Metro 2033

Metro 2033

Tựa sách: Metro 2033

Tác giả: Dmitry Glukhovsky

Nhóm dịch: Bapstory.net

Tóm tắt tác phẩm: Metro 2033 nằm trong seri gồm 3 cuốn của tác giả người Nga Dmitry Glukhovsky (Metro 2033, Metro 2034, Metro 2035) kể về giai đoạn hậu tận thế khi mà con người phải sống chui rút bên dưới mặt đất, ở tuyến metro rộng lớn tại Moscow sau thảm họa hạt nhân toàn cầu. Họ không những phải đối mặt với những sinh vật đột biến kì dị, hung ác và chết chóc bị nhiễm phóng xạ mà còn cả sự tranh giành quyền lực đẫm máu.

Cậu không cần phải thu xếp hành lý vì cậu chưa hề giở chúng ra – chẳng có lý do gì đặc biệt để làm vậy cả. Điều duy nhất làm khó cậu là làm thế nào để mang khẩu súng của mình ra khỏi nhà ga một cách bí mật, để không thu hút sự chú ý. Họ được cấp cho những khẩu súng quân sự cỡ nòng 7,62 cồng kềnh với những chiếc báng gỗ. VDNKh luôn phái đoàn lữ hành của họ đến các ga gần đó cùng với những khẩu súng cồng kềnh này.

Artyom nằm đó, vùi đầu vào chăn, không thèm trả lời những câu hỏi khó hiểu của Zhenya: tại sao mày lại có thể ngủ quên ở đây khi mọi thứ đang diễn ra rất tuyệt vời tại bữa tiệc, mày bị ốm hay sao thế? Trong lều nóng và ẩm ướt, những tấm bạt càng khiến cho điều đó tệ hơn. Mất khá lâu cậu mới có thể chợp mắt và cuối cùng khi cậu tỉnh dậy, những giấc mơ của cậu đều mơ hồ và lộn xộn, như thể cậu đang nhìn qua một lớp kính mờ. Cậu đang chạy đi đâu đó, cậu đang nói chuyện với một người không có khuôn mặt nào đó, và rồi cậu lại tiếp tục chạy…

Zhenya đánh thức cậu, lắc vai cậu và nói nhỏ: ‘Nghe này, Artyom, có một người đến tìm mày… Mày có gặp rắc rối gì không?’ Cậu ta cẩn thận hỏi. ‘Tao có cần đánh thức tất cả mọi người dậy và chúng ta sẽ… ‟

“Không, không sao đâu, ông ấy chỉ cần nói chuyện với tao thôi. Ngủ đi Zhen. Tao sẽ quay lại ngay, ”Artyom nói khẽ, đi bốt vào và đợi Zhenya ngủ trở lại. Cậu đang cẩn thận kéo ba lô ra khỏi lều và xách khẩu súng của mình lên, thì đột nhiên Zhenya, nghe thấy tiếng kim loại lạch cạch, hỏi lại, “Giờ thì chuyện gì đây? Mày chắc mọi thứ đều ổn chứ?”

Artyom đã phải lừa cậu ta bằng cách bịa ra một câu chuyện rằng cậu muốn dọa người đàn ông kia một chút vì họ đã tranh cãi, nhưng mọi thứ sẽ ổn.

‘Nói dối!’ Zhenya nói một cách dứt khoát. ‘Được rồi, lúc nào thì tao nên lo lắng cho mày đây?’

“Sau một năm,” Artyom lầm bầm, hy vọng rằng điều này đủ nghe được, cậu vén cửa lều sang một bên và bước ra sân ga.

‘Nhóc, cậu đang làm bọn ta chậm lại,’ Bourbon nói qua kẽ răng. Ông ta vẫn ăn mặc như trước, chỉ mang một chiếc ba lô dài trên lưng. “Mẹ kiếp! Cậu định vác cái cục nợ to kềnh đó qua tất cả những trạm kiểm soát đấy à?’ Ông ta hỏi một cách chán ghét, chỉ vào khẩu súng. Theo như Artyom thấy, bản thân Bourbon cũng không mang vũ khí.

Ánh đèn ở nhà ga đang tắt dần. Không có ai trên sân ga, mọi người đã đi ngủ, kiệt sức vì bữa tiệc. Artyom cố gắng đi nhanh hơn, luôn lo lắng rằng cậu sẽ đụng phải ai đó trong nhóm của mình, nhưng ở lối vào đường hầm, Bourbon chặn cậu lại và nói cậu giảm tốc độ. Những người tuần tra trong lối đi đã chú ý đến họ và hỏi họ từ xa rằng họ định đi đâu vào lúc nửa đêm, nhưng Bourbon đã gọi tên một người trong số họ và giải thích rằng họ cần buôn bán một số thứ.

‘Nghe kỹ này,’ ông ta nói với Artyom và bật đèn pin lên. “Từ giờ, sẽ có lính gác ở mốc một trăm và hai trăm mét. Vì vậy, cậu hãy giữ im lặng, trong mọi trường hợp. Ta sẽ tìm cách giải thích với họ. Thật xấu hổ khi cậu có một cây Kalash cũ ngang ngửa tuổi bà của ta – cậu sẽ không thể giấu nổi thứ đó… Cậu đào đâu ra cái thứ vớ vẩn đó vậy? ‟

Mọi thứ diễn ra suôn sẻ ở cự ly một trăm mét. Có một đống lửa nhỏ đang tắt dần, và hai người đang ngồi bên cạnh, mặc đồ rằn ri. Một trong số họ đang ngủ gà gật và người thứ hai bắt tay Bourbon như một người bạn.

‘Buôn bán à? Tôi hiểu rồi…’ Anh ta nói với một nụ cười tinh quái.

Bourbon không nói một lời nào cho tới mét hai trăm năm mươi. Ông ta chỉ ủ rũ tiến về phía trước. Ông ta có vẻ tức giận và khó chịu, và Artyom bắt đầu hối hận vì đã đi cùng người đàn ông này. Cậu bước xa ra khỏi Bourbon và kiểm tra khẩu súng của mình có sẵn sàng không, rồi cậu đặt ngón tay lên cò súng.

Họ bị trì hoãn đôi chút ở trạm gác cuối cùng. Bourbon hoặc không biết rõ về họ, hoặc họ biết về ông ta quá rõ. Người lính gác chính kéo ông ta sang một bên, đặt ba lô của ông ta bên đống lửa, và hỏi han rất lâu. Artyom, cảm thấy khá ngu ngốc, ở lại bên đống lửa và trả lời một cách thận trọng các câu hỏi của nhân viên trực ca. Họ rõ ràng là đã chán và không có gì hay ho hơn để làm. Artyom tự hiểu rằng nếu nhân viên trực đang nói chuyện phiếm thì mọi thứ vẫn đang ổn ở trạm gác đó. Nếu gần đây có điều gì kỳ lạ xảy ra ở đó, nếu có thứ gì đó bò ra từ mấy đường hầm sâu hoắm, hoặc ai đó cố gắng đột nhập từ phía nam, hoặc họ nghe thấy một âm thanh đáng ngờ, thì họ sẽ im lặng vây quanh đống lửa, không nói gì, căng thẳng, và họ sẽ không rời mắt khỏi đường hầm. Có vẻ như mọi thứ vẫn bình yên, và ít nhất họ có thể đến được Prospect Mir mà không cần lo lắng.

‘Tôi đoán là cậu không ở gần đây. Từ Alekseevskaya hay từ đâu?’ Nhân viên trực đang cố lấy thông tin từ Artyom và nhìn thẳng vào mặt cậu.

Artyom, nhớ rằng Bourbon đã ra lệnh cho cậu im lặng và không được nói chuyện với ai, cậu lẩm bẩm điều gì đó để có thể diễn giải theo nhiều cách, để anh chàng kia tự giải thích. Nhân viên trực ca, đã từ bỏ việc trò chuyện với cậu, quay sang người bạn của mình và bắt đầu thảo luận về một câu chuyện được kể bởi một người tên là Mikhail, người đã giao dịch tại Prospect Mir vài ngày trước và đã gặp một số rắc rối với ban quản lý nhà ga.

Hài lòng vì họ đã từ bỏ mình, Artyom ngồi bên đống lửa và nhìn vào đường hầm phía nam xuyên qua ngọn lửa. Nó trông rộng và dài vô tận như tất cả những đường hầm khác ở hướng bắc tại VDNKh, nơi Artyom đã từng ngồi bên đống lửa ở mốc bốn trăm năm mươi mét cách đây không lâu.

