Trò chơi vương quyền 3C – Tử hôn

Trò chơi vương quyền 3C – Tử hôn

Tác giả: George R.R. Martin

Dịch giả: Khánh Thủy

Số chương: 26

Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối

Gió đang thổi dữ dội từ phía đông, mạnh tới mức chiếc lồng nặng trịch đu đưa mỗi khi có một cơn gió đập vào các chấn song. Gió rít dọc Tường Thành, đập vỡ các tảng băng và làm áo choàng của Jon bay phần phật. Bầu trời xám xịt u ám, mặt trời không khác gì một mảng sáng nhợt nhạt phía sau những đám mây. Phía bên kia cánh đồng chết, cậu có thể thấy ánh sáng bập bùng của hàng nghìn đám lửa trại, nhưng ánh sáng ấy dường như quá nhỏ bé và không thấm vào đâu so với cái lạnh giá và ảm đạm của không gian.

Một ngày khắc nghiệt. Jon Snow nắm bàn tay đeo găng quanh những chấn song và giữ chặt khi cơn gió táp vào chiếc lồng thêm lần nữa. Khi cậu nhìn xuống dưới chân, mặt đất bị nuốt trọn bởi bóng đêm như thể cậu đang tụt dần xuống một cái hố không đáy. Ừ, chết cũng là một loại hố không đáy, cậu nghĩ, và khi công việc ngày hôm nay hoàn thành, tên cậu sẽ bị vĩnh viễn bị che phủ trong bóng tối.

Người ta nói những đứa con hoang được sinh ra từ dục vọng và dối trá. Bản chất của chúng là dâm đãng và bội bạc. Jon muốn chứng tỏ rằng họ đã sai và cho cha mình thấy cậu có thể là một người con giỏi giang và chân chính như Robb. Nhưng mình lại làm hỏng việc. Robb đã trở thành một vị vua anh hùng; còn nếu Jon có được nhớ đến thì cũng chỉ như một kẻ phản bội, một kẻ phá vỡ lời thề, và một kẻ giết người. Cậu thấy mừng vì lãnh chúa Eddard đã không còn sống để chứng kiến nỗi ô nhục ấy.

Đáng lẽ mình nên ở trong cái hang đó với Ygritte. Nếu có kiếp sau, cậu hy vọng có thể nói với cô ấy điều đó. Cô ấy sẽ cào lên mặt mình giống một con đại bàng và chửi mình là một tên hèn. Nhưng mình vẫn cứ nói với cô ấy như vậy. Cậu nắm bàn tay cầm kiếm lại như Maester Aemon đã dạy. Thói quen này đã trở thành một phần của cậu và cậu sẽ cần những ngón tay nhanh nhẹn để có cơ hội giết Mance Rayder, dù cơ hội ấy có mong manh đến mấy.

Sáng hôm nay họ lôi cậu ra, sau bốn ngày trong băng giá, rồi giam cậu trong căn phòng mỗi chiều mét rưỡi, quá thấp để cậu có thể đứng, quá chật để cậu có thể duỗi thẳng lưng. Những người quản lý bếp từ lâu đã phát hiện ra thức ăn và thịt để được lâu hơn trong phòng đá khoét dưới chân Tường Thành… nhưng tù binh thì không. “Ngươi sẽ chết ở đây, Lãnh chúa Snow ạ”, Ser Alliser nói trước khi ông ta đóng sập cánh cửa gỗ nặng nề, và Jon tin điều đó. Nhưng sáng nay họ đến và lôi cậu ra, trói cậu giải đi rồi lại nhốt cậu vào Tháp Vương, để cậu lại đứng trước mặt lão Janos Slynt mặt xệ thêm lần nữa.

“Lão học sĩ già đó bảo ta không được treo cổ ngươi”, Slynt tuyên bố. “Lão đã viết thư cho Cotter Pyke, và thậm chí còn cả gan cho ta xem bức thư nữa chứ. Lão nói ngươi không phải tên phản bội.”

“Aemon đã sống quá lâu, thưa lãnh chúa”, Ser Alliser quả quyết. “Trí khôn của ông ta đã trở nên mù lòa giống như đôi mắt ông ta vậy.”

