Trò chơi vương quyền 3C – Tử hôn

Trò chơi vương quyền 3C – Tử hôn

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 26

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Cậu mơ thấy mình quay về Winterfell, khập khiễng đi qua dãy tượng đá các vị vua đang ngồi trên ngai. Những cặp mắt đá lạnh lẽo màu xám của họ dõi theo khi cậu bước qua, và những ngón tay xanh xám siết chặt chuôi các thanh kiếm han gỉ ở vạt áo. Ngươi không phải người Nhà Stark, cậu nghe thấy tiếng họ thì thầm bằng giọng nói nặng nề như đá. Ở đây không có chỗ cho ngươi. Hãy đi đi. Cậu tiến sâu hơn vào bóng tối. “Cha ơi?” cậu gọi. “Bran ơi? Rickon ơi?” Không có tiếng trả lời. Một cơn gió lạnh buốt thổi vào mặt cậu. “Chú ơi?” cậu gọi. “Chú Benjen ơi? Cha ơi? Xin cha, hãy cứu con.” Từ phía trên cao cậu nghe thấy tiếng trống. Họ đang ăn tiệc ở Đại Sảnh, nhưng mình không được chào đón ở đó. Mình không phải người Nhà Stark, và đây không phải chỗ của mình. Chiếc nạng của cậu bị trượt và cậu quỳ sụp xuống. Hầm mộ càng lúc càng tối hơn. Ánh sáng đã biến đâu hết cả. “Ygritte phải không?” cậu thì thầm. “Hãy tha thứ cho ta. Xin em.” Nhưng đó chỉ là một con sói, xám ngoét và nhợt nhạt, loang lổ vết máu, đôi mắt vàng của nó ánh lên buồn bã trong màn đêm…

Căn phòng tối mịt, chiếc giường cứng ngắc dưới lưng cậu. Chiếc giường của chính cậu, Jon chợt nhớ ra, chiếc giường của riêng cậu trong căn buồng dành cho người giúp việc bên dưới phòng Gấu Già. Đáng lý ra nó phải đem đến cho cậu những giấc mơ ngọt ngào mới đúng. Thậm chí nằm dưới tấm lông thú nhưng cậu vẫn cảm thấy lạnh. Bóng Ma đã ở cùng cậu trong căn buồng này, trước khi họ tham gia cuộc đi rừng, và Bóng Ma khiến căn phòng ấm áp hơn trước cơn giá lạnh của đêm tối. Và trong rừng hoang, Ygritte đã ngủ bên cậu. Nhưng giờ cả hai đều đi rồi. Cậu đã tự tay thiêu xác Ygritte, vì cậu biết rằng cô sẽ muốn như vậy, và Bóng Ma… Mày đang ở đâu? Hay nó cũng đã chết, như con sói đẫm máu trong hầm mộ mà cậu đã mơ thấy? Nhưng con sói trong giấc mơ có màu xám, không phải trắng. Màu xám, giống con sói của Bran. Liệu bọn người Thenn có săn lùng và giết nó sau trận hỗn chiến ở Tháp Hoàng Hậu không? Nếu vậy, cậu sẽ mất dấu Bran mãi mãi.

Jon đang cố lý giải giấc mơ đó thì tiếng tù và vang lên.

Tiếng Tù Và Mùa Đông, cậu nghĩ, vẫn đang mơ hồ bởi giấc ngủ. Nhưng Mance không bao giờ tìm thấy chiếc tù và của Joramun, vì vậy không thể là tiếng tù và đó. Đợt tù và thứ hai vang lên, dài và sâu như đợt đầu. Cậu biết mình phải dậy và ra Tường Thành, nhưng điều đó thật khó…

Cậu lật tấm lông thú sang một bên và ngồi dậy. Cơn đau từ cái chân bị thương dường như đã đỡ nhức nhối hơn, không có gì cậu không thể chịu đựng được. Cậu mặc cả quần, áo chẽn và áo lót đi ngủ, để có thêm hơi ấm, nên giờ cậu chỉ phải xỏ ủng và khoác thêm áo da, áo giáp và áo choàng. Tiếng tù và lại vang lên, hai hồi dài, và cậu đeo thanh Móng Dài lên vai, tìm nạng và tập tễnh đi xuống cầu thang.

Bên ngoài trời tối mịt, lạnh căm căm và u ám. Các chiến hữu của cậu đang ào ra khỏi những tòa tháp và thành lũy, vừa đi vừa đeo bao kiếm và hướng về phía Tường Thành. Jon tìm Pyp và Grenn nhưng không thấy. Có lẽ một người trong số họ đang bận trực phiên gác để thổi tù và. Mance đến, cậu thầm nghĩ. Cuối cùng hắn cũng đến. Hay lắm. Chúng ta sẽ đánh thêm một trận này nữa rồi nghỉ. Dù sống hay chết, chúng ta cũng sẽ được nghỉ.

Nơi từng là cầu thang bây giờ chỉ còn lại một đống lớn tro củi và băng vỡ bên dưới Tường Thành. Dây tời sẽ kéo họ lên, nhưng cái lồng chỉ đủ chứa mười người một lúc, và nó đang được kéo lên khi Jon đến nơi. Cậu phải đợi đến khi nó quay xuống. Mấy người nữa cũng đứng đợi cùng cậu; Sa-tanh, Mully, Ủng Rỗng, Kegs, Hareth mập tóc vàng với hàm răng thỏ. Mọi người gọi nó là Ngựa. Nó đã từng coi ngựa tại thị trấn Mole, và là một trong số ít người dân ở lại Hắc Thành. Những người còn lại đều đã quay về với đồng ruộng và lều trại, hoặc về những chiếc giường trong nhà chứa xây dưới lòng đất của họ. Nhưng thằng Ngựa lại muốn mặc áo choàng đen, đúng là một thằng ngốc răng thỏ. Zei cũng ở lại, ả gái điếm đó tỏ ra khá cừ với cung tên, còn Noye giữ lại ba đứa bé mồ côi vì cha chúng đã bị chết. Chúng vẫn còn nhỏ – một đứa chín, một đứa tám và một đứa mới năm tuổi – nhưng không ai tỏ ra muốn có chúng cả.