Vẻ ngoài thì không khác một chút nào. Nhưng có điều gì đó về nó – một mùi đặc biệt, do các lỗ thông hơi của đường hầm bốc lên, hay là một luồng khí, một thứ đặc biệt nào đó chỉ thuộc về đường hầm này và tạo cho nó một nét riêng, khiến nó không giống với tất cả những nơi còn lại. Artyom nhớ cha nuôi nói rằng không có hai đường hầm giống nhau trong mạng lưới tàu điện ngầm. Sự siêu nhạy bén như vậy đã phát triển trong nhiều năm thám hiểm và không nhiều người có được. Cha nuôi của cậu gọi nó là “lắng nghe đường hầm” và ông có “thính giác” nhạy đến mức ông thường tự hào về điều đó và thường thừa nhận với Artyom rằng ông đã sống sót qua nhiều cuộc phiêu lưu nhờ vào giác quan này. Nhiều người khác, mặc dù đã thám hiểm nhiều lần trong những đường hầm, nhưng không có được khả năng đó. Một số người hình thành một nỗi sợ hãi không thể giải thích được, một số người nghe thấy những âm thanh, giọng nói và dần dần mất trí, nhưng mọi người đều nhất trí một điều: ngay cả khi không có một linh hồn nào lảng vảng trong đường hầm, nó vẫn không hoàn toàn trống rỗng. Một thứ gì đó vô hình và gần như vô định nhỏ giọt từ từ và rõ ràng lên những đường hầm, lấp đầy những khoảng không của chúng, gần giống như là dòng máu lạnh buốt trong huyết quản của một con thủy quái bằng đá.

Và bây giờ cuộc trò chuyện của các sĩ quan trực ban trở nên mờ dần trong tâm trí khi cậu cố gắng nhìn thứ gì đó một cách vô vọng trong bóng tối đang dày lên nhanh chóng cách ngọn lửa khoảng mười bước. Artyom bắt đầu hiểu ý của cha nuôi khi ông kể cho cậu nghe về “cảm xúc của đường hầm.” Artyom biết rằng ngoài cái ranh giới vô hình đó, được đánh dấu bằng ngọn lửa, nơi ánh sáng đỏ thẫm xen lẫn những bóng đen rùng mình, có thêm nhiều người, những người khác – nhưng hồi đó cậu không tin điều đó lắm. Dường như cuộc sống dừng lại ở ranh giới mười bước sau ánh lửa, và không có gì ở phía trước họ, chỉ có sự trống rỗng chết chóc, đen kịt, đáp lại mỗi tiếng la hét bằng một tiếng vọng mơ hồ lừa dối.

Nhưng nếu bạn ngồi lại một lúc, nếu bạn bịt tai lại, nếu bạn không nhìn sâu vào đường hầm như thể bạn đang tìm kiếm thứ gì đó mà thay vào đó bạn thử nhìn một cách mông lung vào bóng tối, hòa nhập với đường hầm, để trở thành một phần của con thủy quái này, với mọi tế bào trong cơ thể nó, thì qua những kẽ ngón tay mình, đang chặn lại âm thanh từ thế giới bên ngoài, xuyên qua các cơ quan thính giác của bạn, một giai điệu mơ hồ sẽ trôi trực tiếp vào não bạn – một âm thanh kỳ lạ từ sâu thẳm, không rõ ràng và không thể lý giải được… Không hề giống âm thanh khó chịu, thúc giục, tràn ra từ đường ống bị vỡ trong đường hầm giữa Alekseevskaya và Rizhskaya. Không, đó là một thứ gì đó khác biệt, một thứ gì đó trong trẻo và sâu thẳm…

Cậu có cảm giác rằng nếu mình có thể đắm chìm trong dòng sông câm lặng và cảm nhận giai điệu của nó, thì cậu sẽ hiểu bản chất của hiện tượng này – không sử dụng lý trí mà sử dụng trực giác có lẽ đã được thức tỉnh bởi tiếng ồn từ đường ống bị vỡ. Những âm thanh chảy ra từ đường ống đó đối với cậu dường như giống với tiếng ête, từ từ chạy dọc theo đường hầm, nhưng chúng đã bị vấy bẩn bên trong đường ống, bị nhiễm bởi một thứ gì đó, sôi sục đầy kích động, và chúng thoát ra ngoài khi mật độ bên trong đường ống trở nên quá mức, và vật chất độc hại đó đã tự đẩy mình ra ngoài thế giới, mang theo nỗi thống khổ của nó, mang lại cảm giác buồn nôn và điên cuồng cho tất cả những sinh vật sống…

Đột nhiên Artyom cảm thấy dường như cậu đang đứng trước ngưỡng cửa khám phá ra một điều gì đó quan trọng, như thể một giờ vừa qua cậu lang thang trong bóng tối đen như mực của đường hầm này và trong sự mơ hồ của chính ý thức cậu đã kéo bức màn bí ẩn vĩ đại này hơi lệch sang một bên, bức màn ngăn cách tất cả các sinh vật có ý thức khỏi kiến ​​thức về bản chất thực sự của cái thế giới mới đã bị các thế hệ đi trước gặm nhấm sâu vào trong ruột trái đất.

Nhưng khi nhận ra điều này, Artyom cũng trở nên sợ hãi, như thể cậu chỉ nhìn qua lỗ khóa của một cánh cửa với hy vọng tìm ra thứ gì đằng sau nó, và chỉ thấy một tia sáng không thể chịu nổi xuyên qua nó làm cay mắt. Và nếu bạn mở cửa thì ánh sáng sẽ phát ra không thể kiểm soát được và thiêu rụi kẻ táo bạo đã quyết định mở cánh cửa cấm ngay tại chỗ. Tuy nhiên, ánh sáng này chính là tri ​​thức.

Cơn lốc của tất cả những suy nghĩ, cảm xúc cùng lo lắng này ập đến trong Artyom quá đột ngột trong khi cậu chưa sẵn sàng cho bất cứ điều gì tương tự như thế và vì vậy cậu sợ hãi giật mình. Không, tất cả chỉ là tưởng tượng thôi. Cậu không nghe thấy gì và không nhận ra bất cứ điều gì. Đó chỉ là trí tưởng tượng của cậu đang chơi đùa cậu mà thôi. Với cảm giác nhẹ nhõm và thất vọng lẫn lộn, cậu suy ngẫm về cái cách mà, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, một viễn cảnh tuyệt vời, không thể diễn tả được đã hiện ra với cậu. Nó ngay lập tức trở nên mờ mịt, tan chảy, và tâm trí lại phải đối mặt với làn khói mù mịt như thường lệ của nó. Cậu đã sợ hãi kiến ​​thức này và lẩn tránh khỏi nó, rồi bây giờ bức màn lại được hạ xuống và có lẽ là mãi mãi. Cơn cuồng phong trong tâm trí cậu tắt đi nhanh như khi nó ập đến và bỏ lại cậu chỉ còn một tâm trí tàn tạ và kiệt quệ.

Artyom rung động và ngồi đó cố gắng hiểu mọi thứ – nơi tưởng tượng của cậu kết thúc và nơi thực tế bắt đầu – tự hỏi liệu rốt cuộc có cảm giác nào trong số này là thật hay không. Chậm rãi, chậm rãi, tâm hồn cậu ngập tràn sự cay đắng trước sự thật rằng cậu đã chỉ cách một bước chân so với sự giác ngộ, sự giác ngộ thực sự, nhưng cậu đã không kiên quyết, cậu không dám buông mình theo dòng chảy của đường hầm ête, và bây giờ cậu sẽ bị bỏ lại lang thang trong bóng tối cả đời vì đã từng quá sợ hãi ánh sáng của tri thức đích thực.

‘Nhưng kiến ​​thức là gì?’ Cậu cứ tự hỏi mình hết lần này đến lần khác, cố gắng xác định giá trị của thứ mà cậu vừa từ chối một cách vội vã và hèn nhát. Chìm trong suy nghĩ của mình, cậu vô thức nói ra những lời này một vài lần.

‘Bạn của tôi, kiến ​​thức là ánh sáng – và không có kiến ​​thức là bóng tối!’ Một trong những sĩ quan trực ca giải thích với cậu một cách háo hức. ‘Đúng không?’ Anh ta vui vẻ nháy mắt với bạn bè của mình.