“Đúng vậy,” Slynt nói. “Một ông già mù với sợi xích trên cổ, lão ta nghĩ mình là ai chứ?”

Aemon Targaryen, Jon nghĩ, là con một vị vua, anh trai một vị vua và đáng lẽ có thể là một vị vua. Nhưng cậu không nói gì cả.

“Tuy nhiên”, Slynt nói, “Ta sẽ không để người đời nói rằng Janos Slynt đã treo cổ một người mà không có lý do chính đáng. Chắc chắn không. Ta quyết định sẽ cho ngươi cơ hội cuối cùng để chứng tỏ ngươi trung thành như những gì ngươi nói, Lãnh chúa Snow. Một cơ hội cuối cùng để ngươi thực hiện nhiệm vụ, đúng vậy!” Ông ta đứng dậy. “Mance Rayder muốn thương lượng với chúng ta. Hắn biết mình không còn cơ hội, nhưng giờ Janos Slynt đã đến, vì thế Vị-Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành muốn nói chuyện. Nhưng hắn là một kẻ hèn nhát, nên hắn sẽ không đến chỗ chúng ta. Chắc chắn hắn biết ta sẽ treo hắn lên. Treo ngược hắn lên Tường Thành bằng một sợi dây thừng dài 60 mét! Nhưng hắn sẽ không đến. Hắn yêu cầu chúng ta cử một sứ giả đến đó.

“Chúng ta cử ngươi đi, Lãnh chúa Snow.” Ser Alliser mỉm cười.

“Tôi à.” Giọng Jon lạnh nhạt. “Sao lại là tôi?”

“Ngươi từng nhập hội với những tên man tộc này”, Thorne nói. “Mance Rayder biết ngươi. Nhiều khả năng hắn sẽ tin ngươi hơn.”

Thật quá sai lầm, Jon suýt nữa cười phá lên. “Phải ngược lại mới đúng. Mance nghi ngờ tôi từ cái nhìn đầu tiên. Nếu tôi xuất hiện tại doanh trại của hắn, mặc áo choàng đen thêm lần nữa và nói thay mặt Đội Tuần Đêm, hắn sẽ biết tôi đã phản bội hắn.”

“Hắn đòi một tên sứ giả, và ta cử đi một tên”, Slynt nói. “Nếu ngươi quá hèn nhát để đối diện với tên vua phản bội này, chúng ta sẽ lại tống ngươi vào phòng đá. Và lần này sẽ không có áo lông thú đâu.”

“Không cần phải như vậy đâu, thưa lãnh chúa,” Ser Alliser nói. “Lãnh chúa Snow sẽ làm như chúng ta bảo. Hắn muốn cho chúng ta thấy hắn không phải tên phản bội. Hắn muốn chứng tỏ hắn trung thành với Đội Tuần Đêm.”

Jon nhận thấy trong hai người, Thorne thông minh hơn gấp bội. Trong việc này đều có những tính toán của ông ta. Cậu biết mình đã rơi vào bẫy. “Tôi sẽ đi,” cậu nói cộc lốc và cụt lủn.

“Thưa lãnh chúa”, Janos Slynt nhắc cậu. “Ngươi phải gọi ta như vậy.”

“Tôi sẽ đi, thưa lãnh chúa. Nhưng ông đang mắc sai lầm đấy. Ông đang cử nhầm sứ giả, bởi chỉ nhìn thấy tôi thôi là Mance điên tiết. Lãnh chúa sẽ có cơ hội tốt hơn để đạt được những thỏa thuận nếu như ông cử…”

“Thỏa thuận ư?” Ser Alliser cười khoái trá. “Janos Slynt không thỏa hiệp với những tên man di ngoài vòng pháp luật, Lãnh chúa Snow ạ. Ngài ấy không làm như vậy đâu.”

“Bọn ta không cử ngươi đến để nói chuyện với Mance Rayder”, Ser Alliser nói. “Bọn ta cử ngươi đến để giết hắn.”

