The Witcher Quyển 3 – Dòng máu cổ xưa

The Witcher Quyển 3 – Dòng máu cổ xưa

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 7

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Và ta nói với ngươi, thời đại của thanh kiếm và chiếc rìu đã sắp tới, kỷ nguyên của cơn bão tuyết của con sói. Thời Đại Của Cái Lạnh và Ánh Sáng Trắng đã sắp tới, Thời Đại Của Điên Loạn và Khinh Miệt: Tedd Deireádh, Thời Đại Tận Cùng. Thế giới sẽ chết trong làn tuyết và tái sinh dưới một mặt trời mới. Nó sẽ tái sinh bởi Dòng Máu Cổ Xưa, bởi Hen Ichaer, bởi hạt giống đã được gieo. Một hạt giống sẽ không nảy mầm mà cháy rực như lửa.

Ess’tuath esse! Và rồi nó sẽ xảy ra! Hãy tìm kiếm những dấu hiệu! Và sẽ có những dấu hiệu nào, ta sẽ nói với ngươi: trước tiên mặt đất sẽ tràn ngập máu của Aen Seidhe, máu của Elves…

Aen Ithlinnespeath, Những lời tiên tri của Ithlinne Aegli aep Aevenien.

Cả thành phố chìm trong biển lửa.

Con ngõ hẹp dẫn đến hào nước và sân thượng đầu tiên ợ ra lửa và khói, lửa ngấu nghiến những ngôi nhà lợp mái nằm sát nhau và liếm lên những bức tường của tòa lâu đài. Từ phía tây, ở phía bến cảng, tiếng la hét và va chạm của chiến trận và tiếng búa công thành nện vào những bức tường ngày càng to hơn.

Những kẻ tấn công đã bao vây họ bất ngờ, đập vỡ chiến hào được canh gác chỉ với vài người lính, một nhúm dân thành phố trang bị với thương và vài người lái buôn mang nỏ. Ngựa của chúng, mặc giáp đen sì, bay qua chiến hào như những bóng ma. Những kẻ cưỡi chúng, với những thanh gươm sáng loáng trên tay, gieo rắc cái chết lên những người bảo vệ đang bỏ chạy tán loạn.

Ciri cảm thấy người kỵ sĩ đang mang mình trên yên ngựa đột ngột phi nước đại. Cô bé nghe thấy tiếng anh ta kêu lên. “Giữ chắc vào,” anh ta hét lên. “Giữ chắc vào!”

Những kỵ sĩ khác mặc quân phục của Cintra vượt qua họ, chiến đấu với lính Nilfgaard ngay cả khi đang phi nước đại. Ciri bắt gặp cảnh tượng trận chiến qua khóe mắt, cơn bão xanh-vàng và đen quấn lấy nhau trong vũ điệu của thép, tiếng va chạm của gươm và khiên, tiếng ngựa hý…

Tiếng la ó. Không, không phải la ó. Gào thét. “Giữ chặt vào!”

Sợ hãi. Với mỗi cú lắc, mỗi cái nẩy mình, mỗi bước nhảy của con ngựa làm cơn đau bắn lên tay khi cô bé cố bám lấy dây cương. Chân cô co giật đau đớn, không tìm được điểm tựa. Mắt cô nhòe đi vì khói. Bàn tay đang ôm cô làm cô nghẹt thở, sức nặng ép vào sườn cô. Tất cả mọi thứ xung quanh cô gào thét như thể chưa từng gào thét vậy. Làm gì để có thể khiến cho một người gào to đến mức như vậy?

Sợ hãi. Nỗi sợ hãi chiếm đoạt, tê liệt, bóp nghẹt.

Một lần nữa lại có tiếng sắt thép va chạm, tiếng gầm gừ và tiếng ngựa hý. Những ngôi nhà như quay xung quanh cô bé và bỗng nhiên cô có thể nhìn thấy những ô cửa sổ rực lửa, khi mà trước đó chẳng có gì ngoại trừ một con phố bẩn thỉu chất đầy xác và của cải của những người tháo chạy rải rác khắp nơi. Người kỵ sĩ sau lưng cô bỗng ho ra máu, bắn hết lên bàn tay đang cầm dây cương. Lại thêm những tiếng la hét. Những mũi tên bắn vụt qua.

Ngã, bị choáng, bầm tím ở những chỗ va vào áo giáp. Vó ngựa rầm rập chạy qua cô bé, cái bụng của một con ngựa và một vòng tròn méo mó vụt qua trên đầu cô, rồi lại thêm cái bụng của một con ngựa nữa và một lớp giáp đen. Những tiếng ậm ừ, như một người tiều phu đốn gỗ. Nhưng đây không phải là gỗ, mà là sắt đấu với sắt. Một tiếng kêu, như bị bịt lại và yếu ớt, và thứ gì đó to lớn và đen ngã xuống vũng bùn bên cạnh cô, máu tuôn ra. Một cái chân mặc giáp giãy đạp, cày xới nền đất bằng một mũi nhọn.

Nảy mình. Có một lực nào đó bế cô bé dậy, đặt lên một cái yên ngựa khác. Giữ chặt vào! Lại một lần nữa chạy với tốc độ kinh hoàng, phi như điên. Tay và chân tuyệt vọng tìm điểm tựa. Con ngựa đứng dựng lên. Giữ chắc vào!…Chẳng có điểm tựa nào cả. Chẳng có…Chẳng có…Chỉ có máu. Con ngựa ngã xuống. Không có cách nào để nhảy sang một bên, để tự do, để thoát ra khỏi cánh tay kim loại đang ghìm chặt này. Không có cách nào để ngăn máu ngừng chảy xuống đầu và vai cô bé.

Một cái lắc mình, ngã nhào xuống bùn, va chạm thô bạo với mặt đất, vẫn còn hoảng loạn từ cuộc chạy trốn dữ dội. Con ngựa kêu lên thảm thiết và quẫy đạp, cố gắng đứng dậy. Tiếng vó ngựa chạy vụt qua. Giáp và áo choàng đen. La hét.

Con phố đang rực lửa, một bức tường lửa đỏ chói. Một kỵ sĩ đứng trước nó, trải bóng lên những mái nhà cháy rụi, khổng lồ. Con ngựa mặc giáp đen của hắn giậm chân, lắc lư đầu và hý vang.

Người kỵ sĩ nhìn chằm chằm vào cô bé. Ciri thấy đôi mắt hắn ánh lên đằng sau khe hở trên chiếc mũ trụ to lớn, đính một cặp cánh chim săn mồi. Cô thấy ánh lửa phản chiếu trên thanh kiếm hắn đang cầm trong tay.

Người kỵ sĩ nhìn cô bé. Ciri không thể cử động. Cánh tay bất động của người đàn ông đã chết ôm chặt lấy thắt lưng, ghìm cô xuống. Cô bị khóa chặt tại chỗ bởi một thứ gì đó nặng và đẫm máu. Thứ gì đó nặng nằm chắn ngang đùi cô, giữ cô dưới đất.

Và cô bé đông cứng vì sợ hãi: một nỗi sợ làm ruột gan cô lộn ra ngoài, nỗi sợ khiến tai Ciri điếc đi trước tiếng kêu la của con ngựa đang bị thương, tiếng gầm của lửa, tiếng gào thét của những người đang chết và tiếng trống trận. Thứ duy nhất còn tồn tại, còn quan trọng, còn có ý nghĩa, là nỗi sợ. Nỗi sợ gắn chặt với hình ảnh người kỵ sĩ đen với chiếc mũ cánh chim, đứng bất động phía trước bức tường lửa hung bạo.

Người kỵ sĩ thúc con ngựa, đôi cánh trên chiếc mũ của hắn như đang đập khi con chim săn mồi cất cánh, lao vào tấn công nạn nhân bất lực của nó, đang tê liệt vì sợ hãi. Con chim – hoặc có lẽ là người kỵ sĩ – rít lên kinh hoàng, tàn độc, đắc thắng. Một con ngựa đen, giáp đen, áo choàng đen tung bay, và đằng sau đó – Lửa. Một biển lửa.

Sợ hãi.

Con chim hét lên. Đôi cánh đập phấp phới, lông vũ quét lên mặt cô bé. Sợ hãi!

Cứu với! Sao không có ai cứu tôi? Đơn độc, yếu ớt, bất lực. Tôi không thể di chuyển, không thể kêu lên bất kỳ âm thanh nào. Sao không có ai đến cứu tôi?

Tôi sợ lắm!

Cặp mắt rực lên qua khe hở trên chiếc mũ cánh chim vĩ đại. Áo choàng đen che phủ mọi thứ…

“Ciri!”

Cô bé tỉnh dậy, người tê cứng và ướt đẫm mồ hôi, vẫn đang la hét – tiếng hét đã đánh thức cô dậy – vẫn còn văng vẳng trong không trung, vẫn còn rung động đâu đó bên trong cô, bên dưới xương ức và cháy bên trong cổ họng khô rát của cô. Bàn tay cô bé đau nhức, nắm chặt tấm chăn, lưng cô mỏi nhừ…

“Ciri. Bình tĩnh lại đi.”

Màn đêm đen tối và hiu hiu gió, tán lá của những cây thông bao quanh xào xạc đều đều và theo nhịp, cành và thân của chúng kêu cót két trong gió. Chẳng có đám cháy hung bạo, hay tiếng la hét thảm thiết nào cả, chỉ có bài hát ru êm dịu này thôi. Bên cạnh cô bé, đống lửa trại bập bùng với ánh sáng và hơi ấm, ánh lửa của nó phản chiếu lên những móc khóa của bộ yên cương, ngầu đỏ lên trên tay cầm bằng sắt của thanh gươm được quấn trong vải đang đặt dựa trên nền đất. Không có đám cháy hay ánh kim loại nào khác. Bàn tay đặt trên má cô bé có mùi như da thuộc và tro. Chứ không phải máu.

“Geralt…”

“Nó chỉ là một giấc mơ thôi mà. Một giấc mơ tồi tệ.” Ciri rùng mình thô bạo, khoanh tay và chân chặt lại. Một giấc mơ. Chỉ là một giấc mơ.

Ngọn lửa trại đã tắt, khúc củi phong đỏ hỏn và lung linh, thỉnh thoảng vỡ tanh tách, nhá lên những tia lửa xanh chiếu sáng mái tóc trắng và gương mặt sắc cạnh của người đàn ông đang quấn chiếc chăn lông cừu quanh người cô bé.

“Geralt, con…”

“Ta ở ngay đây. Ngủ đi, Ciri. Con phải nghỉ ngơi. Chúng ta vẫn còn một chặng đường dài phải đi.”

Mình có thể nghe thấy tiếng nhạc, cô bé bỗng dưng nghĩ. Giữa những âm thanh xào xạc của cây cối…có tiếng nhạc. Tiếng sáo. Và những giọng nói. Công chúa của Cintra…Một đứa trẻ của định mệnh…Một đứa trẻ với Dòng Máu Cổ Xưa, Máu của Elves. Geralt xứ Rivia, Sói Trắng, và định mệnh của anh. Không, không, đó chỉ là một huyền thoại. Một sản phẩm tưởng tượng của các thi sĩ. Công chúa đã chết rồi. Cô bé đã bị giết trên những con phố khi đang cố chạy trốn…

Giữ chặt vào…! Giữ… “Geralt?”

“Chuyện gì hả Ciri?”

“Hắn đã làm gì con? Đã xảy ra chuyện gì? Hắn đã…làm gì con?” “Ai cơ?”

“Tên hiệp sĩ…Tên hiệp sĩ đen với chiếc mũ cánh chim…Con không thể nhớ được điều gì cả. Hắn la lên…Và nhìn vào con. Con không thể nhớ được chuyện gì đã xảy ra. Chỉ nhớ rằng con đã sợ hãi…con đã rất sợ hãi…”

Người đàn ông nghiêng người về phía cô bé, ánh lửa bập bùng trong mắt anh. Đó là một đôi mắt thật kỳ lạ. Rất kỳ lạ. Ciri đã từng sợ chúng, cô bé đã từng không muốn nhìn vào đôi mắt ấy. Nhưng đó đã là từ lâu rồi. Từ rất lâu rồi.

“Con không thể nhớ được điều gì cả,” cô bé thì thầm, tìm kiếm bàn tay anh, cứng và thô ráp như củi. “Tên hiệp sĩ đen…”

“Đó chỉ là giấc mơ thôi. Hãy ngủ đi. Nó sẽ không quay lại đâu.”

Ciri đã từng được nghe những lời trấn an như vậy rồi. Chúng đã từng được lặp đi lặp lại với cô bé. Rất nhiều, rất nhiều lần cô đã được nghe những lời lẽ dịu dàng trấn tĩnh khi tỉnh dậy giữa đêm khuya, la hét. Nhưng lần này khác. Lần này thì cô bé tin vào chúng. Bởi vì Geralt xứ Rivia, Sói Trắng, witcher, chính là người đã nói với cô. Người đàn ông là định mệnh của cô bé. Người đàn ông mà định mệnh đã sắp đặt cô cho anh. Witcher Geralt, người đã tìm ra cô bé khi chiến tranh, chết chóc và dịch bệnh vây hãm xung quanh, người đã mang cô theo anh và thề rằng họ sẽ không bao giờ rời xa.

Cô bé nắm chặt lấy tay anh, thiếp ngủ đi.

***

Người nhạc sĩ kết thúc bài hát. Hơi nghiêng đầu sang một bên, cậu lặp lại điệp khúc bằng cây đàn của mình, tinh tế, nhẹ nhàng, với một nốt cao hơn người học trò đi cùng.

Không ai nói một lời nào. Không có gì ngoại trừ âm nhạc sâu lắng, tiếng thì thầm của lá và tiếng kêu khe khẽ của những cành sồi. Rồi đột nhiên, một con dê được buộc vào một trong những chiếc xe đậu quanh thân cây cổ thụ kêu lên một tiếng dài. Vào giây phút đó, như thể được ra hiệu, một người đàn ông ngồi giữa vòng tròn thính giả vây xung quanh đứng lên. Khoác chiếc áo xanh ánh bạch kim với viền vàng qua vai, ông ta cúi chào trang nghiêm.

“Cảm ơn, ngài Dandelion,” ông ta nói, giọng của ông như cộng hưởng mà không quá lớn. “Hãy cho phép tôi, Radcliffe của Oxenfurt, Bậc thầy Phép Thuật, được diễn tả những suy nghĩ mà tôi tin mọi người ở đây đều có chung bằng những lời cảm kích và trân trọng đối với tài nghệ tuyệt vời của ngài.”