Artyom chết lặng nhìn chằm chằm vào anh ta và cứ ngồi như vậy một lúc cho đến khi Bourbon quay lại đỡ cậu dậy và chào tạm biệt các sĩ quan, nói rằng cậu đang bị giam giữ và họ đang rất vội.

‘Coi chừng đó!’ Chỉ huy đồn nói với ông ta một cách đe dọa. ‘Tôi cho phép các người rời khỏi đây với một vũ khí.’ Anh ta vẫy tay vào khẩu súng của Artyom. ‘Nhưng các người sẽ không được trở lại cùng với thứ này. Tôi đã có chỉ thị rõ ràng về điều đó.’

‘Ta đã nói rồi, đồ ngốc… ”Bourbon bực bội rít lên với Artyom sau khi họ vội vã rời khỏi đống lửa. “Cậu có thể làm những gì cậu muốn trên đường trở về. Nhưng cậu sẽ vấp phải một cuộc đụng độ đấy. Ta không quan tâm. Ta đã biết trước mà, ta đã biết điều này sẽ xảy ra, mẹ kiếp.’

Artyom không nói gì, gần như không nghe thấy Bourbon đang chế nhạo mình. Thay vào đó, cậu đột nhiên nhớ lại những gì cha nuôi của mình đã nói vào lần đó khi ông giải thích về sự độc đáo của mỗi đường hầm – rằng mỗi đường hầm có giai điệu riêng và bạn có thể học cách nghe nó. Cha nuôi của cậu có lẽ chỉ muốn thể hiện suy nghĩ của mình một cách hoa mỹ, nhưng, nhớ lại những gì cậu cảm thấy khi ngồi bên đống lửa lúc trước, Artyom nghĩ rằng cậu vừa mới nghe một giai điệu như vậy. Những gì cậu đã lắng nghe, thực sự đang nghe – và nghe thấy! – chính là giai điệu của đường hầm. Tuy nhiên, ký ức về những gì đã xảy ra nhanh chóng mờ đi và nửa giờ sau, Artyom không thể chắc chắn rằng tất cả những điều đó đã thực sự xảy ra, rằng cậu không hề tưởng tượng ra điều đó, rằng đó không phải là không khí bị xao động bởi ngọn lửa đang nhảy múa.

‘Được rồi… Có lẽ cậu đã không cố ý làm điều đó, cậu chỉ trở nên ngu ngốc chút thôi.’ Bourbon nói giọng hòa giải. “Nếu ta, kiểu như, cư xử không tốt với cậu cho lắm, thì ta xin lỗi. Đây là một công việc căng thẳng. Nhưng, được rồi, có vẻ như chúng ta đã thoát ra được nên mọi thứ vẫn tốt. Bây giờ chúng ta phải lê bước thẳng đến Prospect Mir và không bị dừng lại. Ở đó chúng ta có thể, kiểu như, thư giãn. Nếu mọi thứ vẫn suôn sẻ thì sẽ không mất nhiều thời gian. Nhưng nếu không, sẽ là cả một vấn đề.’

‘Ông gọi việc chúng ta cứ đi bộ như thế này là ổn hả? Ý tôi là khi chúng ta đi tuần từ VDNKh, nếu có ít hơn ba người thì chúng ta sẽ không đi, cần có một người bọc lót, và về cơ bản thì…’ Artyom nói, nhìn về phía sau lưng.

‘Chà, tất nhiên có nhiều lợi thế khi đi tuần với người bọc lót hay đại loại thế,’ Bourbon bắt đầu giải thích. ‘Nhưng nghe đây, cũng có những bất lợi nhất định cho điều đó. Ta đã từng lo ngại. Và hãy quên ba người đi, bọn ta đã từng không đi đâu nếu không có ít nhất năm người. Cậu nghĩ rằng điều đó hiệu quả hơn à? Chẳng giúp được gì sất. Một lần bọn ta đang di chuyển hàng hóa và do đó bọn ta có sự bảo vệ: hai người ở phía trước, ba ở giữa và một người bọc lót phía sau – trang bị đầy đủ. Bọn ta đã đi từ Tretyakovskaya đến nơi được gọi là… từng được gọi là Marxistskaya. Đường hầm vẫn ổn. Nhưng có điều gì đó về nó mà ngay lập tức ta cảm thấy không thích. Một sự mục nát nào đó… Và có một màn sương mù. Cậu không thể nhìn thấy gì cả, tầm nhìn không quá năm bước – và đèn pin cũng không giúp được gì nhiều. Nhưng bọn ta đã quyết định buộc một sợi dây thừng vào thắt lưng của người bọc lót, buộc qua thắt lưng của một trong những người ở giữa, và lên tới người chỉ huy ở đầu nhóm. Vì vậy, sẽ không ai bị lạc trong sương mù. Và bọn ta đang di chuyển với một tốc độ chậm rãi, mọi thứ vẫn bình thường, yên tĩnh, không cần phải vội vàng, bọn ta chưa đụng phải ai (phỉ phui cái mồm) và bọn ta còn khoảng bốn mươi phút đi đường… Mặc dù cuối cùng bọn ta đã nhanh hơn thế…’ Lời nói của ông ta vặn vẹo và rồi im lặng một lúc.

‘Đâu đó ở hàng giữa, anh chàng Tolyan này hỏi người bọc lót điều gì đó. Nhưng anh ta không trả lời. Tolyan chờ đợi và hỏi lại. Không có gì. Sau đó Tolyan kéo sợi dây và phần cuối của nó xuất hiện. Nó đã bị cắn đứt. Một vết cắn thực sự và thậm chí có một số vết bẩn ở cuối… Và anh chàng kia thì không còn thấy đâu nữa. Và họ không nghe thấy gì cả. Không một chút gì. Và chính ta cũng đang đi cùng với Tolyan. Anh ta cho ta xem đoạn cuối của sợi dây và đầu gối ta run lên. Tất nhiên bọn ta đã hét gọi anh ta nhưng không nghe thấy gì cả. Không có ai trả lời. Vì vậy, bọn ta nhìn nhau – và tiếp tục đi để đến Marxistskaya càng nhanh càng tốt.’

‘Có lẽ anh chàng đang chơi một trò đùa?’ Artyom hỏi đầy hy vọng.

‘Một trò đùa? Có lẽ. Nhưng anh ta đã mất tích kể từ đó. Vì vậy, có một điều ta đã hiểu: nếu đến lượt cậu, thì sẽ là cậu và không có người bảo vệ nào giúp cậu được cả. Họ chỉ làm cậu đi chậm hơn một chút. Và ta đã đi khắp mọi nơi trong nhóm hai người, là cộng sự nếu cậu thích gọi thế, ngoại trừ trong một đường hầm – từ Sukharevskaya đến Turgenevskaya, đó là một trường hợp đặc biệt. Nếu có chuyện gì xảy ra thì họ sẽ kéo cậu theo. Rất nhanh chóng. Hiểu chứ?’

‘Hiểu rồi. Vậy, họ sẽ cho chúng ta vào Prospect Mir chứ? Tôi vẫn còn thứ này…’ Artyom chỉ vào khẩu súng máy của mình.

“Họ sẽ cho chúng ta vào vành đai. Nhưng với Vòng tuyến – thì chắc chắn là không. Họ sẽ không cho cậu vào với bất kỳ lí do gì, và với khẩu đại bác đó, cậu không có hy vọng gì đâu. Nhưng chúng ta không cần phải vào đó. Dù sao thì chúng ta cũng không cần phải loanh quanh ở đó lâu đâu. Chúng ta sẽ chỉ tạm dừng chân và sau đó đi tiếp. Cậu… cậu đã bao giờ đến Prospect Mir chưa?”

‘Chỉ khi tôi còn nhỏ. Còn từ đó thì không,’ Artyom thừa nhận.

‘Chà, sao ta không giúp cậu cập nhật tin tức nhỉ? Về cơ bản, không có bất kỳ chốt gác nào ở đó, họ không cần chúng. Có một khu chợ ở đó, và không có ai sống ở đó nên mọi thứ vẫn ổn. Nhưng có một đoạn đường dẫn tới Vòng Tuyến, có nghĩa là tới Hansa… Một nhà ga vành đai vô chủ không thuộc về phe nào, nhưng những người lính Hansa tuần tra nó, để giữ trật tự. Vì vậy, cậu phải liệu mà cư xử, hiểu không? Nếu không, họ sẽ tống cậu xuống địa ngục và họ sẽ cấm cậu bước vào tất cả các nhà ga của họ. Vì vậy, khi chúng ta đến đó, cậu hãy bò lên sân ga và ngồi yên lặng. Và cái ‘ấm trà samovar’ đó của cậu,’ ông ta gật đầu nhìn vào khẩu súng máy của Artyom, ‘đừng có vung vẩy nó lung tung. Ta có một… Ta phải sắp xếp một số việc với một người nên cậu sẽ phải ngồi và chờ đợi. Chúng ta sẽ đến Prospect, chúng ta sẽ bàn về cách vượt qua con đường chết tiệt đó để đến Sukharevskaya.’

