Trò chơi vương quyền – Lịch sử cổ xưa
Tựa sách: Thế giới của Băng và Lửa (tựa gốc: The World of Ice & Fire)
Tác giả: George. R.R. Martin
Nhóm dịch: Bapstory.net
Những cuộc di cư cuối cùng vào Westeros xảy ra rất lâu sau khi Tiền nhân và người Andalos đến. Sau khi cuộc chiến với người Ghiscar kết thúc, những lãnh chúa rồng Valyria bắt đầu hướng sự chú ý của mình về phía Tây, sự phát triển của quyền lực người Valyria đã khiến cho đế chế Freehold và những thuộc địa của nó xuất hiện những xung đột với những người xứ Rhoyne.
Những nhánh phụ của sông Rhoyne, dòng sông vĩ đại nhất thế giới, vươn ra rất xa về phía Tây Essos. Cùng với những ngân hàng của họ thì dân cư và văn hóa của họ cũng phong phú và cổ xưa không kém gì Đế chế Old Ghis. Cư dân vùng Rhoyne trở nên giàu có vô cùng nhờ những nguồn lợi từ dòng sông, họ đặt tên dòng sông này là Đức Mẹ Rhoyne.
Dân đánh cá, thương nhân, các nhà trí thức, học giả và người làm thuê trong các xưởng gỗ, mỏ đá, mỏ kim loại cùng nhau gây dựng lên những thành phố và thị trấn thanh lịch, càng ngày càng kiêu sa hơn, suốt từ thượng nguồn đến cửa sông của dòng Rhoyne. Thành phố Ghoyan Drohe trên đồi Velvet, với những lùm cây và thác nước, Ny Sar, thành phố của những chiếc đài phun nước, nổi tiếng với những bài hát về nó, Ar Noy trên đỉnh Qhone với những tòa sảnh bằng đá xanh, Sar Male ở biên giới với những loài hoa, Sarhoy bao quanh bởi biển với những kênh đào và những khu vườn ngập mặn, và Chroyane, nơi vĩ đại nhất, những lễ hội được tổ chức ở Cung Điện Tình Yêu.
Các loại hình nghệ thuật và âm nhạc rất khởi sắc ở những thành phố quanh sông Rhoyne, và người ta nói rằng con người nơi đây cũng có những ma thuật của riêng mình, một dạng ma thuật của nước rất khác với những pháp sư của vùng Valyria vốn được sinh ra từ máu và lửa. Dù là được gắn kết với nhau bởi dòng máu, văn hóa và dòng sông nơi họ được sinh ra, các thành phố quanh sông Rhoyne mặt khác lại vô cùng độc lập, mỗi nơi đều có hoàng tử… hoặc là công chúa riêng, bởi vì theo truyền thống của vùng sông này, đàn ông và phụ nữ được đối xử công bằng.
Dù là được xây dựng bởi những con người ôn hòa, vùng Rhoyne có thể trở nên vô cùng đáng sợ nếu như họ bị chọc giận, rất nhiều những nhà chinh phục mạo nhận xứ Andalos đã nhận được bài học đầy khổ đau này. Những chiến binh vùng Rhoyne mặc những bộ giáp dát bạc, những chiếc mũ có hình đầu cá, cầm những mũi giáo dài và những chiếc khiên hình mai rùa nhận được sự kính trọng và sợ hãi bởi tất cả những kẻ đối đầu với họ trên chiến trận. Người ta kể rằng đích thân Đức Mẹ Rhoyne thì thầm vào tai những đứa con của mình về những mối nguy hại, rằng những hoàng từ vùng Rhoyne sở hữu những quyền năng lạ lùng và kỳ quái, rằng những phụ nữ vùng Rhoyne chiến đấu dữ dội không thua kém gì những người đàn ông, và rằng những thành phố của họ được bảo vệ bởi “những bức tường nước” sẽ dâng lên và nhấn chìm bất kỳ kẻ thù nào.
