵ sĩ, không có bộ binh, không có ”

“Bộ binh đã tới các thành trì và pháo đài rồi. Những cột khói đó, anh nghĩ chúng từ đâu mà ra? Ai đó đang nướng cá à?”

Từ ngôi làng bên dưới vọng lên những tiếng rú man dại của những kẻ tháo chạy đang bị tàn sát bởi Sóc. Những mái nhà tranh bắt lửa và bốc khói. Cơn gió mạnh đã thổi khô lớp cọ sau trận mưa sáng nay, lửa lan rất nhanh.

“Ồ,” Milva lầm bầm, “ngôi làng đang bốc cháy, và nó được xây lại cũng chưa lâu lắm từ sau chiến tranh. Họ đã vất vả gây dựng mọi thứ trong hai năm, để giờ đây nó bị thiêu rụi trong tích tắc. Anh có học được cái gì từ chuyện này không thế?”

“Tôi học được cái gì nào?” Geralt sẵng giọng.

Cô không trả lời. Khói từ ngôi làng bốc lên cao, với đến vách đá. Mắt họ nhoèn nước.

Những tiếng la hét vang vọng từ bên dưới. Dandelion đột nhiên trắng bệch như tờ giấy.

Các tù nhân bị gom lại, bao vây bởi một vòng tròn kỵ binh. Theo mệnh lệnh của một hiệp sĩ đội chiếc mũ trụ với ngù đen, các kỵ binh bắt đầu chém và đâm những kẻ bất lực. Ai ngã xuống thì bị giẫm nát bởi vó ngựa. Vòng tròn khép lại. Những tiếng la hét giờ không còn nghe giống người nữa.

“Và anh khăng khăng là chúng ta phải xuống phía Nam?” Nhà thơ hỏi, liếc mắt về phía witcher. “Vượt qua ngọn lửa đó? Những tên đồ tể đó?”

“Tôi cảm thấy,” Geralt nói miễn cưỡng, “là chúng ta không có lựa chọn.”

“Chà,” Milva lên tiếng. “Tôi có thể dẫn anh qua khu rừng đến Đồi Cú Vọ và quay lại Ceann Treise, hướng về Brokilon.”

“Qua khu rừng đang bốc cháy ư? Để liều lĩnh đụng phải quân lính, mà chúng ta vừa mới thoát khỏi không lâu trước đó?”

“Còn an toàn hơn là con đường xuống phía Nam. Ceann Treise chỉ cách 14 dặm từ đây, và tôi biết rõ đường.”

Witcher nhìn xuống ngôi làng đang bị ngọn lửa nuốt chửng.

Quân Nilfgaard đã xử lý xong xuôi tù nhân và đội kỵ binh tập hợp lại theo hàng. Đơn vị Scoia’tael sặc sỡ cũng đã bắt đầu di chuyển, đi theo con đường sang phía Đông.

“Tôi không thể quay lại,” anh nói cứng rắn. “Nhưng cô có thể dẫn Dandelion về Brokilon.” “Không!” Nhà thơ phản đối, dù cho cậu vẫn chưa có lại màu da thông thường. “Tôi sẽ đi với anh.”

Milva khoát tay, cầm lấy cây cung và ống tên, hướng về phía con ngựa, và bất thình lình quay lại.

“Quỷ sứ,” cô la lên. “Tôi đã dành quá nhiều thời gian cứu tụi elves rồi. Tôi không thể cứ đứng nhìn anh đi vào chỗ chết như vậy! Tôi sẽ đi cùng anh tới Yaruga, đồ điên, nhưng không phải theo con đường phía Nam, mà từ phía Đông.”

“Rừng ở đó cũng đang cháy rồi.”

“Tôi sẽ dẫn anh qua ngọn lửa. Tôi quen với nó rồi.” “Cô không cần phải làm vậy, Milva.”

“Đương nhiên là tôi không cần rồi. Thế nào, lên ngựa đi chứ! Cuối cùng, bắt đầu di chuyển đi thôi!”

***

Đoàn lữ hành ba người không đi được xa lắm. Ngựa của họ không thể đi qua lối mòn rậm rạp. Họ không dám đi trên đường cái, âm thanh của giáp trụ và vũ khí loảng xoảng để lộ ra vị trí của quân lính ở khắp nơi. Chạng vạng bất ngờ ập đến khi họ đang đi qua một khe suối, và họ quyết định dừng chân ở đó. Trời không mưa và quang đãng, bập bùng với ánh sáng của lửa.

Họ tìm thấy một nơi khá khô ráo, ngồi xuống, và quấn khắp người bằng áo choàng và chăn len. Milva đã đi thám thính xung quanh. Ngay khi cô vừa rời đi, Dandelion bắt đầu trút hết toàn bộ sự tò mò đối với nữ cung thủ Brokilon lên đầu Geralt.

“Cô gái đó đúng là rất thích hành động,” cậu lầm bầm. “Anh may mắn thật, Geralt, anh đúng là có tài kết bạn với những người phụ nữ như vậy. Mảnh mai và duyên dáng, cô ấy đi như thể đang múa vậy. Hông hơi nhỏ một chút so với sở thích của tôi, và vai cô ấy cũng hơi rộng, nhưng vẫn rất nữ tính, à đúng, nữ tính….Hai quả táo đằng trước đó, hô, hô, sớm muộn gì cúc áo cô ấy cũng bung ra thôi ”

“Im đi, Dandelion.”

“Khi đang đi trên đường,” nhà thơ vẫn tiếp tục mơ mộng, “tôi đã tình cờ chạm vào cô ấy. Bắp đùi đó, tôi nói anh nghe, sờ như cẩm thạch vậy. Ôi, anh không thể nào thấy chán trong suốt cả tháng ở Brokilon như thế được ”

Milva, vừa mới quay lại sau chuyến trinh sát, đã nghe thấy tiếng huýt sáo của nhà thơ, và cảm thấy ánh nhìn chòng chọc của cậu.

“Đang nói về tôi à, nhà thơ? Sao anh cứ dán mắt vào lưng tôi như thế? Trên đó dính phân chim à?”

“Chúng tôi không thể không ngưỡng mộ kỹ năng bắn cung của cô,” Dandelion cười toe toét. “Cô sẽ không có nhiều đối thủ trong những giải đấu chuyên nghiệp đâu.”

“Toàn là bốc phét.”

“Tôi đã đọc được,” Dandelion bắn một ánh mắt sang phía Geralt, “rằng các cung thủ giỏi nhất là người Zerrikania, những người thuộc tộc Steppe. Có một số nói rằng họ cắt bỏ đi phần ngực phải của mình, để chúng khỏi vướng víu khi bắn cung. Phần ngực đó, họ nói là chúng chắn đường của dây cung.”

“Đó chỉ là sáng kiến của mấy gã thi sĩ thôi!” Milva cười. “Họ viết ba cái mớ nhảm nhí đó, và chỉ có mấy thằng ngu mới đi tin vào chúng. Cái gì, chúng tôi bắn tên từ vú ra chắc? Phải đứng nghiêng sang bên và kéo dây lên tận miệng, chỉ đơn giản thế thôi. Chẳng có cái gì là vướng đường của dây cung cả. Mấy câu truyện đó chỉ là tác phẩm của mấy cái đầu bậy bạ, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi ngực phụ nữ.”

“Cảm ơn cô vì sự tôn trọng tới các nhà thơ và văn chương của họ. Còn về khoa học của bắn cung, cây cung quả thật là một vũ khí rất tốt. Cô biết gì không? Tôi nghĩ người ta sẽ phát triển nghệ thuật chiến tranh theo hướng này. Trong tương lai, con người sẽ chiến đấu từ khoảng cách ở xa. Vũ khí sẽ được chế tạo có tầm với xa đến nỗi các đối thủ có thể giết nhau mà chẳng cần nhìn thấy mặt đối phương.”

“Nhảm nhí,” Milva tóm tắt lại cảm nghĩ của mình bằng một từ. “Cây cung quả thật là một vũ khí tốt, nhưng chiến tranh là người đấu với người, trong tầm với của thanh kiếm, kẻ mạnh đập tan kẻ yếu. Nó đã luôn như vậy và không có lý do nào để thay đổi cả. Nếu nó thay đổi, thì chiến tranh sẽ kết thúc. Cho tới khi đó, anh sẽ được trông thấy chiến tranh là như thế nào, giống ngôi làng bên cạnh con mương kia chẳng hạn. Eh, nói thừa hơi để làm gì cơ chứ. Tôi sẽ đi xem xét xung quanh. Mấy con ngựa cứ bồn chồn như thể có chó sói lởn vởn quanh đây vậy ”

“Một người phụ nữ đẹp,” Dandelion nhìn cô chăm chú. “Hmmm.. anh có nhớ những gì cô ấy đã nói không, ở trên vách đá đó anh cũng phải thừa nhận là cô ấy có lý đó chứ?”

“Có lý?”

“Khi nói về Ciri,” nhà thơ ngập ngừng một chút. “Cô ả đáng yêu của chúng ta mà bắn tên còn nhanh hơn cả cái bóng của chính mình có vẻ như không hiểu mối quan hệ giữa anh và Ciri, và đối với tôi cô ấy dường như nghĩ rằng anh định ganh đua với Hoàng đế Nilfgaard vì trái tim của cô bé. Rằng đó là mục đích thật sự của chuyến du hành tới Nilfgaard này.”

“Nếu như vậy thì cô ấy chẳng đúng chút xíu nào hết. Thế thì có lý cái gì ở đây?”

“Đợi đã, đừng nóng vội. Hãy nhìn vào sự thật đi. Anh bảo vệ Ciri và coi mình như người bảo hộ của cô bé, nhưng đây không phải là một đứa trẻ bình thường. Cô ấy thuộc dòng dõi hoàng gia, Geralt. Cô ấy được định sẵn cho ngai vàng, và chẳng có gì để nghi ngờ điều đó. Một cung điện, một vương miện…..Có thể không phải là Nilfgaard, tôi không biết liệu Emhyr có phải là một người chồng hợp lý hay không ”

“Không. Cậu không biết.” “Thế anh biết sao?”

Witcher quấn chăn chặt hơn.

“Cậu rõ ràng là có giả thuyết của riêng mình,” anh làu bàu. “Nhưng đừng cố làm gì, tôi biết cậu đang nghĩ gì trong đầu. Rằng cứu Ciri thoát khỏi định mệnh của con bé từ lúc sinh ra là chẳng hợp lý chút nào hết. Bởi vì Ciri, một khi đã được cứu, sẽ sẵn sàng ra lệnh cho người hầu quẳng chúng ta xuống cầu thang của lâu đài. Hãy cứ để mặc chuyện đó đi. Được chứ?”

Dandelion mở mồm ra, nhưng Geralt không cho cậu cơ hội để nói.

“Con bé,” anh cất lời, giọng ngày càng trở nên âu sầu. “Cuối cùng cũng đâu phải là bị bắt cóc bởi một con rồng hay một tên pháp sư độc ác. Con bé đâu phải bị cướp biển bán lấy tiền chuộc. Nó đâu có ngồi trên một tòa tháp, dưới hầm ngục hay trong một cái lồng. Nó đâu có bị hành hạ hay bỏ đói. Ngược lại là khác, nó ngủ trên vải tơ, ăn trên đĩa bạc, mặc áo lụa, đeo nữ trang, và sớm thôi sẽ là đeo vương miện. Nói ngắn gọn, con bé đang hạnh phúc. Và một gã witcher ác độc, người đã từng vô ý để con bé gặp nhiều hiểm nguy, giờ đang rắp tâm phá hoại, giày xéo lên hạnh phúc của nó, bằng đôi giày thủng lỗ chỗ mà hắn ta thừa hưởng từ một gã elf nào đó. Có phải không?”

“Tôi đâu có ý nói vậy,” Dandelion càu nhàu.

“Anh ấy không nói với anh.” Milva đột nhiên xuất hiện từ trong bóng tối, và sau một phút lưỡng lự, cô ngồi xuống cạnh witcher. “Đấy là dành cho tôi. Chính lời lẽ của tôi đã làm tổn thương anh ấy như vậy, những lời mà tôi thốt ra trong lúc tức giận, thiếu suy nghĩ Hãy tha lỗi cho tôi, Geralt. Tôi biết cảm giác đó là thế nào. Làm ơn, đừng giận tôi. Tôi sẽ không làm vậy nữa đâu. Anh có tha thứ cho tôi không? Tôi có phải cầu xin anh không?”

Không đợi anh cho phép, cô cúi xuống và hôn vào má anh. Anh ôm chặt lấy vai cô. “Lại gần đây nào,” anh ho. “Và cả cậu nữa, Dandelion. Lại gần nhau để ấm hơn.”

Họ im lặng trong một lúc lâu. Trên bầu trời quang đãng, rực lửa, những đám mây di chuyển, che mất những ngôi sao đang lấp lánh.

“Tôi muốn nói với hai người điều này,” cuối cùng Geralt lên tiếng. “Nhưng hãy thề là đừng có cười tôi.”

“Nói đi.”

“Tôi đã có những giấc mơ rất kỳ lạ. Ở Brokilon. Đầu tiên tôi tưởng mình chỉ mê sảng, đầu óc có vấn đề. Sau cùng thì tôi cũng ăn vài phát đập vào đầu khi ở trên Thanedd mà. Nhưng mấy ngày vừa qua tôi cũng vẫn mơ giấc mơ đó. Y hệt.”

Milva và Dandelion im lặng.

“Ciri,” anh ngừng lại một lúc, “không ngủ trong một cung điện dưới màn thổ cẩm. Con bé đang cưỡi ngựa qua một ngôi làng bụi bặm………………… dân làng chỉ chỏ. Họ gọi nó bằng một cái tên mà tôi

không nhớ được. Chó sủa inh tai. Con bé không đi một mình. Còn những người khác. Có một cô gái tóc ngắn đang cầm tay Ciri…………… và nó cười với cô ta. Tôi không thích nụ cười đó, và tôi không

thích gương mặt trang điểm của nó… Nhưng điều mà tôi không thích nhất là cái chết đang đi sau lưng nó.”