Lúc đứng chờ lồng sắt quay lại, Clydas mang đến cho họ mấy cốc rượu hâm nóng trong khi Hobb Ba Ngón chuyển đến mấy khoanh bánh mì đen. Jon lấy một mẩu bánh rồi bắt đầu gặm.

“Có phải là Mance Rayder không?” Sa-tanh lo lắng hỏi.

“Hy vọng là vậy.” Còn có những thứ đáng sợ hơn là đám dân du mục trong bóng tối. Jon nhớ đến những lời mà vua du mục đã nói trên Đỉnh Nắm Đấm, khi họ đứng giữa đám tuyết đỏ au vì máu. Khi xác chết trỗi dậy, những bức tường thành, hố chông và kiếm cũng chẳng có tác dụng gì. Ngươi không thể chiến đấu với xác chết, Jon Snow ạ. Không kẻ nào biết điều đó rõ bằng ta. Chỉ nghĩ đến điều đó thôi cũng khiến gió dường như lạnh giá hơn rồi.

Cuối cùng thì chiếc lồng cũng lanh canh đi xuống, nó đu đưa khi đến cuối đoạn xích dài, họ lặng lẽ bước vào trong rồi đóng cửa lại.

Mully giật dây chuông ba cái. Một lát sau họ bắt đầu đi lên, lúc đầu hơi giật nhưng sau đó thì êm ả hơn. Không ai nói gì. Lên đến trên đỉnh, chiếc lồng quăng sang bên và từng người một trèo ra. Thằng Ngựa đưa một tay giúp Jon bước chân xuống tảng băng. Cái lạnh táp vào bộ răng của nó mạnh như nắm đấm.

Các đốm lửa cháy thành hàng dọc theo đỉnh Tường Thành, được đựng trong các rổ sắt trên những cây sào cao hơn đầu người. Gió lạnh như cắt khuấy động làm ngọn lửa cuộn lên, khiến ánh sáng màu cam luôn luôn biến đổi. Những bó tên bắn nỏ, mũi tên bắn cung, giáo và trục gỗ bắn đá đã sẵn sàng trong tay. Đá chất thành đống cao 3 mét, những thùng gỗ lớn đựng hắc ín và dầu đốt đèn xếp thành chồng phía sau họ. Bowen Marsh đã bỏ lại mọi thứ ở Hắc Thành, trừ con người. Cơn gió đang quất mạnh vào những chiếc áo choàng đen của đám lính bù nhìn tay lăm lăm ngọn giáo đứng dọc thành lũy. “Tôi hy vọng không phải một trong số chúng đã thổi tù và,” Jon nói với Donal Noye khi cậu tập tễnh bước đến bên ông.

“Cậu có nghe thấy không?” Noye hỏi.

Có tiếng gió, ngựa và tiếng gì đó khác nữa. “Một con voi ma-mút,” Jon đáp. “Đó là voi ma-mút.”

Hơi thở của người thợ đúc vũ khí đóng băng lại ngay khi nó thoát ra khỏi cái mũi to và tẹt của ông. Phía bắc của Tường Thành là một vùng bóng tối bao la dường như cứ giăng ra mãi. Jon có thể nhận ra những đốm lửa đỏ mờ mờ từ phía xa đang di chuyển qua rừng cây. Đó là Mance, rõ ràng như ánh bình minh. Ngoại Nhân không mang theo đuốc sáng.

“Làm sao chúng ta có thể chiến đấu khi không thể nhìn thấy chúng chứ?” thằng Ngựa hỏi.

Donal Noye quay về phía hai chiếc máy bắn đá khổng lồ mà Bowen Marsh đã sửa xong. “Lấy lửa cho ta!” ông gầm lên.

Họ khẩn trương xếp những thùng hắc ín vào khung ná bắn đá và châm lửa từ một ngọn đuốc. Cơn gió nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa thành một cơn giận dữ điên cuồng màu đỏ. “BẮN!” Noye rống lên. Quả đối trọng bật xuống, cái gàu nâng lên đập rầm vào thanh tà vẹt. Đống hắc ín cháy bắn lên lao xuyên qua bóng tối, gieo một luồng sáng nhấp nháy kỳ quái xuống mặt đất phía dưới. Qua ánh sáng lờ mờ đó, Jon thoáng thấy lũ voi ma-mút đang di chuyển chậm chạp và lại nhanh chóng mất hút. Một tá, thậm chí hơn thế. Những cái thùng đập xuống đất và nổ bùng lên. Họ nghe thấy tiếng rống trầm trầm và một tên khổng lồ đang gầm thét bằng Cổ Ngữ, chất giọng sấm rền cổ xưa ấy khiến cột sống của Jon rung lên.

“Lần nữa!” Noye quát, chiếc máy bắn đá lại tiếp tục được nạp lần nữa. Hai thùng hắc ín nữa vỡ răng rắc qua bóng tối mờ mờ lao xuống kẻ địch. Lần này một thùng đập trúng thân cây đã chết, ngọn lửa trùm lấy nó. Jon thấy không phải một tá ma-mút, mà là cả trăm con.