Cơn gió rít qua song sắt và Jon Snow thấy rùng mình. Chân cậu nhói đau, cả đầu cậu nữa. Trước đây cậu còn không dám giết một con mèo con. Vậy mà giờ cậu ở đây. Cái bẫy này thật sắc nhọn. Với việc Maester Aemon khăng khăng về sự vô tội của Jon, lãnh chúa Janos không dám để cậu chết cóng trong băng giá. Làm như thế này tốt hơn. “Danh dự của chúng ta không giá trị gì hơn mạng sống của chúng ta, miễn là vương quốc được an toàn,” Qhorin Cụt Tay đã nói vậy trên dãy Frostfangs. Cậu phải nhớ điều này. Dù cậu có giết được Mance, hay cố gắng rồi thất bại, thì đám man di cũng sẽ giết cậu. Thậm chí đào ngũ cũng là điều không thể, nếu cậu có ý định xin hàng. Bởi đối với Mance, cậu đã chứng minh mình là một kẻ dối trá và phản bội.

Khi chiếc lồng dừng khựng lại, Jon đu mình xuống mặt đất và lắc chuôi kiếm của thanh Móng Dài để nới lỏng lưỡi kiếm ra khỏi vỏ. Cánh cổng cách cậu vài thước về bên trái và vẫn bị chặn bởi đống đổ nát của một chiếc xe phá thành và xác một con ma mút thối rữa bên trong. Những xác chết khác nằm rải rác giữa những chiếc thùng vỡ vụn, hắc ín đông cứng và những đám cỏ cháy. Tất cả nằm dưới cái bóng của bức tường. Jon không muốn nấn ná ở đây thêm nữa. Cậu bắt đầu đi về phía doanh trại của dân du mục, vượt qua xác của một gã khổng lồ mà cái đầu đã bị đá nghiền nát. Một con quạ đang moi não ra từ cái sọ vỡ. Nó ngước lên nhìn Jon khi cậu đi qua. “Snow”, nó thét lên. “Snow, snow” rồi tung cánh bay đi.

Ngay khi cậu chuẩn bị đi thì một người cưỡi ngựa xuất hiện từ phía doanh trại của dân du mục. Cậu tự hỏi liệu có phải Mance đang đến thương lượng tại vùng đất vô chủ hay không. Như vậy sẽ dễ hơn một chút, dù sẽ chẳng có gì thực sự dễ dàng cả. Khi khoảng cách giữa họ thu hẹp lại, Jon thấy người cưỡi ngựa lùn và mập, với những chiếc vòng vàng lấp lánh trên cánh tay to dày, râu trắng phủ xuống cả bộ ngực vĩ đại.

“Ha!” Tormund kêu lên khi họ gặp nhau. “Con quạ Jon Snow. Ta đã sợ chúng ta không bao giờ được gặp ngươi nữa.”

“Tôi chưa từng thấy ông sợ bất cứ điều gì mà, Tormund.”

Tên du mục cười nhăn nhở. “Nói hay lắm chàng trai. Ta thấy áo choàng của ngươi màu đen. Mance sẽ không thích đâu. Nếu ngươi đến để đổi bên một lần nữa thì tốt nhất hãy quay về Tường Thành của ngươi đi.”

“Họ cử tôi đến để thương lượng với Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành.”

“Thương lượng ư?” Tormund cười phá lên. “Vậy là các ngươi đã mở lời rồi đấy. Ha! Đúng, Mance muốn nói chuyện, nhưng ta không biết liệu ông ta có muốn nói chuyện với ngươi không.”

“Tôi là người họ cử đến.”

“Ta biết. Thế thì đi thôi. Ngươi có muốn lên ngựa không?”

“Tôi có thể đi bộ được…”

“Ngươi đã chiến đấu ác liệt với chúng ta ở đây.” Tormund quay ngựa về hướng doanh trại. “Ngươi và những người anh em của ngươi. Hai trăm người chết và hơn một chục người khổng lồ. Còn Mag đã tự mình xông vào cánh cổng đó của các ngươi và chẳng bao giờ quay trở lại.”