“Vậy thì con bé đang ở đâu?” Milva rên ư ử, quấn lấy anh như một con mèo. “Không phải Nilfgaard sao?”

“Tôi không biết,” anh nói khó khăn. “Nhưng tôi đã mơ giấc mơ đó vài lần rồi. Vấn đề là, tôi không tin vào những giấc mơ như vậy.”

“Thế thì anh đúng là ngu thật. Tôi tin vào chúng.”

“Tôi không biết,” anh lặp lại. “Nhưng tôi linh cảm sắp có chuyện xảy ra. Phía trước con bé là lửa, và sau lưng nó là cái chết. Tôi phải khẩn trương lên.”

***

Mưa bắt đầu lúc bình minh. Không như hôm qua, khi cơn bão đi kèm một trận mưa như thác đổ, nhưng rất ngắn. Bầu trời tối đen và che phủ bởi một lớp thảm chì. Nó bắt đầu nhỏ giọt, từ tốn, đều đều, và cực khó chịu.

Họ đi về phía Đông. Milva dẫn đường. Khi Geralt nhắc cô nhớ rằng Yaruga ở hướng Nam, nữ cung thủ sỉ vả anh và nói rằng cô mới là người dẫn đường, và cô biết mình đang đi đâu. Họ không nói câu nào nữa. Sau cùng thì, chỉ cần họ vẫn đang di chuyển là được rồi, hướng nào không quan trọng.

Họ đi trong im lặng, ướt, lạnh, co người trên yên ngựa. Họ đi trong rừng, di chuyển bên cạnh con đường, cắt qua giao lộ. Ở trong bụi rậm, họ có thể nghe tiếng vó ngựa và giáp trụ loảng xoảng. Họ đi đường vòng, tránh những nơi phát ra âm thanh chiến trận. Họ đi qua những ngôi làng rực lửa, chỉ còn lại than cháy đỏ hỏn, và những nơi định cư không còn gì ngoại trừ một dải đất đen thui, sặc mùi hôi từ những mảnh gỗ vụn thấm nước mưa. Từng đàn quạ rỉa xác. Họ bắt gặp những nhóm dân làng trĩu lưng vì vác nặng, trốn khỏi chiến tranh và ngôi nhà cháy rụi của họ, gương mặt thẫn thờ vô cảm, chẳng còn tin vào điều gì. Đôi mắt họ trống rỗng, đầy sợ hãi và khổ đau.

Họ đi về hướng Đông, qua lửa và khói, mưa và sương mù, và trước mắt họ mở ra bức màn khiếp đảm của chiến tranh. Những hình ảnh man rợ.

Hình ảnh một cây cọc đen thui chìa ra giữa đống tàn tích. Trên nó là một cái xác khỏa thân. Đầu chúi xuống. Máu từ ổ bụng bị mở toang nhỏ xuống ngực và mặt, đọng lại thành từng cục trên tóc. Sau lưng của cái xác có khắc chữ Ard. Bằng một con dao.

“An’givare.” Milva nói, gạt những lọn tóc ẩm ướt vướng trên cổ. “Sóc đã đi qua đây.” “An’givare nghĩa là gì?”

“Chỉ điểm.”

Hình ảnh một con ngựa xám-trắng với sườn đen. Con ngựa đi dọc quanh chiến trường, luồn lách giữa những ngọn giáo và xác người vung vãi, hý khẽ, kéo theo đám ruột xổ ra từ bụng ở đằng sau. Họ không thể kết liễu nó – thêm vào với con ngựa trên chiến trường là những kẻ lang thang đi lượm mót đồ từ xác chết.

Hình ảnh một cô gái, tay vươn ra, nằm gần một cái lán cháy, trần trụi, máu me, đôi mắt đẫm nước nhìn lên bầu trời.

“Người ta nói chiến tranh là việc của đàn ông,” Milva gầm gừ. “Nhưng chúng đâu có tha cho phụ nữ, chúng phải vui đùa một chút. Và chúng được tôn vinh là anh hùng lũ khốn khiếp.”

“Cô nói đúng. Nhưng rồi nó sẽ thay đổi.”

“Tôi đã thay đổi. Tôi đã chạy khỏi nhà. Tôi không muốn quét dọn một cái lán. Tôi không muốn đợi chúng đến, thiêu rụi nhà tôi, và làm nhục tôi trên sàn ”

Cô không nói hết. Cô giục ngựa đi nhanh hơn.

Và rồi là hình ảnh những ngôi làng. Dandelion nôn hết ra những gì đã ăn ngày hôm đó, mà cũng chỉ có nửa cái bánh quy và một con cá mòi.

Trong ngôi làng, lính Nilfgaard – hoặc là Scoia’tael – đã xử lý một lượng lớn tù binh. Số người chết là không thể đếm xuể, hay thậm chí là ước lượng. Để xử lý nhanh chóng, không chỉ tên, kiếm và giáo đã được dùng, mà còn cả dụng cụ đốn củi tìm được tại chỗ – rìu và cưa.

Còn có những hình ảnh khác, nhưng Geralt, Milva và Dandelion không còn nhớ được nữa.

Họ đã loại chúng ra khỏi đầu.

Họ trở nên thờ ơ.

***

Trong hai ngày kế tiếp họ chỉ đi được khoảng 20 dặm. Trời vẫn đang mưa. Sau trận hạn hán mùa hè, đất giờ thấm đẫm nước và con đường rừng trở nên lầy lội. Làn sương dày đặc cướp đi cơ hội quan sát những cột khói và đám lửa của họ, nhưng mùi khét cho thấy quân đội vẫn đang ở gần và vẫn đang đốt hết mọi thứ bắt gặp.

Họ không trông thấy người tị nạn nào cả. Họ đơn độc giữa rừng cây. Hay là họ nghĩ vậy.

Geralt là người đầu tiên nghe thấy tiếng hý của một con ngựa đang bám theo họ. Với gương mặt lạnh tanh, anh quay đầu Roach lại. Dandelion mở mồm ra, nhưng Milva ra hiệu cho cậu giữ im lặng, cô cầm lên cây cung.

Kẻ đột nhập hiện ra từ trong bụi cây. Hắn thấy họ đang đợi mình và dừng ngựa lại, một con ngựa màu hạt dẻ. Họ đứng im như tượng, âm thanh duy nhất là tiếng mưa rơi.

“Ta cấm ngươi đi theo chúng ta,” cuối cùng witcher lên tiếng.

Người Nilfgaard, mà Dandelion nhìn thấy lần cuối trong cỗ quan tài, sũng nước mưa và đôi mắt hắn giấu sau mái tóc ướt nhẹp. Nhà thơ gần như không nhận ra hắn. Hắn mặc một lớp áo thép, khoác bên ngoài một chiếc áo da, mà chắn hẳn là lấy từ những cái xác cạnh cỗ xe của gã bán rong. Tuy nhiên, Dandelion vẫn nhận ra vẻ trẻ trung trên gương mặt hắn, bất chấp bộ râu mới mọc ra từ dưới cằm.

“Ta cấm ngươi đi theo ta,” witcher nhắc lại.

“Tôi bị cấm,” gã trai trẻ cuối cùng xác nhận. Hắn nói mà không có chút ngữ âm Nilfgaard nào. “Nhưng tôi buộc phải.”

Geralt nhảy xuống và đưa dây cương cho nhà thơ. Anh rút kiếm ra.

“Xuống đi,” anh nói điềm tĩnh. “Ta thấy ngươi đã kiếm được một thanh sắt. Tốt. Ta đã không thể giết ngươi khi tay không vũ khí. Giờ thì khác rồi. Xuống ngựa!”

“Tôi sẽ không đánh với anh. Tôi không muốn.”

“Ta cũng nghĩ vậy. Giống như lũ đồng bào của ngươi, ngươi thích đánh theo một kiểu khác. Kiểu mà ta đã trông thấy trong những ngôi làng, mà ngươi ắt hẳn đã đi qua khi bám theo chúng ta. Ta bảo, xuống ngựa mau.”

“Tôi là Cahir Mawr Dyffryn aep Ceallach.”

“Ta không bảo ngươi tự giới thiệu. Ta bảo ngươi xuống ngựa.” “Tôi sẽ không xuống, tôi không muốn đánh nhau.”

“Milva,” witcher ra hiệu về phía nữ cung thủ. “Giúp tôi một việc, giết con ngựa hắn đang ngồi lên.”

“Không!” Người Nilfgaard giơ tay lên trước khi Milva kịp có cơ hội tra tên vào cung. “Đừng, làm ơn, tôi sẽ xuống ngựa.”

“Tốt hơn rồi đấy. Và giờ thì rút kiếm ra, nhóc.” Gã trai trẻ khoanh tay trước ngực.

“Cứ giết tôi nếu muốn. Hay nếu anh thích, hãy bảo ả elf này bắn tôi bằng cung tên của cô ta. Tôi sẽ không đánh với anh. Tôi là Cahir Mawr Dyffryn….con trai của Ceallach. Tôi muốn……………. tôi muốn đi cùng anh.”

“Ta chắc đã nghe nhầm rồi. Nhắc lại đi.”

“Tôi muốn đi cùng anh. Anh đang đi tìm cô gái, tôi muốn giúp anh. Tôi cần phải giúp.” “Thật là điên rồ,” Geralt quay lại phía Dandelion và Milva. “Hắn mất trí rồi. Chúng ta đang đối mặt với một kẻ điên.”

“Thế thì hắn sẽ rất hợp với đoàn lữ hành của chúng ta,” Milva lầm bầm. “Hợp đến hoàn hảo.”

“Hãy nghĩ về lời đề nghị của hắn đi, Geralt.” Dandelion nói. “Đằng nào thì hắn cũng là một quý tộc Nilfgaard còn gì. Hắn có thể giúp chúng ta……………. ”

“Giữ yên lưỡi ở trong mồm đi,” witcher sẵng giọng ngắt lời cậu. “Nhanh lên, rút kiếm ra đi, người Nilfgaard.”

“Không, tôi sẽ không đánh. Và tôi không phải người Nilfgaard. Tôi đến từ Vicovaro, và tên tôi là   ”

“Ta không quan tâm tên ngươi là gì. Rút vũ khí ra.”

“Không.”

“Witcher,” Milva nghiêng người trên lưng ngựa, và khạc một bãi xuống đất. “Thời gian đang trôi, và chúng ta ướt đến tận xương rồi. Người Nilfgaard không muốn chống lại anh, và mặc dù anh rất to mồm, tôi cũng không nghĩ là anh muốn giết hắn một cách máu lạnh. Chúng ta có cần phải đứng đây hết đời không? Tôi sẽ cắm một mũi tên vào bụng con ngựa của hắn, rồi chúng ta lên đường. Hắn sẽ không thể đuổi theo được nữa.”

Cahir, con trai của Ceallach, nhảy một bước và chạm tới con ngựa màu hạt dẻ, leo lên yên và phi nước đại, quát con ngựa chạy nhanh hơn. Witcher dõi theo hắn một lúc, rồi trèo lên Roach và đi tiếp. Trong im lặng. Không ngoảnh nhìn lại.

“Tôi chắc già mất rồi,” anh lầm bầm sau một lúc, khi Roach bắt kịp con ngựa đen của Milva. “Tôi đang bắt đầu do dự.”

“À thì, tuổi già là thế mà,” nữ cung thủ nhìn anh với vẻ cảm thông. “Một liều mật ong có thể giúp được đấy. Trong lúc này thì hãy đặt một cái gối lên yên của anh đi.”

“Do dự.” Dandelion giải thích một cách nghiêm túc. “Chứ không phải là trĩ, Milva. Cô hiểu sai rồi.”

“Và ai mà hiểu được tức thì mấy thứ rác rưởi anh hay nói chứ! Và anh cứ nói liên mồm, đến nỗi còn chẳng để ý thấy là mình nói liên mồm! Đi đi!”

“Milva,” witcher hỏi sau một lúc, lấy tay che mặt cho khỏi mưa. “Cô thực sự đã định giết ngựa của hắn à?”

“Không,” cô miễn cưỡng thừa nhận. “Con ngựa không có tội. Và kể cả cái gã Nilfgaard này nữa Tại sao hắn lại đi theo chúng ta? Sao hắn lại nói là hắn phải làm thế?”

“Tôi chịu.”

Trời vẫn tiếp tục mưa, khu rừng đột nhiên kết thúc và họ tới một con đường, chạy qua đồi từ Nam lên Bắc. Hay là từ Bắc xuống Nam, tùy theo cách nhìn. Cái mà họ trông thấy trên đường không làm họ ngạc nhiên được. Họ đã thấy cả rồi. Xe hàng lật nghiêng và đổ vỡ, ngựa chết, hành lý vung vãi, giỏ mây và yên cương. Những hình thù vặn vẹo, đông cứng trong những tư thế kỳ lạ, mà cho đến gần đây vẫn còn là con người.

Họ lại gần hơn, và không sợ hãi, bởi vì rõ ràng là cuộc thảm sát đã không diễn ra hôm nay, mà là hôm qua hoặc trước đó nữa. Họ đã học cách nhận ra những dấu hiệu này, và có lẽ đã thực sự cảm thấy một thứ bản năng nguyên thủy, mà đã được đánh thức và trở nên nhạy bén trong những ngày vừa qua. Họ cũng đã học cách lùng sục chiến trường, bởi vì có đôi lúc hiếm hoi, họ có thể tìm thấy giữa đống đồ đạc chút đồ ăn.