Người pháp sư đưa mắt nhìn một lượt những người ngồi quanh – một đám thính giả hơn trăm người – ngồi trên nền đất, hay trên xe, hay đứng quây thành một vòng quay gốc cây cổ thụ. Họ gật gù và bàn tán. Vài người bắt đầu vỗ tay trong khi những người khác tán dương người nhạc sĩ với cánh tay giơ cao. Phụ nữ, xúc động bởi âm nhạc, sụt sịt và lau nước mắt bằng bất cứ thứ gì cầm trong tay, tùy thuộc vào địa vị, nghề nghiệp hay của cải: phụ nữ nông dân thì dùng cánh hoặc mu bàn tay, những người vợ lái buôn thì dùng khăn thêu trong khi elves và phụ nữ quý tộc thì dùng khăn mùi soa làm bằng loại vải bông tốt nhất, và ba người con gái của nam tước Vilibert, những người đã ngừng cuộc đi săn chim ưng cùng đoàn tùy tùng của mình để tham dự màn biểu tuyệt vời của người nhạc sĩ, hỉ mũi vào những chiếc khăn cashmere lịch lãm có màu xanh rêu của mình.

“Chẳng có gì là phóng đại”, người pháp sư tiếp tục, “khi nói ngài đã làm chúng tôi xúc động vô cùng, ngài Dandelion. Ngài đã khơi gợi lên những suy nghĩ và phản chiếu trong tâm can chúng tôi, ngài đã khuấy động con tim chúng tôi. Hãy cho chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn và trân trọng.”

Nhà thi sĩ đứng dậy và cúi chào, quét chiếc lông cò đính trên mũ qua đầu gối mình. Người học trò của cậu ngừng chơi, mỉm cười và cũng cúi chào, cho đến khi Dandelion lườm cậu nghiêm khắc và lẩm nhẩm gì đó trong miệng. Cậu bé cúi thấp đầu xuống và quay trở lại gẩy dây đàn của mình nhẹ nhàng.

Đám đông xung quanh náo động. Những người lái buôn ngồi trên những chuyến xe hàng thì thầm với nhau và rồi lăn một thùng bia ra gốc cây sồi. Pháp sư Radcliffe đang say sưa trò chuyện cùng nam tước Vilibert. Đã hỷ mũi xong, những cô con gái của nam tước ngước nhìn lên Dandelion đầy ngưỡng mộ – trong khi nhà thi sĩ chẳng hề chú ý, bởi vì cậu đang mải mỉm cười, vẫy tay và khoe ra hàm răng trắng bóng với một đám người elves im lặng, nhìn kiêu căng, và đặc biệt là với một người trong số họ: một mỹ nhân tóc đen, với đôi mắt lớn đang đội một chiếc mũ quan tòa. Dandelion muốn thu hút sự chú ý của cô – cô gái elf, với đôi mắt to cùng chiếc mũ xinh xắn, cũng được khán giả xung quanh để ý, và một số đông hiệp sĩ, học viên và giáo sĩ cũng tán tỉnh cô bằng ánh mắt của họ. Cô gái elf rõ ràng là đang tận hưởng sự chú ý, mân mê cúc áo sơ mi của mình và chớp chớp hàng mi, nhưng nhóm elves đi cùng cô bao quanh cô từ mọi phía, chẳng thèm che giấu sự khinh ghét đối với những kẻ ngưỡng mộ cô.

Quãng rừng thưa phía trước Bleobheris, cây sồi vĩ đại, là một nơi tụ tập thường xuyên, một nơi dừng chân và gặp gỡ được biết đến rộng rãi đối với những người du hành, và nổi tiếng với sự chấp nhận và cởi mở của nó. Những thầy druid bảo vệ thân cây cổ xưa gọi nó là Chiếc Ghế Của Tình Bạn và sẵn lòng đón nhận tất cả mọi người. Nhưng kể cả trong thời gian diễn ra những sự kiện đặc biệt như buổi hòa nhạc vừa kết thúc của nhà thi sĩ nổi tiếng, những kẻ du hành vẫn tỏ ra xa cách, ngồi thành từng nhóm đã định sẵn. Elves ngồi với elves. Những thợ thủ công người lùn ngồi cùng với họ hàng của mình, những người mà thường được thuê để bảo vệ chuyến hàng và được vũ trang đến tận răng. Nhóm của họ cùng lắm thì chỉ chấp nhận những thợ mỏ gnome và những nông dân halfling đang cắm trại bên cạnh. Tất cả những kẻ không-phải-người đều tỏ ra xa cách với con người. Con người cũng đáp trả lại không kém, tuy nhiên cũng chẳng có vẻ gì là hòa thuận với nhau. Các quý tộc nhìn xuống những lái buôn và thương gia nhỏ lẻ với sự khinh miệt rõ ràng, trong khi lính quân đội và lính đánh thuê đứng tránh xa những người chăn gia súc và những bộ lông cừu bốc mùi của họ. Số ít các pháp sư và học trò hoàn toàn tách biệt bản thân mình đối với số còn lại, và tỏ rõ cùng một sự kiêu ngạo với tất cả những người khác. Một nhóm nông dân đứng sát nhau, đen đúa và im lặng ở phía cuối. Tạo nên một khu rừng với những cái chĩa, cào và búa của họ nhô lên khỏi đầu. Chẳng có ai thèm để ý đến họ.

Và đương nhiên, ngoại lệ vẫn là những đứa trẻ. Được tự do thoát khỏi sự im lặng trong suốt màn biểu diễn của nhà thi sĩ, lũ trẻ chạy như bay vào khu rừng với những tiếng hét hoang dại, đắm mình vào một trò chơi mà luật chơi là không thể hiểu nổi với những kẻ đã chào tạm biệt những năm tháng hạnh phúc của tuổi thơ. Những đứa trẻ elves, người lùn, halfling, gnome, nửa elves, elves lai và của những vùng miền không thể xác định được địa vị xã hội hay chủng tộc. Hay ít nhất là chưa thể.

“Quả thật!” một trong các hiệp sĩ đứng giữa khoảng rừng kêu lên, trông gầy như một cây cột chống giàn và mặc một chiếc áo thụng đỏ và đen, được trang trí với hình của 3 con sư tử. “Người pháp sư đã nói đúng! Khúc nhạc thật tuyệt diệu. Tôi xin thề, ngài Dandelion, rằng nếu ngài có bao giờ đi qua Baldhorn, lâu đài của lãnh chúa tôi, hãy ghé vào mà không cần nghĩ ngợi. Ngài sẽ được tiếp đón như một vị hoàng tử – tôi đang nói gì thế này? Được tiếp đón như chính vua Vizimir! Tôi thề trên thanh kiếm của mình, rằng tôi đã nghe qua rất nhiều nhạc sĩ biểu diễn, nhưng không có ai thậm chí có thể sánh ngang hàng với ngài. Hãy nhận lấy sự tôn trọng và chút lễ vật từ những hiệp sĩ đã được sinh ra, hay được thu nhận chúng tôi cho tài nghệ của ngài!”

Nhận thấy thời điểm hoàn hảo, nhà thi sĩ nháy mắt với cậu học trò. Cậu bé bỏ cây đàn xuống và cầm lên một cái hộp nhỏ để thu tiền. Cậu nhìn một lượt khán giả, lưỡng lự một lúc, rồi thay cái hộp bằng một cái xô lớn để bên cạnh. Nhà thi sĩ Dandelion ban cho cậu một nụ cười tán thưởng vì sự khôn ngoan của cậu.

“Thưa ngài!” một người phụ nữ to lớn ngồi trên xe kêu lên, phía bên cạnh treo một tấm biển “Vera Loewenhaupt và các con trai” và trên xe chất đồ đan bằng mây tre. Các con trai của bà ta, chẳng thấy tăm hơi đâu cả, không nghi ngờ gì là đang bận phung phí số tài sản mà mẹ mình đã vất vả kiếm được. “Ngài Dandelion, sao thế này? Ngài định để chúng tôi hồi hộp như thế này sao? Bài hát của ngài không thể nào kết thúc như vậy được? Hãy hát cho chúng tôi nghe chuyện gì xảy ra tiếp theo đi!”

“Những bài ca”, người nhạc sĩ cúi chào, “không bao giờ là kết thúc cả, thưa quý bà thân mến, bởi vì thơ ca là vĩnh cửu và trường tồn, nó không có bắt đầu, nó không có kết thúc…”

“Nhưng chuyện gì xảy ra tiếp theo?” người phụ nữ vẫn không bỏ cuộc, hào phóng trút tiền vào cái xô mà cậu học trò của Dandelion đang giơ ra trước mặt bà. “Ít nhất thì hãy nói cho chúng tôi biết, nếu ngài không muốn hát về nó. Bài hát của ngài không nhắc đến cái tên nào cả, nhưng chúng tôi đều biết witcher mà ngài đang hát về không ai khác chính là Geralt xứ Rivia nổi danh, và nữ pháp sư mà anh ta yêu cháy bỏng không ai khác chính là Yennefer nổi tiếng cũng không kém. Và Đứa Trẻ Bất Ngờ, được số mệnh dành sẵn cho witcher và được hứa trao cho anh từ khi sinh ra, chính là Cirilla, nàng công chúa bất hạnh của Cintra, thành phố đã bị những Kẻ Xâm Lược tàn phá. Tôi nói có đúng không?”

Dandelion mỉm cười, cố giữ vẻ thần bí và xa xăm. “Tôi hát về những điều chung chung, thưa quý bà thân mến và hào phóng.” Cậu nói. “Về những cảm xúc mà bất kỳ ai cũng có thể trải qua. Chứ không phải về những người cụ thể.”

“Ôi, thôi đi!” một giọng nói kêu lên từ phía đám đông. “Ai mà chẳng biết những bài hát đó là về Witcher Geralt!”

“Đúng đó, đúng đó!” những cô con gái của nam tước Vilibert ré lên đồng thanh, vắt khô những chiếc khăn của mình. “Hãy hát tiếp đi, ngài Dandelion! Chuyện gì xảy ra tiếp theo? Witcher và nữ pháp sư Yennefer cuối cùng có tìm thấy nhau không? Và họ có đem lòng yêu nhau không? Họ có được hạnh phúc không? Chúng tôi muốn biết!”

“Đủ rồi!” thủ lĩnh của nhóm người lùn gầm lên trong họng, đung đưa bộ râu đỏ dài đến thắt lưng của mình. “Chỉ là thứ vớ vẩn…Tất cả ba cái câu chuyện hoa mĩ về công chúa, pháp sư, định mệnh, tình yêu này. Xin ngài bỏ quá cho thái độ của tôi, thưa nhà thơ vĩ đại, tất cả chỉ là dối trá, chỉ là một sản phẩm của thơ ca để khiến câu truyện đẹp đẽ và cảm động hơn. Nhưng nói về chiến tranh – cuộc thảm sát và cướp bóc ở Cintra, trận chiến ở Marnadal và Sodden – ngài đã hát rất tuyệt vời. Dandelion! Không có gì là nuối tiếc khi trả tiền để nghe một bài ca như vậy, một niềm hân hoan đối với trái tim của một người chiến binh! Và tôi, Sheldon Skaggs, tuyên bố rằng không có gì là dối trá trong những điều mà ngài đã nói cả – và tôi có thể phân biệt được sự thật và dối trá bởi vì tôi đã có mặt ở Sodden vào lúc đó. Tôi đã đứng chiến đấu chống lại quân xâm lược Nilfgaard với một chiếc rìu trong tay…”

“Tôi, Dominir thành Troy,” người kỵ sĩ gầy gò mặc chiếc áo thụng trang trí bởi 3 con sư tử kêu lên, “cũng đã từng có mặt ở cả hai trận chiến Sodden! Nhưng tôi chưa từng nhìn thấy ngài ở đó, ngài người lùn!”

“Không nghi ngờ gì bởi vì chắc anh đã được cử đi bảo vệ chuyến hàng tiếp tế!” Sheldon Skaggs đốp lại. “Trong khi tôi ở trước chiến tuyến máu lửa!”

“Coi chừng cái lưỡi của ngươi đấy, tên râu ria!” Dominir thành Troy nói, mặt đỏ ửng, tay đặt lên thắt lưng đeo kiếm. “Và coi chừng người mà ngươi đang nói tới!”

“Tự đi mà coi chừng bản thân đi!” người lùn đập lòng bàn tay lên chiếc rìu giắt ở thắt lưng ông ta, quay sang phía các đồng đội của mình và cười mỉm. “Các anh có thấy hắn không? Hiệp sĩ cái mẹ gì chứ! Thấy gia huy của hắn không? Ha! 3 con sư tử trên một chiếc khiên? 2 con đang ỉa và con thứ ba đang gầm gừ!”

“Bình tĩnh, bình tĩnh!” Một thầy druid tóc xám khoác áo choàng trắng ngăn chặn rắc rối bằng một giọng sắc cạnh, đầy uy lực. “Thế này không hợp chút nào, các quý ngài! Không phải ở đây, bên dưới tán lá của Bleobheris, một cây sồi còn già hơn tất cả mối bất hòa và tranh chấp trên thế gian! Và không phải trước mặt nhà thơ Dandelion, với những bài ca mà chúng ta nên học được từ đó tình yêu, chứ không phải sự tranh chấp.”

“Quả đúng như vậy!” một thầy tu béo, lùn với gương mặt lấm tấm mồ hôi đồng ý với thầy druid. “Các người nhìn mà không có mắt, nghe mà không có tai. Bởi vì tình yêu thần linh không ở trong các người, các người rỗng như những chiếc thùng…”

“Nhân tiện nói về thùng,” một gnome với cái mũi dài kêu lên từ trên chiếc xe của anh ta, treo một tấm biển “Đồ sắt gia dụng, sản xuất và buôn bán”, “hãy đem một thùng bia nữa ra đây, các anh em! Cổ họng nhà thơ Dandelion chắc đã khát lắm rồi – và cả chúng ta nữa, từ tất cả những cảm xúc này!”

“…như những chiếc thùng rỗng, ta nói với các ngươi!” Gã thầy tu, không can tâm để bị phớt lờ, nhấn chìm giọng của tay gnome bán đồ sắt. “Các ngươi chẳng học được gì từ bài hát của ngài Dandelion cả, chẳng học được gì hết! Các ngươi không thấy rằng những bài ca này hát về định mệnh của một con người, rằng chúng ta chẳng là gì ngoại trừ đồ chơi trong tay các thần linh, đất đai của chúng ta cũng chỉ là sân chơi cho họ. Bài hát về định mệnh đã miêu tả số phận của tất cả mọi người, và huyền thoại về Witcher Geralt và Công chúa Cirilla – mặc dù dựa trên nền cuộc chiến tranh đó – chỉ là một phép ẩn dụ, một sản phẩm từ trí tưởng tượng của nhà thơ được tạo nên nhằm giúp chúng ta…”

“Ông đang nói những thứ rác rưởi, nhà tu à!” Vera Loewenhaupt kêu lên từ trên xe. “Huyền thoại cái gì chứ? Sản phẩm tưởng tượng cái gì chứ? Ông có thể không biết anh ta, nhưng tôi biết Geralt xứ Rivia. Chính mắt tôi đã nhìn thấy anh ấy ở Vizima, khi anh ấy phá bỏ bùa chú ếm lên con gái vua Foltest. Và tôi lại gặp lại anh ấy trên Con Đường Giao Thương, nơi mà anh đã tiêu diệt một con griffin hung tợn rình rập tấn công các đoàn xe qua đó dưới sự thỉnh cầu của Gildia, và nhờ vậy mà cứu mạng rất nhiều người. Không, đây không phải huyền thoại hay truyện cổ tích nào cả. Đây là sự thật, sự thật chân thành mà ngài Dandelion đã hát cho chúng ta nghe.”