“Hắn đã chết dưới lưỡi kiếm của một người đàn ông dũng cảm tên là Donal Noye.”

“Thật sao? Tên Donal Noye là một lãnh chúa vĩ đại à? Một trong số những hiệp sĩ lẫy lừng mặc quần áo lót bằng thép?”

“Một thợ rèn. Anh ta chỉ có một cánh tay.”

“Một tên thợ rèn chỉ với một cánh tay có thể giết chết Mag Vĩ Đại ư? Ha! Hẳn là một trận đấu đáng xem. Mance sẽ viết một bài ca về nó.” Tormund lấy ra một túi da từ lưng ngựa và mở nắp. “Cái này sẽ giúp chúng ta ấm lên. Vì Donal Noye và Mag Vĩ Đại.” Hắn uống một hớp và đưa cho Jon.

“Vì Donal Noye và Mag Vĩ Đại.” Chiếc túi đầy rượu mật ong, nhưng rượu đó mạnh tới mức làm Jon chảy nước mắt, cậu cảm nhận được những tia lửa nóng rực chảy xuống ngực mình. Sau căn phòng băng giá và di chuyển trong cái lồng lạnh cóng, hơi ấm đó thật dễ chịu.

Tormund lấy lại cái túi và uống thêm ngụm nữa, sau đó hắn lau miệng. “Magnar vùng Thenn đã thề với chúng ta rằng hắn ta sẽ mở rộng cánh cổng, vì thế chúng ta chỉ việc thủng thẳng tiến vào, vừa đi vừa hát. Hắn ta nói sẽ đánh sập cả Tường Thành.”

“Ông ta cũng đánh sập được một phần rồi đấy,” Jon nói. “Và nó sập lên đầu ông ta.”

“Ha!” Tormund kêu lên. “Ta chưa bao giờ làm được gì nhiều cho Styr. Với một gã không râu, không tóc, cũng chẳng có tai thì khi chiến đấu với hắn, ngươi sẽ không biết túm vào đâu.” Hắn níu cương cho ngựa chạy chậm để Jon có thể tập tễnh đi bên cạnh. “Cái chân đó làm sao thế?”

“Mội mũi tên. Tôi nghĩ đó là mũi tên của Ygritte.”

“Đó là người phụ nữ dành cho ngươi. Hôm trước cô ta hôn ngươi, hôm sau cô ta tặng ngươi những mũi tên.”

“Cô ấy chết rồi.”

“Vậy sao?” Tormund lắc đầu buồn bã. “Phí của thật. Nếu trẻ lại mười tuổi, ta sẽ tự tay cướp lấy cô ta. Mái tóc của cô ta. Đúng là, ngọn lửa nóng nhất cháy nhanh nhất.” Hắn cầm túi da lên tu một ngụm thật dài. “Vì Ygritte, nụ hôn của lửa.”

“Vì Ygritte, nụ hôn của lửa.” Jon nhắc lại khi Tormund đưa túi rượu cho cậu. Cậu thậm chí còn uống một hơi dài hơn.

“Ngươi giết cô ta à?”

“Là một người anh em của tôi.” Jon không biết đích xác ai làm và hy vọng rằng cậu sẽ không bao giờ biết.

“Các ngươi là những con quạ khát máu.” Tormund nói cộc lốc, nhưng vẫn nhẹ nhàng một cách lạ lùng.

“Tên Giáo Dài đó đã cướp đi con gái Munda, quả táo mùa thu bé nhỏ của ta. Hắn bắt nó ra khỏi lều của ta, trong khi cả bốn người anh của nó đều ở đó – Toregg, thằng con vụng về ngủ suốt cả buổi, và Torwynd… hừm, Torwynd Dễ Bảo, cái tên nói lên tất cả rồi, đúng không? Thế nhưng hai con trai út của ta đã đánh nhau với gã.”

“Còn Munda?” Jon hỏi.