Họ dừng lại cạnh chiếc xe đổ cuối cùng trong hàng, mà đã bị sét đánh và nằm dưới đáy hào, nghiêng sang một bên. Bên dưới nó là một người phụ nữ mập mạp, cổ bà ta bị vặn thành một tư thế kỳ dị. Chiếc cổ áo thấm đẫm nước mưa có vài giọt máu khô lấm chấm, mà chắc đã chảy ra khi đôi khuyên tai bị giật đi. Trên tấm thảm che phủ chiếc xe là dòng chữ: “Vera Loewenhaupt và các con trai.” Tuy nhiên chẳng thấy dấu hiệu nào của mấy cậu con trai quanh đó.

“Họ không phải nông dân,” Milva nói với môi mím chặt. “Mà là lái buôn. Họ tới từ phía Nam, từ Dillingen và đang trên đường tới Brugge, và họ bị tấn công ở đây. Thế này không ổn rồi, witcher. Tôi đã nghĩ ta có thể đi đường vòng xuống phía Nam, nhưng giờ thì tôi thật sự không biết phải làm gì………………………… Dillingen, và chắc chắn là Brugge đang nằm trong quyền kiểm soát của

Nilfgaard, chúng ta không thể tới được Yaruga bằng đường đó. Chúng ta phải tiếp tục sang phía Đông, tới Turlough. Những khu rừng ở đó rất hoang dã và rậm rạp, quân đội sẽ không đi qua.”

“Tôi sẽ không sang phía Đông thêm nữa.” Witcher phản đối. “Tôi phải tới Yaruga.”

“Rồi anh sẽ tới được,” cô đáp lại, điềm tĩnh đến bất ngờ. “Nhưng đây là con đường an toàn hơn. Nếu chúng ta đi xuống phía Nam từ đây, chúng ta sẽ rơi thẳng vào tay Nilfgaard. Chẳng được ích gì cả.”

“Chúng ta sẽ được thời gian.” anh làu bàu. “Đi sang phía Đông chỉ tổ lãng phí thôi. Tôi bảo rồi, tôi không thể ”

“Trật tự!” Dandelion bất thình lình lên tiếng, quay đầu con ngựa. “Dừng nói chuyện lại một lúc đi.”

“Cái gì thế?”

“Tôi nghe thấy… có tiếng hát.”

Witcher lắc đầu, Milva cười khúc khích. “Anh bị hoang tưởng rồi, nhà thơ.”

“Trật tự! Im hết đi! Ai đó đang hát! Cô không nghe thấy sao?”

Geralt bỏ mũ trùm ra, Milva cũng vểnh tai lên, và sau một lúc cô liếc sang witcher và khẽ gật đầu.

Nhà thi sĩ đã nói đúng. Đôi tai âm nhạc đã không phụ lòng cậu. Điều có vẻ như là bất khả thi lại đúng là sự thật. Đứng ngay đây giữa khu rừng, trong cơn mưa, xác chết vung vãi trên đường, nhưng một bài ca vui vẻ lọt đến tai họ. Từ phía Nam, ai đó đang đi tới, miệng hát líu lo.

Milva kéo dây cương, sẵn sàng bỏ chạy, nhưng witcher ra hiệu cho cô đứng lại. Anh đang tò mò. Giọng hát mà họ nghe thấy không có vẻ nham hiểm. Không phải thứ tiếng đều đều theo nhịp của bộ binh hành quân, hay những bài ca kiêu ngạo của kỵ binh. Bài hát đang vang lên không khơi gợi nỗi lo âu. Mà ngược lại là đằng khác.

Mưa lay động tán lá. Họ bắt đầu nghe rõ câu từ của bài hát. Đó là một khúc ca vui vẻ, mà trong khung cảnh chết chóc và chiến tranh này, nghe thật lạ lùng và hoàn toàn không phù hợp.

Trong khu rừng bạn có thấy, con sói với toàn bộ sức mạnh, Mỉm cười điên dại, đuôi vẫy vui tươi, nhảy qua nhảy lại.

Ôi trời ơi, đẹp biết mấy! Cớ sao phải u sầu? Chắc là vẫn chưa vợ, vậy mới vui được!

Um-ta, um-ta, uhu-ha!

Dandelion bỗng phá lên cười, rút cây đàn luýt ra từ dưới tấm áo choàng ẩm ướt, và chẳng thèm để tâm đến tiếng rít của Geralt và Milva, cậu gảy dây đàn và cất cao giọng:

Trong lùm cây bạn có thấy, sói chỉ khập khiễng thôi, Đầu cúi thấp, mặt nhăn nhó, khóc lóc như chú chó. Sao con thú vĩ đại này lại thảm thương quá như vậy? Chắc là vừa mới cưới, hoặc là đã đính hôn!

“Hu-hu-ha!” Nhiều giọng nói cất lên điệp khúc.

Mội tràng cười nổ ra, ai đó huýt sáo thật to, rồi từ sau đoạn gấp khúc của con đường hiện ra một đoàn lữ hành kỳ dị, nhưng rất vui tươi, đi thành một hàng dọc, bùn trên đường bắn tung tóe dưới nhịp giày của họ.

“Người lùn,” Milva nói khẽ. “Nhưng không phải Scoia’tael. Râu của họ không buộc túm lại.”

Có sáu người cả thảy. Họ mặc trang phục thông thường của người lùn, quần đùi, áo khoác

nâu với mũ trùm, trong đủ mọi sắc thái của màu xám hay đồng. Đã trải qua nhiều năm ròng bám đầy hắc ín và bụi đi đường, cũng như dầu mỡ từ đồ ăn, Geralt biết những chiếc áo như vậy có lợi thế là hoàn toàn chống thấm. Những món đồ này được truyền từ đời cha đến đời con, vậy nên thường chỉ có những người lùn đã trưởng thành mới khoác chúng. Một người lùn được coi là trưởng thành khi râu anh ta dài đến thắt lưng, thường vào khoảng 55 tuổi.

Không có ai trong đoàn lữ hành nọ trông trẻ hơn vậy. Nhưng cũng không có ai trông già hơn.

“Họ đang dẫn đường cho con người,” Milva lầm bầm, hất đầu về phía đoàn người đang hiện ra từ khu rừng đằng sau 6 người lùn. “Chắc chắn là dân tị nạn, họ đang mang vác một đống đồ.” “Những người lùn cũng vác không kém.” Dandelion nói.

Quả thực, mỗi người lùn đều mang một gói hành lý, mà một con người hay thậm chí một con ngựa cũng không thể gói ghém lại nhanh được. Ngoại trừ đống bao tải thông thường, Geralt còn trông thấy hộp khóa kín, một cái vạc đồng và một thứ trông như một cái rương nhỏ. Một người đang mang sau lưng một cái bánh xe.

Người đi đầu không vác theo cái gì cả. Ông ta giắt một chiếc rìu con ở thắt lưng, một thanh kiếm bọc da hươu ở trên lưng, và trên vai ông ta đang đậu một con vẹt xanh lục ướt át và lù xù. Chính người lùn này đã chào họ.

“Một ngày tốt lành!” Ông ta lên tiếng, dừng lại ở giữa đường, tay để trên hông. “Thời buổi đen tối tới mức gặp một con sói trong rừng còn đỡ hơn là một con người, và nếu có đụng phải, thì nên chào đón anh ta bằng cung nỏ hơn là lời nói lịch sự! Nhưng ai mà chào đón ta bằng âm nhạc, thì đó chính là những ông bạn đích thực! Hay là cô bạn, xin quý cô thứ lỗi! Xin chào, tôi là Zoltan Chivay.”

“Tôi là Geralt,” witcher tự giới thiệu sau một phút lưỡng lự. “Người đã hát là Dandelion.

Đây là Milva.”

“Lũũũũũũ chó đẻ!” Con vẹt kêu lên.

“Ngậm mỏ lại đi!” Zoltan Chivay nạt nó. “Xin thứ lỗi. Con vẹt này rất thông minh, nhưng phải cái là thô lỗ. Tôi đã phải trả mười thaler cho món đồ quý hiếm này. Tên nó là Nguyên soái Duda. Và đây là phần còn lại của đoàn lữ hành. Đây là Munro Bruys, Yazon Varda, Caleb Stratton, Figgis Merluzzo và Percival Schuttenbach.”

Percival Schuttenbach không phải một người lùn. Từ bên dưới chiếc mũ trùm đầu ướt nhẹp của ông ta, thay vì một chòm râu rối bời, lại thò ra một cái mũi dài và nhọn, đặc điểm nhận dạng đáng tin cậy của giống loài gnome cổ xưa và cao quý.

“Và những người khác,” Zoltan Chivay chỉ tay về phía đoàn người vừa mới bắt kịp họ và đang đứng cách đó không xa, “là dân tị nạn từ Kernow. Như anh thấy, họ chỉ toàn là phụ nữ và trẻ nhỏ. Lúc đầu có nhiều hơn, nhưng quân Nilfgaard đã tấn công nhóm của họ 3 ngày trước, và số còn lại bị thảm sát. Chúng tôi bắt gặp họ trong rừng và giờ thì đi cùng nhau.”

“Ấy vậy mà ông vẫn bước rất tự tin trên đường,” witcher nói. “Ca hát ầm ĩ.”

“Tôi không nghĩ vừa đi vừa khóc là lựa chọn hay hơn.” người lùn nghịch râu. “Chúng tôi đã phải đi rất khẽ khàng và cẩn trọng từ Dillingen qua khu rừng. Một khi quân đội đã đi qua, chúng tôi sẽ leo lên đường cái và tranh thủ thời gian.” Ông ta ngừng lại, đưa mắt nhìn bãi chiến trường.

“Quang cảnh này,” ông chỉ về phía những cái xác, “chúng tôi đã quá quen rồi. Suốt từ Dillingen, từ Yaruga, chẳng có gì ngoài xác chết trên đường Các anh thuộc về đoàn xe này à?”

“Không. Quân Nilfgaard đã sát hại vài người lái buôn trước khi chúng tôi đến đây.”

“Đó không phải quân Nilfgaard.” Người lùn lắc đầu, nhìn những cái xác với vẻ lãnh cảm. “Mà là Scoia’tael. Quân lính thông thường sẽ không bao giờ thèm rút tên ra khỏi những cái xác. Một cái đầu mũi tên tốt giá khoảng nửa crown.”

“Ông ta biết mình đang nói cái gì đấy,” Milva lầm bầm. “Các anh đang đi đâu?”

“Phía Nam,” Geralt nói ngay lập tức.

“Tôi sẽ không khuyên anh làm vậy đâu.” Zoltan Chivay lại lắc đầu. “Ở đó chỉ có địa ngục, lửa và cái chết. Dillingen có lẽ đã bị chiếm rồi, và lũ kỵ sĩ đen chắc cũng sẽ vượt qua Yaruga, sớm thôi chúng sẽ chiếm hết toàn bộ thung lũng bên bờ phải. Như anh thấy, chúng đã đang đi trước chúng tôi rồi, và di chuyển lên phía Bắc, chúng đang hướng tới Brugge. Vậy nên hợp lý nhất là chạy sang phía Đông.”

Milva ném một ánh mắt thấu hiểu sang phía witcher, lúc này đang từ chối bình luận. “Chúng tôi đang hướng sang phía Đông,” Zoltan Chivay tiếp tục. “Cơ hội duy nhất là trốn ra sau tiền tuyến, và quân đội Temeria sẽ tới từ hướng Đông, từ sông Ina. Sau đó chúng tôi sẽ vượt qua đồi, bám theo con đường rừng. Đầu tiên chúng tôi sẽ tới Turlough, và rồi tiếp tục dọc theo Đường Mòn tới sông Cholta chảy qua Sodden để rồi hợp vào dòng Ina. Nếu anh muốn, chúng ta hãy đi cùng nhau. Đó là nếu sự chậm chạp của chúng tôi không thành vấn đề. Các anh có ngựa, nhưng chúng tôi thì có người tị nạn.”

“Tôi biết là một người lùn,” Milva lên tiếng, nhìn ông ta với đôi mắt sắc sảo, “dù có vác theo hành lý, cũng có thể đi được 30 dặm trong một ngày. Cũng gần bằng một người cưỡi ngựa. Tôi biết Đường Mòn. Nếu không có đám tị nạn kia, các ông có thể tới sông Cholta trong ba ngày.”

“Đây đều là phụ nữ và trẻ nhỏ,” Zoltan Chivay vểnh râu và ưỡn bụng ra. “Chúng tôi không thể phó mặc họ cho số phận. Cô định bảo tôi làm thế sao?”

“Không,” witcher nói. “Chúng tôi không định nói vậy.”

“Tôi rất mừng khi nghe thế. Vậy có nghĩa là ấn tượng ban đầu của tôi đã không lầm. Chúng ta đi cùng nhau chứ nhỉ?”

Geralt nhìn Milva. Nữ cung thủ gật đầu.

“Tốt.” Zoltan Chivay công nhận cử chỉ đó. “Vậy thì nhanh lên đường nào, trước khi một toán tuần tra nào đó bất ngờ ập đến. Nhưng trước tiên…………………… Yazon, Munro, lục soát đống xe hàng kia đi. Tìm được gì hữu ích thì nhanh chóng gói ghém lại. Figgis, xem cái bánh xe của ta có khớp với cái xe chở hàng nhỏ kia không.”

“Nó vừa khít!” Người lùn đang vác cái bánh xe reo lên. “Như thể là cái nguyên bản vậy.” “Thấy chưa, đồ đầu đất? Ngày hôm qua cậu cứ không chịu tin khi tôi bảo mang nó theo!

Lắp vào đi! Giúp cậu ta đi, Caleb!”

Trong một khoảng thời gian ngắn kinh ngạc, chiếc xe hàng của cố thương nhân Vera Loewenhaupt, được trang bị cái bánh xe mới, đã bị lột hết toàn bộ vải bạt và những món đồ không cần thiết và kéo lên đường cái. Trong nháy mắt, toàn bộ hành lý được vứt lên đó. Sau khi suy nghĩ một lát, Zoltan Chivay ra lệnh chừa một ít chỗ cho trẻ con ngồi. Mệnh lệnh được thi hành khá miễn cưỡng – Geralt để ý thấy những người tị nạn luôn giữ khoảng cách với những người lùn và giao con cái mình cho họ không mấy vui vẻ.