Cậu bước đến mép của vách đá dựng đứng. Phải thận trọng, cậu tự nhủ, đó là một vách đứng rất dài. Alyn Đỏ thổi thêm một hồi tù và nữa, Aaaaahooooooooooooooo, aaaahooooooooooooooo. Và bây giờ đám du mục đáp lại, không phải một mà là cả chục hồi, với cả trống và ống tiêu. Bọn ta đến rồi đây, dường như chúng nói, bọn ta đến để phá tan Tường Thành, để lấy hết đất đai và đánh cắp con gái của các ngươi. Gió rít lên, những chiếc máy bắn đá kêu rắc rắc và đập rầm rầm, hàng đống thùng vun vút lao đi. Đằng sau đám khổng lồ và voi ma-mút, Jon nhìn thấy đoàn người đang tiến đến phía Tường Thành với cung tên và rìu chiến. Chúng có hai mươi hay hai mươi ngàn tên? Không thể biết rõ điều đó trong bóng tối đen kịt thế này. Đây là trận chiến của những người mù, nhưng Mance có nhiều hơn họ ít nhất cả ngàn người.

“Cổng!” Pyp kêu lên. “Chúng đang ở CỔNG!”

Tường Thành quá lớn để có thể bị xâm nhập bằng những cách thức thông thường; quá cao để dùng thang hay tháp vượt thành, quá dày để dùng gỗ công thành. Không cỗ máy nào có thể bắn một tảng đá đủ lớn để làm thủng nó, và nếu cố gắng đốt cháy nó thì những tảng băng tan sẽ dập tắt mọi đám lửa. Cũng có thể trèo qua, giống như lũ trộm đã làm ở gần Greyguard, nhưng chỉ khi nào thật khỏe mạnh, rắn rỏi và chắc tay, mà cho dù có thế thì cũng sẽ nhận được kết cục giống như Jarl, bị đóng cọc trên cây. Chúng phải chiếm được cánh cổng, nếu không chúng sẽ không thể vượt qua.

Nhưng cổng là một đường hầm quanh co xuyên qua lớp băng đá, nhỏ hơn bất cứ cánh cổng lâu đài nào ở Bảy Phụ Quốc, hẹp đến nỗi kỵ binh phải cho ngựa đi qua thành hàng một. Ba cánh cổng sắt đóng chặt lối vào, mỗi cái được khóa, xích và bảo vệ bởi một cái lỗ chết người. Cánh cửa phía ngoài làm bằng gỗ sồi già, dày hơn 20 phân và được tán sắt, khó có thể phá vỡ. Nhưng cậu tự nhủ, Mance còn có đàn voi ma-mút và cả đám khổng lồ nữa.

“Dưới đó chắc chắn lạnh lắm,” Noye nói. “Chúng ta sưởi ấm cho chúng bằng gì đây các cậu?” Một tá bình đựng dầu đốt đèn được xếp thành hàng trên rìa vách đá. Pyp hạ ngọn đuốc xuống, châm lửa cho chúng. Owen Đần đi sau, lần lượt đẩy từng bình qua mép đá. Ngọn lửa màu vàng nhạt cuốn lên xung quanh những cái bình khi chúng lao xuống. Khi bình cuối cùng lao xuống, Grenn đá rời thanh chèn những thùng đựng hắc ín, để chúng lăn ầm ầm rồi lao qua gờ đá. Âm thanh phía dưới chuyển thành tiếng gào thét và la hét, một thứ âm nhạc thật ngọt ngào đối với họ.

Nhưng tiếng trống vẫn vang lên, những chiếc máy bắn đá rung lên rồi đập thình thịch và tiếng kèn túi xuyên qua màn đêm tựa như bài hát của những con chim lạ hung dữ. Septon Cellador cũng bắt đầu ngân nga cầu nguyện, với giọng run run và lè nhè vì rượu.

Đức Mẹ nhân từ, xin hãy rủ lòng thương, cứu giúp những đứa con của con khỏi chiến tranh, chúng con cầu xin người, hãy dừng lại dao kiếm và cung tên, để cho họ biết…

Donal Noye đi vòng quanh ông. “Bất cứ kẻ nào ở đây bỏ dao kiếm của mình xuống, tôi sẽ đá bay cái mông nhăn nhúm của hắn xuống ngay Tường Thành này… bắt đầu từ chính ông đấy tư tế. Các cung thủ! Chúng ta có cung thủ nào không nhỉ?”

“Đây,” Sa-tanh đáp.

“Đây nữa,” Mully lên tiếng. “Nhưng làm sao tôi có thể tìm thấy mục tiêu? Tối như hũ nút thế này. Biết được chúng ở đâu chứ?”

Noye chỉ về phía bắc. “Bắn hết sức, thể nào cậu cũng bắn trúng vài tên. Ít nhất cậu cũng sẽ làm cho chúng bực bội. Ông nhìn một vòng những khuôn mặt sáng ánh lửa. “Ta cần hai cung thủ và hai binh sĩ dùng giáo giúp ta giữ vững đường hầm nếu chúng phá cổng.” Hơn mười người bước lên phía trước và người thợ rèn chọn bốn. “Jon, cậu canh giữ Tường Thành cho đến khi ta quay lại.”

Mất một lúc, Jon tưởng mình nghe nhầm. Như thể Noye đang ra lệnh cho cậu vậy. “Thưa lãnh chúa, sao cơ ạ?”

“Lãnh chúa ư? Ta chỉ là một thợ rèn. Ta nói, Tường Thành giờ là của cậu.”

Có những người lớn tuổi hơn, Jon muốn nói, và giỏi hơn. Tôi vẫn còn non trẻ như ngọn cỏ mùa hè vậy. Lại còn bị thương nữa, và tôi đang bị kết tội đào ngũ. Nhưng miệng cậu khô khốc. “Vâng,” cậu đáp.