“Tôi đồng ý với điều đó”, một người nữ chiến binh với mái tóc đen được buộc thả sau lưng và tết lại thành bím dày lên tiếng. “Tôi, Rayla xứ Lyria, cũng có quen biết Geralt Sói Trắng, thợ săn quái vật lừng danh. Và tôi cũng đã gặp người nữ pháp sư, quý cô Yennefer, trong vài dịp hiếm hoi – Tôi thường đến thăm Aedirn và quê nhà của cô ở Vengerberg. Tôi không biết là họ có yêu nhau đấy.”

“Nhưng đó phải là sự thật,” cô gái elf xinh đẹp đội chiếc mũ quan tòa bỗng dưng thốt lên bằng một chất giọng ngân nga. “Một bài ca đẹp đẽ về tình yêu như vậy phải là sự thật.”

“Nó không thể nào là giả được!” Các cô con gái của nam tước Vilibert ủng hộ cô gái elf, và như thể được ra lệnh, đồng loạt lau mắt bằng những chiếc khăn cầm tay. “Nhất định không thể nào là giả!”

“Ngài pháp sư đáng kính!” Vera Loewenhaupt quay sang nói với Radcliffe. “Họ có yêu nhau không? Ngài chắc hẳn là biết câu chuyện thật sự đã xảy ra giữa họ, Yennefer và witcher. Hãy tiết lộ sự thật đi!”

“Nếu bài hát nói rằng họ yêu nhau,” người pháp sư trả lời, “vậy thì đó là những gì đã xảy ra, và tình yêu của họ sẽ trường tồn cùng với thời gian. Đó chính là sức mạnh của thơ ca.”

“Người ta nói rằng’, nam tước Vilibert đột ngột ngắt lời, “Yennefer thành Vengerberg đã hy sinh trong trận chiến trên Đồi Sodden. Một vài nữ pháp sư khác cũng đã chết tại đó…”

“Đó không phải sự thật,” Dominir thành Troy nói. “Tên cô ấy không có trên đài tưởng niệm. Tôi xuất thân từ vùng đó và đã thường trèo lên Đồi Sodden và đọc những cái tên khắc trên đá. 3 nữ pháp sư đã hy sinh tại đó là: Triss Merigold, Lytta Nyed, được biết đến với cái tên Coral…hmm…và cái tên thứ 3 đã tuột mất khỏi trí nhớ của tôi.”

Người hiệp sĩ liếc nhìn sang pháp sư Radcliffe, đang mỉm cười im lặng.

“Và tay witcher này,” Sheldon Skaggs bỗng dưng lên tiếng, “cái gã Geralt mà yêu cô Yennefer này, cũng đã chết rồi, có vẻ như vậy. Tôi nghe nói anh ta bị giết đâu đó ở Transriver. Anh ta giết và giết quái vật cho đến khi gặp phải thứ ngang hàng với mình. Đời là như vậy đấy: kẻ nào sống bởi lưỡi kiếm sẽ chết bởi lưỡi kiếm. Ai rồi cũng sẽ đến lúc gặp phải kẻ giỏi hơn mình, và sẽ phải nếm mùi vị của sắt lạnh.”

“Tôi không tin như vậy.” Người nữ chiến binh mảnh mai khạc một bãi xuống đất và khoanh hai cánh tay mặc giáp nặng nề lại nghe lạo xạo. “Tôi không tin rằng có kẻ đã đánh bại được Geralt xứ Rivia. Tôi đã nhìn thấy cách mà witcher này sử dụng một thanh kiếm. Tốc độ của anh ta, phải nói rằng không phải là người thường…”

“Nói hay lắm,” pháp sư Radcliffe chêm vào. “Không phải là người. Các witcher là người đột biến, vậy nên phản xạ của họ…”

“Tôi không hiểu lời nói của ông, pháp sư.” Người chiến binh vặn vẹo môi. “Từ ngữ của ông cao siêu quá. Tôi chỉ biết một điều: không một tay kiếm nào mà tôi từng gặp có thể sánh ngang với Geralt xứ Rivia, Sói Trắng. Và tôi cũng không chấp nhận rằng anh ấy đã bị đánh bại như gã người lùn vừa nói.”

“Tay kiếm nào cũng đều là một kẻ tự kiêu khốn kiếp khi kẻ thù của mình vẫn chưa nằm rải rác mỗi nơi một mảnh.” Sheldon Skaggs nhận xét. “Như người elves hay nói.”

“Elves,” một đại diện của Giống Loài Cổ Xưa cao lớn với mái tóc đẹp lạnh lùng nói, từ bên cạnh cô gái elf đội chiếc mũ xinh xắn, “không quen dùng từ ngữ thô tục như vậy.”

“Không! Không!” 3 cô con gái của nam tước Vilibert kêu lên từ đằng sau những chiếc khăn quàng màu lục của họ. “Witcher Geralt không thể chết được! Witcher đã tìm thấy Ciri, đứa trẻ mà định mệnh đã dành cho anh, và nữ pháp sư Yennefer, và cả 3 người sống hạnh phúc mãi mãi! Có phải vậy không, ngài Dandelion?”

“Chỉ là một bài hát thôi, thưa các quý cô,” tay gnome đã cạn bia, sản xuất đồ sắt gia dụng vừa nói vừa ngáp. “Tại sao lại đi tìm kiếm sự thật trong một bài hát? Sự thật là sự thật, thơ ca là thơ ca. Thay vào đó hãy nói về – tên cô bé là gì nhỉ – Ciri à? Đứa Trẻ Bất Ngờ lừng danh. Ngài Dandelion đã khiến chúng ta rất tò mò. Tôi đã đến Cintra nhiều lần và nhà vua và hoàng hậu sống trong một ngôi nhà không có trẻ con, không con gái, không con trai…”

“Dối trá!” một người đàn ông tóc đỏ mặc một chiếc áo khoác da hải cẩu kêu lên, một dải băng buộc trên đầu ông ta. “Nữ hoàng Calanthe, Sư Tử Cái của Cintra, có một người con gái tên là Pavetta. Cô ấy đã qua đời, cùng với chồng mình, trong một cơn bão ngoài khơi, và đáy biển đã nuốt trọn cả hai người.”

“Vậy các người thấy đấy, tôi đâu có bịa chuyện đâu!” tay gnome làm đồ sắt gọi mọi người làm chứng. “Công chúa của Cintra tên là Pavetta, chứ không phải Ciri.”

“Cirilla, hay còn gọi là Ciri, chính là con gái của cô Pavetta đã chết đuối này,” người đàn ông tóc đỏ giải thích. “Cháu gái của Calanthe. Cô bé không phải là công chúa, mà là con gái của Công chúa của Cintra. Cô bé chính là Đứa Trẻ Bất Ngờ đã được định mệnh dành cho witcher, người mà – trước cả khi cô bé ra đời – đã được nữ hoàng thề sẽ trao cháu gái mình cho, đúng như ngài Dandelion đã hát. Nhưng witcher đã không thể tìm được cô. Và đây là điểm mà nhà thơ của chúng ta đã sai.”

“Ồ vâng, ngài ấy quả thực đã nhầm.” Một người thanh niên trẻ gân guốc xen vào. Dựa theo quần áo anh đang mặc, có lẽ là một người học trò đang trên con đường ngao du để vượt qua bài thử thách của thầy dạy mình. “Định mệnh của witcher đã bỏ lỡ anh: Cirilla đã bị giết trong trận vây hãm Cintra. Trước khi ném mình xuống từ ngọn tháp cao nhất, nữ hoàng Calanthe đã giết cháu gái bằng chính đôi bàn tay của mình, để ngăn không cho cô bé rơi vào móng vuốt của Nilfgaard.”

“Nó không phải như vậy. Không đúng chút nào!” Người đàn ông tóc đỏ phản đối. “Con gái của công chúa đã bị giết trong trận thảm sát khi đang cố chạy thoát khỏi thành phố.”

“Bằng cách này hay cách khác,” tay làm đồ sắt gia dụng lên tiếng, “Witcher đã không tìm thấy Cirilla! Nhà thơ đã nói dối!”

“Nhưng nói dối một cách tuyệt vời,” cô gái elf xinh đẹp lên tiếng, rúc vào người của anh chàng elf cao ráo với mái tóc đẹp.

“Vấn đề không phải là thơ ca, mà là sự thật!” người thanh niên kêu lên. “Tôi nói rồi, con gái của công chúa đã chết bởi tay bà ngoại của mình. Tất cả những ai đã từng đến Cintra đều có thể xác nhận điều đó!”

“Còn tôi nói cô bé đã chết khi đang trốn thoát khỏi thành phố,” người đàn ông tóc đỏ khẳng định. “Tôi biết vì mặc dù tôi không xuất thân từ Cintra, tôi đã từng phục vụ trong lực lượng cứu viện Cintra của Chúa đảo Skellige trong trận chiến. Như mọi người đã biết, Eist Tuirseach, Vua của Cintra, xuất thân từ Quần đảo Skellige. Ông ấy là bác của Chúa đảo. Tôi đã chiến đấu trong lực lượng của Chúa đảo tại Marnadal và Cintra, và sau đó, sau thất bại đó, là ở Sodden…”

“Lại thêm một cựu chiến binh nữa,” Sheldon Skaggs gầm gừ với đám người lùn xung quanh mình. “Toàn là các anh hùng và chiến binh. Này mọi người! Có ai trong số các vị ở đây đã không chiến đấu tại Marnadal và Sodden không?”

“Đừng đánh lạc hướng, Skaggs.” Gã elf cao lớn nhiếc móc ông ta, vòng tay ôm lấy cô gái elf với chiếc mũ xinh đẹp nhằm xua tan hết tất cả những mối nghi ngờ còn sót lại của những người ngưỡng mộ cô. “Đừng có tự huyễn hoặc rằng chỉ có mình ông đã chiến đấu tại Sodden. Tôi cũng đã tham gia trận chiến.”

“Ở bên phe nào đây, ta tự hỏi,” nam tước Vilibert nói với Radcliffe bằng một giọng thì thầm không hề bé, và gã elf hoàn toàn phớt lờ.

“Như tất cả mọi người đều biết,” gã tiếp tục, không thèm liếc nhìn nam tước hay người pháp sư lấy một cái, “hơn một trăm ngàn chiến binh đã đứng trên chiến trường trong Trận Chiến Sodden Lần Hai, và trong số đó có ít nhất 30 ngàn người đã bị giết hoặc bị thương. Ngài Dandelion nên được tán dương vì đã bất tử hóa trận chiến lừng danh, kinh hoàng này bằng một trong những bài hát của mình. Trong cả lời hát hay giai điệu, tôi không nghe thấy sự tâng bốc mà là cảnh báo. Thế nên tôi xin nói lại: hãy tán dương và vinh danh mãi mãi nhà thi sĩ này vì bài hát của ngài ấy, có thể đã ngăn chặn được một thảm kịch khủng khiếp cũng như trận chiến tàn bạo và không cần thiết này khỏi xảy ra trong tương lai.”

“Quả đúng vậy” nam tước Vilibert nói, nhìn vào gã elf thách thức. “Anh đã đọc được những thứ rất thú vị trong bài hát này, thưa quý ngài. Anh nói một trận chiến không cần thiết ư? Anh muốn tránh được một thảm kịch như vậy trong tương lai? Chúng tôi có cần phải hiểu rằng nếu Nilfgaard tấn công lần nữa, anh khuyên chúng tôi nên đầu hàng? Khiêm nhường chấp nhận ách đô hộ của chúng?”

“Sự sống là một món quà quý báu và nên được bảo vệ,” gã elf lạnh lùng đáp lời. “Chẳng có gì biện minh được cho việc thảm sát trên quy mô rộng và sự hy sinh mạng sống, chính là bản chất của cả hai trận chiến Sodden – cả hai trận đều thắng và cả hai trận đều thua. Cả hai đều hao tốn của con người hàng ngàn sinh mạng. Và vì thế, các người đã mất đi tiềm năng không thể tưởng tượng để…”

“Những lời ba láp của elves!” Sheldon Skaggs gầm gừ. “Những thứ rác rưởi ngu ngốc! Đó là cái giá phải trả để cho những người khác có thể sống tử tế, trong yên bình, chứ không phải bị xiềng xích, đui mù, bị roi quất và ép phải làm việc trong những mỏ muối hay lưu huỳnh. Những người đó đã chết anh dũng, những người mà giờ đây, nhờ ơn Dandelion, đã sống mãi trong ký ức chúng ta, dạy chúng ta phải bảo vệ lấy quê hương của mình. Hãy hát bài ca của mình, Dandelion, hãy hát cho tất cả mọi người nghe. Bài học của ngài sẽ không lãng phí đâu, và rồi đến lúc nó sẽ có ích, ngài sẽ thấy! Bởi vì hãy nhớ lời tôi đây, Nilfgaard sẽ lại tấn công chúng ta lần nữa. Nếu không phải hôm nay, thì là ngày mai! Chúng đang liếm láp vết thương, hồi phục dần dần, nhưng cái ngày mà chúng ta sẽ lại trông thấy những tấm áo choàng đen và những chiếc mũ cánh chim đang sắp sửa đến rồi!”

“Chúng muốn gì ở chúng ta kia chứ?” Vera Loewenhaupt la lên. “Tại sao chúng lại muốn giết hết chúng ta như vậy? Tại sao chúng lại không để chúng ta được yên, mặc chúng ta sống và làm việc trong yên bình? Người Nilfgaard muốn gì chứ?”

“Chúng muốn máu của chúng ta!” nam tước Vilibert hét. “Và đất của chúng ta!” ai đó kêu lên từ phía đám nông dân.

“Và những người phụ nữ của chúng ta!” Sheldon Skaggs chêm vào, với một vẻ mặt hung tợn.