Vùng Rhoyne trải qua nhiều thế kỷ sống trong hòa bình, dù có rất nhiều những tộc người hung hãn sống trên những ngọn đồi và trong rừng quanh dòng sông Đức Mẹ Rhoyne, tất cả chúng đều biết rằng tốt nhất đừng có quấy rầy những cư dân vùng sông. Và bản thân dân cư vùng Rhoyne cũng không quá ham mê việc khai phá, dòng sông là nhà của họ, mẹ của họ, và thần thánh của họ, và rất ít người có ý muốn cư ngụ ở những nơi xa bài hát vĩnh cửu của dòng sông.
Những đoàn thám hiểm, hành hương hay thương nhân từ Freehold vùng Valyria bắt đầu mở rộng vượt ra khỏi Vùng Đất Của Mùa Hè Dài Lâu (the Lands of the Long Summer) hàng thế kỷ sau sự sụp đổ của Đế Chế Cổ Ghis, những hoàng tử vùng Rhoyne thu nhận họ trước tiên, và những thầy tu của họ tuyên bố rằng họ chào đón tất cả mọi người đến và cùng chia sẻ những phước lành của Đức Mẹ Rhoyne.
Khi những tiền đồn đầu tiên của người Valyria trở thành những thị trấn, rồi những thị trấn trở thành những thành phố, một số người Rhoyne bắt đầu nuối tiếc vì lòng hiếu khách của cha ông mình. Tình thương bắt đầu biến thành sự ác cảm, đặc biệt là ở những vùng hạ lưu, nơi thành phố cổ Sar Mell và thị trấn khép kín Volon Therys của người Valyria đối diện nhau dọc theo dòng sông, và ở bên bờ Biển Hạ, nơi thành phố tự do Volantis sớm cạnh tranh với thành phố cảng sầm uất Sarhoy, mỗi thành phố này đều kiểm soát 1 trong số 4 cửa sông của Đức Mẹ Rhoyne.
Những tranh chấp giữa những cư dân của các thành phố cạnh tranh nhau này trở nên ngày càng phổ biến hơn và thù hận hơn, cuối cùng sản sinh ra một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu. Sar Mell và Volon Therys là những thành phố đầu tiên lâm chiến. Huyền thoại kể rằng đụng độ bắt đầu khi người Valyria bắt được và làm thịt một con rùa thuộc loài rùa khổng lồ mà người Rhoyne gọi là The Old Man of The River rất linh thiêng và được tôn thờ như là chồng của chính Đức Mẹ Rhoyne. Trận Chiến Rùa đầu tiên kéo dài không đến 1 con trăng. Sar Mell bị cướp bóc và thiêu rụi, nhưng chiến thắng đã đến khi những thủy pháp sư của Rhoyne triệu hồi quyền năng của dòng sông và nhấn chìm Volon Therys. Một nửa thành phố đã bị cuốn trôi, nếu như những câu chuyện là đáng tin.
Tuy nhiên, những cuộc chiến khác cũng diễn ra theo: Trận chiến giữa 3 hoàng tử, Trận chiến rùa lần thứ 2, Trận chiến ngư dân, Trận chiến muối, Trận chiến Rùa lần thứ 3, Trận chiến ở Hồ Mũi Dao, Trận chiến Gia Vị, và rất nhiều nữa, nhiều tới mức không thể đếm nổi. Rất nhiều thành phố, thị trấn bị thiêu rụi, bị nhấn chìm rồi lại được xây dựng lại. Hàng nghìn người bị giết và bị bắt làm nô lệ. Trong những xung đột này, phần thắng nghiêng về phía người Valyria nhiều hơn. Những hoàng tử vùng Rhoyne, cực kỳ tự hào về nền độc lập của mình, thường tự chiến đấu một mình, trong khi những thuộc địa của người Valyria luôn hỗ trợ lẫn nhau, và khi bị dồn ép quá, họ cầu cứu đến sức mạnh của chính đế chế Freehold. Cuốn History of the Rhoynish của Beldecar không công bằng lắm khi miêu tả về những xung đột đã kéo dài hơn 2 thế kỷ rưỡi này.