Dandelion nhìn với vẻ kinh tởm hiện rõ khi hai người lùn mặc thử quần áo lấy từ những cái xác. Những người còn lại lục tung đống xe hàng, nhưng không tìm thấy gì đáng để mang theo cả. Zoltan Chivay huýt sáo, báo hiệu đã hết giờ thu nhặt, rồi ném một cái nhìn chuyên nghiệp về phía Roach, Pegasus và con ngựa đen của Milva.

“Ngựa của các anh,” ông ta nói, mũi hơi nhăn lại. “Chúng vô dụng thôi. Figgis, Caleb, ra chỗ thanh kéo nào. Chúng ta sẽ thay phiên nhau. Tiến lên!”

***

Geralt đã tin chắc là đoàn lữ hành sẽ phải bỏ lại chiếc xe khi nó bị kẹt trong vũng bùn, nhưng anh đã lầm. Những người lùn khỏe như bò mộng, và con đường dẫn vào khu rừng cũng không quá rậm rạp và lầy lội. Mưa cứ tiếp tục rơi không ngừng. Milva thì luôn xưng xỉa và cáu bẳn, và mỗi khi mở mồm ra cũng chỉ để cằn nhằn rằng móng ngựa có thể vỡ bất kỳ lúc nào. Zoltan Chivay liếm môi và đáp lại rằng ông là chuyên gia nấu thịt ngựa, càng khiến cho Milva trở nên bực bội thêm.

Họ giữ nguyên được đội hình di chuyển thông thường. Ở giữa là chiếc xe kéo, Zoltan đi trên đầu, Dandelion cưỡi Pegasus ở bên cạnh ông ta và cãi nhau với con vẹt. Geralt và Milva đi theo, và đằng sau họ là 6 người phụ nữ đến từ Kernow.

Người dẫn đường là Percival Schuttenbach, người gnome mũi dài. Mặc dù kích cỡ và vóc dáng ông ta nhỏ hơn những người lùn, nhưng sức mạnh của ông phải ngang bằng họ và thậm chí còn nhanh nhẹn hơn nhiều. Trong khi di chuyển, ông chạy khắp xung quanh không biết mệt, sục sạo từng lùm cây, lao lên trước và biến mất, rồi đột nhiên xuất hiện đầy lo lắng, làm mấy dấu hiệu trông như khỉ đột từ đằng xa để báo mọi thứ đều ổn, và họ có thể đi tiếp.

Đôi lúc ông có thể quay lại nhanh hơn và thuật lại những chướng ngại vật trên đường. Mỗi khi quay về, ông đều cho 4 đứa trẻ ngồi trên xe một nắm đầy dâu đen, hạt dẻ hay một loại khoai trông có vẻ quái dị, nhưng rõ ràng là rất ngon.

Di chuyển với tốc độ như rùa bò, họ đã đi được ba ngày. Họ không vấp phải toán lính nào, và cũng không thấy đám lửa hay cột khói nào. Tuy nhiên, họ không ở một mình. Percival vài lần báo cáo lại về những nhóm tị nạn khác đang trốn trong rừng. Họ chạm trán vài nhóm, và nhanh chóng đi qua, bởi vì những người nông dân trang bị với chĩa và cọc không khuyến khích họ chạy lại làm quen. Tuy nhiên, đã có gợi ý cho rằng nên thương thuyết với họ và để nhóm phụ nữ từ Kernow lại cùng những người tị nạn khác, nhưng Zoltan phản đối ý tưởng này, và Milva ủng hộ ông. Những người phụ nữ cũng không có vẻ muốn rời đoàn lữ hành. Điều này càng khiến cho sự việc trở nên khó hiểu hơn, vì rõ ràng là đám tị nạn không ưa những người lùn và đối xử với họ có phần sợ hãi. Họ hiếm khi bắt chuyện khi đoàn dừng chân và luôn đứng ở xa. Geralt nghĩ hành vi của những người phụ nữ có lẽ bắt nguồn từ bi kịch mà họ vừa mới qua khỏi, nhưng anh nghi ngờ lý do thật sự có lẽ chỉ là do cung cách vô ý tứ của nhóm người lùn. Zoltan cùng nhóm của ông thường xuyên chửi thề và con vẹt, Nguyên soái Duda, thậm chí còn sở hữu một vốn từ vựng phong phú hơn nhiều trong phạm trù này. Họ hát những bài ca tục tĩu, mà được Dandelion nhiệt liệt ủng hộ. Họ khạc nhổ, xì mũi ra tay và đánh rắm rõ to, mà thường xuyên phá lên cười, đùa cợt và thi xem ai to hơn sau đó. Họ chỉ chạy vào bụi rậm khi cần đại tiện, còn không thì chẳng bao giờ đi xa hơn mức đó. Và Milva, người mà cuối cùng cũng không thể chịu nổi, đã mắng cho Zoltan một trận vào buổi sáng khi ông ta đang đứng tè vào đám lửa trại vẫn còn ấm, mà không thèm để tâm đến các khán giả xung quanh. Zoltan tỏ vẻ phật ý, và nói rằng những kẻ trốn chui trốn nhủi trong bụi rậm thì đều là lũ chỉ điểm và âm mưu, việc đó khiến người ta dễ dàng nhận ra rằng chúng không đáng tin và lừa lọc. Tuy nhiên, màn hùng biện thông thái này không gây ảnh hưởng chút nào đến nữ cung thủ. Cô trút lên đầu người lùn một cơn mưa những lời xỉ vả và đe dọa khá là chi tiết. Và nó có vẻ rất hiệu nghiệm, khi mà mọi người bắt đầu nghe theo và ngoan ngoãn tìm chỗ trong bụi rậm. Tuy vậy, để tránh bị coi là những kẻ lừa lọc và âm mưu, họ đi thành nhóm.

Trong khi đó, đoàn lữ hành đã làm Dandelion thay đổi hoàn toàn. Nhà thơ hòa nhập cùng những người lùn như thể anh em ruột thịt, đặc biệt là khi có vài người đã từng nghe đến danh cậu và biết một vài tác phẩm của cậu. Dandelion không rời nhóm của Zoltan nửa bước. Cậu khoác một cái áo da lấy từ những người lùn, và thay chiếc mũ lông chim trên đầu bằng một cái nón đen, khiến cậu trông như một gã vô lại. Trên dải thắt lưng với khóa đồng của mình, cậu đeo một con dao được tặng, làm cho mình trông càng giống kẻ cướp. Con dao có thói quen cứ đâm vào háng mỗi khi cậu cúi người xuống. May mắn thay, cậu đã làm mất món vũ khí sát thủ đó và chưa tìm được cái khác thay thế.

Họ lang thang trong khu rừng rậm rạp, bao phủ sườn đồi của Turlough. Khu rừng có vẻ yên tĩnh, không thấy bóng dáng muông thú. Có lẽ quân đội đã làm chúng hoảng sợ và chạy mất. Chẳng có gì để săn cả, nhưng cho đến lúc này họ vẫn chưa bị cơn đói hành hạ. Những người lùn đã mang theo rất nhiều nhu yếu phẩm. Tuy nhiên, lại có rất nhiều miệng ăn, và cũng không được lâu cho đến khi hết đồ dự trữ. Munro Bruys và Yazon Varda biến vào rừng khi trời mới còn nhá nhem, mang theo một cái bao rỗng. Khi trở lại vào buổi sáng, họ mang theo hai cái, đều đầy ự.

Một cái là đồ ăn cho ngựa, cái còn lại là bột kiều mạch, bột mì, thịt bò khô, một khoanh pho mai mà gần như chưa bị chạm đến, và thậm chí là cả một tảng kindziuk lớn, một món ăn làm từ thịt bò nhồi, nặn thành hình lá phổi và được hun khói.

Geralt có thể đoán món chiến lợi phẩm được lấy từ đâu. Anh không nói gì ngay lập tức, nhưng đợi đến thời điểm thích hợp. Khi đã ở một mình với Zoltan, anh lịch sự hỏi ông ta rằng cướp của những nhóm tị nạn khác, mà cũng đói khát và đấu tranh vì sinh tồn không khác gì họ, có thật sự đúng đắn không. Người lùn nghiêm túc trả lời rằng, phải, ông thấy rất xấu hổ, nhưng suy cho cùng thì đó là một phần của tự nhiên.

“Tật xấu của tôi,” ông giải thích, “là bản tính luôn muốn làm điều thiện. Tôi phải làm điều thiện. Tuy nhiên, tôi cũng là người thực tế, và tôi biết rằng mình không thể đối tốt với tất cả mọi người. Nếu tôi cố tử tế với cả thế giới và những cư dân lương thiện của nó, thì cũng chỉ như muối bỏ bể. Nói theo cách khác, là một sự lãng phí. Do đó tôi quyết định hành động thực tế hơn, để nó không hoàn toàn phí hoài. Tôi đối tốt với bản thân và những người thân cận với tôi trong lúc này.”

Geralt không hỏi thêm gì nữa.

***

Trong một lần dừng chân, Geralt và Milva tán gẫu với Zoltan Chivay, người lùn vị tha với bản tính lương thiện khó sửa. Ông tỏ ra khá rành rõi về tình hình chiến sự hiện tại, hay ít nhất thì có vẻ như vậy.

“Cuộc tấn công,” ông trả lời, liên tục cố gắng át đi tiếng của Nguyên soái Duda, lúc này đang chửi bới loạn xạ, “đến từ Drieschot. Nó bắt đầu vào rạng sáng ngày thứ bảy sau Lammas. Quân đội Verdan hành quân cùng Nilfgaard, bởi vì như anh đã biết, Verden giờ đã nằm dưới sự bảo hộ của Đế chế. Chúng di chuyển thần tốc, để lại toàn bộ các ngôi làng từ Drieschot cho đến Brugge chỉ còn là một đống tro tàn, và đập tan lực lượng đồn trú tại đó. Bộ binh Nilfgaard đã bí mật vượt qua Yaruga và chiếm pháo đài Dillingen khi họ không đề phòng. Chúng đã xây một cây cầu bằng thuyền chỉ trong có nửa ngày, anh tin nổi không?”

“Giờ thì chúng tôi tin mọi thứ,” Milva lầm bầm. “Các ông đã ở Dillingen, khi nó bắt đầu?” “Chúng tôi ở trong khu vực đó,” người lùn nói tránh. “Khi có tin báo về một cuộc xâm lược, chúng tôi đã đang trên đường tới Brugge. Những con đường đúng thật lộn xộn, đầy nhóc dân tị

nạn, một số người bỏ chạy khỏi phía Nam để lên phương Bắc, một số thì ngược lại. Họ làm tắc hết cả đường, và chúng tôi kẹt cứng ở đó. Chúng tôi cũng được xác nhận là Nilfgaard đang ở cả đằng trước lẫn phía sau. Nhóm quân rời đi từ Drieschot đã tách ra. Tôi có cảm giác là một lực lượng lớn đã sang phía Đông Bắc, hướng đến thành phố Brugge.”

“Và giờ thì lũ Áo Đen đã đang ở phía nam Turlough. Chúng ta đang kẹt ở giữa, trên vùng trung lập.”

“Đúng là ở giữa,” người lùn xác nhận. “Nhưng không phải trên vùng trung lập. Quân đội Đế chế giờ được bổ sung bởi Sóc, lính tình nguyện từ Verden và cơ số các nhóm độc lập khác, và chúng còn tồi tệ hơn cả quân Nilfgaard. Chính chúng là những kẻ đã thiêu rụi Kernow, nhưng đã không tóm được chúng tôi, và chúng tôi cũng chỉ vừa kịp chạy thoát vào khu rừng. Do đó, chúng ta không nên thò mũi ra khỏi đây. Chúng ta nên cẩn thận, tới được Đường Mòn, sau đó đi dọc bờ sông Cholta đến dòng Ina, và ở đó, chúng ta sẽ tìm thấy quân đội Temeria. Lực lượng của vua Foltest có lẽ đã hồi phục sau đợt tấn công bất ngờ và sẽ đáp trả quân Nilfgaard.”

“Tôi hy vọng thế.” Milva nói, nhìn sang witcher. “Vấn đề là, chúng tôi có việc khẩn dưới phía Nam. Chúng tôi đã định xuống đó từ Turlough, hướng đến Yaruga.”

“Tôi không biết lý do gì khiến các cô phải làm vậy,” ánh mắt của Zoltan tỏ vẻ ngờ vực, “nhưng chắc hẳn phải quan trọng lắm mới khiến các cô phải liều mạng như thế.”

Ông ta ngừng lại, đợi một chút, nhưng chẳng có ai buồn giải thích cả. Người lùn gãi mông, ho và khạc một bãi.

“Tôi sẽ không ngạc nhiên đâu,” cuối cùng ông lại tiếp tục, “nếu biết Nilfgaard đã chiếm hết cả hai bờ Yaruga và cửa sông Ina rồi. Các anh cần đến chỗ nào ở Yaruga?”

“Không nơi nào cụ thể cả,” Geralt quyết định trả lời. “Chỉ cần đến bờ sông là được. Tôi muốn tìm một chuyến tàu đến cửa sông.”