Vài người bắt đầu cười – im lặng và lén lút nhất có thể. Mặc dù ý tưởng rằng bất kỳ ai khá ngoại trừ những người lùn có thể ham muốn một phụ nữ người lùn xấu xí một cách đặc biệt là rất buồn cười, nhưng nó không phải là một chủ đề an toàn để đem ra trêu trọc – đặc biệt là không phải trước mặt những cá nhân thấp bé, ngắn ngủn, râu rậm có thói quen rút những chiếc rìu hay đoản kiếm giắt ở thắt lưng ra với một tốc độ chóng mặt. Và những người lùn, vì một vài lý do không rõ, hoàn toàn tin rằng cả thế giới đều thèm muốn vợ và con gái họ, và tỏ ra rất nhạy cảm mỗi khi nói về vấn đề này.

“Chuyện này phải xảy ra vào lúc nào đó,” thầy druid tóc xám đột ngột tuyên bố. “Chuyện này phải xảy ra. Chúng ta quên rằng chúng ta không phải là những người duy nhất trên thế giới này, rằng vạn vật không xoay xung quanh chúng ta. Như những con giun mập mạp, ngu ngốc, lười biếng nằm trong vũng bùn nhầy nhụa chúng ta chọn cách phủ nhận sự tồn tại của con gà. Chúng ta đã để mặc thế giới của mình, như vũng bùn, trở nên nhầy nhụa, lầy lội và bẩn thỉu. Hãy nhìn quanh các vị đi – tội lỗi ở khắp nơi, lòng tham, chạy theo lợi nhuận, tranh chấp và bất hòa hoành hành. Những truyền thống của ta đang mất dần, sự tôn trọng những giá trị cổ xưa của ta đang phai nhạt. Thay vì sống dựa vào thiên nhiên, giờ đây ta bắt đầu phá hủy nó. Và chúng ta được lợi gì nào? Bầu không khí bị nhiễm độc từ khói của những lò rèn, những dòng sông và con suối đầy rẫy những lò giết mỏ và xưởng thuộc da, rừng bị chặt phá mà không cần suy nghĩ…Ha, nhìn đi! Thậm chí ngay cả trên thân cây của Bleobheris linh thiêng, ngay phía trên đầu nhà thơ, cũng khắc một cụm từ bẩn thỉu bằng dao găm – mà lại còn đánh vần sai nữa chứ – bởi một kẻ phá hoại ngu ngốc, vô học. Tại sao các vị lại ngạc nhiên? Rồi nó cũng sẽ kết thúc tồi tệ…”

“Phải, phải!” vị tu sĩ mập thêm vào. “Hãy tỉnh táo lại đi, hỡi những kẻ tội đồ, trong khi vẫn còn thời gian, bởi vì sự giận dữ và cơn báo thù của các vị thần đang treo trên đầu các ngươi! Hãy nhớ lời tiên tri của nhà tiên tri Ithlin, tiên đoán sự trừng phạt của các vị thần cho những tội lỗi của thế gian! “Và Thời Đại Của Khinh Miệt sẽ tới, khi cây không còn lá, khi chồi không còn đâm, khi trái cây thối rữa, khi hạt giống không nảy mầm và những dòng sông sẽ đóng băng chứ không còn chảy. Cái Lạnh Trắng sẽ tới, và sau đó là Ánh Sáng Trắng, và thế giới sẽ chết trong làn tuyết.” Nhà tiên tri Ithlin đã nói! Và hãy trông , trước khi điều này xảy ra sẽ có những dấu hiệu, bệnh dịch sẽ hoành hành – Hãy nhớ! – Người Nilfgaard chính là sự trừng phạt mà các vị thần đã giáng lên chúng ta! Họ chính là đòn roi mà những con người bất tử dùng để quất lên những kẻ tội đồ các ngươi, để các ngươi phải…”

“Câm miệng lại đi, lão già mê tín!” Sheldon Skaggs gầm lên, giậm đôi ủng nặng nề. “Sự mê tín của lão làm tôi phát bệnh! Ruột gan tôi muốn lộn hết lên…”

“Cẩn thận đó, Sheldon.” Gã elf cao ráo cắt lời ông ta bằng một nụ cười. “Đừng mỉa mai tôn giáo của kẻ khác. Nó không dễ chịu, lịch sự…hay an toàn đâu.”

“Tôi chẳng mỉa mai cái gì cả.” người lùn phản đối. “Tôi không nghi ngờ sự tồn tại của thần linh, nhưng tôi thấy rất khó chịu mỗi khi có kẻ lôi họ vào những vấn đề thực sự trên thế gian và cố che mắt tôi bằng lời tiên tri của một mụ elf gàn dở nào đó. Nilfgaard là sự trừng phạt của các vị thần ư? Rác rưởi! Hãy lục lại trí nhớ của các người về những ngày xưa cũ, về thời đại của Dezmod, Radowid và Sambuk, về những ngày của Abrad, Cây Sồi Già! Các người có thể không nhớ chúng, bởi vì cuộc sống của các người ngắn ngủn – các người như thiêu thân vậy đó – nhưng tôi thì vẫn còn nhớ, và tôi sẽ nói với các người những vùng đất này đã như thế nào ngay sau khi các người trèo ra khỏi thuyền của mình từ cửa sông Yaruga và Pontar lên bãi biển. 3 vương quốc đã lớn mạnh từ 4 con thuyền cập bến vào nơi đây, những nhóm mạnh hơn sẽ thu phục những nhóm yếu hơn và lớn dần lên, củng cố vị thế của mình. Họ xâm chiếm những quốc gia khác, chinh phạt chúng, và vương quốc của họ mở rộng, ngày càng to lớn và hùng mạnh. Và giờ đây người Nilfgaard cũng đang làm như vậy, bởi vì đất nước của họ là môt vương quốc mạnh mẽ, đoàn kết và kỷ luật. Và trừ khi các người cũng đoàn kết như vậy, Nilfgaard sẽ nuốt trọn các người như con gà nuốt trọn con giun – như thầy druid thông thái này vừa nói!”

“Cứ để chúng thử xem!” Dominir thành Troy ưỡn tấm ngực thêu hình sư tử lên và lắc thanh gươm trong vỏ của mình. “Chúng ta đã đánh chúng thê thảm trên Đồi Sodden. Chúng ta có thể làm lại lần nữa!”

“Anh nói có vẻ rất chắc chắn!” Sheldon Skaggs ậm ừ trong họng. “Anh đã quên, thưa ngài hiệp sĩ, rằng trước trận chiến trên Đồi Sodden, quân Nilfgaard đã tràn qua vùng đất của anh như một con lăn bằng sắt, rải rác khắp vùng lãnh thổ giữa Marnadal và Transriver đầy xác những hiệp sĩ dũng cảm cũng như anh. Và cũng chẳng phải những gã to mồm khôn lỏi như anh đã chặn đứng quân Nilfgaard, mà là sức mạnh tổng hợp của Temeria, Aedirn, Redania và Kaedwen. Đoàn kết và hòa hợp, đó mới là thứ đã chặn chúng lại!”

“Không chỉ như vậy,” Radcliffe nói bằng giọng lạnh lùng, vang âm. “Không chỉ như vậy, ngài Skaggs.”

Người lùn kêu lên một tiếng to, hỷ mũi, và cúi đầu một chút trước vị pháp sư.

“Không ai phủ nhận sự cống hiến của các ngài cả,” ông ta nói. “Thật đáng xấu hổ cho kẻ nào không biết đến sự anh dũng của hội anh em pháp sư trên Đồi Sodden. Họ đã chiến đấu can đảm, cùng đổ máu vì lý tưởng chung, và cống hiến to lớn cho thắng lợi của chúng ta. Dandelion đã không quên họ trong bài ca của ngài ấy, và chúng ta cũng vậy. Nhưng hãy chú ý rằng những pháp sư này đã đoàn kết lại và trung thành trên Đồi, chấp nhận sự chỉ huy của Vilgefortz vùng Roggeveen cũng như chúng tôi, các chiến binh của Bốn Vương Quốc, chấp nhận sự chỉ huy của vua Vizimir của Redania. Tiếc rằng sự đoàn kết và hòa hợp này chỉ kéo dài trong thời gian trận chiến xảy ra, bởi vì, với hòa bình chúng ta giờ đây lại bị chia rẽ. Vizimir và Foltest đang bóp nghẹt nhau bằng thuế và luật đi đường, Demavend của Aedirn đang xích mích với Henselt để tranh chấp vùng đồng bằng phía bắc, trong khi Hengfors và người Thyssen vùng Kovir chẳng thèm quan tâm đến cái gì hết. Và tôi nghe nói rằng các pháp sư cũng chẳng hòa thuận gì cho cam. Chúng ta không đoàn kết, cũng chẳng có kỷ luật. Nhưng Nilfgaard thì có cả hai!”

“Nilfgaard được cai trị bởi hoàng đế Emhyr var Emreis, một tên bạo chúa, kẻ áp đặt ách thống trị bằng roi da, thòng lọng và rìu!” Nam tước Vilibert thốt lên. “Ông đang đề nghị điều gì vậy, ngài người lùn? Chúng ta phải đoàn kết thế nào đây? Với sự bạo ngược tương tự? Và vị vua nào, vương quốc nào, theo ý kiến của ông, nên cai trị những kẻ khác? Ông muốn thấy cây trượng và roi da trong tay ai đây?”

“Tôi quan tâm làm gì?” Skaggs trả lời với một cái nhún vai. “Đó là việc của con người. Kẻ mà các người chọn lên làm hoàng đế chắc chắn không phải người lùn rồi!”

“Hay là elf, hay thậm chí là nửa elf,” đại diện cao lớn của Giống Loài Cổ Xưa thêm vào, cánh tay vẫn đang vòng qua cô gái elf với chiếc mũ xinh đẹp. “Các người thậm chí còn coi rằng elves lai là thấp hèn…”

“Đó là vấn đề đấy,” Vilibert cười lớn. “Các người đang thổi hồi còi giống như Nilfgaard bởi vì Nilfgaard cũng lớn tiếng về bình đẳng, hứa hẹn với các người rằng các người sẽ có lại đất đai sau khi chúng đuổi chúng ta ra. Đó chính là kiểu đoàn kết, hòa hợp và bình đẳng mà các người đang mơ tưởng và lớn tiếng ủng hộ! Nilfgaard trả các người vàng để làm vậy! Và cũng chẳng ngạc nhiên khi các người quý mến nhau đến thế, người Nilfgaard sau cùng vẫn là một giống loài elves…”

“Nhảm nhí”, gã elf lạnh lùng đáp lại. “Ngài nói những điều vớ vẩn, thưa ngài hiệp sĩ. Ngài rõ ràng là đã mù đi vì phân biệt chủng tộc. Người Nilfgaard là con người, cũng như ngài vậy.”

“Đó là một lời nói dối trắng trợn! Chúng là hậu duệ của Black Seidhe và ai cũng biết điều đó! Máu của elves chảy trong huyết quản chúng! Máu của elves!”

“Vậy thì máu của ai chảy trong huyết quản của ngài?” gã elf cười nhạo báng, “Chúng ta đã kết hợp dòng máu trong hàng thế hệ, hàng thế kỷ rồi, chủng tộc của ngài và tôi, và khá là thành công đó – may mắn hay bất hạnh, tôi không biết. Các ngài đã bắt đầu lên án quan hệ khác loài từ một phần tư thế kỷ trước rồi, và ngạc nhiên là, chẳng mấy hiệu quả. Vậy hãy cho tôi xem một con người nào giờ đây không có một chút Seidhe Ichaer, máu của Giống Loài Cổ Xưa trong huyết quản xem!”

Vilibert đỏ ửng lên. Vera Loewenhaupt cũng vậy. Pháp sư Radcliffe hơi cúi đầu và ho khẽ.

Và, thú vị nhất là cô gái elf với chiếc mũ xinh đẹp cũng đỏ mặt.

“Chúng ta đều là con cháu của Đất Mẹ.” Tiếng của thầy druid tóc xám vang lên trong im lặng. “Chúng ta đều là con cháu của mẹ thiên nhiên. Và dù cho chúng ta không tôn trọng mẹ mình, hay làm phiền bà và gây ra đau đớn cho bà, dù cho chúng ta có làm tan nát trái tim bà, bà vẫn yêu thương chúng ta. Yêu thương tất cả chúng ta. Hãy nhớ lấy điều đó, chúng ta, những kẻ ngồi tại Chiếc Ghế Của Tình Bạn này. Và hãy đừng tranh cãi rằng kẻ nào đã đến trước: Acorn đã được những cơn sóng đánh lên bờ đầu tiên, và từ Acorn đã mọc lên Bleobheris vĩ đại, cây sồi già nhất. Đứng bên dưới tán lá nó, giữa những rễ cây cổ xưa, hãy đừng quên những người anh em mọc lên từ đất của chúng ta. Hãy nhớ lấy những lời ca của nhà thơ Dandelion…”

“Chính xác!” Vera Loewenhaupt kêu lên. “Và ngài ấy đâu rồi?”

“Anh ta chạy mất rồi,” Sheldon Skaggs lên tiếng, nhìn vào khoảng không bên dưới cây sồi. “Lấy tiền của chúng ta mà đi không lời từ biệt. Rất giống elf!”

“Giống người lùn!” Đồ sắt gia dụng ré lên.

“Giống con người!”, gã elf cao lớn sửa lại, và mỹ nhân với chiếc mũ xinh xắn ngả đầu vào vai anh ta.

***

“Này, nhạc sĩ,” Mama Lantieri gọi vọng vào, bước vô phòng mà không thèm gõ cửa, người bà ta bốc lên mùi hycinth, mồ hôi, bia và khói. “Anh có khách. Mời vào, thưa quý ngài.”

Dandelion vuốt tóc thẳng lại và đứng lên khỏi chiếc ghế bành bằng gỗ trạm trổ. Hai cô gái đang ngồi trên đùi cậu nhanh chóng đứng dậy, che ngực và sửa sang lại áo sống. Sự khiêm tốn của gái điếm, nhà thơ nghĩ, cũng không hẳn là một tựa đề quá tệ cho một bài hát. Cậu đứng thẳng, thắt lại dây lưng và mặc lại áo khoác trong khi nhìn nhà quý tộc đang đứng trước cửa.

“Quả thực” cậu nói, “là bà biết tìm tôi ở mọi nơi, tuy nhiên toàn vào những thời điểm không phù hợp. Bà may mắn là tôi vẫn còn chưa quyết định được là thích ai trong số hai người đẹp này đấy. Và với giá cả của bà, Lantieri, tôi không thể trả cho cả hai được.”

Mama Lantieri mỉm cười cảm thông và vỗ tay một tiếng. Cả hai cô gái – một cư dân đảo với làn da đẹp và tàn nhang cùng một cô gái nửa elf với mái tóc đen – nhanh chóng rời khỏi phòng. Người đàn ông đứng ở bậu cửa cởi áo khoác ra và đưa cho Mama cùng với một túi tiền vừa phải.