Những xung đột này đạt đến cực điểm vào khoảng 1000 năm trước ở Cuộc Chiến Gia Vị Lần 2, khi 3 lãnh chúa rồng nhập cuộc cùng với những người họ hàng của mình áp đảo, cướp bóc và phá hủy Sarhoy, thành phố cảng vĩ đại của người Rhoyne ở Biển Hạ. Những chiến binh của thành Sar Hoy bị thảm sát vô cùng dã man, con cái của họ bị bắt làm nô lệ, và thành phố tráng lệ của họ chìm trong biển lửa. Sau đó, người Volantis trải muối lên toàn bộ đám tàn tích để Sarhoy không bao giờ còn có thể phục hồi trở lại.
Cuộc phá hoại nổi tiếng một trong những thành phố giàu có và đẹp đẽ nhất của vùng Rhoyne, và việc bắt các nô lệ đã làm các hoàng tử còn lại của vùng Rhoyne bị sốc mà mất tinh thần. “Chúng ta sẽ bị bắt làm nô lệ hết, nếu chúng ta không đoàn kết lại để chấm dứt mối hiểm họa này”, Garin của thành Chroyane, người vĩ đại nhất tuyên bố. Hoàng tử chiến binh vĩ đại này kêu gọi các bằng hữu của mình gia nhập cùng anh ta để tạo ra một liên minh lớn, nhằm đánh đuổi tất cả những thành phố Valyria quanh dòng sông.
Chỉ duy nhất công chúa Nymeria của thành Ny Sar là phản đối. “Đây là cuộc chiến mà chúng ta không hề có hy vọng chiến thắng”, nàng cảnh báo, nhưng các hoàng tử khác la hét bắt nàng ngồi xuống, và cùng dâng thanh kiếm của mình thề phục vụ Garin. Ngay cả những chiến binh của Ny Sar cũng rất nóng lòng muốn chiến đấu, vì thế Nymeria chẳng còn lựa chọn nào khác và đành phải gia nhập liên minh.
Quân đội hùng mạnh nhất mà Essos từng được chứng kiến rất nhanh chóng tập hợp tại Chroyane, dưới sự chỉ huy của Hoàng tử Garin. Theo lời Beldecar, quân số của lực lượng này lên đến khoảng 250.000 người. Từ thượng nguồn cho tới các cửa sông Rhoyne, tất cả những người đàn ông trong độ tuổi chiến đầu đều xách gươm, cầm khiên lên và lên đường tới thành phố lễ hội để tham gia lực lượng này. Chừng nào họ còn ở gần bên dòng sông Rhoyne, hoàng tử tuyên bố, họ không phải sợ những con rồng từ Valyria, những thủy pháp sư sẽ bảo vệ họ khỏi lửa rồng từ Freehold.
Garin chia lực lượng khổng lồ của mình làm 3: một phần hành quân dọc bờ phía đông dòng sông, một phần dọc bờ phía Tây, trong khi một hạm đội thuyền khổng lồ đi trên sông giữa hai đội quân kia, quét sạch tất cả những chiến thuyền của kẻ thù trên sông. Từ Chroyne, Garin dẫn đội quân dũng mãnh của mình xuống hạ lưu, tiêu diệt từng ngôi làng, thị trấn, đồn trú trên đường đi và đập tan mọi kẻ chống đối.