Zoltan nhìn anh và cười, nhưng ngay lập tức dừng lại khi nhận ra đó không phải trò đùa. “Tôi buộc phải thừa nhận,” ông nói sau một lúc, “rằng anh chắc đang nằm mơ nếu nghĩ rằng mình có thể tới được đó. Anh nên bỏ cuộc đi là vừa. Toàn bộ vùng phía nam Brugge đang bốc lửa, trước khi tới được Yaruga anh sẽ bị xiên lên một cây cọc, hoặc áp tải về Nilfgaard. Kể cả nếu có nhờ phép màu nào đó mà anh tới được con sông, anh cũng chẳng thể xuôi dòng xuống cửa sông được. Tôi đã nói với anh về cây cầu nổi bắc từ Cintra cho tới bờ của Brugge rồi. Nó được canh gác cả đêm lẫn ngày, và chẳng có ai đi qua sông bằng đường đó cả, có lẽ ngoại trừ lũ cá hồi. Vấn đề quan trọng và khẩn cấp của anh sẽ phải bỏ đi sự quan trọng và khẩn cấp của nó thôi. Anh chẳng thể đái xa hơn được thế đâu, lời khuyên của tôi đó.”

Biểu cảm trên gương mặt Milva cho thấy cô đồng tình với người lùn. Geralt chẳng có gì để nói cả. Anh cảm thấy rất tồi tệ. Anh cảm giác một cơn đau âm ỉ như một hàm răng cùn đang cắn vào xương tay trái và đầu gối phải của mình, cơn đau còn tồi tệ hơn do sự mệt mỏi và độ ẩm của không khí. Anh còn nhận ra một cảm giác cực kỳ khó chịu và chán nản. Một cảm giác kỳ lạ mà anh chưa từng trải qua bao giờ, và không có cách nào đối phó với chúng.

Tất cả những gì anh cảm nhận là sự bất lực và buông xuôi.

***

Sau hai ngày, mưa ngừng rơi, và mặt trời chiếu sáng gương mặt họ. Được tự do khỏi làn sương đang tan đi nhanh chóng, khu rừng lại có thể hít thở, và chim chóc lại bắt đầu líu lo, quên đi vẻ u ám khi thời tiết vẫn còn xấu. Zoltan mừng rỡ và ra lệnh nghỉ chân một lúc lâu, sau đó hứa hẹn rằng đường đi từ giờ sẽ dễ hơn và họ có thể tới Đường Mòn trong nhiều nhất là một ngày. Đám phụ nữ từ Kernow phơi khô những tấm áo đen và xám lên những cành cây xung quanh, xấu hổ trốn vào bụi cây trong những chiếc quần lót, càm ràm về đồ ăn. Đám trẻ con nhếch nhác thì chạy chơi loanh quanh, làm khuấy động sự tĩnh lặng của khu rừng. Dandelion ngủ cho bớt mệt. Milva đã biến đi đâu đó.

Những người lùn nghỉ ngơi, nhưng vẫn rất hoạt bát. Figgis Merluzzo và Munro Bruys đi tìm nấm. Zoltan, Yazon Varda, Caleb Stratton và Percival Schuttenbach ngồi cách chiếc xe hàng không xa và chơi “Screwed”, trò đánh bài ưa thích mà họ dành hết toàn bộ thời gian rảnh để tham gia, kể cả những tối trời mưa. Witcher đôi khi ngồi cùng và cổ vũ họ, như anh đang làm bây giờ. Anh vẫn chưa hiểu được luật lệ phức tạp của trò chơi, nhưng thấy cuốn hút bởi những lá bài tuyệt đẹp được vẽ rất tỉ mỉ. So với bài của con người, chúng thực sự là những tuyệt tác in ấn. Geralt lại lần nữa tranh luận rằng kỹ thuật của người lùn cực kỳ tiên tiến và không hề chỉ bao gồm khai thác mỏ, luyện kim và gia công. Nếu người lùn, bất chấp khả năng của họ, không độc chiếm được thị trường giải trí thì chỉ do là người ta thích chơi xúc xắc hơn, vả lại những con bạc chẳng bao giờ thèm quan tâm đến tính thẩm mỹ. Những con bạc loài người, và witcher đã có cơ hội quan sát không chỉ là một lần, luôn dùng những bộ bài nhăn nhúm bẩn thỉu đến nỗi trước khi được đặt lên bàn, họ phải gỡ chúng ra khỏi tay. Những hình vẽ được tô cẩu thả đến nỗi chỉ có thể phân biệt được quân Công Nương với quân Hiệp Sĩ bởi vì Hiệp Sĩ ngồi trên một con ngựa, mặc dù bản thân con ngựa trông cũng giống một con chồn hơn.

Những hình vẽ trên các quân bài của người lùn thì không hề mắc những lỗi đó. Đức Vua đội một chiếc vương miện thực sự quyền uy, Công Nương đẹp đẽ và gợi cảm, và Hiệp Sĩ, trang bị một cây giáo, còn mang một bộ ria mép. Trong ngôn ngữ người lùn, những quân này được gọi là Hraval, Vaina và Ballet, nhưng khi Zoltan và đoàn lữ hành chơi, họ dùng tên thông dụng của con người.

Mặt trời chiếu sáng, nước bốc hơi khỏi khu rừng, Geralt ngồi cổ vũ những người lùn.

Luật cơ bản của Screwed là thứ gì đó tương tự như đấu giá ngựa ở ngoài chợ, cũng như âm vực và sự căng thẳng trong giọng nói của những người chơi. Cặp có “điểm” cao nhất cố gắng úp được càng nhiều quân càng tốt, trong khi cặp thứ hai tìm mọi cách để ngăn cản. Trò chơi ngày càng ầm ĩ và bạo lực, và mỗi người chơi đều để một cây gậy to tướng ở bên cạnh. Họ hiếm khi dùng nó, nhưng thường xuyên vung vẩy qua lại.

“Làm sao cậu có thể chơi được trò này với cái đầu rỗng tuếch thế hả? Điếc à? Cậu đặt bích, thay vì cơ sao? Chẳng lẽ tôi lại đặt cơ và hát cho cậu một bài opera nữa chắc? Ôi, chắc tôi nên cầm gậy và đập cho cái đầu thiểu năng của cậu một cái!”

“Tôi có bốn quân bích và một quân Hiệp Sĩ, tôi tưởng là mình có điểm cao nhất rồi chứ!” “Bốn quân bích! Trừ khi cậu tính thêm cả con giun trong quần khi để bài trên lòng vào nữa.

Nghĩ một chút đi, Stratton, đây có phải đại học đâu, chỉ là một trò đánh bài mà thôi! Ngay cả một con heo cũng lột sạch được đồ của một tay thị trưởng nếu có bài ngon. Chia đi, Varda.”

“Một cặp cơ.” “Đồ ngu!”

“Hắn đã đánh quân Vua rồi, và vãi cả ra quần kia kìa. Một cặp bích!” “Ăn!”

“Cậu đang ngủ gật đấy à, Stratton. Ăn một cặp kìa! Cậu đặt cái gì?” “Một mớ cơ!”

“Tăng tiền. Haa! Rồi sao? Không ai ăn à? Không có gì để nói sao, các chàng trai? Bỏ bài ra đi, Varda. Percival, ông mà còn nháy mắt với hắn lần nữa, tôi sẽ đấm ông một cái mạnh đến nỗi chẳng thể mở mắt ra được cho đến mùa đông.”

“Bích.”

“Hậu!”

“Thêm một quân Vua nữa! Hậu của anh ăn cứt rồi! Tôi thắng, ha ha, và vẫn còn chút đồ thừa cho mấy ngày mưa! Một quân Hiệp Sĩ, một quân Vua, một cặp…”

“Mười quân rô! Ai chiếm được lợi thế, ta sẽ cắt….ôi, nhảm nhí! Này, Zoltan? Ông đang xuống cấp rồi đó!”

“Đồ gnome khốn khiếp. Eh, tôi sẽ lấy cây gậy này…. ”

Trước khi Zoltan kịp có cơ hội cầm lên cây gậy của mình, một tiếng hét the thé vọng ra từ trong rừng.

Geralt là người đầu tiên bật dậy. Anh vừa chạy vừa nguyền rủa, bởi vì lại lần nữa cảm nhận cơn đau trên đầu gối. Ngay phía sau anh là Zoltan Chivay, cầm theo thanh kiếm bọc da để trên xe. Percival Schuttenbach và những người lùn còn lại chạy theo họ, vũ trang bởi mấy cây gậy to tướng và cuối cùng là Dandelion, bị đánh thức bởi tiếng hét, cũng chạy theo. Từ bên cạnh, Figgis và Munro bỗng hiện ra. Ném mấy cái giỏ nấm xuống, cả hai người lùn bế lên những đứa trẻ đang chạy bát nháo. Milva hiện ra từ thinh không, rút một mũi tên và chĩa vào nơi mà tiếng hét xuất phát.

Nhưng không cần thiết. Geralt đã từng nghe thấy, trông thấy, và anh biết nó là cái gì.

Đứa trẻ vừa mới hét là một đứa bé gái mặt tàn nhang với hai bím tóc, tầm khoảng 8 hoặc 9 tuổi. Con bé đứng như trời trồng cách vài bước một đống thân cây mục rữa. Geralt nhanh nhẹn nhảy tới, nhấc nó lên và kẹp bên dưới cánh tay, làm gián đoạn tiếng hét chói tai, và qua khóe mắt anh phát hiện thấy chuyển động giữa những thân cây. Anh khẩn trương rút lui, đụng phải Zoltan và những người lùn. Milva, cũng thấy được chuyển động giữa mấy cái cây, kéo căng dây cung.

“Đừng bắn,” anh rít lên. “Đem con bé đi chỗ khác, nhanh lên. Và lùi lại, nhưng từ từ thôi.

Đừng làm bất kỳ chuyển động đột ngột nào.”

Thoạt đầu có vẻ như là một khúc cây đang di chuyển, như thể bỗng dưng sống dậy, trườn ra khỏi ánh mặt trời để ẩn nấp trong bóng râm dưới tán lá. Chỉ sau khi nhìn kỹ một lúc người ta mới có thể nhận ra những chi tiết khác, chủ yếu là bốn cặp chân khẳng khiu thò ra từ một cái vỏ bẩn thỉu, lốm đốm và chia ra thành nhiều mảnh như áo giáp.

“Bình tĩnh nào,” Geralt khẽ lặp lại. “Đừng khiêu khích nó. Đừng bị đánh lừa bởi vẻ lù đù đấy. Nó không hung dữ đâu, nhưng có thể di chuyển cực nhanh. Nếu cảm thấy bị đe dọa, nó sẽ tấn công, và độc của nó không có thuốc giải đâu.”

Sinh vật bò chậm rãi lên đống gỗ. Nó nhìn Dandelion và những người lùn, từ từ xoay người lại, mắt lồi lên, mở to. Nó không di chuyển mấy. Nó giũa mấy cái cẳng chân khẳng khiu, giơ từng cái lên một và cẩn thận xem xét, để lộ ra hàm răng nhọn ấn tượng.

“La hét to đến nỗi,” Zoltan nói không cảm xúc, đứng bên cạnh witcher, “tôi cứ tưởng phải là cái gì đó khủng khiếp lắm. Như thể kỵ binh Verden chẳng hạn, hay là lũ angi’vare. Và ở đây chúng ta lại có một con tôm quá khổ. Phải công nhận là, tự nhiên có những hình thù rất thú vị.”

“Không, tôi không công nhận.” Geralt nói. “Cái thứ đang ngồi ở đây là một con okoglow. Một tạo vật của Hỗn Mang. Tàn dư còn sót lại từ trước cả Sự Hội Tụ của những Tinh Cầu, nếu ông hiểu ý tôi.”

“Chắc rồi, tôi hiểu chứ.” Người lùn nhìn vào mắt anh. “Mặc dù không phải là một witcher, tôi cũng biết về Hỗn Mang và những tạo vật của nó. Tôi chỉ đang rất tò mò là anh định làm gì với cái tàn dư này đây. Chính xác hơn thì tôi đang thắc mắc là anh định làm theo kiểu gì. Anh muốn dùng kiếm của mình hay thanh Sihil của tôi?”

“Kiếm đẹp đấy.” Geralt liếc nhìn thanh gươm mà Zoltan đã rút ra từ cái vỏ bằng gỗ sơn mài và bọc bằng da hươu. “Nhưng tôi sẽ không cần nó.”

“Tò mò thật,” Zoltan lặp lại. “Vậy chúng ta cứ đứng đây nhìn thế này à? Liệu tàn dư kia có thấy bị đe dọa không? Hay có lẽ anh muốn quay lại và nhờ người Nilfgaard trợ giúp? Anh gợi ý sao đây, thợ săn quái vật?”

“Lấy cho tôi cái muỗng và nắp vung ở trên xe.” “Cái gì?”

“Đừng tranh cãi với một chuyên gia, Zoltan.” Dandelion nói.

Percival Schuttenbach quay lại chiếc xe và trong tích tắc cung cấp những vật dụng cần thiết. Witcher nháy mắt với đoàn lữ hành, rồi bắt đầu gõ chiếc thìa lên cái nắp vung bằng toàn bộ sức lực.

“Đủ rồi! Đủ rồi!” Zoltan Chivay la lên sau một lúc, hai tay bịt tai. “Đồ khốn, anh sẽ làm hỏng cái muỗng mất! Con tôm đã chạy mất rồi! Nó bỏ chạy rồi, mẹ kiếp!”

“Và nhìn nó chạy kìa!” Percival reo lên. “Bụi mù mịt! Trời vẫn còn ẩm, thế mà vẫn có bụi đằng sau nó, râu ria quỷ thần ơi!”

“Con okoglow,” Geralt bình thản giải thích, đưa lại cho người lùn bộ dụng cụ ăn uống, “có thính giác cực kỳ nhạy cảm. Nó không có tai, nhưng vẫn có thể nghe được, bằng toàn bộ cơ thể. Cụ thể hơn là nó không chịu được âm thanh của kim loại. Nó sẽ thấy đau ”

“Ngay cả từ dưới háng,” Zoltan ngắt lời. “Tôi biết bởi vì chính tôi cũng cảm thấy thế, khi anh bắt đầu gõ lên cái vung. Nếu con quái vật có thính giác nhạy hơn tôi, tôi cảm thấy thương cho nó. Ít ra thì nó cũng sẽ không quay lại đây chứ hả? Liệu nó có mang theo bạn bè không?”