“Thứ lỗi cho tôi, thưa ngài,” ông ta nói, bước lại gần chiếc bàn và ngồi xuống thoải mái. “Tôi biết đây không phải là thời điểm thuận lợi để làm phiền ngài, nhưng ngài đã biến mất khỏi gốc cây sồi nhanh quá…Tôi đã không gặp được ngài trên Đại Lộ như dự tính và cũng đã không ngay lập tức gặp được ngài ở trong thị trấn nhỏ bé này. Tôi sẽ không tốn nhiều thời gian của ngài đâu, tôi hứa…”

“Họ luôn nói như vậy, và đó luôn là nói dối,” nhà thi sĩ cắt lời. “Hãy để chúng tôi lại một mình, Lantieri, và đừng để ai khác làm phiền chúng tôi. Tôi đang nghe đây, thưa ngài.”

Người đàn ông xăm soi kỹ cậu. Ông ta có cặp mắt đen, ẩm và gần như đẫm lệ, một cái mũi nhọn và xấu xí, môi hẹp.

“Tôi sẽ nói ngay vào vấn đề để không tốn thời gian của ngài,” ông ta tuyên bố, đợi cánh cửa sau lưng được Mama đóng lại. “Bài hát của ngài làm tôi thấy hứng thú, thưa ngài. Nói chính xác hơn là có một số nhân vật trong bài hát làm tôi thấy hứng thú. Tôi thực sự cảm thấy lo lắng cho số phận của những người hùng trong bài ca của ngài. Nếu tôi không lầm, thì số phận của những con người thực sự chính là nguồn cảm hứng cho bài ca dưới gốc cây sồi mà tôi đã được nghe? Tôi đang nghĩ đến…Cirilla bé bỏng xứ Cintra, cháu gái của nữ hoàng Calanthe.”

Dandelion nhìn lên trần nhà, gõ gõ ngón tay lên mặt bàn.

“Thưa quý ngài,” cậu nói khô khan, “ngài hứng thú với những vấn đề thật lạ lùng. Ngài hỏi những câu hỏi thật lạ lùng. Có gì đó mách bảo tôi rằng ngài không phải là người như tôi nghĩ.”

“Và ngài nghĩ tôi là ai vậy, cho phép tôi được hỏi?”

“Tôi không chắc là ngài được phép. Đó là tùy thuộc nếu ngài có định gửi lời chào từ một người bạn chung nào của chúng ta hay không. Đáng lẽ ra ngài nên làm vậy từ đầu, nhưng dường như là ngài đã quên mất.”

“Tôi không hề quên.” Người đàn ông thò tay vào túi trong của chiếc thụng nhung màu nâu mà ông ta đang mặc và lôi ra một túi tiền còn to hơn túi lúc trước, đặt lên mặt bàn. “Chúng ta đơn giản là không có người bạn chung nào cả, Dandelion. Nhưng liệu túi tiền này có đủ để xóa đi sự xa cách đó không?”

“Và ngài tính mua thứ gì bằng túi tiền xuềnh xoàng này đây?” nhà thi sĩ hậm hực. “Cả cái nhà thổ của Mama Lantieri và đất đai xung quanh à?”

“Hãy cứ cho rằng tôi muốn ủng hộ bộ môn nghệ thuật này. Và một người nghệ sĩ. Để có thể được tán gẫu với người nghệ sĩ về tác phẩm của anh ta.”

“Ngài yêu thích nghệ thuật đến vậy sao, thưa quý ngài? Để có thể tán gẫu với người nghệ sĩ quan trọng đến mức ngài phải trả tiền cho anh ta ngay cả trước khi tự giới thiệu về bản thân mình, và do đó, đã phá vỡ quy tắc xã gia thông thường nhất?”

“Vào lúc bắt đầu cuộc nói chuyện” đôi mắt đen láy của người lạ mặt hơi nhíu lại, “sự nặc danh của tôi đâu có làm ngài bận tâm.”

“Và giờ thì có rồi đó.”

“Tôi không sợ phải nói ra tên mình,” người đàn ông trả lời, nở một nụ cười nhạt trên môi. “Tên tôi là Rience. Ngài không biết tôi, ngài Dandelion, và cũng chẳng có gì là ngạc nhiên. Ngài quá nổi tiếng để cần phải nhớ hết những người hâm mộ của mình. Ấy nhưng tất cả những ai hâm mộ tài nghệ của ngài đều cảm thấy quen biết ngài, quen thân đến một mức độ nào đó. Điều này cũng áp dụng cả với tôi nữa. Tôi biết đó chỉ là quan niệm thôi, nên xin ngài hãy bỏ quá cho tôi.”

“Tôi bỏ quá cho ngài.”

“Vậy tôi có thể trông đợi vào ngài sẽ trả lời một vài câu hỏi được chứ?”

“Không, ngài không thể.” nhà thi sĩ ngắt lời, lớn tiếng. “Giờ, nếu ngài bỏ quá cho tôi, tôi không sẵn lòng bàn luận về các tác phẩm của tôi, nguồn cảm hứng hay các nhân vật của nó, giả tưởng hay như thế nào khác. Làm như vậy sẽ khiến nó mất đi vẻ thơ mộng và dẫn đến nhàm chán.”

“Thật vậy sao?”

“Quả thật như vậy. Ví dụ, nếu hát một bài hát về vợ của một người thợ xay bột, tôi lại tuyên bố rằng đó là về Zvirka, vợ của thợ xay bột Loach, và thêm nữa nói rằng có thể ngủ với Zvirka dễ dàng vào mỗi thứ năm bởi vì mỗi thứ năm, người thợ xay bột lại phải ra chợ, nó sẽ chẳng còn là thơ ca nữa. Nó sẽ thành những câu đối vần điệu, hay lời phỉ báng tục tĩu.”

“Tôi hiểu, tôi hiểu,” Rience nói nhanh. “Nhưng có lẽ đó là một ví dụ tồi. Tôi không quan tâm đến tội lỗi của ai cả. Ngài sẽ không phỉ báng ai khi trả lời câu hỏi của tôi. Tôi chỉ cần một mẩu thông tin nho nhỏ: thật sự chuyện gì đã xảy ra với Cirilla, cháu gái của Nữ hoàng của Cintra? Nhiều người nói rằng cô bé đã bị giết trong trận vây hãm thành, thậm chí còn có cả nhân chứng đã thấy tận mắt nữa. Nhưng từ bài hát của ngài, có vẻ như đứa trẻ đã sống sót. Tôi thực sự tò mò không biết đó là do trí tưởng tượng của ngài, hay sự thật? Đúng hay sai?”

“Tôi rất cảm kích là ngài thấy hứng thú”. Dandelion mỉm cười. “Ngài có thể cười, quý ngài tên-là-gì-đó, nhưng đó chính xác là những gì mà tôi dự định khi sáng tác nên ca khúc đó. Tôi muốn làm người nghe thích thú và gợi trí tò mò của họ.”

“Đúng hay sai?” Rience lạnh lùng lặp lại.

“Nếu tiết lộ điều đó thì sẽ làm hỏng hết giá trị của các tác phẩm của tôi. Tạm biệt, ông bạn. Ngài đã dùng hết số thời gian mà tôi có thể cho rồi. Và hai nguồn cảm hứng của tôi đang đứng ở ngoài kia, phân vân không biết tôi sẽ chọn ai đây.”

Rience giữ im lặng trong một khoảng thời gian dài, không có dáng vẻ gì là sắp rời đi cả. Hắn ta nhìn chằm chằm nhà thơ bằng cặp mắt không thân thiện, ẩm ướt của mình, và nhà thi sĩ cảm thấy bất an. Một tiếng ồn náo nhiệt phát lên từ căn phòng chính của ngôi nhà tục tĩu, thỉnh thoảng bị ngắt quãng bằng những tiếng khúc khích của phụ nữ. Dandelion quay đầu đi, giả vờ ra vẻ chế nhạo nhưng thực ra là để đo khoảng cách từ đây đến góc căn phòng và tấm thảm trang trí có hình một nữ thần hồ đang đổ nước từ một cái hũ lên bầu ngực mình.

“Dandelion”, Rience cuối cùng lên tiếng, cho tay vào trong túi chiếc áo thụng nâu của mình, “hãy trả lời câu hỏi của tôi. Làm ơn. Tôi cần phải biết câu trả lời. Nó rất quan trọng đối với tôi. Có lẽ là cả với cậu nữa, bởi vì tin tôi đi, nếu cậu không tự nguyện trả lời câu hỏi của tôi…”

“Thì sao?”

Một nụ cười nhăn nhó nở trên môi Rience. “Thì tôi sẽ phải bắt cậu trả lời.”

“Giờ thì nghe đây, quân vô lại.” Dandelion đứng lên và giả vờ ra vẻ đe dọa. “Ta rất căm ghét bạo lực, nhưng ta sẽ gọi Mama Lantieri trong vòng một phút và bà ấy sẽ gọi một người tên là Gruzila có vai trò bảo vệ cơ sở này. Anh ta là một nghệ sĩ thực thụ đấy. Anh ta sẽ đá cái mông ngươi mạnh đến nỗi ngươi sẽ bay qua những mái nhà của thị trấn một cách ngoạn mục, đến mức những người đi qua đường vào lúc đó cũng phải lầm tưởng ngươi là một con ngựa Pegasus.”

Rience làm một cử động đột ngột và có gì đó lóe sáng trong tay hắn. “Cậu có chắc không,” hắn hỏi, “rằng cậu sẽ gọi kịp bà ta?”

Dandelion không hề có ý định thử xem mình có gọi kịp được không. Và cũng không hề có ý định ngồi chờ. Trước khi con dao găm kịp nằm chắc trong tay Rience, Dandelion nhảy một bước dài đến góc phòng, nấp bên dưới tấm thảm trang trí, đá một cái cửa bẫy bí mật và trượt xuống cầu thang, uyển chuyển xoay mình nhờ sự trợ giúp của dãy hành lang được xây khéo léo. Rience nhảy theo cậu, nhưng nhà thi sĩ rất tự tin về bản thân mình – cậu biết rõ con đường bí mật như lòng bàn tay vậy, vì đã phải dùng nó rất nhiều lần để trốn chủ nợ, những ông chồng ghen tuông hay những địch thủ giận dữ mà cậu có đôi lúc ăn cắp một vài điệu nhạc hay ý thơ của họ. Cậu biết rằng sau ngã rẽ thứ 3 cậu có thể nắm được một tay nắm cửa xoay, đằng sau đó có một cái cầu thang dẫn xuống tầng hầm. Cậu tin chắc rằng kẻ truy đuổi ắt không thể nào dừng lại kịp, sẽ chạy qua và rơi xuống một cái cửa bẫy có chuồng lợn phía bên dưới. Cậu cũng chắc rằng kẻ truy đuổi cậu, bị bầm tím, dính đầy phân và bị heo vồ, sẽ bỏ cuộc.

Dandelion đã nhầm, cũng giống như mỗi khi cậu quá tự tin về cái gì đó. Có một ánh sáng xanh nhá lên sau lưng cậu, và cậu cảm thấy tứ chi mình tê liệt. Cậu không thể dừng lại kịp để nắm lấy cái cửa xoay, chân cậu không nghe lệnh cậu. Cậu hét lên và ngã xuống cầu thang, va vào những bức tường của hành lang chật hẹp. Cánh cửa bẫy mở ra phía dưới cậu với một âm thanh khô khan và nhà thi sĩ ngã xuống bóng tối và mùi hôi thối. Trước khi đập đầu xuống vũng bùn và bất tỉnh, Dandelion nhớ lại Lantieri có nói gì đó về việc sửa sang lại cái chuồng lợn.

Cơn đau trên cổ tay và vai bị trói lại, làm trật hết các khớp đã làm cậu tỉnh dậy. Cậu muốn hét lên mà không thể, cảm giác như miệng bị nhét đầy đất sét. Cậu đang quỳ trên sàn với một sợi dây thừng trói cổ tay cậu lên. Cậu cố đứng dậy, muốn làm giảm bớt cơn đau trên vai, nhưng chân cậu cũng đang bị trói. Sặc sụa và nghẹt thở, bằng cách nào đó cậu đã đứng lên được, nhờ sợi dây thừng đang treo cậu lên.

Rience đang đứng trước mặt cậu, và cặp mắt độc địa của hắn sáng lên trong ánh đèn lồng được một gã côn đồ râu ria rậm rạp, cao 6 thước giữ bên cạnh. Một gã du côn khác nữa, có lẽ cũng không thấp hơn, đứng đằng sau hắn. Dandelion có thể nghe thấy tiếng thở khò khè của hắn và ngửi thấy mùi mồ hôi trong không khí. Đó chính là kẻ đang giật giật sợi dây được vắt qua xà nhà và trói cổ tay nhà thi sĩ.

Chân của Dandelion quệt lên sàn nhà đầy bụi. Nhà thi sĩ thở khe khẽ, chẳng thể làm gì được.

“Đủ rồi” Rience cuối cùng quát lên – hắn nói gần như ngay lập tức, nhưng đối với với Dandelion dường như cả thế kỷ đã trôi qua. Đôi chân của nhà thi sĩ chạm đất, nhưng dù cho cậu rất mong muốn được quỳ lại, cậu không thể bởi vì sợi dây cứ giật giật như muốn trêu ngươi cậu.

Rience đến lại gần hơn. Khuôn mặt hắn chẳng biểu lộ cảm xúc gì hết, đôi mắt ẩm ướt không hề có chút gì thay đổi. Cả chất giọng của hắn nữa, cũng vẫn trầm tĩnh, bình thản, thậm chí có phần chán chường.

“Đồ thi sĩ ngu ngốc. Cặn bã. Đồ vô danh kiêu căng, ngạo mạn. Ngươi nghĩ có thể chạy thoát khỏi ta? Chưa có ai từng chạy thoát được khỏi ta cả. Chúng ta vẫn chưa nói chuyện xong đâu, đồ hề, đồ đầu đất. Ta đã hỏi ngươi một câu hỏi trong hoàn cảnh dễ chịu hơn thế này. Giờ đây ngươi sẽ phải trả lời tất cả những câu hỏi của ta, và trong hoàn cảnh khó chịu hơn rất nhiều. Hiểu chưa?”

Dandelion nhanh chóng gật đầu. Đến giờ thì Rience mới nở một nụ cười và ra hiệu. Nhà thi sĩ rên lên bất lực, cảm thấy cánh tay bị trói chặt của mình bẻ ngược ra sau, làm trật hết các khớp nối.”

“Không nói được à?” Rience xác nhận, vẫn cười khinh bỉ, “và nó rất đau, đúng không? Trong lúc này, hãy cứ biết rằng ta treo ngươi lên thế này đơn giản bởi vì ta thích nhìn kẻ khác chịu đau khổ. Kéo cao nữa lên.”