“Nó là giọt máu của ta,” Tormund tự hào nói. “Nó đập sứt môi hắn, cắn đứt nửa cái tai và ta nghe nói hắn có nhiều vết cào trên lưng đến nỗi hắn không mặc được áo. Tuy nhiên, con bé lại khá thích hắn. Sao lại không chứ? Ngươi biết không, hắn không bao giờ chiến đấu nếu không có cây giáo. Không bao giờ. Nếu không thì cái tên đó của hắn chui ở đâu ra chứ? Ha!”

Jon buộc phải cười phá lên, ngay cả khi đang ở đây và vào lúc này. Ygritte từng rất thích Ryk Giáo Dài. Cậu hy vọng mình sẽ tìm được niềm vui nào đó nơi Munda của Tormund. Ai đó cần tìm một niềm vui ở một nơi nào đó.

“Anh chẳng biết gì cả, Jon Snow,” nếu còn sống, Ygritte sẽ nói với cậu như vậy. Mình biết là mình sắp chết, cậu nghĩ. Ít nhất mình cũng biết điều đó. “Đàn ông ai cũng phải chết,” dường như anh nghe thấy tiếng cô nói, “cả những người phụ nữ và động vật dù bay, bơi hay chạy. Chết khi nào không quan trọng, mà là chết thế nào, Jon Snow ạ.” Nói thì dễ lắm, Jon nghĩ lại. Cô ấy chết một cách can đảm trên chiến trường, trong cuộc phản công nơi lâu đài của kẻ địch. Còn mình sẽ chết trong tư thế của một kẻ tạo phản, một tên giết người. Chẳng cái chết nào dễ dàng cả, trừ khi mình chết dưới lưỡi kiếm của Mance.

Họ nhanh chóng tới chỗ những chiếc lều. Đó là doanh trại thông thường của dân du mục; ngổn ngang những bãi lửa nấu nướng, những bãi nước tiểu, trẻ em và những con dê chạy lung tung, lũ cừu kêu be be giữa các bụi cây, còn lũ ngựa được buộc vào nơi khô ráo. Ở đây chẳng có trật tự nào cả, không mệnh lệnh, không phòng thủ. Chỉ có đàn ông, phụ nữ và súc vật ở khắp mọi nơi.

Nhiều người không để mắt tới cậu, nhưng cứ một người tiếp tục làm việc của họ thì có khoảng mười người đứng lại nhìn cậu. Trẻ em ngồi bên bếp lửa, bà già trong những chiếc xe chó, những kẻ ăn lông ở lỗ với hình vẽ khắp mặt, những tên cướp tay cầm khiên có vẽ hình móng vuốt, rắn và những cái đầu dữ dằn. Tất cả đều quay ra nhìn cậu. Cậu thấy cả các nữ chiến binh cầm giáo với mái tóc dài tung bay trong gió xì xào giữa những cái cây.

Ở đây không có đồi. Chiếc lều bằng lông trắng của Mance Rayder được dựng trên một mô đất cao bên cạnh những cái cây. Vị-Vua-Ngoài-Tường-Thành đang đợi phía ngoài, chiếc áo choàng đỏ đen rách tả tơi bay bay trong gió. Bên cạnh vị vua là Harma Đầu Chó, kẻ đã trở lại từ những cuộc thăm dò và đột kích ở Tường Thành, và cả Varamyr Sixskins cùng con mèo ma và hai con sói xám gầy nhẳng của hắn.

Khi họ thấy người mà Đội Tuần Đêm cử đến, Harma quay đầu và nhổ nước bọt, một trong hai con sói của Varamyr nhe răng và gầm gừ. “Ngươi hẳn là rất can đảm hoặc rất ngu ngốc, Jon Snow,” Mance Rayder nói, “khi quay lại đây gặp chúng ta trong chiếc áo choàng đen.”

“Một người lính biệt kích có thể mặc gì khác ngoài cái áo đó?”

“Giết hắn đi,” Harma hối thúc. “Rồi gửi xác hắn về cái lồng của chúng và bảo chúng cử đến một người khác. Ta sẽ giữ đầu hắn lại làm cờ hiệu trên chiến trường. Một tên phản bội còn tệ hơn cả một con chó.”