“Tôi không nghĩ là giống loài của nó còn lại nhiều. Còn về con này, nó sẽ không quay trở lại khu vực này sớm đâu. Không cần phải lo.”

“Bỏ qua con quái vật,” người lùn nhăn mặt. “Thì màn độc tấu với cái chảo rán của anh có lẽ đã được nghe từ tận Quần đảo Skellige, và có nhiều khả năng là những người yêu mến âm nhạc đã đang trên đường tới đây rồi. Tốt nhất là chúng ta không còn ở đây nữa khi họ tới. Thu dọn đi các chàng trai! Này, mấy bà kia, mặc quần áo vào và gom lũ trẻ lại đi! Nhanh lên, đi thôi!”

***

Khi họ nghỉ chân lúc trời tối, Geralt quyết định làm sáng tỏ vài điều đang khiến anh khó chịu. Zoltan Chivay trông không có vẻ là đang định làm vài ván bài, vậy nên witcher không gặp khó khăn gì trong việc kéo ông ra một nơi vắng vẻ để nói chuyện riêng. Anh bắt đầu mà không vòng vo.

“Nói tôi nghe đi, sao ông biết tôi là một witcher?”

Đôi mắt người lùn sáng lên và ông mỉm cười ranh mãnh.

“Tôi có thể khoe đó là do trực giác của tôi. Tôi có thể nói tôi đã để ý thấy mắt anh thay đổi màu sắc khi hoàng hôn xuống và khi mặt trời lên. Tôi cũng có thể nói, rằng tôi đi đây đi đó nhiều và đã nghe quá đủ về Geralt xứ Rivia. Nhưng sự thật đơn giản hơn thế nhiều. Đừng nhìn tôi bằng ánh mắt ác hiểm đó, Sói. Anh rất kín đáo, nhưng tay nhạc sĩ bạn anh thì hát và nói liên hồi, mồm cậu ta không khép lại được. Đó là vì sao tôi biết nghề nghiệp của anh.”

Geralt không hỏi câu tiếp theo. Và đã đúng khi làm vậy.

“Chà, thôi được rồi.” Zoltan lên tiếng. “Dandelion đã xì ra hết. Chắc cậu ta thấy chúng tôi tôn trọng sự thành thực, và chúng tôi thực sự cảm thông với anh. Cậu ta không cần phải thử chúng tôi, bởi vì chúng tôi không giấu bản chất thật của mình làm gì. Nói ngắn gọn: tôi biết tại sao anh lại xuống phía Nam khẩn trương như vậy. Tôi biết vấn đề cấp bách và quan trọng nào đã dẫn anh đến Nilfgaard. Tôi biết anh đang tìm ai ở đó. Và đấy không chỉ là từ mồm của nhà thơ. Tôi đã sống ở Cintra từ trước chiến tranh và được nghe câu truyện về Đứa Trẻ Bất Ngờ và witcher tóc trắng, trói buộc với nhau bởi định mệnh.”

Geralt giữ im lặng.

“Phần còn lại,” người lùn nói, “chỉ là nhờ quan sát mà thôi. Anh là một witcher, một thợ săn quái vật, vậy mà anh đã để con thú kia chạy mất. Con quái vật chỉ mới làm đứa trẻ hoảng sợ, nó vẫn chưa làm gì sai cả, vậy nên anh bỏ thanh kiếm, và cầm lên cái thìa. Bởi vì anh không còn là một witcher nữa, mà là một hiệp sĩ cao quý, người đang xông đến giải cứu trinh nữ bị bắt cóc.”

Witcher vẫn không nói gì cả.

“Anh nhìn xoáy tôi bằng ánh mắt. Anh đang lo là tôi sẽ phản bội anh. Anh đang phân vân không biết tôi sẽ dùng bí mật này để chống lại anh như thế nào. Đừng tự dày vò bản thân làm gì. Chúng ta sẽ cùng nhau tới Ina, và giúp đỡ lẫn nhau. Chúng ta đều có chung một mục đích: đấu tranh sinh tồn. Để có thể tiếp tục sứ mệnh cao cả, hay đơn giản là sống sót, nhưng không phải thấy hổ thẹn vào giờ khắc khi cái chết cận kề. Anh nghĩ là mọi thứ đã thay đổi. Thế giới đã thay đổi. Nhưng thế giới vẫn vậy. Và anh vẫn là anh. Đừng tự dày vò bản thân.”

“Hãy quên việc tách rời nhóm đi.” Zoltan tiếp tục màn độc thoại, không thấy xấu hổ bởi sự im lặng của witcher. “Hãy từ bỏ chuyến du hành dài và đơn độc tới phía Nam, qua Brugge và Sodden đến sông Yaruga. Anh phải tìm đường khác tới Nilfgaard. Nếu muốn, tôi sẽ cho anh lời khuyên ”

“Không cần,” Geralt xoa đầu gối, mà sau vài ngày vẫn chưa hết đau. “Cứ giữ những lời khuyên đó của ông đi, Zoltan.”

Anh thấy Dandelion đang chơi bài với đám người lùn. Không một lời, anh túm lấy tay áo nhà thơ và lôi cậu vào rừng. Dandelion ngay lập tức nhận ra có chuyện không hay, chỉ cần liếc nhìn gương mặt witcher một cái là đủ hiểu.

“Này con vẹt kia,” Geralt thì thầm. “Lúc nào cũng buôn dưa lê. Mồm to. Có lẽ tôi nên cắt lưỡi cậu, đồ đầu đất! Học cách ngậm miệng vào đi.”

Nhà thi sĩ im lặng, nhưng gương mặt cậu vẫn giữ vẻ bình tĩnh.

“Khi biết cậu sẽ đi cùng tôi,” witcher tiếp tục. “Một vài người khôn ngoan đã thấy kinh ngạc. Họ không tin được là tôi lại để cậu đi cùng. Họ đã khuyên tôi nên đưa cậu đến nơi nào đó vắng vẻ, bóp cổ cậu, lột hết đồ và giấu xác cậu vào một cái thân cây rỗng. Tôi thật sự thấy hối hận là đã không nghe theo.”

“Chẳng lẽ việc anh là ai và đang đi đâu là một bí mật lớn đến vậy sao?” Dandelion bất chợt mất bình tĩnh. “Chúng ta có cần nghi ngờ tất cả mọi người và giả vờ suốt cả quãng đường không? Những người lùn này….họ là đoàn lữ hành của ta ”

“Tôi không có một đoàn lữ hành.” Anh gầm gừ. “Tôi không có. Tôi không muốn có. Tôi không cần có. Cậu hiểu không?”

“Chắc rồi, anh ta hiểu chứ.” Milva lên tiếng từ đằng sau anh. “Và tôi cũng hiểu. Anh chẳng cần ai hết, witcher. Anh thường xuyên thể hiện điều đó còn gì.”

“Tôi không đang châm ngòi một cuộc chiến cá nhân,” anh quay ngoắt lại. “Tôi không cần những người này bởi vì tôi không đến Nilfgaard để cứu thế giới, để lật đổ một đế chế tàn ác. Tôi tới đó để tìm Ciri. Đó là vì sao tôi phải đi một mình. Xin thứ lỗi nếu cô không thích nghe điều này, nhưng tôi chẳng quan tâm mẹ gì đến những cái khác. Và giờ thì đi đi. Tôi muốn ở một mình.”

Sau một hồi, anh quay lại, và thấy chỉ có mỗi Dandelion là rời đi.

“Tôi lại có giấc mơ đó,” anh nói khô khan. “Milva, thời gian của tôi đang cạn dần. Thời gian của tôi đang cạn dần! Con bé cần tôi. Nó cần tôi!”

“Kể tôi nghe đi,” cô nói khẽ. “Cứ trút hết ra đi. Kể cả nó có khủng khiếp thế nào đi chăng nữa, kể tôi nghe đi.”

“Nó không khủng khiếp gì cả. Trong mơ…. con bé đang nhảy múa. Nó đang nhảy múa trong một cái lán mờ khói. Và con bé, chết tiệt, đang rất hạnh phúc. Có tiếng nhạc, ai đó la lên….. Cả

căn chòi rúng động bởi âm nhạc và tiếng cười đùa….Và con bé nhảy, nhảy, và giậm chân…. Và bên trên mái của cái chòi chết tiệt đó, trong làn không khí lạnh lẽo của buổi đêm….là cái chết đang nhảy. Milva….Maria…………………. Con bé cần tôi.”

Milva quay mặt đi.

“Con bé không phải người duy nhất đâu,” cô thì thầm. Để anh không nghe được.

***

Lần dừng chân tiếp theo, witcher tỏ ra hứng thú với thanh kiếm của Zoltan, Sihil, mà anh đã có dịp nhìn lướt qua khi đối đầu với con okoglow. Không ngần ngại, người lùn trút bỏ lớp da hươu bọc quanh và rút nó ra khỏi vỏ.

Thanh kiếm dài khoảng một mét, và không nặng hơn một cân. Lưỡi kiếm bao phủ bởi những ký tự cổ khiến nó hơi có màu xanh và sắc như dao cạo. Với một chút luyện tập, người ta có thể dùng nó làm dao cạo cũng được. Tay cầm dài 30 phân, được bọc một lớp da thằn lằn, nó có một cái nắp đồng hình trụ coi như chuôi kiếm, và thanh chắn, dù khá nhỏ, nhưng hoa văn rất chi tiết.

“Một vật rất đẹp,” Geralt vẫy Sihil, nó huýt sáo khi anh chuyền từ tay trái sang tay phải bằng hai ngón. “Nói thật, nó là một miếng sắt rất đẹp.”

“Huh!” Percival Schuttenbach khịt mũi. “Một miếng sắt! Nhìn kỹ lại đi, bởi vì trong giây lát có khi anh lại nói nó là một củ cải không chừng.”

“Tôi từng có một thanh kiếm tốt hơn.”

“Và tôi không phủ nhận điều đó,” Zoltan nhún vai. “Bởi vì chắc chắn là nó cũng từ lò rèn của chúng tôi mà ra. Witcher các anh rất biết cách dùng kiếm, nhưng không làm ra chúng. Chúng chỉ được làm ở Mahakam, bên dưới Núi Carbon.”

“Người lùn gia công thép,” Percival thêm vào, “và rèn những lớp chính. Nhưng gnome chúng tôi xử lý công đoạn trang trí và mài bén. Trong các công xưởng. Sử dụng kỹ thuật của gnome, cũng như khi chúng tôi làm ra gwyhyr, những thanh kiếm tốt nhất trên thế giới.”

“Thanh kiếm tôi đang dùng,” Geralt lôi ra thanh gươm của mình, “tới từ Brokilon, từ hầm mộ Craag An. Người dryad đã trao nó cho tôi. Một món vũ khí thượng hạng, mà chẳng phải của người lùn hay gnome. Đây là một thanh kiếm của elves, 100 hay 200 tuổi rồi.”

“Anh ta chẳng biết cái mẹ gì cả!” Người gnome kêu lên, cầm lấy thanh kiếm và lướt ngón tay dọc nó. “Công đoạn xử lý cuối cùng là do người elves, đúng vậy. Tay cầm, tay chắn và chuôi. Nó cũng có hình khắc và trang trí của elves. Nhưng lưỡi kiếm được rèn và mài ở Mahakam. Và đúng là nó đã được làm từ vài thế kỷ trước, bởi vì anh có thể thấy dễ dàng là chất lượng thép kém hơn nhiều và tay nghề cũng thô sơ hơn. Đây, đặt thanh Sihil của Zoltan cạnh nó xem, anh thấy sự khác biệt không?”

“Tôi thấy. Nhưng cái của tôi vẫn chẳng có vẻ gì là kém hơn.” Người gnome khịt mũi và khoát tay. Zoltan mỉm cười tự hào.

“Lưỡi kiếm,” ông ta giải thích với vẻ tự phụ, “và cảm giác của thanh kiếm không phải là thứ khiến nó khác so với cái của tôi. Vấn đề là, thanh kiếm của anh chỉ đơn giản làm từ sắt và thép, còn lưỡi kiếm Sihil của tôi được rèn từ hợp kim của chì tinh luyện và hàn the ”

“Công nghệ hiện đại!” Percival không thể kìm được, cuộc tranh luận đã dẫn đến chủ đề mà ông ta rành rõi. “Thiết kế và thành phần của lưỡi kiếm bao gồm nhiều lớp nhân mềm và thép cứng, chứ không hoàn toàn là thép mềm ”

“Chậm thôi, chậm thôi,” người lùn lên tiếng. “Anh ta có phải dân luyện kim đâu, Schuttenbach, đừng giải thích chi tiết quá làm gì. Tôi sẽ nói thật đơn giản. Thép thường, witcher à, cứng và từ tính, rất khó có thể mài bén được. Tại sao? Bởi vì nó cứng! Khi chúng tôi chưa có công nghệ, như hồi trước còn với các anh là bây giờ, và muốn một thanh kiếm sắc thì cần phủ bên ngoài một lớp thép mềm, dễ gia công hơn. Thanh kiếm Brokilon của anh được làm bằng phương pháp này. Kiếm hiện đại thì được làm ngược lại thế – nhân mềm và vỏ cứng. Việc gia công tốn thời gian hơn và như tôi nói, đòi hỏi kỹ thuật hiện đại. Nhưng kết quả là cho ra được một thanh kiếm có thể cắt đôi một mảnh vải giữa không khí.”

“Thanh Sihil của ông có làm vậy được không?”

“Không.” Người lùn mỉm cười. “Anh có thể đếm những thanh kiếm làm được như vậy trên đầu ngón tay, và chỉ còn lại rất ít ở Mahakam. Nhưng tôi đảm bảo là cái con tôm bẩn thỉu mà chúng ta gặp ngày hôm qua sẽ không sống nổi với thanh Sihil của tôi đâu. Lớp vỏ dầy cộp của nó cũng chẳng kháng cự được mấy. Anh có thể cắt vụn nó ra không chút khó khăn.”