Dandelion la lên to đến nỗi như sắp nghẹn.

“Đủ rồi.” Rience ra lệnh, sau đó túm lấy cổ áo nhà thi sĩ. “Nghe ta đây, đồ ngu xuẩn. Ta sẽ hóa giải bùa chú để ngươi có thể nói được. Nhưng nếu ngươi có ý định cất cao chất giọng quyến rũ của mình hơn mức cần thiết, ngươi sẽ phải hối hận đấy.”

Hắn làm một dấu hiệu bằng tay, chạm vào má nhà thi sĩ bằng chiếc nhẫn của mình, và Dandelion có thể cảm nhận xương hàm và lưỡi cậu bắt đầu có cảm giác.

“Bây giờ”, Rience tiếp tục nói nhẹ nhàng, “ta sẽ hỏi ngươi một vài câu hỏi và ngươi sẽ trả lời chúng nhanh chóng, mạch lạc và rõ ràng. Và nếu ngươi ấp úng hay do dự thậm chí chỉ trong một giây, nếu ngươi chỉ cần cho ta một lý do để nghi ngờ những điều ngươi nói, thì…hãy nhìn xuống đi.”

Dandelion tuân lệnh. Và kinh hoàng nhận ra một xô vôi được buộc vào cổ chân mình.

“Nếu ta kéo sợi dây này cao hơn nữa,” Rience cười tàn nhẫn, “và cái xô này nhấc lên cùng với ngươi, thì có lẽ ngươi sẽ chẳng còn cảm nhận được bàn tay mình nữa đâu. Sau đó, ta đoán chắc ngươi cũng chẳng còn có thể chơi được cái gì bằng cây đàn luýt đấy nữa. Ta thực sự đoán vậy đó. Vậy nên ta nghĩ ngươi sẽ nói chuyện với ta thôi. Ta nói có đúng không?”

Dandelion không đồng ý bởi vì cậu không thể quay đầu hay mở mồm nói ra được do quá sợ hãi. Nhưng có vẻ như Rience chẳng quan tâm.

“Hãy hiểu rằng” hắn nói, “ta có thể biết được ngay lập tức nếu ngươi có đang nói thật hay không, nếu ngươi nói dối, ta sẽ nhận ra ngay, và ta sẽ không bị lừa bởi bất kỳ thủ đoạn thơ ca hay sự thông thái mơ hồ nào cả. Đây chỉ là chuyện nhỏ đối với ta – cũng giống như làm ngươi tê liệt trên cầu thang cũng là chuyện nhỏ đối với ta. Vậy nên ta khuyên ngươi nên xem xét lời nói kỹ càng, đồ cặn bã. Thôi, hãy vào việc chính nào và không nên lãng phí thời gian nữa. Như ta đã nói, ta rất có hứng thú với một nữ anh hùng trong bài hát của ngươi, cháu gái của nữ hoàng Calanthe của Cintra, Công chúa Cirilla, hay còn được gọi là Ciri. Theo như nhân chứng con bé đã chết trong trận vây hãm thành hai năm về trước. Vậy mà trong bài hát của ngươi, ngươi đã miêu tả rất hùng hồn và cảm động con bé gặp gỡ một cá nhân kỳ lạ, gần như là huyền thoại,…gã witcher, …Geralt, hay Gerald gì đó. Hãy gạt ba cái mớ nhảm nhí về định mệnh và số phận sang một bên, từ phần còn lại của bài hát có vẻ như đứa trẻ đã sống sót khỏi Trận Chiến Cintra mà vẫn toàn vẹn. Có đúng thế không?”

“Tôi không biết…” Dandelion rên lên. “Thần linh ơi, tôi chỉ là một nhà thơ mà thôi! Tôi chỉ nghe ngóng đâu đây, còn về những thứ khác…”

“Thế nào?”

“Những thứ khác là tôi bịa ra mà! Tôi không biết gì cả!” Nhà thi sĩ la lên khi Rience ra hiệu cho gã du côn kéo sợi dây cao lên. “Tôi không có nói dối!”

“Phải,” Rience gật đầu, “ngươi không nói dối trắng trợn, ta sẽ cảm nhận thấy ngay. Nhưng ngươi đang vòng vo. Ngươi sẽ không thể tự bịa ra bài hát như thế được, mà không có lý do nào. Và ngươi có quen gã witcher đó. Người ta vẫn thường thấy ngươi đi chung với hắn ta. Vậy nên hãy nói đi, Dandelion, nếu ngươi vẫn còn quý trọng khớp tay của mình. Hãy kể hết những gì ngươi biết!”

“Cô bé Ciri này,” nhà thi sĩ thở hổn hển, “đã được định mệnh sắp đặt cho witcher. Người ta gọi cô bé là Đứa Trẻ Bất Ngờ…chắc hẳn ông đã nghe qua rồi, câu chuyện đó rất phổ biến mà. Cha mẹ của cô bé đã thề sẽ trao cô bé cho witcher…”

“Cha mẹ con bé đã thề sẽ trao đứa trẻ cho tên đột biến tâm thần đó ư? Kẻ sát nhân đó? Ngươi đang nói dối, nhà thơ. Đi mà kể câu chuyện đó cho lũ đàn bà mà nghe.”

“Đó là những gì đã xảy ra mà, tôi thề trên linh hồn mẹ tôi,” Dandelion nức nở. “Tôi đã nghe được từ một nguồn tin cậy…witcher…”

“Hãy nói về đứa bé gái đi. Ta không có hứng thú với tên witcher trong lúc này.”

“Tôi không biết gì về đứa bé gái cả! Tôi chỉ biết rằng witcher định sẽ đến Cintra để thu nhận cô bé thì chiến tranh nổ ra. Tôi có gặp anh ta vào lúc đó. Anh ta nghe được tin về trận thảm sát, về cái chết của Calanthe từ tôi…Anh ta có hỏi tôi về đứa trẻ, cháu gái của nữ hoàng…Nhưng tôi biết rằng tất cả người dân Cintra trong thành phố đều đã bị giết. Chẳng còn lấy một ai sống sót…”

“Nói tiếp đi. Ít ẩn dụ thôi, và nhiều sự thật lên.”

“Khi witcher biết tin về trận thảm sát ở Cintra, anh ta đã từ bỏ sứ mệnh. Cả hai chúng tôi bỏ chạy lên phía bắc. Chúng tôi chia tay nhau ở Hengfors và từ đó đến giờ tôi chưa gặp lại anh ta…Nhưng bởi vì anh ta có nói về đứa trẻ này…cô bé Ciri hay tên là gì đi nữa này…trên đường đi…và về định mệnh…Nên tôi bịa ra bài hát đó, tôi không biết gì hết nữa cả, tôi thề đấy!”

Rience quát cậu.

“Thế giờ thì tên witcher này đang ở đâu?” Hắn hỏi. “Tên thợ săn quái vật cho thuê này, tên đồ tể thơ mộng thích đàm đạo về định mệnh này đang ở đâu?”

“Tôi nói rồi mà, lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh ta…”

“Ta biết ngươi nói gì,” Rience cắt lời, “Ta đã nghe rất kỹ những điều ngươi nói. Và giờ thì hãy nghe kỹ những điều ta nói đây. Trả lời chính xác câu hỏi của ta. Câu hỏi đó là: nếu không ai đã trông thấy tên Geralt, hay Gerald này trong vòng một năm, vậy thì hắn đang trốn ở đâu? Hắn thường trốn ở đâu?”

“Tôi không biết đó là nơi nào cả,” nhà thi sĩ nói nhanh. “Tôi không nói dối, tôi thật sự không biết…”

“Nhanh quá, Dandelion, nhanh quá.” Rience cười xảo quyệt. “Quá sốt sắng. Ngươi cũng mưu mẹo đấy, nhưng vẫn chưa cẩn thận đủ đâu. Ngươi không biết nó ở đâu. Nhưng ta dám chắc ngươi biết đó là nơi nào.”

Dandelion nghiến răng lại tức giận và tuyệt vọng.

“Thế nào?” Rience ra hiệu cho gã du côn. “Tên witcher đang trốn ở đâu? Nơi đó có tên là gì?”

Nhà thi sĩ im lặng. Sợi dây siết chặt lại, vặn vẹo tay cậu đầy đau đớn, và chân cậu nhấc lên

khỏi sàn nhà. Dandelion rú lên một tiếng ngắn và gãy gọn bởi vì chiếc nhẫn của Rience ngay lập tức bịt mồm cậu lại.

“Cao hơn, cao hơn nữa.” Rience đặt tay lên hông. “Ngươi biết không, Dandelion, ta có thể dùng phép thuật để đọc suy nghĩ của ngươi, nhưng làm thế tốn sức lắm. Vả lại, ta thích nhìn thấy mắt kẻ khác lồi ra khỏi tròng vì đau đớn hơn. Và rồi ngươi cũng sẽ nói cho ta thôi.”

Dandelion biết rằng rồi cậu cũng sẽ nói. Sợi dây buộc cổ chân cậu căng lên, cái xô vôi quệt lên sàn nhà.

“Thưa ngài,” gã du côn đầu tiên lên tiếng, che cái đèn lồng lại bằng áo choàng và nhìn qua khe cửa chuồng lợn, “Có ai đó đang đến. Phụ nữ, tôi nghĩ thế.”

“Các ngươi biết phải làm gì rồi đó,” Rience rít lên. “Tắt đèn đi.”

Gã du côn bốc mùi thả sợi dây ra, và Dandelion ngã xuống sàn, theo tư thế mà cậu có thể trông thấy gã cầm đèn đứng sau cửa và tên bốc mùi kia, với một con dao trong tay, đứng ở phía bên kia. Ánh sáng chiếu qua khe cửa, và nhà thi sĩ nghe thấy tiếng hát và âm thanh huyên náo.

Cánh cửa chuồng lợn mở ra để lộ một dáng hình thấp bé, choàng áo khoác và đội một chiếc mũ tròn, vừa vặn. Sau một lúc lưỡng lự, người phụ nữ bước qua ngưỡng cửa. Gã bốc mùi nhảy vào cô, đâm chém điên cuồng và vấp ngã khi con dao lướt qua cổ họng người lạ mặt mà không gặp vật cản nào cả, như lướt qua một làn khói. Bởi vì dáng hình đó chính là một làn khói, đang bắt đầu mờ dần. Nhưng trước khi nó biến mất hẳn, một bóng người khác lao vào trong chuồng lợn, không thể thấy rõ, đen tối và uyển chuyển như một con chồn. Dandelion nhìn thấy cô ném chiếc áo choàng về phía gã cầm đèn, nhảy qua tên bốc mùi, thấy thứ gì đó lóe lên trong bàn tay cô, và nghe thấy tiếng gã bốc mùi ré lên man rợ. Gã cầm đèn gỡ chiếc áo choàng ra, nhảy lên định chém một nhát bằng con dao của hắn. Một tia sét bắn ra từ người lạ mặt với một tiếng rít, tát qua mặt và ngực hắn và lan ra như dầu hỏa đang cháy. Gã du côn la lên chói tai, và mùi thịt cháy tỏa ra khắp chuồng lợn.

Sau đó Rience tấn công. Câu thần chú hắn bắn ra làm bóng tối sáng lên với một sắc xanh, và Dandelion nhìn thấy một người phụ nữ mảnh mai, mặc quần áo đàn ông thực hiện một cử chỉ phức tạp bằng cả hai tay. Cậu chỉ có thể trông thấy cô trong một thoáng trước khi ánh sáng xanh biến mất với một tiếng nổ và ánh chớp lóe lên. Rience ngã ra đằng sau với một tiếng kêu phẫn nộ và lưng đập vào những tấm ván gỗ lát tường cái chuồng heo, làm chúng vỡ tan tành. Người phụ nữ mặc quần áo đàn ông đuổi theo hắn, một con dao lóe lên trên tay cô. Cái chuồng heo lại sáng lên – lần này là ánh sáng vàng – tỏa ra từ một hình ôvan hiện ra giữa không trung. Dandelion thấy Rience đứng bật dậy từ sàn nhà bẩn thỉu, nhảy vào cái hình ôvan, và biến mất. Cái hình ôvan mờ dần, nhưng trước khi nó biến mất hẳn, người phụ nữ chạy lại phía nó, la lên những từ không thể hiểu được, vươn tay ra. Có cái gì đó vỡ và kêu cọt kẹt và cái hình ôvan đỏ lên như lửa trong giây lát. Một âm thanh lọt đến tai Dandelion, như thể từ một nơi nào đó xa lắm – một âm thanh như tiếng gào thét đau đớn. Cái hình ôvan biến mất hẳn và bóng tối lại bao trùm lên cái chuồng heo. Nhà thi sĩ cảm thấy bùa chú làm mình câm lặng đã được nhấc lên.

“Cứu với!” cậu rú lên. “Cứu với!”

“Đừng có la lên nữa Dandelion,” người phụ nữ nói, quỳ xuống bên cạnh cậu và cắt dây trói bằng con dao của Rience.

“Yennefer? Là chị đấy à?”

“Chắc hẳn là cậu sẽ không nói rằng cậu không nhớ tôi trông như thế nào chứ? Và tôi chắc rằng giọng tôi cũng chẳng xa lạ lắm với đôi tai âm nhạc của cậu. Cậu đứng dậy được không? Chúng không làm gãy cái xương nào của cậu đó chứ?”

Dandelion đứng dậy khó khăn, rên rỉ và vặn vẹo cái vai đau nhức của mình. “Chúng thế nào rồi?” Cậu ám chỉ những cái xác nằm trên nền nhà.

“Chúng ta sẽ kiểm tra.” Nữ pháp sư dắt con dao găm vào người. “Một trong số chúng chắc vẫn còn sống. Tôi có vài câu hỏi cho hắn đây.”

“Tên này,” nhà thi sĩ đứng bên cạnh tên bốc mùi, “chắc vẫn còn sống.”

“Tôi nghi ngờ đấy,” Yennefer nói thờ ơ. “Tôi đã cắt đứt khí quản và động mạch cảnh của hắn. Chắc hắn vẫn còn ú ớ được một lúc, nhưng không lâu đâu.”

Dandelion rùng mình. “Chị đã cắt cổ hắn à?”

“Nếu không phải vì sự cảnh giác bẩm sinh, mà tôi không cử một ảo ảnh vào trước, thì tôi đã là người nằm ở đó rồi. Hãy nhìn tên này xem…Quỷ thần ơi. Trông to khỏe thế này mà vẫn không chịu nổi. Tiếc thật, tiếc thật!”

“Hắn cũng chết rồi à?”

“Hắn không thể chịu nổi cú giật. Hmm…tôi đã nướng hắn hơi quá tay…Thấy không, ngay cả răng cũng cháy đen thui…Cậu bị làm sao thế Dandelion? Cậu sắp phát bệnh rồi à?”