Đêm đó, với Jon, mọi việc diễn ra như trong mơ vậy. Sát cánh cùng đám lính canh bù nhìn, với cung dài và nỏ trong đôi tay giá lạnh, đội cung thủ của cậu đã bắn hàng trăm mũi tên về lũ người mà họ không nhìn thấy. Thi thoảng bọn du mục cũng bắn trả. Cậu cử người đến những chiếc máy bắn đá nhỏ hơn và bủa vây không gian bằng những tảng đá lởm chởm cỡ nắm đấm của gã khổng lồ, nhưng bóng tối nuốt chửng lấy chúng như người ta nuốt trọn một nắm đầy quả hạnh vậy. Lũ voi ma-mút rống lên trong bóng đêm, những giọng nói vang lên bằng một ngôn ngữ lạ lùng và Septon Cellador cầu nguyện cho bình minh đến sớm, tiếng cầu nguyện nghe ầm ĩ và lè nhè đến nỗi Jon muốn ném luôn cả người ông xuống bờ đá. Họ nghe thấy tiếng một con ma-mút đang chết phía dưới và nhìn thấy một con khác bị cháy đang lảo đảo trong rừng cây, giày xéo cả người lẫn cây phía dưới. Gió thổi càng lúc càng lạnh. Hobb kéo dây tời để đưa những cốc súp hành lên, còn Owen và Clydas mang chúng đến nơi các cung thủ đang đứng để họ có thể uống một ngụm giữa những đợt bắn. Zei đứng giữa bọn họ với chiếc nỏ của mình. Những chấn động và va chạm liên tục hàng giờ liền khiến phần nào đó ở máy bắn đá bên phải bị long ra, và phần đối trọng của nó nảy tự do, bất ngờ vặn mạnh cái gàu múc sang bên khiến nó vỡ vụn một cách thê thảm. Cái bên tay trái vẫn tiếp tục bắn nhưng đám man di nhanh chóng học được cách tránh xa nơi thả đạn.

Lẽ ra chúng ta phải có hai mươi cái máy chứ không phải hai cái thế này, và chúng phải được đặt trên những đường ray và bàn xoay để có thể di chuyển chúng. Đó quả là một suy nghĩ vô ích. Cậu cũng ước có thêm một ngàn người nữa, và cả một hoặc ba con rồng.

Donal Noye không quay lại, cả những người đã đi cùng ông trấn giữ cái đường hầm tối tăm lạnh lẽo đó cũng không. Tường Thành là của mình, Jon tự nhủ mỗi khi cậu cảm thấy sức mạnh của mình giảm sút. Cậu tự nhấc cung tên lên bắn nhưng các ngón tay sắp cóng lại của cậu lúng túng và cứng nhắc. Cơn sốt cũng đã quay lại và cái chân thì run rẩy không kiểm soát nổi, chúng gây ra cho cậu nỗi đau như bị dao nóng cắt xuyên qua người. Một mũi tên nữa thôi rồi mình sẽ nghỉ ngơi, cậu tự nhủ, đến cả năm sáu mươi lần. Chỉ thêm một mũi nữa thôi. Mỗi khi ống tên của cậu hết, một trong ba đứa trẻ mồ côi lại mang đến cho cậu ống tên khác. Thêm ống này nữa là xong. Bình minh không còn lâu nữa đâu.

Khi ban mai đến, lúc đầu không một ai trong số họ nhận ra. Vạn vật vẫn tối đen nhưng màu đen đã dần chuyển thành màu xám và những hình thù trong bóng đêm bắt đầu lờ mờ hiện ra. Jon hạ thấp cung tên xuống để nhìn một đám mây dày đặc đang che phủ bầu trời phía đông. Cậu nhìn thấy một tia nắng phía sau chúng nhưng có lẽ cậu chỉ đang mơ mà thôi. Cậu lắp một mũi tên khác.

Rồi mặt trời bình minh cũng ló rạng, mang đến những tia nắng nhợt nhạt trên bãi chiến trường. Jon thấy mình đang nín thở khi cậu nhìn khu đất trống rộng đến nửa dặm bên dưới Tường Thành và bìa rừng. Trong nửa đêm họ đã biến nó thành một bãi rác với cỏ cây cháy đen, những đống hắc ín sủi bọt và xác chết. Xác một con voi ma-mút bị cháy đã ngay lập tức thu hút lũ quạ. Cũng có vài gã khổng lồ chết dưới đất, nhưng đằng sau họ…

Ai đó đang rên rỉ phía bên trái cậu và giọng Septon Cellador vang lên, “ôi Đức Mẹ nhân từ. Ôi ôi ôi, Đức Mẹ nhân từ.”

Dưới rặng cây là cả đội quân du mục trên khắp thế gian này; kẻ cướp và người khổng lồ, người biến hình và người đội lốt, người rừng núi, thủy thủ biển nước mặn, bọn ăn thịt người ở sông băng, đám ăn hang ở lỗ với khuôn mặt nhuộm màu, xe trượt chó kéo từ Đảo Băng, lũ người Hornfoot với bàn chân giống như da thuộc, tất cả đám người kỳ quái mà Mance đã tập hợp lại để phá Tường Thành. Đây không phải chỗ của các người, Jon muốn hét vào bọn chúng. Ở đây không có chỗ cho các ngươi đâu. Hãy xéo đi. Cậu có thể nghe thấy Tormund Giantsbane cười vào mặt cậu. “Anh chẳng biết gì hết, Jon Snow,” Ygritte chắc sẽ nói vậy. Cậu bẻ cong bàn tay cầm kiếm, co duỗi các ngón tay mặc dù cậu biết rõ rằng những thanh kiếm sẽ không được sử dụng ở phía trên này.

Cậu đang lạnh cóng và hơi sốt, rồi bỗng dưng cung tên cũng trở nên quá nặng. Cậu nhận ra trận chiến với Magnar không có ý nghĩa gì, cả trận đêm qua nữa, chỉ là đòn đánh nhử mà thôi, như việc cố đâm con dao găm vào kẻ nào đó trong bóng tối mà không hề được chuẩn bị trước. Trận chiến thực sự bây giờ mới bắt đầu.

“Tôi không biết là chúng đông như thế này,” Sa-tanh nói.