Cuộc tranh luận về kiếm và luyện kim diễn ra một lúc lâu nữa. Geralt lắng nghe chăm chú, chia sẻ kinh nghiệm bản thân, và nhân cơ hội để tăng thêm vốn hiểu biết của mình, hỏi cái nọ cái kia, kiểm tra và dùng thử thanh Sihil của Zoltan. Anh không hề biết rằng vào ngày mai mình sẽ phải kiểm nghiệm những giả thiết đó bằng thực hành.

Dấu hiệu đầu tiên cho thấy có người sống trong khu vực, là một chồng vỏ cây mà Percival Schuttenbach đã phát hiện thấy trên đường khi đang đi đầu đoàn lữ hành.

Zoltan ra lệnh dừng lại và cử người gnome đi trinh sát xa hơn. Percival biến mất, và sau nửa giờ quay lại với tốc độ tối đa, phấn khích và hết hơi, vẫy tay từ đằng xa. Ông ta đến chỗ họ, nhưng thay vì báo cáo ngay lập tức, lại túm lấy cái mũi dài của mình và thổi một hơi hết sức bình sinh, tạo ra một âm thanh nghe giống tù và của người chăn cừu.

“Đừng làm thú vật hoảng sợ!” Zoltan Chivay nói. “Và báo cáo đi. Ở phía trước có cái gì?” “Một ngôi làng nhỏ,” gnome thở dốc, chùi tay lên chiếc áo khoác nhiều túi. “Ở giữa khoảng

rừng thưa. Ba ngôi nhà tranh, một nông trại, một cái lán, vài túp lều   Một con chó chạy ở trước sân, và ống khói đang cháy. Thức ăn đang được nấu, yến mạch, sữa vào nhiều hơn thế.”

“Cái gì, ông đã ở trong bếp sao?” Dandelion cười. “Ông đã nhìn vào trong nồi à mà biết là có yến mạch?”

Người gnome nhìn cậu với vẻ bề trên, và Zoltan khịt mũi giận dữ.

“Đừng xúc phạm ông ta, nhà thơ. Ông ta có thể ngửi mùi thức ăn từ cách xa một dặm. Nếu ông ta nói đó là yến mạch thì nó là yến mạch. Chết tiệt, tôi còn chẳng thích ăn yến mạch.”

“Sao lại không? Tôi thích yến mạch. Tôi sẽ rất sẵn lòng đánh chén.”

“Zoltan nói phải đấy.” Milva cất lời. “Và anh trật tự đi, Dandelion, bởi vì nó chẳng có gì thi vị cả. Nếu có sữa trong yến mạch, tức là có một con bò. Và bất kỳ tay nông dân nào cũng có thể trông thấy đám khói bốc lên và đem con bò trốn vào trong rừng. Vậy tại sao hắn lại ở đây? Chúng ta nên đi đường vòng tránh qua chỗ đó. Tôi linh cảm có gì không ổn.”

“Bình tĩnh, bình tĩnh.” người lùn lầm bầm. “Chúng ta sẽ chuẩn bị sẵn sàng để chạy trốn nếu cần. Có lẽ là chiến tranh đã kết thúc? Có lẽ quân đội Temeria cuối cùng đã tiến công? Làm sao chúng ta biết được trong khi ở đây? Có thể một trận đánh lớn đã nổ ra, Nilfgaard bị đẩy lui, và tiền tuyến đang ở đằng sau ta, và những người nông dân cùng bò của họ đã quay về nhà? Chúng ta cần phải biết. Figgis, Munro, cả hai ở lại đây và mở to mắt ra. Chúng ta sẽ làm một chuyến thám thính nhỏ. Nếu gặp nguy hiểm, tôi sẽ báo hiệu bằng tiếng chim ưng.”

“Tiếng chim ưng?” Munro Bruys lo lắng nghịch chòm râu. “Nhưng ông có biết bắt chước tiếng chim đâu, Zoltan?”

“Chính xác. Vậy nếu cậu nghe thấy âm thanh kỳ lạ nào đó không thể nhận ra được, thì đó sẽ là tôi. Percival, dẫn đường đi. Geralt, anh có đi cùng chúng tôi không?”

“Tất cả chúng ta cùng đi.” Dandelion xuống ngựa. “Nếu đó là một cái bẫy, chúng ta sẽ an toàn hơn khi đi đông.”

“Tôi sẽ để Nguyên soái lại đây.” Zoltan nhấc con vẹt khỏi vai và đưa cho Figgis Merluzzo. “Nó có thể bỗng dưng quyết định xổ ra mấy câu tục tĩu, và trò lén lút của chúng ta sẽ đi tong. Nhanh nào.”

Percival nhanh chóng dẫn họ tới bìa rừng, qua những bụi hoa cà rậm rạp. Phía trước đám cây, địa hình trở nên thoải, kết thúc dưới một đống gỗ chặt nham nhở. Đằng sau đó là một khoảng rừng thưa rất rộng. Milva cẩn thận quan sát.

Báo cáo của người gnome rất chính xác. Ở giữa khoảng rừng là ba ngôi nhà tranh, một nông trại và vài túp lều phủ rêu xanh. Một bãi phân lớn ở giữa cái sân. Những ngôi nhà và một trảng cỏ bé, mà nhìn có vẻ lộn xộn, được bao quanh bởi một hàng rào thấp, đổ nát. Phía sau hàng rào, một con chó xám đang sủa. Phía trên một ngôi nhà là một cột khói, lười biếng bò qua một cái lỗ trên mái.

“Nói thật,” Zoltan huýt sáo, hít hà, “đúng là mùi rất thơm. Đặc biệt trong khi mũi tôi đã quen với mùi rừng cây bị phóng hỏa rồi. Tôi không thấy lính gác hay con ngựa nào, và tôi nghĩ đây chỉ là một nhóm lưu manh đang trú ẩn. Hmm tôi thấy chúng ta chẳng việc gì phải lo cả.”

“Tôi sẽ đi.” Milva tuyên bố.

“Không.” Người lùn phản đối. “Cô nhìn giống Sóc quá. Nếu thấy cô, họ có thể hoảng sợ. Và con người thường hành động bất ngờ khi hoảng loạn. Yazon và Caleb sẽ đi. Còn cô, hãy chuẩn bị sẵn cung tên để bắn đi, yểm trợ họ nếu cần. Percival sẽ sẵn sàng để cảnh báo những người khác. Hãy cảnh giác, phòng khi chúng ta cần rút lui.”

Yazon Varda và Caleb Stratton thận trọng xuất hiện từ trong bụi cây và di chuyển về phía những ngôi nhà. Họ đi thật chậm, nhìn ngó xung quanh.

Con chó ngay lập tức trông thấy họ. Nó sủa ầm ĩ, chạy quanh sân, và không phản ứng lại với những tiếng huýt sáo và tặc lưỡi của hai người lùn. Cánh cửa nhà bật mở.

Milva lập tức giương cung lên và khẽ kéo dây. Và lại nhanh chóng nhả ra.

Trên ngưỡng cửa là một đứa bé gái nhỏ, gầy với bím tóc dài. Nó hét câu gì đó với hai người lùn, và vẫy tay. Yazon Varda xòe tay ra, và hét lại một câu khác. Đứa bé bắt đầu la lên. Geralt và những người khác nghe được, nhưng không nhận ra câu từ nào.

Những từ đó hẳn phải tác động ghê gớm lên Yazon và Caleb, bởi vì cả hai người ngay lập tức quay lại và bỏ chạy về phía bụi hoa cà. Milva lại giương cung lên, di chuyển đầu mũi tên, tìm mục tiêu.

“Cái quỷ gì thế?” Zoltan hỏi. “Có chuyện gì vậy? Sao họ lại chạy như ma đuổi thế? Cô trông thấy gì, Milva?”

“Ngậm miệng lại đi.” Nữ cung thủ rít lên, vẫn di chuyển đầu mũi tên từ nhà này sang nhà kia, từ lều này sang lều kia. Nhưng vẫn chẳng thấy gì. Đứa bé gái tóc bím biến vào trong nhà, sập cửa.

Hai người lùn chạy như thể tất cả quỷ dữ của Hỗn Mang đuổi theo sau họ. Yazon hét lên câu gì đó, có thể là chửi thề. Dandelion đột nhiên biến sắc.

“Anh ta đang la lên… Ôi, mẹ ơi!”

“Có chuyện gì th… ” Zoltan ngừng lại vì Yazon và Caleb đã tới nơi, mặt cả hai đỏ loét. “Sao thế? Nói đi xem nào!”

“Có dịch bệnh….” Caleb hớp hơi. “Đậu mùa… ”

“Cậu có chạm vào cái gì không?” Zoltan Chivay đột ngột lùi lại, gần như xô ngã Dandelion.

“Cậu có chạm vào cái gì trong sân không?” “Không….con chó không để chúng tôi lại gần ”

“Tạ ơn trời vì con cún mắc toi đó.” Zoltan ngước mắt lên. “Cầu cho thần linh ban cho nó cuộc sống dài lâu và một đống xương to như Núi Carbon. Đứa bé ở trong nhà, nó có mụn không?”

“Không. Nó khỏe mạnh. Những người bệnh nằm trong ngôi nhà ở cuối, toàn bộ gia đình con bé. Nó nói nhiều người đã chết. Này, này, Zoltan, gió đang thổi về phía chúng ta đấy!”

“Tán gẫu đủ rồi,” Milva lên tiếng, hạ cây cung xuống. “Nếu anh không chạm vào cái gì bị lây nhiễm thì không cần phải lo. Đấy là nếu quả thực là đang có dịch đậu mùa. Đứa con gái có thể chỉ muốn dọa anh đi thôi.”

“Không,” Yazon nói chắc nịch, vẫn đang run rẩy. “Đằng sau ngôi nhà có một cái hố….. và trong đấy đầy xác người. Đứa bé không có sức để chôn những người chết, nên nó ném họ xuống hố       ”

“Chà!” Zoltan khịt mũi. “Yến mạch của cậu đấy, Dandelion. Tôi không biết cậu nghĩ sao, chứ tôi thì có lẽ sẽ bỏ qua bữa này. Ra khỏi đây thôi, trong khi vẫn còn sống.”

Những tiếng sủa điên dại lại vang lên từ ngôi làng. “Nấp đi!” Witcher rít lên, quỳ xuống.

Từ phía đối diện khoảng rừng là một nhóm kỵ sĩ đi xung quanh hàng rào đổ nát, huýt sáo và bao vây ngôi làng, rồi xông vào trong sân. Những kẻ cưỡi ngựa được vũ trang nhưng không mặc quân phục nào cả. Trái lại, chúng mặc quần áo thông thường đủ các màu, và dụng cụ mang trên người trông chẳng hợp chút nào – không phải lấy từ doanh trại, mà nhặt được trên chiến trường thì hơn.

“Mười ba.” Percival Schuttenbach nhanh chóng đếm. “Chúng là ai thế?”

“Chúng không phải Nilfgaard hay quân đội thông thường nào,” Zoltan nói. “Chúng cũng chẳng phải Scoia’tael. Đối với tôi, trông chúng giống bọn đào ngũ. Một băng nhóm.”

“Hay cướp đường.”

Lũ kỵ sĩ hét hò ầm ĩ, dạo chơi quanh sân. Con chó nhận một cú đập bằng que và chạy mất. Đứa bé gái tóc bím nhảy ra khỏi cửa, la hét. Nhưng lần này lời cảnh báo không có tác dụng hay không được coi trọng. Một tên phóng ngựa qua, túm lấy tóc con bé và kéo ra khỏi ngưỡng cửa, lê nó qua vũng bùn. Những kẻ khác nhảy xuống ngựa, chung tay lôi đứa bé gái xuống cuối sân, xé quần áo và ném nó vào đống rơm mục rữa. Con bé chống cự kịch liệt, nhưng chẳng có cơ hội nào cả. Chỉ có một tên cướp không tham gia vào cuộc vui. Hắn đứng trông coi mấy con ngựa đang cột vào hàng rào. Đứa bé gái bắt đầu hét lên tuyệt vọng. Rồi tiếng hét trở nên lịm dần, đứt quãng, và biến mất hẳn.

“Chiến binh!” Milva xổ ra. “Anh hùng… lũ khốn nạn!”

“Rõ ràng là chúng không sợ đậu mùa.” Yazon Varda lắc đầu.

“Sợ hãi,” Dandelion thì thầm, “là dành cho con người. Trong chúng không còn lại chút nhân tính nào nữa rồi.”

“Ngoại trừ ruột chúng,” Milva gầm gừ, cẩn thận tra mũi tên vào cung. “Mà tôi sắp sửa đục thủng bằng mũi tên này đây, bọn vô lại đó.”

“Có 13 tên lận,” Zoltan Chivay nói tỉnh táo. “Và chúng có ngựa. Cô có thể giết được một hai tên, nhưng số còn lại sẽ tấn công chúng ta. Vả lại, có thể đây chỉ là một nhóm tách ra mà thôi. Ai mà biết được còn có bao nhiêu tên khác nữa.”

“Vậy thì sao, tôi phải đứng yên đây mà nhìn, và chẳng làm gì hết?”

“Không.” Geralt đã đeo thanh kiếm ra sau lưng và buộc tóc lại. “Tôi đã phát chán phải đứng nhìn rồi. Tôi đã phát chán phải ngồi yên rồi. Chúng phải bị trừ khử. Cô thấy gã đang đứng trông ngựa không? Khi tôi ra gần đó, hãy bắn hắn ngã xuống. Nếu có thể, hãy hạ thêm một tên nữa. Nhưng chỉ khi tôi đã tới đó rồi.”