“Vâng,” nhà thơ khẽ đáp lời, cúi gập người xuống và tựa đầu vào tường.

***

“Chỉ có thế thôi sao?” Nữ pháp sư đặt cái ly xuống và với lấy con gà nướng. “Cậu đã không nói dối về điều gì khác nữa chứ? Không quên bất kỳ thứ gì chứ?”

“Không có gì. Ngoại trừ “Cảm ơn”. Cảm ơn chị, Yennefer.”

Cô nhìn vào mắt cậu và gật đầu nhẹ một cái, khiến cho những lọn tóc đen nhánh lúc lắc và đổ xuống vai. Cô đặt con gà lên một cái thớt và bắt đầu cắt nó một cách điệu nghệ. Cô chỉ dùng một cái dĩa và một con dao. Dandelion đến lúc này chỉ biết một người duy nhất, có thể ăn một con gà với dao và dĩa cũng điệu nghệ như vậy. Và giờ thì cậu đã biết Geralt học được mánh đó như thế nào, và từ ai. Chà, cậu nghĩ, chẳng có gì là ngạc nhiên cả. Sau cùng thì anh đã sống với cô suốt cả một năm trời ở Vengerberg. Và trước khi anh rời bỏ cô, cô đã làm anh nhiễm một số nhiều những thói quen lạ lùng. Cậu với tay lấy một con gà nướng nữa, và không nghĩ ngợi, vặt lấy một cái đùi và ăn ngấu nghiến, cầm bằng cả hai bàn tay.

“Làm sao chị biết?” Cậu hỏi. “Làm sao chị đến cứu tôi kịp lúc vậy?” “Tôi đã đứng bên dưới gốc Bleobheris khi cậu biểu diễn.”

“Tôi không trông thấy chị.”

“Tôi không muốn bị trông thấy. Sau đó tôi đi theo cậu vào thị trấn. Tôi đã đợi ở đây, trong quán rượu này – tôi mà đi theo cậu vào cái thiên đường sung sướng và đầy bệnh lậu đó thì không được hay ho cho lắm. Nhưng rồi tôi bắt đầu thấy mất kiên nhẫn và đang đi lang thang quanh vườn thì nghe được tiếng nói phát ra từ trong cái chuồng heo. Tôi tăng cường độ nhạy của tai mình và hóa ra đó không phải là cặp gian phu dâm phụ nào đó như tôi tưởng, mà là cậu. Này, chủ quán! Cho xin thêm ít rượu đi!”

“Ngay đây, thưa quý cô!”

“Như trước nhé, nhưng lần này đừng đổ nước vào đó. Tôi chỉ có thể chịu được nước lúc đi tắm thôi, còn ở trong rượu tôi thấy ghét kinh khủng.” “Như quý cô yêu cầu!”

Yennefer đẩy cái đĩa của mình sang một bên. Vẫn còn thịt trên con gà, mà Dandelion nghĩ rằng đủ để cho cả gia đình chủ quán ăn bữa sáng. Một con dao và một cái dĩa rõ ràng là rất thanh lịch và quý phái, nhưng không được hiệu quả cho lắm.

“Cám ơn chị” Dandelion nhắc lại, “vì đã cứu tôi. Tên Rience đáng nguyền rủa đó chắc chắn sẽ không để tôi sống. Hắn sẽ moi móc hết mọi thứ từ tôi rồi làm thịt tôi như một con cừu.”

“Phải, tôi nghĩ hắn sẽ làm vậy!” Cô rót cho nhà thơ và cả cho mình chút rượu và nâng ly lên. “Vậy thì hãy uống mừng cho sức khỏe của cậu nào Dandelion.”

“Và cả của chị nữa, Yennefer.” Cậu chúc lại. “Vì sức khỏe mà bắt đầu từ hôm nay, tôi sẽ cầu chúc mỗi khi nào có thể. Tôi mắc nợ chị, thưa quý cô xinh đẹp, và tôi sẽ trả nợ bằng những bài hát của tôi. Tôi sẽ phá bỏ những lời đồn đại về sự thờ ơ của các pháp sư đối với nỗi đau của kẻ khác, rằng họ hiếm khi ra tay giúp đỡ những kẻ lạ mặt khốn cùng, bất hạnh.

“Phải làm gì đây.” Cô mỉm cười, nửa khép lại đôi mắt tím tuyệt đẹp của mình. “Những lời đồn cũng có cơ sở đó chứ, nó đâu có tự nhiên xuất hiện đâu. Nhưng cậu không phải là người lạ, Dandelion. Tôi biết cậu, và tôi quý cậu.”

“Thật sao?” Nhà thi sĩ cũng mỉm cười. “Vậy thì chị giỏi che dấu điều đó thật. Tôi đã nghe người ta đồn rằng chị không thể chịu đựng được tôi, và tôi xin trích lời, không khác gì dịch bệnh.”

“Nó đã từng như vậy.” Nữ pháp sư đột nhiên trở nên nghiêm túc. “Nhưng sau đó, quan điểm của tôi đã thay đổi. Sau đó, tôi thấy biết ơn cậu.”

“Vì cái gì, cho phép tôi hỏi?”

“Đừng bận tâm,” cô nói, nghịch chiếc ly rỗng trên tay. “Hãy quay trở lại những câu hỏi quan trọng hơn. Những câu mà cậu đã được hỏi trong chuồng heo khi cánh tay bị vặn ngược ra sau. Chuyện gì thực sự đã xảy ra hả, Dandelion? Thực sự cậu chưa từng gặp lại Geralt sau khi chia tay nhau ở bờ sông Yaruga ư? Cậu thực sự không biết rằng anh ấy đã quay trở lại phía nam sau chiến tranh? Rằng anh ấy đã bị trọng thương – nguy kịch đến nỗi đã có những lời đồn về cái chết của anh ấy? Cậu không biết gì thật sao?”

“Không, tôi không biết. Tôi đã ở lại Pont Vanis một thời gian dài, trong triều đình của Esterad Thyssen. Và sau đó là Niedamir ở Hengfors…”

“Cậu không biết.” Nữ pháp sư gật gù và cởi chiếc áo thụng ra. Một dải băng nhung đen quấn quanh cổ cô, một ngôi sao được trạm trổ bằng kim cương treo trên đó. “Cậu không biết rằng sau khi vết thương đã lành, Geralt đã đi xuống Transriver? Cậu không thể đoán được anh ấy đi tìm ai sao?”

“Cái đó tôi đoán được. Nhưng tôi không biết anh ấy có tìm thấy cô bé không.”

“Cậu không biết,” cô lặp lại. “Cậu, người mà thường biết mọi thứ, và rồi hát về mọi thứ. Kể cả những điều nhạy cảm như cảm xúc của ai đó. Tôi có nghe bài hát của cậu dưới gốc Bleobheris, Dandelion. Cậu có hát vài câu rất hay về tôi.”

“Thơ ca,” cậu lầm bầm, nhìn vào mấy con gà, “có quyền của nó. Không ai nên cảm thấy bị xúc phạm…”

“Tóc đen như cánh quạ, như cơn bão trong đêm…” Yennefer trích dẫn với âm điệu phóng đại lên, “…và trong đôi mắt tím, ánh chớp đang yên ngủ…”. “Có phải như thế không?”

“Đó là những gì mà tôi nhớ về chị.” Nhà thơ cười nhạt. “Hãy để cho kẻ nào nói rằng đó là miêu tả sai sự thật lên tiếng đầu tiên.”

“Chỉ có điều là, tôi không biết…” Nữ pháp sư cắn môi, “ai cho phép cậu miêu tả các cơ quan nội tạng của tôi. Nó như thế nào nhỉ?”, “Trái tim cô, như viên đá quý đeo quanh cổ. Cứng như thể làm từ kim cương, và cũng như kim cương, lạnh lẽo, sắc hơn đá nham thạch, cắt đứt…”. “Cậu tự bịa ra đó à? Hay là…?”

Môi cô mím vào nhau, run run.

“…hay là cậu nghe được từ lời tâm sự và bộc bạch của ai đó hả?”

“Hmm…”, Dandelion hắng giọng và cố lảng tránh khỏi chủ đề nguy hiểm này. “Nói tôi nghe đi, Yennefer, lần cuối chị gặp Geralt là khi nào?”

“Từ rất lâu rồi.” “Sau chiến tranh?”

“Sau chiến tranh…” giọng Yennefer có chút thay đổi. “Không, tôi chưa gặp lại anh ấy từ sau chiến tranh. Trong một thời gian dài rồi…tôi không gặp ai hết cả. Giờ thì, quay trở lại vấn đề chính, nhà thơ. Tôi khá ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cậu chẳng biết gì cả, cậu chẳng nghe ngóng được gì cả, và mặc dù vậy, vẫn có kẻ trói cậu lên xà nhà để moi thông tin. Cậu không thấy lo à?”

“Có chứ.”

“Hãy nghe tôi nói đây,” cô nói rành mạch, gõ chiếc ly xuống bàn. “Hãy nghe cho kỹ đây.

Gạch bài hát đó ra khỏi tiết mục của cậu đi. Đừng có hát nó nữa.” “Chị đang nói về…”

“Cậu biết chính xác tôi đang nói về cái gì. Hãy hát về cuộc chiến với Nilfgaard. Hãy hát về Geralt và tôi, cậu sẽ không hãm hại hay giúp đỡ ai hết cả, cậu sẽ không khiến thứ gì tốt lên hay tệ đi. Nhưng đừng có hát về Sư Tử Con của Cintra.”

Cô nhìn quanh một lượt để chắc chắn không có người khách nào vào giờ này nghe lén, và đợi đến khi cô hầu bàn đã xuống bếp rồi.

“Và hãy cố đừng gặp mặt đối mặt với những người mà cậu không quen biết một mình nữa,” cô nói khẽ. “Những người mà “quên” không tự giới thiệu bản thân bằng cách gửi lời chào từ một người bạn chung. Hiểu chứ?”

Cậu nhìn cô ngạc nhiên. Yennefer mỉm cười. “Dijkstra gửi lời chào đến cậu, Dandelion.”

Giờ thì đến lượt nhà thi sĩ lấm lét nhìn xung quanh. Sự ngạc nhiên của cậu hẳn phải rất rõ ràng và biểu cảm của cậu buồn cười đến mức nữ pháp sư nở một nụ cười chế nhạo.

“Và sẵn tiện nhắc đến vấn đề này,” cô thì thầm, nghiêng người qua bàn, “Dijkstra đang yêu cầu báo cáo. Cậu đang trên đường quay trở về từ Verden và ông ta rất nóng lòng muốn biết triều đình vua Ervyll đã nói những gì. Ông ta nhờ tôi chuyển lời đến cậu rằng lần này bản báo cáo phải ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề và không được phép có vần trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Văn xuôi, Dandelion, văn xuôi.”

Nhà thơ gật đầu và nuốt nước miếng. Cậu im lặng, suy ngẫm về câu hỏi.

Nhưng nữ pháp sư đã đoán ra trước cậu. “Thời buổi khó khăn đang sắp đến,” cô nói nhẹ nhàng. “Khó khăn và nguy hiểm. Thời điểm của thay đổi đang đến. Sẽ thật đáng tiếc khi một người lại thoải mái với suy nghĩ rằng mình chẳng cần làm gì để khiến những thay đổi này là tốt lên. Cậu có đồng ý không?”

Cậu gật đầu đồng ý và hắng giọng. “Yennefer?” “Tôi đang nghe đây, nhà thơ.”

“Những kẻ trong chuồng lợn…Tôi muốn biết chúng là ai, chúng muốn gì, ai cử chúng đến. Chị đã giết hết chúng, nhưng có lời đồn rằng chị có thể moi thông tin thậm chí là từ người chết.”

“Và chẳng lẽ người ta cũng không đồn rằng thuật necromancy là bị cấm sao, do Giáo Phái đã ra lệnh? Hãy bỏ đi, Dandelion. Lũ du côn đó có lẽ cũng chẳng biết được nhiều đâu. Còn kẻ mà đã bỏ trốn…Hmm…hắn thì lại khác.”

“Rience. Hắn là một pháp sư, đúng không?” “Phải. Nhưng không được giỏi cho lắm.”

“Ấy vậy mà hắn vẫn chạy thoát được khỏi chị. Tôi đã thấy hắn làm thế nào – hắn đã teleport mất, đúng không? Như thế chẳng phải là đã chứng tỏ gì đó sao?”

“Quả thật là như vậy. Ai đó đã giúp đỡ hắn. Rience không có đủ thời gian hay sức lực để mở một cánh cửa ôvan lơ lửng giữa không trung. Một cánh cửa như vậy không phải là chuyện đùa chút nào. Rõ ràng là đã có ai khác mở nó. Ai đó quyền năng hơn rất nhiều. Đó là lý do tôi sợ đuổi theo hắn, không biết được có thể sẽ rơi vào chỗ nào. Nhưng tôi có tặng cho hắn một số thứ. Hắn sẽ cần rất nhiều bùa chú và thuốc trị bỏng đặc hiệu, và vẫn sẽ bị dị dạng trong một thời gian.”

“Có lẽ chị sẽ thấy thú vị khi biết hắn là người Nilfgaard.”

“Cậu nghĩ vậy sao?” Yennefer đứng dậy, và với một động tác nhanh nhẹn lôi chiếc dao găm đang dắt trong áo ra lòng bàn tay. “Thời buổi này rất nhiều người mang dao găm của Nilfgaard. Chúng rất thoải mái và tiện lợi…thậm chí có thể giấu trong ngực nữa…”

“Không phải là con dao. Khi hắn tra hỏi tôi, hắn sử dụng cụm từ “Trận Chiến Cintra”, “chinh phạt thành phố” hay cái gì đó tương tự. Tôi chưa từng nghe thấy ai diễn tả những sự kiện đó như vậy. Đối với chúng ta, nó vẫn luôn là một cuộc thảm sát. Trận Thảm Sát Cintra. Không có ai gọi nó bằng cái tên khác cả.”

Nữ pháp sư giơ tay lên, ngắm nghía những móng tay của cô. “Thông minh lắm, Dandelion.

Cậu có đôi tai nhạy bén đấy.”

“Nó là thói quen nghề nghiệp rồi.”

“Tôi tự hỏi không biết cậu đang nói tới nghề gì đây?” Cô cười duyên dáng. “Nhưng cảm ơn thông tin này của cậu. Nó rất đáng giá.”

“Hãy để nó,” cậu trả lời với một nụ cười, “là đóng góp của tôi để giúp những thay đổi trở nên tốt hơn. Nói tôi nghe đi, Yennefer, tại sao Nilfgaard lại quan tâm đến Geralt và cô bé đến từ Cintra đó?”