Chàng thắng trận chiến đầu tiên ở Selhorys, áp đảo một đội quân Valyria 30.000 người và chiếm thành phố như một cơn bão. Valysar cũng chịu chung số phận. Đến Volon Therys, Garin đối mặt với một đội quân 100.000 người, 100 voi chiến và 3 lãnh chúa rồng. Chàng tiếp tục thắng thế ở đây, nhưng phải trả một cái giá đắt. Hàng nghìn người đã bị thiêu cháy, nhưng hàng nghìn người khác đã kịp ẩn nấp trong những vị trí cạn của dòng sông, trong khi các thủy pháp sư triệu hồi những vòi nước khổng lồ để đối phó với những con rồng của kẻ thù. Các cung thủ của phe Rhoyne đã bắn hạ được 2 con rồng, con thứ 3 bị thương và tháo chạy. Sau cùng, Đức Mẹ Rhoyne tràn lên cuồng nộ nuốt chửng cả Volon Therys. Kể từ đó, mọi người bắt đầu gọi chàng hoàng tử chiến thắng là Garin Vĩ Đại (Garin the Great), và người ta nói rằng ở Volantis, các lãnh chúa vĩ đại run rẩy trong sợ hãi khi quân đội chủ lực của Garin tới. Thay vì đối đầu với kẻ địch trên chiến trường, các lãnh chủa Volantis rút lui về phía sau những bức tường thành và cầu cứu đế chế Freehold.
Và rồi thì những con rồng cũng tới. Không phải là 3 như ngày hoàng tử Garin đối đầu ở Volon Therys, mà là 300, có khi hơn nữa, nếu như những câu chuyện kể lại là đáng tin. Đối đầu với những ngọn lửa kinh hoàng, người Rhoyne không thể trụ nổi. Hàng chục nghìn người bị thiêu sống trong khi những người khác tháo chạy ra dòng sông, hy vọng rằng sự bảo hộ của Đức Mẹ sông Rhoyne có thể bảo vệ họ khỏi những ngọn lửa rồng … và chết đuối ở đó. Một số tài liệu ghi chép lại khẳng định rằng những ngọn lửa nóng tới nỗi toàn bộ cả dòng sông bị đốt nóng và trở thành nước sôi. Garin Vĩ Đại bị bắt sống và bị ép phải chứng kiến người của mình chịu đựng sự trả thù. Nhưng những binh lính của chàng thì không được hưởng sự khoan dung như vậy. Người Volantis và những hậu duệ người Valyria xử chém toàn bộ họ, nhiều tới mức người ta kể lại rằng máu của họ nhuộm đỏ cả cảng Volantis tới ngút tầm mắt. Ngay sau đó những người chiến thắng tập hợp lực lượng và tấn công lên phía Bắc dọc theo dòng sông, nuốt gọn Sar Mell một cách tàn bạo trước khi tiến tới Chroyane, thành phố quê hương của Garin. Bị nhốt trong một cái cũi bằng vàng theo lệnh các lãnh chúa rồng, Garin bị giải về thành phố lễ hội để chứng kiến nó bị hủy diệt.
Ở Chroyane, cái cũi được treo lên trên những bức tường, để chàng hoàng tử có thể chứng kiến phụ nữ và trẻ em bị bắt làm nô lệ, những người vợ và con của những kẻ đã chết trong cuộc chiến can đảm và vô vọng của chàng…nhưng hoàng tử, người ta kể rằng, đã nguyền rủa những kẻ xâm lược, và cầu xin Đức Mẹ Rhoyne báo thù cho những đứa con của người. Và rồi, vào đúng đêm đó, dòng sông Rhoyne dâng nước lên với sự vũ bão chưa từng có. Một màn sương mù dày đầy khí độc buông xuống, và những kẻ chinh phục Valyria bắt đầu chết vì bệnh vảy xám. (Về điều này, ít nhất có những sự thật sau được kể lại: Nhiều thế kỷ sau, Lomas Longstrider đã viết về những di tích bị nhấn chìm ở Chroyane, nước và sương mù của nó bị nhiễm bẩn, và sự thật rằng những người du hành phương xa bị nhiễm bệnh vảy xám giờ đang cư ngụ trong di tích- một hiểm họa cho những kẻ du hành trên sông phía dưới những nhịp đổ nát của Cây cầu của những giấc mơ (Bridge of Dreams).