Nhưng Jon biết. Trước đây cậu đã từng nhìn thấy chúng, nhưng không giống bây giờ, lúc đó chúng không bày binh bố trận, hàng ngũ cũng không chỉnh tề như lúc này. Khi hành quân, từng hàng người du mục kéo dài đến vài dặm giống như những con sâu khổng lồ, nhưng mình chưa bao giờ nhìn thấy tất cả bọn chúng cùng một lúc như vậy. Nhưng giờ thì…

“Chúng đến rồi,” ai đó nói giọng khàn khàn.

Những con ma-mút đi giữa hàng người, cậu nhìn thấy một trăm con hoặc hơn, với những gã khổng lồ cưỡi trên lưng tay cầm vồ và rìu đá vô cùng lớn. Đám khổng lồ đi bên cạnh còn đông hơn, đang kéo một thân cây đầu vót nhọn bằng những bánh xe gỗ to vật. Một phiến gỗ công thành, cậu chán nản nghĩ. Nếu cánh cổng phía dưới vẫn đứng vững thì vài nhát đập sẽ nhanh chóng biến nó thành một đống gỗ vụn. Phía bên kia của đám khổng lồ là lớp lớp kỵ binh trên những bộ yên cương bằng da thuộc với cây thương được tôi lửa, một đội quân cung thủ chạy đà, hàng trăm tên trang bị giáo mác, ná, gậy và khiên da. Hai bên cánh là hàng xe ngựa kéo vùng Đảo Băng đang lóc cóc tiến về trước, nảy lên vì đá và rễ cây, sau một đàn chó trắng to lớn. Cơn giận dữ khủng khiếp của thế giới hoang dã, Jon nghĩ khi nghe thấy tiếng kèn túi kêu te te, tiếng chó sủa, tiếng voi ma-mút rống lên, lũ dân du mục huýt sáo và gào thét, bọn khổng lồ gầm lên bằng Cổ Ngữ. Tiếng trống của chúng dội vào băng đá như tiếng sấm rền.

Cậu có thể cảm nhận được sự tuyệt vọng xung quanh mình. “Có đến một trăm ngàn tên ấy,” Sa-tanh rên rỉ. “Chúng đông thế kia, ta làm sao mà ngăn được chúng đây?”

“Tường Thành sẽ ngăn cản chúng,” Jon nghe thấy tiếng của chính mình. Cậu quay sang và nói lại lần nữa, lớn tiếng hơn. “Tường Thành sẽ ngăn cản chúng. Tường Thành sẽ tự bảo vệ chính mình.” Những lời nói trống rỗng, nhưng chúng cần được thốt ra, và anh em của cậu cần được nghe thấy. “Mance muốn chúng ta nhụt chí trước số quân đông đảo của hắn. Hắn nghĩ chúng ta ngu ngốc sao?” Cậu đang hét lên, quên cả cái chân đang đau và tất cả mọi người cũng đang lắng nghe cậu. “Xe chó kéo, kỵ binh, tất cả lũ ngu ngốc đi bộ đó… chúng định làm gì khi chúng ta ở trên này chứ? Đã có ai trong các cậu nhìn thấy một con ma-mút trèo tường chưa?” Cậu cười và Pyp, Owen cùng năm sáu người nữa cười theo. “Chúng chẳng là cái gì, chúng vô dụng như những cậu bạn bù nhìn rơm của chúng ta ở đây mà thôi, chúng không thể chạm vào chúng ta, không thể làm đau ta và chúng không làm ta khiếp sợ phải không nào?”

“KHÔNG.” Grenn hô vang.

“Chúng ở dưới kia còn ta ở trên này,” Jon nói tiếp, “và khi nào ta giữ vững cánh cổng thì chúng không thể vượt qua được. Chúng không thể vượt qua được!” Sau đó tất cả mọi người cùng hô vang theo lời của cậu, vẫy kiếm và cung tên trên không với những đôi má ửng đỏ. Jon nhìn thấy Kegs đứng đó với cái tù và chiến lủng lẳng trên cánh tay. “Người anh em,” cậu nói với anh ta, “thổi tù và khai chiến đi.”

Cười toe toét, Kegs đưa tù và lên môi rồi thổi hai hồi dài báo hiệu có quân du mục. Những chiếc tù và khác vang lên theo cho đến khi Tường Thành dường như cũng rung lên và thứ âm thanh như tiếng rền rĩ từ sâu trong cuống họng đó dội lại lấn át mọi tiếng động khác.

“Các cung thủ,” Jon nói khi tiếng tù và dứt, “các anh hãy nhắm vào bọn khổng lồ cầm gỗ công thành, tất cả các anh. Bắn theo lệnh của tôi, không được nhả tên trước khi có lệnh. BỌN KHỔNG LỒ VÀ GỖ CÔNG THÀNH. Tôi muốn mũi tên dội xuống theo từng bước chúng đi, nhưng chúng ta sẽ đợi cho đến khi chúng vào tầm bắn. Bất kể ai, chỉ cần lãng phí một mũi tên thôi, thì cứ trèo xuống dưới mà nhặt về, các anh nghe rõ chưa?”

“Tôi nghe rõ rồi,” Owen Đần hét lên. “Tôi nghe rõ, thưa Lãnh chúa Snow.”

Jon cười lớn, như một tên say rượu hay một gã điên, và người của cậu cũng cười theo. Cậu quan sát thấy những chiếc xe kéo và kỵ binh hai bên cánh giờ đang ở đầu nhóm trung tâm. Bọn man di chưa đi qua một phần ba dặm, nhưng chiến tuyến đã bị hòa tan. “Đưa chông sắt vào máy bắn đá,” Jon ra lệnh. “Owen, Kegs, chuyển hướng máy bắn vào khu trung tâm. Scorpions, đặt giáo phóng hỏa và bắn theo lệnh của tôi.” Cậu chỉ vào mấy cậu bé thị trấn Mole. “Cậu, cậu, và cậu, đứng đó cầm đuốc sẵn sàng.”