“Đừng nhúng mũi vào chuyện này.” Cô bất chợt trở nên nghiêm trọng. “Tôi đã bảo cậu hãy quên là đã từng nghe nói đến cháu gái của Calanthe đi cơ mà.”

“Phải, chị có nói vậy. Nhưng tôi đâu có tìm kiếm tư liệu để sáng tác đâu.” “Thế thì cậu tìm cái gì? Rắc rối à?”

“Hãy cứ coi như”, cậu nói khẽ, chống cằm lên tay và nhìn vào mắt nữ pháp sư. “Hãy cứ coi như Geralt đã tìm thấy đứa trẻ. Hãy cứ coi như cuối cùng anh ấy đã tin vào sức mạnh của định mệnh, và đem đứa trẻ đi cùng mình. Đem đi đâu? Rience đã cố tra khảo tôi. Nhưng chị biết mà, Yennefer. Chị biết witcher đang trốn ở đâu mà.”

“Tôi biết.”

“Và chị biết làm cách nào để đến đó.” “Tôi cũng biết cả cái đó.”

“Chị không nghĩ rằng anh ấy nên được cảnh báo sao? Cảnh báo rằng có những kẻ như Rience đang lùng sục tìm anh và cô bé? Tôi sẽ đi, nhưng tôi thực sự không biết nó ở đâu…Cái nơi mà tôi không muốn nhắc đến tên…”

“Hãy nói thẳng vào vấn đề đi, Dandelion.”

“Nếu chị biết Geralt đang ở đâu, chị nên đi cảnh báo anh ấy. Chị nợ anh ấy điều đó mà, Yennefer. Sau cùng thì giữa chị và anh ấy đã có gì đó.”

“Phải.” cô nói lạnh lùng. “Đã có gì đó giữa chúng tôi. Đó là lý do vì sao tôi hiểu anh ấy đôi chút. Anh ấy không thích sự giúp đỡ bị áp đặt lên mình. Và nếu anh ấy thực sự cần giúp, anh ấy sẽ tự tìm đến những người mà mình tin tưởng. Đã qua một năm rồi, và tôi…Tôi không nghe được tin gì về anh ấy cả. Còn về nợ nần, tôi nợ anh ấy cũng như anh ấy nợ tôi. Không nhiều hơn, cũng không ít hơn.”

“Vậy thì tôi sẽ đi.” Cậu ngẩng cao đầu. “Nói cho tôi biết…”

“Tôi sẽ không nói,” cô cắt lời. “Vỏ bọc của cậu đã bị lộ rồi, Dandelion. Chúng có thể sẽ lại đuổi theo cậu, cậu càng biết ít thì càng an toàn hơn. Hãy biến khỏi đây. Hãy đến Redania, đến gặp Dijkstra và Philippa Eilhart, hãy ở lại trong triều đình của vua Vizimir. Và tôi cảnh báo cậu lần nữa: hãy quên Sư Tử Con của Cintra đi. Hãy quên Ciri đi. Vờ như cậu chưa từng nghe nói đến cái tên đó. Hãy làm như tôi bảo. Tôi không muốn có điều gì xấu xảy ra với cậu đâu. Tôi quý cậu quá nhiều, nợ cậu quá nhiều…”

“Chị đã nói thế rồi. Chị nợ tôi cái gì hả, Yennefer?”

Nữ pháp sư quay đi chỗ khác, không nói gì trong một lúc.

“Cậu đã đi cùng anh ấy,” cuối cùng cô nói. “Nhờ cậu mà anh ấy không phải đơn độc. Cậu đã là một người bạn đối với anh ấy. Cậu đã ở bên cạnh anh ấy.”

Người nhạc sĩ cúi đầu.

“Anh ấy cũng chẳng nhận được gì nhiều đâu,” cậu lầm bầm. “Anh ấy cũng chẳng nhận được gì nhiều từ tình bạn của chúng tôi. Anh ấy toàn gặp rắc rối vì tôi cả. Anh ấy thường xuyên phải cứu tôi…giúp tôi…”

Cô rướn người qua cái bàn, nắm lấy bàn tay cậu, siết mạnh và không nói gì. Đôi mắt cô tràn đầy hối tiếc.

“Hãy đến Redania,” cô lặp lại sau một lúc. “Đến Tretogor. Hãy ở lại dưới sự bảo hộ của Dijkstra và Philippa. Đừng chơi trò anh hùng nữa. Cậu đã dính vào những rắc rối nghiêm trọng đấy, Dandelion.”

“Tôi có nhận thấy.” Cậu cau mặt và xoa xoa lên đôi vai đau nhức của mình. “Và đó chính là lý do mà tôi tin Geralt nên được cảnh báo. Chị là người duy nhất biết phải tìm anh ấy ở đâu. Chị biết đường đến đó. Tôi đoán chắc chị đã từng là khách ở đó…?”

Yennefer quay mặt đi. Dandelion nhìn thấy môi cô mím lại, cơ má cô hơi giật.

“Phải, trong quá khứ.” Cô nói và có gì đó mơ màng và lạ lẫm trong giọng nói của cô. “Tôi đã từng là khách ở đó, vài lần. Nhưng chưa bao giờ không mời mà đến.”

***

Những cơn gió gào thét man rợ, xuyên qua những ngọn cỏ mọc trên đống tàn tích, xào xạc qua những bụi sơn trà và tầm ma. Những đám mây dạt ra khỏi mặt trăng, và trong một khoảnh khắc chiếu sáng tòa lâu đài vĩ đại, hào nước và một vài bức tường với một ánh sáng nhợt nhạt nhấp nhô những bóng đen, và để lộ ra những núi xương sọ nhe hàm răng đã gãy ra và nhìn vào khoảng không vô tận bằng lỗ đen trong hốc mắt chúng. Ciri kêu lên và giấu mặt vào trong áo khoác của witcher.

Con ngựa, bị gót của witcher thúc nhẹ vào hông, cẩn thận bước qua một đống gạch và bậu cửa gãy nát. Những chiếc móng của nó gõ lên nền đá, tạo nên những tiếng vang kỳ lạ giữa những bức tường, bị những cơn gió dìm đi. Ciri run lẩy bẩy, cho tay vào trong bờm ngựa.

“Con sợ lắm,” cô bé thì thầm.

“Không có gì phải sợ cả,” witcher trả lời, đặt bàn tay anh lên vai cô. “Khó để mà tìm được nơi nào trên thế giới an toàn hơn. Đây là Kaer Morhen, Pháo Đài của Witcher. Đã từng có một tòa lâu đài tuyệt đẹp ở đây. Từ lâu rồi.”

Cô bé không đáp lại, cúi thấp đầu xuống. Con ngựa của witcher, tên Roach, khịt mũi khe khẽ, như thể muốn trấn an cô bé.

Họ hòa mình vào trong bóng tối, trong một đường hầm dài với cột chống và bậu cửa. Roach bước đi tự tin và tự nguyện, phớt lờ bóng tối dày đặc, và móng của nó âm vang trên nền đá.

Phía trước họ, ở cuối đường hầm, một đường kẻ nằm thẳng đứng bỗng lóe lên với ánh sáng đỏ. Càng dài hơn và rộng ra, nó trở thành một cánh cổng mà đằng sau đó hiện lên những ánh đuốc lập lòe treo trên những bức tường của tòa lâu đài. Một bóng người đen ngòm đứng trước cổng, mờ đi trong ánh sáng.

“Ai đó?” Ciri nghe thấy một giọng hung tợn, vang âm như kim loại, nghe như tiếng chó sủa. “Geralt à?”

“Phải, Eskel. Là tôi đây.” “Vào đi.”

Witcher xuống ngựa, bế Ciri khỏi yên, đặt cô bé xuống đất và dúi một túi đồ vào bàn tay nhỏ bé của cô. Ciri nắm chặt lấy túi đồ, chỉ tiếc rằng nó quá bé để cô có thể nấp sau đó.

“Hãy đợi ở đây với Eskel,” anh nói. “Ta sẽ dắt Roach vào chuồng.”

“Hãy bước ra ánh sáng nào, nhóc con,” người đàn ông tên Eskel gầm gừ. “Đừng đứng nấp trong bóng tối như thế.”

Ciri nhìn lên gương mặt anh ta và gần như không kìm nổi tiếng thét. Anh ta không phải người. Mặc dù anh ta đứng bằng hai chân, mặc dù anh ta có mùi mồ hôi và khói, mặc dù anh ta mặc quần áo con người, nhưng anh ta không phải là người. Không có con người nào lại có bộ mặt như vậy cả, cô bé nghĩ.

“Nào, còn đợi cái gì nữa?” Eskel lặp lại.

Cô bé không di chuyển. Trong bóng tối cô nghe thấy tiếng vó ngựa của Roach xa dần đi. Có cái gì đó mềm và kêu chít chít chạy qua chân cô bé. Cô bé nhảy dựng lên.

“Đừng có đứng trong bóng tối, không là chuột sẽ gặm giầy của em đấy.”

Vẫn còn bám khư khư lấy túi đồ, Ciri bước nhanh chân ra phía ánh sáng. Con chuột bám trên giầy cô bé bỏ chạy. Eskel nghiêng người xuống, lấy chiếc túi trên tay cô bé và kéo mũ trùm đầu của cô xuống.

“Bệnh dịch bắt tôi đi,” anh lẩm nhẩm. “Một đứa bé gái. Đúng là tất cả những gì chúng ta cần.”

Cô liếc nhìn anh, sợ sệt. Eskel đang mỉm cười. Cô bé có thể thấy hóa ra anh vẫn là con người, rằng anh có một gương mặt của con người, một gương mặt bị biến dạng bởi một vết sẹo dài, xấu xí, vòng từ khóe môi anh chạy dọc theo má đến mang tai.

“Thôi thì em đã ở đây rồi, chào mừng đến Kaer Morhen,” Anh nói, “Người ta gọi em là gì?” “Ciri,” Geralt trả lời giùm cô bé, lặng lẽ bước ra từ trong bóng tối. Eskel quay người lại. Đột

ngột, nhanh nhẹn, không lời nào, các witcher ôm lấy nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. “Sói, cậu vẫn còn sống.”

“Tôi vẫn còn sống.”

“Được rồi,” Eskel cầm lấy một ngọn đuốc. “Đi nào. Tôi sẽ đóng cửa sân trong lại để giữ nhiệt không thoát ra ngoài.”

Họ bước dọc hành lang. Ở đây cũng có chuột, chúng chạy dọc những bức tường, kêu chít chít trong bóng tối ở phía trước lối đi và bỏ chạy tán loạn khi ánh sáng từ ngọn đuốc soi đến. Ciri bước nhanh chân, cố gắng bắt kịp hai người đàn ông.

“Ai đang trú đông ở đây, Eskel? Ngoại trừ Vesemir ra?” “Lambert và Coen.”

Họ bước xuống một cầu thang dốc và trơn. Có ánh sáng hắt lên từ phía trước. Ciri nghe thấy những giọng nói, ngửi thấy mùi khói trong không trung.

Đại sảnh rất rộng, và tràn ngập ánh sáng từ một cái lò sưởi vĩ đại. Trung tâm của đại sảnh đặt một chiếc bàn khổng lồ, nặng nề. Ít nhất 10 người có thể ngồi quanh cái bàn đó. Có ba người. Ba con người. Ba witcher, Ciri đính chính lại. Cô bé không thấy gì ngoại trừ những cái bóng của họ in lên nền nhà.

“Chào mừng, Sói. Chúng ta đang đợi cậu đây.”

“Xin chào, Vesemir. Xin chào, các anh em. Thật tốt khi được về nhà.” “Cậu đem ai về đây?”

Geralt im lặng trong một lát, rồi đặt bàn tay anh lên vai Ciri và khẽ đẩy cô bé về phía trước. Cô bé bước đi kỳ quặc, vụng về, ngần ngại, lưng hơi gù và đầu cúi thấp. Mình đang hoảng sợ, cô bé nghĩ, mình đang rất hoảng sợ. Khi Geralt tìm thấy mình, khi cha đem mình đi cùng ông, mình đã nghĩ nỗi sợ sẽ không quay lại nữa. Mình đã nghĩ nó đã biến mất rồi…Và bây giờ, thay vì ở nhà, mình lại ở cái lâu đài cũ kỹ, khủng khiếp, đen đúa đầy chuột và những tiếng hú ghê rợn này…Mình lại đứng trước một bức tường lửa đỏ chói. Mình thấy những bóng đen nham hiểm, những cặp mắt hung tợn, ghê rợn nhìn mình chằm chằm…

“Đứa trẻ này là ai hả Sói? Đứa bé gái này là ai?”

“Con bé là…” Geralt đột nhiên vấp lời. Cô bé cảm nhận thấy bàn tay mạnh mẽ, thô ráp của anh trên vai mình. Và bỗng dưng, nỗi sợ biến mất không một dấu vết. Ngọn lửa đỏ tỏa ra hơi ấm. Chỉ có hơi ấm mà thôi. Những bóng đen này là bóng hình của bạn bè. Những người quan tâm đến cô bé. Đôi mắt ánh lên của họ lộ vẻ tò mò. Lo lắng. Và bất an…

Bàn tay Geralt nắm chặt lấy vai Ciri. “Con bé là định mệnh của chúng ta.”

Không có gì xấu xa, hay trái ngược với tự nhiên hơn những con quái vật được biết đến với cái tên witcher, bởi vì chúng là sản phẩm của tà thuật hắc ám và quỷ dữ. Chúng là những kẻ vô lại không lương tâm, phẩm hạnh hay hoài nghi, những tạo vật độc ác thuần túy, chỉ thích hợp để giết chóc. Không có chỗ dành cho chúng trong xã hội của những con người lương thiện.

Và Kaer Morhen, nơi những con quái vật này ẩn náu, nơi chúng thực hành tà thuật của mình, cần phải bị xóa sổ khỏi bề mặt trái đất này, và tất cả dấu vết của nó phải bị đốt trụi và rắc muối.

  • Nặc danh, Monstrum hay Những mô tả về Witcher.

Không khoan dung và mê tín đã luôn là lãnh thổ của những kẻ ngu dốt trong số những người dân lương thiện, và tôi phỏng đoán, sẽ không bao giờ có thể nhổ tận gốc, bởi vì chúng trường tồn cũng như bản thân sự ngu dốt vậy. Ngọn núi ngày hôm nay, có thể sẽ trở thành đại dương vào ngày mai. Đại dương ngày hôm nay, có thể trở thành sa mạc vào ngày mai. Nhưng sự ngu dốt sẽ vẫn là sự ngu dốt.

  • Nicodemus de Boot, Chiêm nghiệm về cuộc đời, hạnh phúc và thịnh vượng.

About The Author

Ngo David

Power is Power