Bourbon lại im lặng và Artyom để ông ta trầm tư một mình. Ở đây đường hầm cũng không quá tệ, mặt đất hơi ẩm ướt một chút và có một dòng nước nhỏ màu đen đang chảy dọc theo những đường ray, hướng về cùng hướng với họ đang đi. Nhưng, sau đó một lúc, Artyom nghe có tiếng sột soạt và khá chói tai vang lên giống như tiếng móng tay đang cào vào tấm kính và nó khiến cậu nhăn mặt khó chịu. Những loài thú nhỏ bé vẫn chưa xuất hiện nhưng sự hiện diện của nó đã có thể cảm thấy được.

‘Lũ chuột!’ Artyom phun ra cái từ cực kỳ không thoải mái đó, cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc trên da. Chúng vẫn xuất hiện trong những cơn ác mộng của cậu, mặc dù những kí ức về khoảnh khắc đen tối khi mẹ cậu và toàn bộ nhà ga của họ bị ngập chìm trong lũ chuột gần như đã bị xóa sạch khỏi trí nhớ. Có thật là những ký ức đó đã bị xóa sạch hay không? Không, chúng chỉ là chìm sâu hơn vào tâm trí cậu, giống như một mũi kim vẫn chưa được lấy ra và còn bị kẹt lại trong cơ thể cậu. Nó di chuyển xung quanh, đã bị đẩy vào bởi một vị bác sĩ chưa đủ chuyên nghiệp. Đầu tiên nó sẽ ẩn nấp và ở yên đó nhưng sau một lúc, nhờ một tác động lạ lùng nào đó nó sẽ bắt đầu di chuyển và đi qua các động mạch, các hạch thần kinh, xé toạc các cơ quan quan trọng và vật chủ đang chứa nó đến sự dày vò không thể chịu đựng nổi.

Ký ức về nó, về những con quái thú điên cuồng giận dữ và độc ác, về những trải nghiệm đáng sợ như mũi kim bằng thép đâm sâu vào tiềm thức của cậu và chỉ xuất hiện khi đêm xuống. Và chỉ cần nhìn thấy chúng, hay thậm chí chỉ ngửi thấy cái mùi thoang thoảng của chúng thôi, cũng đủ để tạo ra một luồng điện chạy bên trong cậu, khiến cơ thể cậu phải rùng mình theo phản xạ. Vì Artyom và vì cha nuôi cậu, và có lẽ là bốn người còn lại đã thoát khỏi chúng trên cái xe đẩy lúc đó, lũ chuột là thứ gì đó đáng sợ và kinh tởm hơn rất nhiều những sinh vật khác đang sống ở metro này.

Hầu như chẳng có con chuột nào ở VDNKh: có bẫy ở khắp nơi và chất độc được rải khắp xung quanh vì thế Artyom đã không còn nhớ gì tới chúng nữa. Nhưng bọn chúng tụ tập ở những phần còn lại của metro và cậu đã quên rằng hoặc quên một chút ít về việc tránh phải suy nghĩ về chúng khi cậu có quyết định sẽ đi chuyến đi này.

‘Chuyện gì vậy chàng trai – cậu sợ chuột hả?’ Bourbon hỏi dò xét với ý đồ trêu chọc. ‘Không thích chúng hả? Cậu bị bọn chúng cướp phá một cách đau đớn… nhưng đã quen với nó. Chúng ở khắp mọi nơi… Nhưng điều đó ỔN, thậm chí còn tốt nữa: cậu sẽ không bị đói,’ ông ta thêm vào và nháy mắt trong khi Artyom đang bắt đầu cảm thấy kinh tởm. ‘Nhưng thật sự,’ Bourbon tiếp tục nói đầy nghiêm trọng, ‘tốt hơn cậu nên sợ những nơi không có chuột. Nếu không có chuột tức là có một số thứ tồi tệ khác. Và nếu không có con người thì cậu cũng phải sợ hãi. Nhưng nếu lũ chuột đang chạy lung tung thì mọi thứ bình thường. ‘Chuyện thường ngày ở huyện’. Hiểu chứ?’

Artyom không muốn chia sẻ sự chịu đựng của cậu với người này. Vì thế cậu gật đầu và không nói gì. Không có nhiều chuột, chúng chạy ra xa khỏi ánh sáng đèn pin và rất khó để thấy nó. Nhưng rốt cuộc cũng có một con trong số chúng làm thế nào đó chạy lại dưới chân cậu và Artyom dẫm vào một thứ gì đó mềm mềm và trơn nhẵn và cậu chỉ có thể nghe thấy một tiếng kêu chói tai. Artyom mất thăng bằng và xém ngã úp mặt xuống đất cùng mớ đồ cậu mang theo…

‘Đừng sợ chàng trai, đừng sợ,’ Bourbon động viên cậu. ‘Mọi thứ đang tệ hơn. Có hai lối đi trong cái lỗ tởm lợm này đầy ắp bọn chúng và cậu phải bước đi trên những đường ray. Và cậu sẽ bước đi và nghiền nát chúng dưới chân.’ Ông ta khịt mũi để tô vẽ thêm cho lời nói của mình.

Artyom cau mày. Cậu im lặng nhưng cậu đang siết chặt nấm đấm của mình. Cậu sẽ đấm vào bản mặt đang cười nhăn nhở với sự thỏa mãn kia của Bourbon!

Bỗng nhiên có một thứ âm thanh không thể giải thích vang lên từ phía xa và Artyom lập tức quên đi lời xúc phạm kia và siết chặt tay cầm vũ khí tự động của cậu đồng thời nhìn Bourbon để tìm câu trả lời.

‘Đừng lo. Mọi chuyện đều ổn. Chúng ta đang tiến đến Prospect,’ Bourbon trấn an cậu và vỗ nhẹ vào vai cậu một cách ân cần.

Mặc dù ông ta đã cảnh báo Artyom rằng không có những trạm chốt canh nào ở Prospect Mir, nhưng điều này vẫn rất lạ lùng với Artyom – đi thẳng vào một nhà ga khác mà không phải bắt gặp ánh nhìn đầu tiên là hình ảnh ánh sáng le lói của ngọn lửa nằm ngay vùng giáp ranh, không có bất kỳ trở ngại nào trên đường đi. Khi họ đến lối ra của đường hầm, âm thanh đó ngày một to hơn và ánh sáng rực rỡ tỏa ra vô cùng đáng chú ý.

Cuối cùng, có một vài bậc thang đúc bằng gang ở phía bên trái và một cây cầu nhỏ sẽ đưa bạn lên tầng trên của sân ga. Đôi giày của Bourbon gõ nhanh đều đặn lên những bậc thang và sau một vài bước đường hầm đã chuyển hướng sang trái và mở ra và họ đã ở trong nhà ga.

Có một tia sáng trắng chiếu vào khuôn mặt họ: ẩn từ đường hầm, có một cái bàn nhỏ ở bên cạnh mà ngay đó là một người đàn ông đang ngồi trong một bộ đồng phục màu xám, lỗi thời, lạ lùng và kì lạ, đang đội một cái mũ lưỡi trai công vụ.

‘Xin chào,’ ông ta chào bọn họ, vừa né ánh sáng từ đèn pin. ‘Mua bán hay quá cảnh?’