Cung thủ của bọn man di vừa tiến đến vừa bắn, chúng lao về phía trước, dừng lại, bắn rồi lại chạy tiếp 100 mét nữa. Chúng bắn nhiều đến nỗi khoảng không dày đặc cung tên, tiếc là tất cả đều bay được một đoạn ngắn rồi rơi xuống. Lãng phí, Jon thầm nghĩ. Chúng cần có một bài học. Loại cung nhỏ bằng gỗ và sừng của đám du mục có tầm bắn xa bằng một chiếc cung lớn làm bằng gỗ thủy tùng của Đội Tuần Đêm, và bọn chúng đang cố bắn lên đám người đứng cao hơn chúng 200 mét. “Cứ để chúng bắn,” Jon nói. “Chuẩn bị. Giữ yên.” Áo choàng đen bay phần phật sau lưng họ. “Gió thổi trước mặt chúng ta, nên tầm bắn phải xa hơn. Chuẩn bị.” Gần hơn nữa, hơn nữa. Kèn túi rền rĩ, trống khua âm vang, mũi tên của đám man di bắn lên rồi lại rơi xuống.

“KÉO CUNG.” Jon nhấc cung của mình lên rồi kéo mũi tên về phía tai. Sa-tanh cũng vậy, và cả Grenn, Owen Đần, Ủng Rỗng, Jack Bulwer Đen, Arron và Emrick. Zei cũng nhấc nỏ lên vai. Jon dõi theo phiến gỗ công thành đang tiến đến gần hơn, lũ voi ma-mút và bọn khổng lồ đang ì ạch kéo lê hai bên. Chúng nhỏ đến nỗi cậu cảm tưởng mình có thể tiêu diệt chúng bằng một tay. Giá như tay của mình đủ to. Chúng băng qua khu đất chết chóc. Hàng trăm con quạ bay lên từ xác chết của những con ma-mút khi đám du mục đi qua. Gần nữa, gần nữa đi, cho đến khi…

“BẮN.”

Những mũi tên đen lao vút xuống dưới giống như những con rắn có đôi cánh bằng lông. Jon không đợi xem tên lao vào đâu. Cậu rút mũi tên thứ hai ngay khi mũi tên đầu tiên rời cung. “LẮP. NHẮM. BẮN.” Ngay khi mũi tên rời đi cậu lại lấy cái khác. “LẮP. NHẮM. BẮN.” Tiếp tục rồi lại tiếp tục. Jon ra lệnh cho máy bắn đá, và nghe thấy tiếng răng rắc rồi rầm mạnh khi một trăm mũi chông đầu nhọn bịt thép xoáy lên trên không. “Máy bắn đá,” cậu gọi, “Scorpions. Cung thủ, sẵn sàng bắn.” Mũi tên của bọn man di giờ đang đập vào Tường Thành, khoảng 30 mét bên dưới họ. Một tên khổng lồ thứ hai lảo đảo, loạng choạng. Lắp, nhắm, bắn. Một con ma-mút xoay người đập vào một con khác bên cạnh, hất bọn khổng lồ xuống đất. Lắp, nhắm, bắn. Cậu thấy phiến gỗ công thành rơi xuống, đám khổng lồ đẩy nó đã chết hoặc đang ngắc ngoải. “Mũi tên lửa,” cậu hô. “Tôi muốn phiến gỗ đó bốc cháy.” Tiếng gào thét của đám ma-mút và bọn khổng lồ vỡ òa hòa lẫn với tiếng trống và sáo tiêu tạo ra một thứ âm thanh kinh khủng, nhưng đội cung thủ của cậu vẫn tiếp tục nhắm và bắn như thể tất cả bọn họ đều đã bị điếc như Dick Follard vậy. Họ có thể chỉ là một số ít ỏi trong hàng ngũ, nhưng họ là người của Đội Tuần Đêm, hoặc gần như vậy, không thành vấn đề. Đó là lý do vì sao họ sẽ không chết.

Một con ma-mút đang chạy loạn lên, quất vòi vào bọn du mục, giẫm chân lên đám cung thủ. Jon kéo cung lần nữa và bắn một mũi tên khác vào cái lưng to bè của con quái thú để kích nó hăng tiết hơn. Ở hai cánh phía đông và tây, đội quân của đám dân du mục đã tiến đến Tường Thành mà không bị cản trở. Những chiếc xe ngựa kéo tấp vào và quay ra trong khi đám kỵ binh quẩn quanh bên dưới cái bóng to lù của vách đá. “Cổng thành!” một tiếng kêu vang lên. Có lẽ là của Ủng Rỗng. “Ma-mút ở cổng thành!”

“Lửa,” Jon gầm lên. “Grenn, Pyp.”

Grenn vứt cung sang bên, lật một thùng dầu nằm ngang, lăn tới mép Tường Thành, rồi Pyp dùng búa đập nút bịt thùng ra, nhét vào một sợi vải bện và dùng đuốc châm lửa. Họ cùng nhau đẩy nó xuống. Khoảng 30 mét bên dưới, thùng dầu đập vào Tường Thành và nổ tung, những miếng ván vỡ tan và dầu cháy tràn ngập một khoảng không. Grenn lăn thùng thứ hai ra mép đá, Kegs cũng lăn một thùng nữa. Pyp châm lửa cả hai. “Trúng rồi!” Sa-tanh hét lên, cậu thò đầu ra ngoài xa đến nỗi Jon tưởng cậu ta sắp ngã xuống. “Trúng rồi! Trúng rồi! TRÚNG rồi!” Cậu nghe thấy tiếng lửa bùng lên. Một tên khổng lồ rực lửa lảo đảo lao ra, vấp ngã và lăn lộn dưới đất.