Phía thượng lưu của sông Rhoyne, ở Ny Sar, công chúa Nymeria lập tức nhận được tin tức về thất bại tan nát của Garin và về những người dân ở Chroyane và Sar Mell bị bắt làm nô lệ. Nàng thấy ngay rằng một số phận tương tự đang chờ đợi thành phố của chính nàng. Vì thế, nàng tập hợp mọi chiếc thuyền còn sót lại ở vùng sông Rhoyne, dù lớn hay nhỏ, và chở hết sức có thể những người phụ nữ, trẻ em (bởi vì hầu hết những người đàn ông ở độ tuổi chiến đấu đã đi theo Garin và chết). Nymeria dẫn đoàn thuyền tả tơi của mình xuôi theo dòng sông, đi qua những tàn tích, những thị trấn nghi ngút khói và những cánh đồng đầy xác chết, qua những vùng nước bị bóp nghẹt bởi khói và những xác chết trôi dạt. Để lẩn tránh Volantis và quân đội của nó, nàng chọn đi theo một con kênh cũ và tiến ra Biển Hạ nơi chỉ còn lại Sarhoy trụ vững.
Truyền thuyết kể lại rằng Nymeria đã dẫn 10.000 con tàu ra biển, tìm kiếm ngôi nhà mới cho người dân của mình ngoài tầm ảnh hưởng của Valyria và những lãnh chúa rồng. Beldecar lý luận rằng số liệu này đã bị thổi phồng quá nhiều, có lẽ là gấp 10 lần. Một số tài liệu khác cung cấp con số khác, tuy nhiên thực tế thì không có số liệu kiểm đếm chính xác tuyệt đối. Chúng ta chỉ có thể nói rằng đó là một đội rất nhiều tàu. Hầu hết là thuyền thủ công, thuyền nhỏ, tàu buôn, tàu đánh cá, xà lan, bè ngang, chở đầy phụ nữ và trẻ em. Chỉ có khoảng một phần mười là tàu biển chuyên đi xa bờ, theo như Beldecar khẳng định.
Cuộc hành hương của Nymeria rất dài và kinh khủng. Hơn một trăm thuyền đã bị đánh chìm ngay khi đội thuyền gặp phải cơn bão đầu tiên. Cũng tầm đó thuyền hoặc hơn quay đầu về vì sợ hãi, và bị bắt làm nô lệ ở bên ngoài Volantis. Nhiều người khác bị rớt lại phía sau, hoặc bị đánh dạt đi và không ai còn thấy nữa.
Phần còn lại của đoàn thuyền lê lết qua Biển Hạ tới Quần Đảo Rắn (Basilisk Isles), họ dừng chân ở đây để trữ thêm nước sạch và lương thực, và lại đụng ngay vào ông vua cướp biển của vùng đảo Ax, Talon, và tộc người Howling Mountain, hai bộ tộc này tạm thời gác bỏ mâu thuẫn trong một thời gian đủ lâu để trút đao kiếm và lửa xuống đầu những người xứ Rhoyne, đốt cháy 2 chiếc thuyền và bắt hàng trăm người làm nô lệ. Sau đó thì lũ cướp biển đề nghị cho phép những người Rhoyne được định cư ở Quần đảo Toads, với điều kiện họ từ bỏ tất cả tàu thuyền và cống nộp hàng năm 30 trinh nữ cho mỗi ông vua.
Nymeria từ chối và một lần nữa dẫn đội thuyền của mình ra khơi, hy vọng tìm được nơi ẩn náu giữa những khu rừng vùng Sothoryos. Một số cư ngụ tại Mũi Rắn (Basilisk Point), một số bên cạnh những vùng biển xanh lấp lánh của vùng Zamoyos, giữa những bãi cát lầy, những con cá sấu, và những thân cây ngập nước mục ruỗng. Đích thân công chúa Nymeria ở lại với những con tàu tại Zamettar, một thuộc địa của đế chế Ghiscar đã bỏ hoang hàng nghìn năm, trong khi những người còn lại đi ngược sông tới những di tích khổng lồ vùng Yeen, nơi bị ám bởi lũ ghoul và bầy nhện.