Trong khi Bourbon trình bày mục đích chuyến đi của họ, Artyom nhìn chăm chú nhà ga metro Prospect Mir đang ở trước mặt mình. Ở sân ga, dọc theo lối đi, có ánh sáng màu hoàng hôn đang ngự trị, nhưng có những mái vòm được thắp sáng từ bên trong với ánh sáng vàng dịu mà khi nhìn vào đó Artyom bỗng nhiên cảm thấy lồng ngực như bị bóp chặt. Cậu muốn hoàn thành các thủ tục và nhìn những gì đang diễn ra ở nhà ga, ở đó, nơi có những mái vòm, nơi ánh sáng đang đến, nó quá thân thuộc và thoải mái đến nỗi cậu cảm thấy đau đớn. Và mặc dù có vẻ như Artyom chưa nhìn thấy bất kì thứ gì như thế trước đây, ánh sáng này đã đưa cậu về lại một quá khứ xa xăm và bỗng nhiên một hình ảnh lạ lùng xuất hiện: một ngôi nhà nhỏ, ngập tràn ánh sáng màu vàng ấm áp, một người phụ nữ đang ngồi dựa người trên một cái ghế ottoman đọc sách nhưng bạn không thể nhìn thấy khuôn mặt bà ta đang ẩn giữa giấy dán tường màu hồng phấn và ô cửa sổ vuông vức màu xanh đậm… Hình ảnh lóe lên trước tâm trí cậu và rồi nhanh chóng tan biến vài giây sau đó, để lại cho cậu nhiều câu hỏi và sự phấn khích. Cậu đã vừa nhìn thấy gì? Phải chăng ánh sáng yếu ớt của nhà ga có thể trình chiếu những hình ảnh về tuổi thơ đã bị mất đi trong tìm thức lên một màn hình vô hình? Phải chăng người phụ nữ trẻ đang ngồi đọc sách đầy bình yên trong cái ghế ottoman rộng rãi và thoải mái đó chính là mẹ cậu?

Artyom nóng vội đưa hộ chiếu của cậu, nhân viên hải quan nhà ga đồng ý, dù cho Bourbon phản đối, để súng của cậu lại ở nhà kho trong suốt thời gian cậu ở nhà ga. Rồi Artyom bước đi vội vã, bị thu hút bởi ánh sáng đằng sau những cái cột như một con thiêu thân, hướng về phía ánh sáng và âm thanh huyên náo của một khu chợ.

Prospect Mir khác với VDNKh, khác với Alekseevskaya và cả Rizhskaya. Sự thịnh vượng của Hansa có ý nghĩa rằng họ có một nguồn chiếu sáng tốt hơn những ánh sáng khẩn cấp tỏa ra ở những nhà ga mà Artyom quen thuộc. Không, chúng không phải cùng loại đèn phát sáng ở metro trước đây, những thứ ánh sáng phát ra từ ánh đèn yếu ớt, tỏa ra cách đầu hai mươi feet, mắc dọc theo sợi dây điện đi toàn bộ nhà ga. Nhưng đối với Artyom, người quá quen với thứ ánh sáng màu đỏ leo lét, quá quen với những ánh lửa nhập nhoạng, quá quen với tia sáng yếu ớt tỏa ra từ những cây đèn pin bỏ túi đang chiếu sáng bên trong những căn lều, lại cảm thấy ánh sáng của nhà ga ngày hoàn toàn lạ lẫm. Nó chính là ánh sáng đã thắp sáng tuổi thơ của cậu, cái hồi mà cậu còn ở trên mặt đất và cậu cảm thấy bị mê hoặc khi nhớ về thứ gì đó đã kết thúc từ cách đây rất lâu đối với cậu. Vì thế, khi vừa đến nhà ga chỉ được chiếu sáng một phần, Artyom không vội vã đứng vào hàng của những tay buôn giống như những người khác mà đứng dựa lưng vào một cây cột nhà ga và dùng tay che một mắt, cậu đứng và nhìn chằm chằm vào ánh đèn, nhìn mãi, nhìn mãi, cho tới khi mắt cậu đau nhói.

Cậu bị gì vậy – bị điên hay sao thế? Tại sao cậu cứ nhìn chằm chằm vào chúng – cậu muốn bị mù mắt hả? Cậu sẽ bị mù như một con chó con, và ta sẽ làm gì với cậu đây? Giọng nói Bourbon văng vẳng bên tai Artyom. “Cậu đã đi và đưa cho họ cây đàn balalaika của cậu, vì thế cậu cũng có thể đi và nhìn xung quanh… những thứ mà ánh đèn đang cho cậu thấy!”

Artyom ném một ánh nhìn khó chịu vào Bourbon nhưng rồi cậu cũng nghe lời ông ta.

Không có nhiều người ở nhà ga nhưng bọn họ lại nói chuyện rất to, trao đổi, kêu gọi, đề nghị, cố gắng hét vào nhau, đó là lý do tại mà khi đứng ở lối vào đường hầm có thể nghe thấy tiếng ồn phát ra từ xa như vậy. Trên cả hai đường ray đều là những phế tích của các đoàn tàu – và một vài toa xe được trưng dụng làm nơi ở. Nhiều thùng đựng đồ khác nhau được xếp thành hai hàng dọc theo sân ga – một số thùng bên trong được sắp xếp gọn gàng, số khác thì ngược lại. Phía bên kia nhà ga có một tấm chắn bằng sắt án ngữ ngay nơi từng là lối đi lên mặt đất, và phía bên này nhà ga có một dãy các túi màu xám được sử dụng làm ranh giới quân sự. Một tấm banner màu trắng cũ kỹ treo ở trần nhà ga được sơn một vòng tròn màu nâu, biểu tượng của Vòng Tuyến. Phía sau lằn ranh quân sự là bốn cầu thang cuốn, dẫn đến vòng tròn của Vòng Tuyến và đó là nơi mà quyền lực của Hansa bắt đầu (ở gần với những kẻ bên ngoài.) Những lính gác ranh giới đứng bảo vệ đằng sau những rào chắn mặc những bộ đồ chống thấm nước với kiểu ngụy trang quen thuộc, nhưng vì một vài lý do gì đó mà chúng có màu xám.

Tại sao đồ ngụy trang của họ màu xám? Artyom hỏi Bourbon.

“Vì bọn chúng là những loài vật béo ú, đó là lý do.” Ông ta trả lời với giọng điệu khinh thường. “Cậu, bây giờ… cậu đi tới trước và ngó xung quanh trong khi ta làm một vụ buôn bán nhỏ ở đây.”

Chẳng có gì đặc biệt khiến Artym thích thú. Có trà, xúc xích, các loại pin sạc cho đèn, áo khoác và áo mưa được làm từ da lợn, một vài cuốn sách nhàu nhĩ, đa phần toàn tranh ảnh khiêu dâm, những cái chai nửa lít chứa thứ nước gì đó không mấy an toàn với dòng chữ “được ủ tại nhà’ được viết trên những cái nhãn uốn cong. Và không thật sự có một tay buôn nào đang bán thuốc lá, thứ mà bạn có thể thấy chúng được buôn bán ở bất cứ đâu. Thậm chí gã đàn ông nhỏ thó gầy còm với cái mũi màu lam và đôi mắt ngấn nước đang bán thứ nước được làm tại nhà không rõ nguồn gốc kia đã nói với Artyom hãy cút đi chỗ khác khi cậu hỏi hắn ta có cái bán cái cuộn giấy nho nhỏ đó không. Có một tay buôn đang bán củi, những khúc gỗ và nhành cây được bó lại, thứ mà một vài trinh sát đã mang xuống từ mặt đất. Họ nói rằng loại này đốt được lâu và ít khỏi hơn. Ở đây bạn phải trả cho những thứ nằm bên trong những hộp đạn Kalashnikov màu đục. Một trăm gram trà đổi năm hộp đạn; một thanh xúc xích đổi mười hộp đạn; một chai nước ủ tại nhà thì được hai mươi. Họ thích thú gọi chúng là “những viên đạn bé nhỏ”. Nghe này, anh trai, nhìn đây, một cái áo khoác rất ngầu, nó rất rẻ, chỉ ba mươi viên đạn nhỏ – và nó là của anh! Được rồi, hai mươi lăm và anh sẽ lấy nó bây giờ chứ?”

Nhìn vào hàng hàng những viên đạn nhỏ được xếp sát vào nhau trên quầy, Artyom thu nhặt lại những lời nói của cha nuôi cậu: Ta đã từng đọc được rằng Kalashnikov tự hào về phát minh này của ông ta, thứ vũ khí tự động này là loại súng phổ biến trên thế giới. Họ nói rằng ông ta cực kỳ hạnh phúc khi nhờ nó mà biên giới quê hương ông ta được an toàn. Ta không biết nữa, nếu ta phát minh ra thứ đó ta nghĩ ta sẽ phát điên mất. Nghĩ rằng hầu hết những kẻ sát nhân đều phạm pháp nhờ sự giúp đỡ của loại vũ khí này! Điều đó thậm chí còn đáng sợ hơn việc trở thành người phát minh ra máy chém nữa.”