Rồi đột nhiên lũ voi ma-mút bỏ chạy, chúng chạy trốn khỏi khói lửa và mảnh vụn, lao vào đám người đằng sau trong nỗi sợ hãi. Lũ người phía sau cũng lùi lại, bọn khổng lồ và đám du mục phía sau nháo nhào tránh đường cho lũ voi. Trong nháy mắt, đội ngũ trung tâm đã sụp đổ. Bọn lính kỵ binh hai bên sườn bỗng thấy mình bị bỏ lại và quyết định cũng phải tháo chạy, không tên nào còn có vẻ khát máu nữa. Thậm chí đống xe ngựa kéo cũng chạy ầm ầm, không biết làm gì ngoài việc kêu ầm ĩ và sợ hãi hoảng hốt. Khi sụp đổ, chúng tan tác thật thảm hại, Jon Snow nghĩ khi nhìn cảnh tháo chạy đó. Tiếng trống đã im bặt. Ngươi có thích tiếng nhạc đó không hả Mance? Các ngươi thấy mùi vị cô vợ của người Dorne thế nào? “Chúng ta có ai bị thương không?” cậu hỏi.

“Lũ chó khốn kiếp đó bắn trúng chân tôi rồi.” Ủng Rỗng giật mạnh mũi tên ra rồi vẫy vẫy trên đầu. “Trúng cái chân gỗ!”

Tiếng tung hê nổi lên. Zei túm lấy Owen bằng cả hai tay, quay một vòng rồi trao cho cậu ta một nụ hôn dài ướt át trước mặt tất cả mọi người. Cô ta cũng cố hôn Jon nhưng cậu nắm chặt vai cô ta rồi đẩy ra, nhẹ nhàng nhưng dứt khoát. “Không” anh nói. Mình không bao giờ hôn ai nữa. Đột nhiên cậu thấy kiệt sức đến không thể đứng được, và cái chân bị thương đau nhức từ đầu gối lên đến háng. Cậu lần mò tìm nạng. “Pyp, hãy dìu tôi đến chiếc lồng. Grenn, cậu giữ Tường Thành.”

“Tôi ư?” Grenn hỏi. “Cậu ta á?” Pyp thắc mắc. Khó có thể nói ai trong số hai người đó khiếp hãi hơn. “Nhưng,” Grenn lắp bắp, “nh-nhưng tôi phải làm gì nếu bọn chúng tấn công lần nữa?”

“Hãy ngăn chúng lại,” Jon trả lời cậu ta.

Khi họ đứng trong lồng để đi xuống, Pyp cởi mũ sắt ra rồi lau trán. “Mồ hôi cũng đóng băng luôn. Còn gì tởm lợm hơn đống mồ hôi đóng băng cơ chứ?” Cậu ta cười. “Thánh thần ơi, tôi không nghĩ mình lại từng đói thế này đâu. Tôi có thể ăn cả một con bò rừng, tôi thề đấy. Cậu có nghĩ Hobb sẽ nấu Grenn cho chúng ta không?” Khi nhìn Jon, nụ cười của cậu ta tắt ngấm.“Có chuyện gì vậy? Cái chân của cậu phải không?”

“Chân của tôi,” Jon đồng tình. Gắng gượng lắm cậu mới nói được bấy nhiêu từ.

“Nhưng không phải vì trận này đúng không? Chúng ta chiến thắng rồi mà.”

“Hãy hỏi sau khi tôi kiểm tra cổng,” Jon đáp dứt khoát. Mình muốn một bếp lửa, một bữa ăn nóng hổi, một cái giường ấm áp và thứ gì đó để chân đỡ đau, cậu tự nhủ. Nhưng trước hết cậu phải kiểm tra đường hầm và xem chuyện gì đã xảy ra với Donal Noye.

Sau trận đánh với đám người Thenn, họ đã phải mất gần một ngày để dọn sạch băng tuyết và đống xà rầm gãy ra khỏi cánh cổng phía trong. Pate và Kegs cùng mấy người thợ xây khác đã tranh cãi nảy lửa về việc họ có nên để đống đổ nát ở nguyên đó làm rào cản chống bọn người của Mance. Nhưng điều đó đồng nghĩa với việc bỏ đi khả năng phòng thủ của đường hầm và Noye không cho phép điều đó. Với lính đứng canh trên các lỗ giết người, cung thủ và lính cầm giáo đứng sau các cổng phía trong, chỉ cần một lượng người nhất định cũng có thể ngăn chặn vô số tên du mục và bít lối vào bằng những xác chết. Ông ấy không định để Mance Rayder tự do băng qua lớp băng đá. Nên với cuốc, thuổng và dây thừng, họ đã dọn sạch đống cầu thang gãy sang một bên và đào một đường đến cánh cổng.

Jon đứng đợi bên cánh cổng bằng song sắt lạnh lẽo trong khi Pyp đi lấy chìa khóa dự phòng ở chỗ Maester Aemon. Thật ngạc nhiên là đích thân vị học sĩ cũng đến, cùng với Clydas mang theo một cái đèn lồng. “Hãy đến gặp ta sau khi chúng ta xong việc nhé,” ông cụ già nói với Jon khi Pyp đang lần mò sợi xích. “Ta cần thay quần áo cho cậu rồi đắp thuốc sạch vào đó, cậu cũng cần thêm một chút rượu an thần nữa để đỡ đau.”

Jon yếu ớt gật đầu. Cánh cửa mở tung. Pyp dẫn đầu, theo sau là Clydas và chiếc đèn lồng. Gắng sức lắm Jon mới theo kịp Maester Aemon. Bức tường băng áp sát xung quanh họ và cậu có thể thấy cái lạnh len lỏi vào tận xương, sức nặng của Tường Thành ở phía trên đầu. Giống như họ đang đi vào cổ họng của một con rồng băng. Đường hầm có một khúc ngoặt, và thêm một khúc nữa. Pyp mở khóa cổng sắt thứ hai. Họ đi xa hơn, lại rẽ và nhìn thấy ánh sáng phía trước, lờ mờ và nhợt nhạt qua lớp băng. Không hay rồi, Jon hiểu ra ngay lập tức. Thật sự không hay rồi.