Họ tìm thấy rất nhiều tài nguyên ở Sothoryos- vàng, đá quý, gỗ hiếm, da dê nhập khẩu, những hoa quả và gia vị kỳ lạ- nhưng những cư dân Rhoyne không sinh sôi được ở đó. Thời tiết nóng ẩm ủ rũ đè nén lên tinh thần họ, và những đầm lầy đầy ruồi muỗi làm lây lan hết dịch bệnh này đến dịch bệnh khác: cơn sốt xanh, dịch nhảy múa, bệnh máu sôi, bệnh đau mắt, nhiễm trùng. Trẻ em và người già đặc biệt dễ bị nhiễm những bệnh này. Thậm chí khuấy động nước sông cũng có thể gây tử vong, vì sông Zamoyos chứa đầy những loài cá ăn thịt người, và những loài sâu bọ nhỏ xíu đẻ trứng trong da thịt những người tới đây bơi lội. Hai trong số những thị trấn mới ở Mũi Rắn bị cướp bởi tụi nô lệ, cư dân ở đây bị giết hoặc bị bắt xích đi, trong khi Yeen phải hứng chịu những cuộc tấn công từ tụi ghoul từ những khu rừng sâu.
Trong khoảng hơn một năm, những người Rhoyne cố gắng tồn tại ở Sothoryos, cho tới ngày một chiếc thuyền từ Zamettar tới Yeen và phát hiện ra toàn bộ đàn ông, phụ nữ và trẻ em ở thành phố hoang phế này đã biến mất trong đêm. Sau đó Nymeria triệu tập dân của mình quay lại những chiếc tàu của họ và dong buồm ra khơi một lần nữa.
Trong ba năm tiếp theo, những người Rhoyne lang thang trên những vùng biển phía Nam, tìm kiếm một mái nhà mới. Ở Naath, Đảo Bướm, những người ôn hòa chào đón họ, nhưng vị thần linh bảo trợ cho vùng đất lạ lùng này bắt đầu trừng phạt những kẻ mới đến bằng một loại dịch bệnh chết người không tên, khiến họ lại phải quay trở về những con tàu của mình. Ở Quần đảo Mùa Hè, họ cư ngụ tại một ngọn núi hoang bên ngoài bờ đông của Walano, và rất nhanh chóng nơi này được biết đến với cái tên Đảo Phụ Nữ, nhưng mảnh đất đầy đá này rất khó để gieo trồng, và rất nhiều người đã chết đói. Khi đội thuyền lại một lần nữa ra khơi, một số người Rhoune đã rời bỏ Nymeria để theo một pháp sư tên là Druselka, người khẳng định rằng đã nghe thấy Đức Mẹ sông Rhoyne gọi những đứa con của người trở về… nhưng khi Dryselka và đoàn của mình trở về những thành phố cũ của họ, họ gặp ngay kẻ thù đang chờ sẵn, và ngay lập tức hầu hết bị săn đuổi, giết hại hoặc bắt làm nô lệ.
Những chiếc tàu rách nát, tả tơi còn lại của đội 10.000 tàu rong buồm về phía Tây cùng với Công chúa Nymeria. Lần này nàng tới được Westeros. Sau quãng thời gian quá dài lang thang, đội tàu của nàng thậm chí còn tàn tạ hơn cả thời điểm đầu tiên khi họ khởi hành từ Đức Mẹ Rhoyne. Đội tàu của nàng không đến được Dorne toàn vẹn. Thậm chí đến lúc này, có nhiều người xứ Rhoyne ở Stepstones đòi sở hữu tài sản riêng, khẳng định rằng họ là hậu duệ của những người bị đắm tàu. Những con tàu khác, bị hư hại bởi bão lốc, chỉ đến được Lys hoặc Tyrosh, thà chọn làm nô lệ còn hơn chết đuối. Những chiếc tàu còn lại đến được bãi biển xứ Dorne gần cửa sông Greenblood, cách những bức tường đá cổ vùng Sandship, lãnh địa của Nhà Martell không xa.