Một viên đạn – một cái chết. Mạng sống ai đó bị tước bỏ. Một trăm gram trà lấy đi năm mạng người. Còn chiều dài của cây xúc xích? Rất rẻ: chỉ mười lăm mạng thôi. Một tấm áo lông chất lượng hôm nay, chỉ hai mươi lăm vì thế bạn sẽ cứu được năm mạng. Sự trao đổi thường ngày ở chợ là sự bình đẳng về cuộc sống đối với toàn bộ dân số ở metro.

“Sao, có tìm được gì không?” Bourbon tiến tới và hỏi.

“Chẳng có gì thú vị cả” Artyom lờ đi câu hỏi.

“Aha, cậu đúng đấy. Toàn là rác rưởi. Nhưng, này cậu trai, nhà ga nhỏ này đã từng là một nơi ở cái metro hôi hám này mà cậu có thể tìm thấy bất cứ thứ gì cậu muốn. Cậu tới đó và bọn họ sẽ tranh giành lẫn nhau: nào vũ khí, thuốc phiện, gái, giấy tờ giả.” Bourbon tỏ ra mơ màng. “Nhưng những kẻ ngu dốt này,” ông đưa mặt về hướng lá cờ của Hansa, đã biến nơi này thành trường mẫu giáo: cậu không thể làm điều này, không thể làm thứ kia… Được rồi, hãy đi và sẵn sàng – chúng ta cần tiếp tục lên đường.”

Sau khi lấy lại khẩu súng máy của Artyom, họ ngồi trên một ghế đá trước khi bước vào đường hầm phía nam. Ở đây khá âm u, và Bourbon đã đặt biệt chọn chỗ này để giúp mắt họ quen dần khi ánh sáng trở nên yếu hơn.

Về cơ bản, đây là thỏa thuận: ta không thể tự xác minh. Ta chưa bao giờ làm điều này và vì thế ta không biết những gì ta đang làm và chúng ta có đang gặp rắc rối gì hay không. Phỉ phui cái mồm, dĩ nhiên rồi, nhưng dù cho có làm vậy, chúng ta cũng không biết có đang chạy vào thứ gì đó hay không… Nhưng, nếu ta bắt đầu khóc lóc hay phát điên thì điều đó chắc hẳn là ỔN. Theo như ta nghe được, thì mỗi người trở nên điên loạn theo những cách khác nhau. Người của chúng ta không thể trở lại Prospect. Ta nghĩ rằng họ vẫn chưa đi xa, và chúng ta có thể gặp họ ngày hôm nay… Vì vậy cậu… hãy sẵn sàng cho điều đó, bởi vì ta thấy cậu là chàng hơi dễ mềm lòng… Và nếu ta bỗng nhiên trở nên giận dữ, ta sẽ buộc cậu im miệng. Đó là vấn đề, hiểu chứ? Ta không biết phải làm gì…

Chà, được rồi.” Bourbon cuối cùng cũng cảm thấy vấn đề được giải quyết sau những do dự của mình. “Cậu nhóc, ta nghĩ là cậu sẽ ổn thôi, và cậu sẽ không phải bắn vào ai đó từ phía sau. Ta sẽ đưa súng cho cậu khi chúng ta đi qua đoạn này. Hãy cẩn thận với nó,” ông cảnh báo, ánh mắt quyết tâm nhìn vào Artyom,” và đừng cười. Khiếu hài hước của ta rất hạn chế.”

Ông ta giũ một vài tấm vải cũ ra khỏi balo của mình và sau đó cẩn thận kéo ra một khẩu súng máy được bọc trong một cái túi làm bằng nhựa. Nó cũng là loại súng Kalashnikov nhưng đã bị gọt dũa thành những khẩu súng giống với những cái mà lính vùng biên của Hansa đang cầm, với báng súng có bản lề và họng súng ngắn hơn súng Kalashnikov của Artyom. Bourbon lấy quyển tạp chí cho vào balo, đồng thời ném cả mớ vải cũ kia vào theo.
“Cầm lấy!” ông ta đưa vũ khí cho Artyom. “Và đừng bọc nó lại. Nó có thể có ích. Mặc dù con đường khá yên tĩnh…” Và Bourbon nhảy xuống lối đi khi vẫn chưa nói hết câu. “Được rồi, đi thôi. Càng đi sớm thì càng tới nơi sớm.”

Thật đáng sợ. Khi họ đi từ VDNKh đến Rizhskaya, Artyom biết rằng bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra, nhưng ít nhất là có người đi ngược xuôi qua lại những căn hầm đó mỗi ngày, và cậu biết rằng có một nhà ga có người sinh sống ở phía trước nơi họ muốn đến. Chỉ là bất kỳ ai cũng sẽ cảm thấy không thoải mái khi phải bỏ lại nơi ngập tràn ánh sáng và yên bình. Thậm chí khi họ tiến về phía Prospect Mir từ Rizhskaya, mặc cho những nghi ngờ của mình, cậu vẫn tự trấn an bằng suy nghĩ rằng nơi cậu đang đến nằm ở một nhà ga của Hansa: nơi đó cậu có đến để nghỉ ngơi trong an toàn.

Nhưng ở đây thật sự rất đáng sợ. Đường hầm trước mặt họ toàn một màu đen, và một thứ bóng tối bất thường đang ngự trị tuyệt đối – nó dày đến mức gần như bạn có thể chạm vào nó. Xốp như miếng xốp bọt biển, nó tham lam nuốt chửng những tia sáng của chiếc đèn pin, nó ánh sáng khó có thể rọi tới dù chỉ là ngay bước chân phía trước. Căng tai lắng nghe, Artyom cố gắng phân biệt mầm mống nhỏ nhất của tiếng động kỳ lạ và đau đớn đó nhưng vô ích. Có lẽ cần một thời gian khó khăn để vượt qua bóng tối này như ánh sáng kia. Ngay cả âm thanh va chạm to vang phát ra từ đôi bốt của Bourbon nghe cũng có vẻ khập khiễng và câm lặng trong đường hầm này.

Ngay bức tường bên phải bỗng nhiên có một khoảng trống – tia sáng đèn pin rọi vào điểm đen ngòm đó, và Artyom đã không thể lập tức nhận ra nó, nó đơn giản chỉ là lối đi nằm phía bên hông của đường hầm chính. Cậu nhìn Bourbon đầy nghi hoặc.

“Đừng sợ. Có một lối đi chuyển tiếp ở đây.” Ông ta giải thích, để tàu có thể đi thẳng vào Vòng Tuyến mà không phải quá cảnh ở những nhà ga khác. Nhưng Hansa đã lấp lối đi đó – bọn chúng không phải lũ ngốc. Chúng sẽ không để đường hầm mở toang hoắc dẫn thẳng đến chúng…”

Sau đó họ bước đi trong im lặng một lúc lâu, nhưng sự tĩnh lặng ngày càng trở nên bức bối và cuối cũng cậu không thể chịu đựng nổi.

“Nghe này, Bourbon”, cậu nói, cố gắng phân tán hình ảnh suy nghĩ trong đầu, “có đúng là có một số kẻ ngu ngốc đã tấn công một đoàn lữ hành ở đây từ cách đây không lâu không?”

Bournbon không trả lời cậu ngay và Artyom tưởng rằng ông ta không nghe thấy câu hỏi và đã định lặp lại nó thì Bourbon lên tiếng, “Ta đã nghe được đại khái. Nhưng ta không ở đó nên ta không thể kể gì cho cậu được.”

Những lời nói của ông ta phát ra một âm thanh mờ đục và Artyom không thể hiểu chúng, và cậu đã rất khó khăn để tách những lời nói đó khỏi những suy nghĩ cứ ám mụi vào bản thân về sự thật rằng mọi thứ thật khó nghe trong đường hầm này.

“Gì? Không ai thấy nó? Có những nhà ga nằm ở một trong hai đầu đường hầm – sao có thể chứ? Họ có thể đã đi đâu?” cậu tiếp tục và không phải bời vì cậu đặc biệt quan tâm câu trở lời mà đơn giản chỉ là để nghe giọng nói của chính mình.

Cuối cùng, sau nhiều phút trôi qua Bourbon cũng lên tiếng, nhưng lần này Artyom không muốn hối thúc ông ta, bởi vì có tiếng vọng từ những lời ông ấy cứ vang lên trong đầu cậu và cậu quá bận rộn để nghe hết chúng.