Rồi Pyp lên tiếng, “Có máu dưới đất.”

6 mét cuối đường hầm là nơi họ chiến đấu và chết. Cánh cửa bên ngoài làm bằng gỗ sồi bị đập vỡ tan, tung ra khỏi bản lề, và một tên khổng lồ đã bò vào qua đống đổ nát. Chiếc đèn lồng soi rõ một cảnh tượng rùng rợn trong ánh sáng đỏ ảm đạm. Pyp quay sang bên nôn ọe còn Jon thì thấy mình thèm muốn sự mù lòa của Maester Aemon.

Noye và người của ông đứng đợi bên trong, đằng sau cái cổng bằng song sắt nặng trịch giống như hai cái mà Pyp vừa mở lúc nãy. Hai cung thủ đã bắn hơn chục mũi tên khi tên khổng lồ cố lách người tiến về phía họ. Chắc chắn lúc đó, hai người cầm giáo bước vào vị trí tiên phong, đâm xuyên qua song sắt. Nhưng tên khổng lồ vẫn đủ sức băng qua, vặn cổ Pate, nắm chặt cánh cổng sắt, bẻ rời các thanh chắn. Các mẩu xích gãy nằm vương vãi trên sàn nhà. Một tên khổng lồ. Đây là tác phẩm của một tên khổng lồ.

“Họ chết cả rồi sao?” Maester Aemon hỏi khẽ khàng.

“Vâng. Donal là người sau cùng.” Thanh kiếm của Noye đâm sâu vào cổ họng tên khổng lồ, ngập tới nửa chuôi. Với Jon, người thợ rèn luôn là một người đàn ông to lớn, nhưng khi bị kẹp trong cánh tay đồ sộ của gã khổng lồ trông ông ấy như một đứa trẻ con. “Tên khổng lồ đã nghiền nát xương sống ông ấy. Tôi không biết ai chết trước.” Cậu cầm đèn và tiến lại gần để nhìn cho rõ. “Mag.” Ta là người cuối cùng của loài khổng lồ. Cậu cảm thấy buồn cho điều đó, nhưng giờ cậu không có thời gian để buồn. “Đó là Mag Hùng Mạnh. Vua của bọn khổng lồ.”

Cậu cần mặt trời. Bên trong đường hầm quá lạnh và tối tăm, cộng thêm mùi hôi tanh của máu và xác chết, khiến không khí ngột ngạt vô cùng. Jon trả đèn lại cho Clydas, chen qua mấy cái xác và song sắt bị bẻ gập, bước ra phía ánh sáng để nhìn xem cái gì nằm bên ngoài cánh cửa vỡ vụn.

Xác một con voi ma-mút to lớn chắn một phần lối đi. Khi cậu cố len qua, một chiếc ngà của con quái thú móc vào và xé toạc áo choàng của cậu. Ba tên khổng lồ nữa nằm bên ngoài, một phần bị vùi lấp dưới lớp đá, băng tan và hắc ín đông cứng. Cậu nhìn thấy phần Tường Thành đã bị lửa làm tan chảy, nơi những tảng băng tróc ra bởi hơi nóng rồi rơi xuống gãy vụn dưới nền đất đen. Cậu ngước nhìn lên, nơi họ vừa đi từ đó xuống. Nhìn từ đây, Tường Thành dường như rộng lớn vô cùng, như thể nó sắp đổ ập xuống.

Jon quay trở lại bên trong với những người đang chờ. “Chúng ta cần phải sửa chữa cánh cổng bên ngoài nhanh nhất có thể và bít kín đoạn đường hầm này. Bằng cao su, đá tảng, mọi thứ. Bít kín đến tận cánh cổng thứ hai, nếu có thể. Ser Wynton cần phải chỉ huy, ông ấy là hiệp sĩ duy nhất còn lại, nhưng ông ấy cần tiến hành ngay bây giờ, bọn khổng lồ sẽ quay lại trước khi ta kịp chuẩn bị đấy. Chúng ta phải báo cho ông ấy…”

“Hãy nói với ông ấy điều cậu muốn,” Maester Aemon khẽ khàng đáp. “Ông ấy sẽ cười, gật đầu và quên ngay. Ba mươi năm trước, Ser Wynton Stout được bầu làm tướng chỉ huy với mười hai phiếu bầu. Ông ấy cũng khá giỏi. Mười năm trước ông ấy vẫn có thể đảm đương công việc. Nhưng giờ thì không. Cả cậu và Donal đều biết điều đó, Jon à.”

Đó là sự thật. “Vậy ngài hãy chỉ huy đi,” Jon nói với vị học sĩ. “Ngài đã dành cả cuộc đời mình ở Tường Thành, mọi người sẽ nghe theo ngài. Chúng ta phải đóng cánh cổng này lại.”

“Ta là một học sĩ bị trói buộc bởi lời tuyên thệ. Bổn phận của ta là phụng sự, Jon ạ. Chúng ta cố vấn chứ không ra lệnh.”

“Ai đó phải…”

“Cậu. Cậu chính là người phải chỉ huy.”

“Không.”

“Có, Jon ạ. Sẽ không lâu đâu. Chỉ đến khi đơn vị đồn trú quay về. Donal đã chọn cậu và trước ông ấy, Qhorin Cụt Tay cũng chọn cậu. Tướng chỉ huy Mormont đã chọn cậu làm cận vệ. Cậu là con trai của Winterfell, cháu trai của Benjen Stark. Người đó phải là cậu, không thể là ai khác. Tường Thành là của cậu đấy, Jon Snow ạ.”

About The Author

Ngo David

Power is Power