Những con người đói khát, cô độc, gầy gộc, Dorne ở thời này là một vùng đất nghèo khó, nơi những lãnh chúa hay gây gổ và những ông vua nhỏ lẻ gây chiến với nhau không ngừng trên từng con sông, con suối, giếng nước, và từng mảnh đất nhỏ phì nhiêu. Hầu hết những lãnh chúa vùng Dorne coi những người Rhoyne như những kẻ xâm chiếm không được chào đón, những kẻ xâm lược với những phong cách nước ngoài kỳ dị và những vị thần xa lạ, và tốt nhất là nên tống cổ bọn chúng về vùng biển nơi mà chúng xuất phát. Nhưng Mors Martell, lãnh chúa vùng Sandship, nhìn thấy ở những kẻ mới đến một cơ hội… và nếu như những ca sĩ là đáng tin, vị lãnh chúa này cũng đem lòng yêu Nymeria, nữ hoàng xinh đẹp và dũng mãnh đã dẫn dắt người của mình đi khắp thế giới để tìm kiếm tự do.
Người ta kể rằng, trong số những người tới Dorne cùng với Nymeria, tám mươi phần trăm là phụ nữ… nhưng có tới một phần tư là chiến binh, theo như truyền thống của người vùng Rhoyne, và kể cả những người không có khả năng chiến đấu cũng đã được rèn luyện trở nên rất mạnh mẽ sau những cuộc hành trình và những nỗ lực của họ. Thêm nữa, hàng nghìn người vốn mới chỉ là những cậu bé khi rời bỏ vùng Rhoyne, nay đã trở thành những người đàn ông, và đều đã cầm thương chiến đấu trong suốt hành trình nhiều năm lang thang của họ. Bằng việc nhập hội với những người mới đến, nhà Martell đã gia tăng lực lượng của mình lên gấp mười lần.
Khi Mors Martell cưới Nymeria làm vợ, hàng trăm hiệp sĩ, hầu cận và những người cao quý cũng cưới những phụ nữ xứ Rhoyne làm vợ, và rất nhiều những người đã kết hôn cũng lấy những người phụ nữ xứ Rhoyne làm tình nhân. Đây là cách mà hai tộc người gắn kết máu mủ với nhau. Mối quan hệ này làm giàu và tăng cường sức mạnh cho Nhà Martell và những đồng minh người Dorne của họ. Những người xứ Rhoyne mang theo sự giàu có đáng kể, những thợ thủ công, thợ rèn, thợ điêu khắc sở hữu những kĩ năng vượt xa hơn những người cũng làm công việc đó ở Westeros, và những thợ rèn của họ ngay lập tức chế tạo ra gươm, thương, áo giáp bằng da và thép mà không thợ rèn nào ở Westeros sánh kịp. Quan trọng hơn nữa, người ta kể rằng những phù thủy vùng Rhoyne biết những phép thuật bí mật có thể làm cho những dòng suối đã khô cạn chảy trở lại và làm những sa mạc nở hoa.
Để kỉ niệm mối quan hệ này, và để đảm bảo rằng người của mình sẽ không ra biển một lần nữa, Nymeria đốt tất cả những chiếc tàu của người Rhoyne. “Hành trình lang thang của chúng ta đã kết thúc rồi”, bà tuyên bố,” Chúng ta đã tìm được mái nhà mới cho mình, nơi đây chúng ta sinh sống và chết”
(Một số người Rhoyne cũng khóc thương tiếc cho những chiếc thuyền của họ, và thay vì đón nhận vùng đất mới, họ sống trôi nổi trên những vùng nước của dòng Greenblood, cố gắng tìm kiếm một hình bóng mờ nhạt của Đức Mẹ Rhoyne, và họ vẫn tiếp tục thờ phụng người. Họ vẫn tồn tại cho đến ngày này, được biết đến với cái tên Những đứa trẻ mồ côi của sông Greenblood).