 “Họ nói rằng đâu đó ở đây có một… loại cửa sập. Nó được phủ kín. Không thể nhìn thấy. Chà, dù sao thì khả năng là cậu sẽ nhìn thấy thứ gì đó trong bóng tối này là bao nhiêu?” Bourbon nói thêm bằng một giọng cáu kỉnh không tự nhiên của mình.

Phải mất một khoảng thời gian để Artyom nhớ lại những gì họ đang nói, và cậu cố gắng một cách đau khổ để nắm bắt ý nghĩa của tất cả lời nói và đặt ra một câu hỏi khác chỉ đơn giản là vì cậu muốn tiếp tục cuộc trò chuyện. Ngay cả khi nó có vụng về và khó khăn, nó đang cứu rỗi họ khỏi sự tĩnh lặng.

“Và có phải lúc nào ở đây cũng tối như vậy không?” Artyom hỏi, cảm thấy hơi kinh ngạc khi âm thanh lời nói của mình trở nên nhỏ lại, như thể có thứ gì đó đang bịt tai cậu.

“Bóng tối? Có, luôn luôn. Chỗ nào cũng tối. Nó là thứ… bóng tối vĩ đại, và… nó bao trùm thế giới và nó sẽ… thống trị vĩnh viễn,” Bourbon trả lời, dừng lại một cách kỳ lạ.

“Cái gì kia? Một cuốn sách hay gì vậy? ‟Artyom hỏi, nhận thấy rằng cậu phải nỗ lực ngày càng nhiều để nắm bắt được âm thanh từ lời nói của chính mình, và cũng chú ý đến thực tế là ngôn từ của Bourbon đã bị thay đổi một cách đáng sợ. Nhưng Artyom không có đủ sức để ngạc nhiên vì điều này.

“Một quyển sách… Nỗi sợ… của sự thật, được che giấu với số lượng lớn… từ thời cổ đại, nơi… những từ ngữ… được dập nổi bằng giấy vàng… trên phiến đá đen… để chúng không thối rữa,” Bourbon trầm ngâm nói và Artyom bị xúc động bởi ý nghĩ rằng người đàn ông này sẽ không quay trở lại nói chuyện với mình như trước đây nữa.

“Đẹp quá!” Artyom gần như hét lên. “Nó đến từ đâu?”

“Và vẻ đẹp… sẽ bị lật đổ và nghiền nát, và… các nhà tiên tri sẽ bị nghẹt thở, cố gắng phát âm những linh cảm của họ…vì một ngày… tương lai sẽ… đen tối hơn cả nỗi sợ tột cùng… về điềm báo của họ và những gì họ nhìn thấy… sẽ đầu độc lý trí họ… Bourbon tiếp tục thì thầm.

Đột nhiên ông ta dừng lại và quay đầu sang trái rất mạnh đến nỗi Artyom có thể nghe thấy tiếng đốt sống nứt ra và ông ta nhìn thẳng vào mắt Artyom.

Artyom lùi lại phía sau, lần mò tìm khẩu súng máy của mình phòng vệ. Bourbon nhìn cậu với đôi mắt mở to, nhưng đồng tử của ông ta đã co lại thành hai chấm nhỏ mặc dù ở trong bóng tối đen ngòm của đường hầm thì lẽ ra nó phải được mở ra to nhất có thể để có được càng nhiều ánh sáng càng tốt. Khuôn mặt ông ta có vẻ bình yên đến lạ thường, cơ bắp thả lòng, và ở đó thậm chí nụ cười khinh thường cũng vừa biến mất trên môi người đàn ông này.

“Tôi đã chết,” Bourbon nói. “Chẳng còn tôi nữa.”

Và rơi thẳng tuột như một chiếc cà vạt được tháo nút, ông ta ngã úp mặt xuống đất.

Và rồi âm thanh khủng khiếp đó ập vào tai Artyom nhưng lần này nó không mở rộng và khuếch đại dần dần như lần trước. Không, nó đột ngột phát nổ ở mức âm lượng lớn nhất, khiến cậu chói tai và bổ nhào. Âm thanh ở đây mạnh mẽ hơn so với khi cậu gặp nó trước đây, và Artyom, nằm trên mặt đất, không thể tập hợp lại ý chí để có đứng vững trong một lúc. Nhưng khi cậu bịt tai lại như cũ, cậu đã hét lớn hết mức có thể, vội vàng đứng dậy khỏi mặt đất. Sau đó, cậu nhặt chiếc đèn pin rơi khỏi tay Bourbon, cậu sốt sắng rà tay vào bức tường, cố gắng tìm kiếm nguồn gốc của tiếng ồn – một đường ống nào đó bị vỡ. Nhưng các đường ống ở đây hoàn toàn nguyên vẹn, và âm thanh phát ra từ một nơi nào đó ở phía trên.

Bourbon đang nằm đó, bất động, mặt vẫn úp xuống đất, và khi Artyom lật người ông ta lại, cậu thấy Bourbon vẫn mở mắt. Artyom đã rất cố gắng để nhớ phải làm gì trong những tình huống như thế này, và cậu đặt tay lên cổ tay người đàn ông này để tìm mạch. Dù cho tiếng đập có mỏng manh như một sợi chỉ, hoặc không nhất quán, cậu vẫn muốn cảm nhận nó… Nhưng vô ích. Sau đó, người ướt đẫm mồ hôi, cậu nắm lấy tay Bourbon và lê thân hình ngày càng nặng nề của mình về phía trước, hướng thẳng ra khỏi nơi này. Hành trình này chẳng mấy dễ dàng và thậm chí còn khó khăn hơn khi cậu quên không cởi bỏ ba lô của người bạn đồng hành.

Sau một vài bước chân Artyom đột nhiên vấp phải một thứ gì đó mềm và một thứ mùi hơi ngòn ngọt và bệnh tật xộc vào mũi cậu. Cậu ngay lập tức nhớ đến những từ như “chúng ta có thể va vào họ” và cậu tăng gấp đôi nỗ lực của mình, cố gắng không nhìn dưới chân, nơi những xác người nằm rải rác khắp đường ray.

Cậu lê thân và kéo Bourbon đi cùng. Đầu của Bourbon buông thõng vô hồn và đôi tay của của ông ta đang trở nên lạnh ngắt và trượt khỏi bàn tay đẫm mồ hôi của Artyom nhưng cậu không thừa nhận điều đó, cậu không muốn thừa nhận điều đó, cậu phải đưa Bourbon ra khỏi đó vì cậu đã hứa với ông ta, họ đã có một thỏa thuận!

Tiếng ồn bắt đầu giảm dần và đột ngột biến mất. Đường hầm trở về sự tĩnh mịch và cậu cảm thấy nhẹ nhõm vô cùng, cuối cùng Artyom cho phép mình ngồi xuống đường ray để hồi phục sức lực. Bourbon nằm bất động bên cạnh cậu và trong hơi thở nặng nhọc, Artyom nhìn vào khuôn mặt tái nhợt của ông ta với vẻ tuyệt vọng. Sau khoảng năm phút, cậu đứng dậy và nắm lấy cổ tay Bourbon, cậu loạng choạng tiến về phía trước. Đầu cậu chẳng có gì ngoài sự quyết tâm luẩn quẩn rằng phải kéo người đàn ông này đến trạm tiếp theo.

Sau đó, chân của cậu khuỵu xuống và cậu bổ nhào nhưng sau khi nằm ở đó vài phút cậu trườn tới và túm cổ áo Bourbon. “Tôi sẽ đến đó, tôi sẽ đến đó, tôi sẽ đến đó, tôi sẽ đến đó, tôisẽđếnđótôisẽđếnđótôisẽđếnđótôisẽđếnđó. Mất hoàn toàn sức lực, cậu rút khẩu súng xuống khỏi vai, mở khóa an toàn và cậu hướng nòng súng về phía nam, bắn một phát và gọi: “Mọi người!” Nhưng âm thanh cuối cùng mà cậu nghe thấy không phải là tiếng người mà là tiếng sột soạt của bàn chân lũ chuột.

Trong khi cậu không biết mình đã nằm đó bao lâu, một tay nắm chặt cổ áo Bourbon, một tay siết chặt khẩu súng, thì mắt cậu cảm nhận được một tia sáng. Một ông già xa lạ với một tay cầm đèn pin và một khẩu súng lạ ở tay đang đứng phía trên cậu.