“Thế thì sẽ còn 11.” Nữ cung thủ nhìn quanh. “Tôi biết đếm mà.”

“Còn dịch đậu mùa thì sao?” Zoltan Chivay lầm bầm. “Nếu ra đó, anh sẽ bị nhiễm bệnh….quỷ thần ơi, witcher! Anh sẽ khiến tất cả chúng ta gặp nguy hiểm Chết tiệt, đây không phải đứa bé mà anh đang tìm kiếm!”

“Im đi, Zoltan. Quay lại chiếc xe đi, nấp vào trong rừng.” “Tôi sẽ đi với anh.” Giọng Milva khàn khàn.

“Không. Cứ yểm trợ cho tôi từ xa, cô sẽ giúp được tôi hiệu quả hơn.” “Còn tôi?” Dandelion hỏi. “Tôi phải làm gì?”

“Việc mà cậu hay làm. Chẳng gì hết.”

“Anh điên rồi…” Zoltan làu bàu. “Chỉ có mỗi mình anh đấu lại chúng… Anh bị sao thế hả?

Muốn chơi trò anh hùng à, vị cứu tinh của thiếu nữ?” “Im đi.”

“Vậy thì cứ để quỷ dữ bắt anh đi! Đợi đã… bỏ thanh kiếm đó lại đây. Chúng rất đông, tốt nhất là anh không cần phải chém đến hai lần. Hãy mang thanh Sihil của tôi. Với nó, chỉ một là đủ.”

Witcher nhận món vũ khí của người lùn không do dự, và không một lời. Anh lại chỉ cho Milva tên cướp đang canh ngựa lần nữa. Rồi nhảy qua khúc gỗ và bước từng bước nhanh nhẹn về phía căn nhà.

Mặt trời đang tỏa sáng. Châu chấu nhảy tung tăng dưới chân anh. Tên kỵ sĩ trông ngựa nhìn thấy anh, và rút ra một cây giáo dắt trên yên. Hắn có mái tóc dài, dày, rủ xuống chiếc áo thép rách rưới, vá víu bằng vài sợi kim loại sét rỉ. Hắn mang một đôi giày mới với khóa sáng lóa, chúng rõ ràng là đã được cướp gần đây.

Tên lính canh la lên, rồi từ đằng sau hàng rào một tên khác chạy ra. Tên này đeo một chiếc thắt lưng có treo một thanh kiếm trên đó, và hắn chỉ vừa mới kéo quần lên xong. Geralt đã ở khá gần rồi. Từ đống rơm anh nghe thấy tiếng cười của những kẻ đang tự giải trí bằng đứa bé gái. Anh hít từng hơi thật sâu, mỗi hơi thở đều nhân lên ham muốn giết chóc. Anh có thể làm mình bình tĩnh lại, nhưng không muốn. Anh muốn tận hưởng điều này.

“Này, ngươi là ai? Dừng lại!” Gã tóc dài la lên, giơ cao ngọn giáo trong tay. “Ngươi muốn gì?”

“Ta chán đứng nhìn rồi.” “Cái gì?”

“Cái tên Ciri có ý nghĩa gì với ngươi không?” “Ta sẽ            ”

Tên kỵ sĩ không nói thêm được gì. Một mũi tên với lông vũ xám cắm vào giữa ngực và hắn rơi khỏi yên ngựa. Trước khi hắn ngã xuống đất, Geralt đã nghe thấy tiếng huýt sáo của mũi tên thứ hai. Đầu mũi tên bắn trúng bụng tên lính kia, thấp, ngay giữa kẽ ngón tay đang kéo khóa quần của hắn. Hắn rú lên như thú vật, gập đôi người lại và ngã ra sau hàng rào, làm đổ những cây cọc.

Trước khi những tên còn lại kịp chạy và tìm vũ khí, witcher đã đang ở giữa chúng rồi. Thanh kiếm của người lùn nhảy múa và hát, bài ca nhẹ như lông hồng và lưỡi thép sắc như dao cạo để lộ cơn khát máu hoang dại. Nó cắt qua từng thân người không chút khó khăn. Máu bắn lên mặt witcher, anh không có thời gian lau đi.

Kể cả khi những kẻ đào ngũ có ý định chống trả, thì cảnh tượng từng cái xác đổ xuống và dòng suối máu chảy ra rất có tác dụng trong việc dọa chúng khiếp vía. Quần một tên vẫn đang quấn quanh đầu gối, hắn còn chẳng kịp kéo nó lên. Hắn bị cắt đứt động mạch cảnh và ngã ngửa ra sau, phần thừa ra giữa hai chân vung vẩy lố bịch, bản lĩnh đàn ông vẫn chưa được thỏa mãn. Một tên kỵ sĩ thứ hai, đầu cạo trọc lốc, cố bảo vệ gương mặt bằng hai bàn tay, và Sihil ngay lập tức cắt đứt cả hai tay hắn. Những kẻ còn lại chạy, tỏa ra mọi phía. Witcher đuổi theo chúng, thầm nguyền rủa cơn đau đang bắt đầu âm ỉ trên đầu gối. Anh hy vọng rằng nó sẽ không từ chối nghe theo lời mình.

Hai tên chạy tới được hàng rào, và cố bảo vệ mình, vẫy kiếm trong tay. Tê liệt vì sợ, chúng di chuyển như rùa bò. Gương mặt witcher lại lần nữa dính đầy máu bắn ra từ động mạch cắt bởi lưỡi kiếm người lùn. Những kẻ khác tận dụng thời cơ để nhảy lên ngựa và chuồn đi. Một tên ngay lập tức ngã xuống, bị một mũi tên bắn trúng, giãy dụa như cá ra khỏi nước. Hai gã còn lại thúc ngựa phi nước đại. Tuy nhiên, chỉ có một kẻ chạy được, bởi vì Zoltan Chivay bỗng xuất hiện trên chiến trường. Người lùn xoay chiếc rìu và ném nó đi, trúng giữa lưng một tên đang chạy trốn. Tên cướp rống lên, ngã khỏi yên ngựa, chân cào loạn xạ. Gã cuối cùng bám chặt cổ con ngựa, nhảy qua cái hố đầy xác người và phi xuống cuối con đường.

“Milva!” Cả witcher và người lùn đồng thanh hét lên.

Nữ cung thủ đã đang chạy lại phía hắn. Cô đứng lại, chân trước chân sau. Cô hạ cung và kéo dây căng hơn và căng hơn. Họ nghe thấy tiếng dây bật, nhưng Milva vẫn giữ nguyên tư thế, cô thậm chí không thèm di chuyển. Họ chỉ trông thấy mũi tên khi nó cắm trúng đích. Tên kỵ sĩ đổ người lên trước, lông vũ thò ra từ vai hắn. Nhưng hắn không ngã xuống. Hắn ngồi thẳng dậy với một tiếng hét, thúc ngựa chạy nhanh hơn.

“Một cây cung phi thường.” Zoltan Chivay kêu lên thán phục. “Và một cú bắn tuyệt đẹp!” “Một cú bắn như cứt.” Witcher lau máu trên mặt. “Thằng con hoang đã chạy thoát được và sẽ gọi thêm nhiều tên nữa đến.”

“Cô ấy bắn trúng hắn! Và từ khoảng cách 200 bước chân lận.” “Cô ấy lẽ ra nên nhắm vào con ngựa.”

“Con ngựa không có tội.” Milva khịt mũi giận dữ, bước lại chỗ họ. Cô khạc ra, nhìn tên kỵ sĩ đang biến mất vào khu rừng. “Tôi nhắm trượt tên vô lại khốn khổ bởi vì hết hơi…………………….. Pah, đồ rắn

độc, chạy mất với mũi tên của ta! Cầu cho nó nguyền rủa ngươi!”

Họ nghe thấy tiếng ngựa hý trên đường và ngay sau đó, âm thanh the thé của một người bị giết.

“Hô, hô!” Zoltan nhìn nữ cung thủ với vẻ ngưỡng mộ. “Hắn cũng đâu chạy được xa! Mũi

tên của cô không vô ích đâu! Nó tẩm độc à? Hay là có phép màu? Bởi vì sau cùng, dù cho thằng khốn đó có bị đậu mùa đi chăng nữa, thì căn bệnh chết tiệt ấy cũng đâu có phát tác nhanh vậy!”

“Đó không phải do mũi tên của tôi.” Milva ném một ánh mắt thấu hiểu về phía witcher. “Và nó cũng chẳng phải đậu mùa. Nhưng tôi nghĩ mình biết đó là gì.”

“Tôi cũng nghĩ là mình biết.” Người lùn mỉm cười ranh mãnh. “Tôi để ý thấy các cô luôn liếc ra phía sau, tôi biết là có người bám theo chúng ta. Trên một con ngựa màu hạt dẻ. Tôi không biết anh ta là ai, nhưng vì các cô không thấy phiền chà, dù sao cũng không phải việc của tôi.”

“Đặc biệt là trong khi chúng ta lại được lợi từ một vệ binh bên sườn như vậy.” Milva nói, nhìn sang Geralt. “Anh có chắc cái tay Cahir này là kẻ thù của mình không đó?”

Witcher không trả lời. Anh trả lại Zoltan thanh kiếm. “Cám ơn. Nó không tệ đâu.”

“Đặc biệt là khi ở trong bàn tay tài giỏi như vậy,” người lùn xác nhận, với một nụ cười trên mặt. “Tôi đã nghe nhiều câu chuyện về witcher, nhưng hạ gục 8 người chỉ trong chưa đầy hai phút thì…”

“Chẳng có gì đáng tự hào cả. Chúng không biết cách tự vệ.”

Đứa bé gái tóc bím bò dậy, rồi đứng lên, và với bàn tay run lẩy bẩy cố gắng một cách vô ích để sửa lại đống quần áo rách rưới trên người. Witcher thấy ngạc nhiên vì xét tổng thể, con bé không hề giống Ciri chút nào hết, trong khi chỉ phút trước anh còn thề là hai đứa trông như chị em sinh đôi. Con bé lau mặt, và lảo đảo bước về phía căn nhà, không thèm tránh đám phân.

“Này, đợi đã,” Milva gọi. “Này, bé con…chúng tôi có thể giúp gì không? Này!”

Đứa bé thậm chí không thèm nhìn cô. Nó vấp phải ngưỡng cửa, gần ngã chúi xuống đất, bám lấy khung cửa và đóng sầm lại sau lưng.

“Lòng biết ơn của con người đúng là vô hạn,” người lùn nói. Milva quay ngoắt lại, gương mặt bất động.

“Có gì để mà biết ơn kia chứ?”

“Phải.” Witcher nói. “Có gì để mà biết ơn?”

“Ngựa của bọn cướp,” Zoltan không hạ mắt. “Con bé có thể làm thịt để ăn, và không cần giết con bò. Rõ ràng là con bé miễn nhiễm với đậu mùa, và giờ thì cũng không cần sợ cái đói nữa. Con bé sẽ sống thôi. Và nhờ anh mà sự hành hạ của nó cũng không kéo dài, và ngôi nhà không bị phóng hỏa. Mất vài ngày, nhưng con bé sẽ hiểu ra khi có thời gian suy ngẫm. Đi nào, rời khỏi đây thôi, trước khi dịch bệnh bay đến chỗ ta Này, witcher, anh đi đâu đấy? Tìm kiếm chút lòng biết ơn à?”

“Không, một đôi ủng,” Geralt lạnh lùng đáp, cúi xuống tên cướp tóc dài, đôi mắt vô hồn của hắn ngước lên trời. “Có vẻ như đôi này sẽ rất vừa với tôi.”

***

Trong vài ngày tiếp theo, họ ăn thịt ngựa. Đôi ủng với khóa lấp lánh khá là thoải mái. Người Nilfgaard tên Cahir vẫn bám theo họ trên con ngựa màu hạt dẻ, nhưng witcher không ngoái lại nữa.

Anh cuối cùng cũng hiểu ra bí mật của Screwed và thậm chí còn chơi cùng những người lùn. Anh thua.

Họ không nhắc lại những gì xảy ra ở khoảng rừng thưa. Chẳng có ích gì cả.

Nhân sâm, một giống cây quý hiệm thuộc họ bạch anh, mà bao gồm các loại thực vật có rễ giống với hình dạng con người. Lá mọc theo dạng bông hồng, xuất hiện với số lượng ít tại Vicovaro, Rowan và Ymlac. Chúng hiếm khi mọc hoang. Quả có màu xanh, rồi chuyển vàng và thường được ăn với dấm và hạt tiêu, lá được dùng trong trạng thái thô. Rễ (radix mandragorae) ngày nay rất có giá trị trong y học và dược liệu. Trước đây nó đóng vai trò quan trọng trong một số tín ngưỡng, đặc biệt là của người phương Bắc. Họ khắc hình người lên chúng (alruniki, alraune) rồi để trong nhà làm bùa hộ mạng. Nó được coi như là phép bảo vệ chống lại bệnh tật và mang lại hạnh phúc, đảm bảo sinh nở. Chúng được mặc trang phục và vào mỗi mùa trăng mới lại được thay quần áo. Rễ nhân sâm là một món hàng phổ biến, giá có thể lên tới 60 floren một củ. Khi bán người ta thường do không hiểu biết hoặc bị gian thương lừa đảo nên nhầm tưởng là rễ cà dược. Nhân sâm cũng được dùng trong thuật phù thủy như một nguyên liệu bào chế thần dược hay thuốc độc. Sự mê tín này xuất phát trong giai đoạn bài trừ phù thủy. Các công đoạn điều chế nhân sâm thành thuốc độc đã được điều tra làm rõ trong phiên xử Lucracia Migo. Người ta cũng cho rằng Philippa Eilhart huyền thoại cũng đã dùng nhân sâm làm thuốc độc.

Effenberg và Talbot, Đại bách khoa toàn thư về thế giới, Quyển XI.

About The Author

Ngo David

Power is Power