Ngọn lửa thắp sáng rực cả bờ biển khi hàng trăm tấm gỗ cũ kỹ được ném vào lửa và cháy thành tro bụi; Trong ánh sáng của ngọn lửa, công chủa Nymeria tôn vinh Mors Martell là Hoàng tử của xứ Dorne, theo phong tục của người Rhoyne, công nhận sự thống trị của chàng đối với “những bãi cát đỏ và cát trắng, và tất cả những đất đai và dòng sông từ vùng núi cho tới tận biển lớn”.
Tuy nhiên, tuyên bố về quyền lực thì lúc nào cũng dễ dàng hơn là việc giành được nó. Theo sau đó là nhiều năm trời chiến tranh, khi nhà Martell và những đồng minh người Rhoyne tiêu diệt lần lượt từng vị vua nhỏ lẻ một. Không ít hơn 6 vị vua bị chinh phục đã bị xích và giải tới những bức tường bởi Nymeria và hoàng tử của bà, cho tới khi chỉ còn sót lại kẻ thù mạnh nhất: Yorick Yronwood, Dòng Máu Hoàng Gia, Đệ Ngũ, Lãnh chúa vùng Yronwood, Hộ thần vùng Đường Đá, Hiệp sĩ Giếng, Vua của vùng Redmarch, Vua của vùng Greenbelt, và Vua của xứ Dorne.
Trong suốt 9 năm, Mors Martell và các đồng minh (trong số đó có nhà Fowler vùng Skyreach, Nhà Toland vùng Ghost Hill, Nhà Dayne vùng Starfall và nhà Uller cùa vùng Hellholt) tranh đấu rất nhọc nhằn với Yronwood và các đồng minh của nó (người Jordayne vùng Tor, người Wyls vùng Stone Way, cùng với người Blackmonts, người Qorgyle, và rất nhiều tộc người khác), với vô số những cuộc chiến. Khi Mor Martell ngã xuống bởi lưỡi kiếm của Yorick Yronwood trong Cuộc chiến vùng Boneway lần thứ 3, công chúa Nymeria tiếp nhận quyền chỉ huy toàn bộ quân đội của chàng. Cần thêm hai năm chiến tranh nữa, nhưng cuối cùng thì Nymeria đã khiến Yorick Yronwood phải quỳ gối, và nàng cai trị từ đó tại Sunspear.
Dù cho nàng kết hôn thêm hai lần nữa (lần đầu tiên là với lãnh chúa già Uller vùng Hellholt và sau đó là với Hiệp sĩ Davos Dayne hoạt bát của vùng Starfall, Thanh Kiếm Ban Mai), Nymeria vẫn là người cai trị hợp pháp của xứ Dorne trong suốt gần 27 năm, những người chồng của bà chỉ đóng vai trò là cố vấn và liên minh. Bà sống sót qua hàng tá cuộc giao tranh, dập tắt hai cuộc phản loạn, đánh đuổi hai cuộc xâm lăng của Vua Bão Tố Durran Đệ Tam và một cuộc bởi Vua Greydon vùng Reach.
Khi cuối cùng bà qua đời, người lớn nhất trong số bốn người con gái của bà với Mors Martell là người kế vị, chứ không phải là người con trai của bà với Davos Dayne, và từ đó người xứ Dorne cũng tiếp nhận rất nhiều luật lệ và phong tục của những người vùng Rhoyne, dù cho những kí ức về Đức Mẹ Rhoyne và về 10.000 con tàu đã chìm vào truyền thuyết.