“Cậu bạn trẻ của tôi,” ông ấy đang nói với một giọng dễ chịu và tao nhã. “Cậu có thể quên người bạn này. Anh ta đã chết như Ramses Đệ nhị. Cậu có muốn ở lại đây và đoàn tụ với anh ấy trên hiên đường càng sớm càng tốt hay cậu muốn anh ta có thể đợi cậu một chút?”

“Giúp tôi đưa ông ấy đến nhà ga,” Artyom nói với người đàn ông bằng một giọng yếu ớt, che mắt khỏi ánh sáng.

“Tôi e rằng chúng ta cần phải loại bỏ ý kiến đó,” người đàn ông nói một cách cay đắng. “Tôi kiên quyết chống lại việc biến ga tàu điện ngầm của Sukharevskaya thành một lăng mộ, dù nó thậm chí còn không thoải mái như vậy. Và sau đó, nếu chúng ta mang cái xác vô hồn này vào đó thì không ai trong nhà ga sẽ đảm nhận để đưa anh ta vào con đường cuối cùng của mình một cách đáng kính. Sẽ chẳng có gì khác biệt cho dù cơ thể kia bị phân hủy ở đây hay tại nhà ga nếu linh hồn bất tử của anh ta đã trở về với Đấng Tạo Hóa của anh ấy? Hoặc là đầu thai, tùy thuộc vào quan điểm tôn giáo của cậu. Mặc dù tất cả các tôn giáo đều bị hiểu sai ở các mức độ khác nhau.”

“Tôi đã hứa với ông ấy…” Artyom thở dài. “Chúng tôi đã có một thỏa thuận…”

“Cậu bạn thân mến!” Người đàn ông lạ mặt cau mày nói. “Tôi bắt đầu mất kiên nhẫn rồi đấy. Quy tắc của tôi không nói tôi giúp người chết khi có đủ người sống cần giúp đỡ. Tôi đang trở lại Sukharevskaya. Tôi bị bệnh thấp khớp do ở lâu trong đường hầm này. Nếu cậu muốn gặp bạn đồng hành của cậu sớm, tôi khuyên cậu nên ở lại đây. Những con chuột và những sinh vật đáng yêu khác sẽ giúp cậu điều đó. Và nếu cậu lo lắng về khía cạnh pháp lý của thỏa thuận, thì Hợp đồng được coi là chấm dứt nếu không có sự phản đối của bên kia.”

“Nhưng tôi không thể để ông ấy ở đây!” Artyom lặng lẽ cố gắng thuyết phục người cứu mình. “Đây là mạng người. Không lẽ để ông ta cho lũ chuột sao?”

“Người này, nhìn bề ngoài, thì thực sự là một người sống,” người đàn ông trả lời, khám xét cái xác một cách đầy hoài nghi. “Nhưng bây giờ tôi chắc chắn là một người đã chết và ‘đã chết’ thì rất rõ là khác ‘còn sống’. Được rồi, nếu cậu muốn, chúng ta có thể trở lại đây và cậu có thể hỏa táng hoặc làm bất cứ điều gì cậu muốn. Bây giờ, đứng dậy đi!” Ông ta yêu cầu và Artyom miễn cưỡng đứng dậy.

Bất chấp sự phản đối của cậu, kẻ lạ mặt dứt khoát lấy chiếc ba lô ra khỏi Bourbon, đeo nó vào vai và đỡ Artyom, ông ta nhanh chóng bước về phía trước. Lúc đầu Artyom gặp khó khăn khi đi bộ nhưng cứ như thể với mỗi bước đi, ông lão đang ‘tiêm’ cho Artyom sự hưng phấn từ năng lượng của mình. Cơn đau ở chân cậu giảm dần, và lý trí của cậu dần trở lại. Cậu đang chăm chú nhìn vào mặt người cứu mình. Nhìn bề ngoài, người đàn ông đã ngoài năm mươi, nhưng trông ông ta có vẻ ngoài tươi tỉnh và mạnh mẽ đáng ngạc nhiên. Cánh tay của ông ấy, đang nâng đỡ Artyom rất vững chắc và không một lần run sợ hay mệt mỏi suốt đoạn đường trở về. Mái tóc ngắn của ông ấy đã chuyển sang màu xám và bộ râu nhỏ như điêu khắc của ông khiến Artyom ngạc nhiên – người đàn ông trông quá tươm tất đối với cuộc sống ở metro, đặc biệt là ở cái nơi khổ sở mà có lẽ ông ta đang sống này.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Người đàn ông lạ mặt hỏi Artyom. “Nó không giống như một cuộc tấn công, mà giống như ông ta bị đầu độc… Và tôi thực sự hy vọng rằng nó không phải như những gì tôi nghĩ,” ông ta nói thêm, không đi sâu vào chính xác cái thứ mà ông ta lo sợ.

“Không… Ông ấy đã tự chết,” Artyom nói, không đủ sức để giải thích hoàn cảnh cái chết của Bourbon, khi mà bản thân cậu chỉ mới bắt đầu hiểu ra. “Đó là một câu chuyện dài. Tôi sẽ kể sau.”

Đường hầm đột nhiên mở rộng và dường như họ đã đến nhà ga. Một cái gì đó khiến Artyom cảm thấy kỳ lạ, có gì đó bất thường và vài giây sau cậu mới hiểu đó là gì.

“Bóng tối ở đây là sao?” Cậu hỏi người bạn đồng hành của mình với vẻ hoảng hốt.

“Không có cơ quan chức năng nào ở đây,” người đàn ông trả lời. “Vì vậy, không có ai cung cấp ánh sáng cho người dân. Đó là lý do tại sao bất cứ ai cần ánh sáng phải tự mình đi lấy. Một số có thể, một số không thể. Nhưng đừng sợ. May mắn thay, tôi đã ‘kết bạn’ với những người đứng đầu,” và ông ấy nhanh chóng leo lên sân ga và chìa một tay cho Artyom.

Họ rẽ vào cổng vòm đầu tiên và đi vào sảnh nhà ga. Chỉ có một lối đi dài, hai hàng cột với mái vòm được nối ở trên, những bức tường bằng sắt quen thuộc, những chiếc thang cuốn đã ngừng hoạt động. Chỉ được chiếu sáng bởi những ngọn lửa nhỏ yếu ớt, và hầu như chìm trong bóng tối, Sukharevskaya là một nhà ga âm u và buồn bã. Có những đám đông người vây quanh đống lửa, một số người đang ngủ trên sàn, và những thân hình cúi gập người kì dị co ro trong tấm vải rách lang thang từ đống lửa này sang đống lửa khác. Tất cả bọn họ đều tập trung ở giữa hành lang và cách xa đường hầm nhất có thể.

Ngọn lửa mà người lạ dẫn Artyom đến đó sáng hơn hẳn những cái còn lại và nó được đặt ở trung tâm của sân ga.

“Một ngày nào đó nhà ga này sẽ bốc cháy ngùn ngụt,” Artyom thầm nghĩ, chán nản nhìn vào sảnh nhà ga.

“Trong bốn trăm hai mươi ngày nữa,” người bạn đồng hành của anh bình tĩnh nói.” Vì vậy, tốt nhất là cậu nên rời đi trước khi đó. Trong bất cứ trường hợp này, đó là những gì tôi dự định làm.”

“Sao ông biết?” Artyom hỏi và sững người, trong nháy mắt nhớ lại tất cả những gì cậu đã nghe về các pháp sư và nhà tâm linh học, cậu xem xét kỹ lưỡng khuôn mặt của người bạn đồng hành của mình – tìm kiếm các dấu hiệu về sự thông thái khác thường.

“Con trăn mẹ bị quấy rầy,” ông ta mỉm cười trả lời. “Được rồi, anh bạn phải đi ngủ thôi, sau đó chúng ta sẽ giới thiệu bản thân và nói chuyện.”

Với những lời cuối cùng này, Artyom đột nhiên bị khuất phục bởi sự mệt mỏi khủng khiếp, điều đã tích tụ trong đường hầm trước phía trước nhà ga Rizhskaya, trong cơn ác mộng, trong những bài kiểm tra gần đây về ý chí của cậu. Artyom không còn sức để chống cự và cậu chui xuống mảnh bạt trải gần đám cháy, đặt ba lô dưới đầu và chìm vào giấc ngủ dài, sâu và không hề mộng mị.

About The Author

Ngo David

Power is Power