“Ta đã cảnh báo rằng hắn là kẻ dối trá.” Giọng Varamyr ôn hòa nhưng con mèo ma của hắn đang nhìn Jon thèm thuồng bằng cặp mắt xám sắc lẹm. “Ta chưa bao giờ ưa cái mùi của hắn.”

“Thu móng vuốt của ngươi lại đi, con quái vật.” Tormund Giantbane nhảy xuống ngựa. “Cậu ta ở đây để lắng nghe. Nếu ngươi giết hắn, có lẽ ta phải lột da ngươi làm áo choàng mất. Ta đã mong có chiếc áo choàng lông mèo ma từ lâu lắm rồi.”

“Tormund Kẻ Yêu Quạ,” Harma cười chế nhạo. “Ông đúng là một lão già rỗng tuếch.”

Kẻ biến hình có khuôn mặt xám, vai tròn, trán hói, thân hình nhỏ xíu với cặp mắt của sói. “Khi một con ngựa đã được thắng yên, ai cũng có thể cưỡi nó,” ông ta nói nhẹ nhàng. “Khi một con thú đã kết hợp với con người, bất kỳ kẻ biến hình nào cũng có thể nhập vào và điều khiển nó. Orell đang héo hon dần trong bộ lông của hắn, vì thế ta tự mình điều khiển con đại bàng. Nhưng việc kết hợp cũng có hai chiều. Orell đang sống trong ta, và đang thì thầm cho ta biết hắn ghét các người thế nào. Và ta có thể sải cánh trên Tường Thành và quan sát với đôi mắt đại bàng.”

“Vì thế chúng ta biết,” Mance nói. “Chúng ta biết có rất ít người các ngươi chặn chiếc xe phá thành.” Chúng ta biết có bao nhiêu người đến từ Trạm Đông. Chúng ta biết kho lương tiếp tế của các ngươi đang thu nhỏ dần như thế nào. Hắc ín, dầu, các mũi tên, cây giáo, thậm chí cả cái cầu thang của các ngươi cũng biến mất, và cái lồng đó chỉ chứa được số người hữu hạn. Chúng ta biết hết. Và bây giờ thì ngươi đã biết là chúng ta biết rồi đấy.” Ông ta mở cái cửa lều. “Vào trong đi. Những người khác chờ ở đây.”

“Cái gì, cả tôi sao?” Tormund hỏi.

“Đặc biệt là ông. Như thường lệ.”

Ở bên trong thật ấm áp. Một đám lửa nhỏ cháy dưới những lỗ thông khói và một lò than đang âm ỉ gần đống da lông thú nơi Dalla nằm, nhợt nhạt và vã mồ hôi. Chị cô đang nắm tay cô. Jon nhớ đó là Val. “Tôi rất tiếc khi Jarl ngã,” cậu nói với cô gái.

Val nhìn cậu với đôi mắt xám xanh tái. “Nó luôn trèo quá nhanh.” Cô gái vẫn luôn đẹp, giống như trong trí nhớ của Jon, mảnh khảnh, ngực đầy, duyên dáng ngay cả khi đang ngủ,với xương gò má cao và mái tóc tết màu mật ong dài tới hông.

“Thời khắc của Dalla sắp đến rồi,” Mance nói. “Cô ấy và Val sẽ ở lại. Họ biết ta định nói gì.”

Jon giữ vẻ mặt lạnh như băng. Thật xấu xa khi giết một người đang nghỉ trong lều của mình. Cậu phải giết ông ta trước mặt vợ hắn, khi vợ ông ta đang sinh con ư? Cậu nắm chặt bàn tay cầm kiếm. Mance không mặc áo giáp, nhưng ông ta đeo kiếm bên hông trái. Vả lại, trong lều còn có các loại vũ khí khác, những con dao găm, đoản kiếm, một cái cung và một bao tên, một cây giáo có mũi đồng bên cạnh một chiếc… tù và lớn màu đen.

Jon hít một hơi dài.

Một chiếc tù và chiến vĩ đại.

“À. Đó là chiếc Tù Và Mùa Đông mà Joramun từng thổi để đánh thức những tên khổng lồ từ mặt đất.”

Chiếc tù và vĩ đại dài gần hai mét rưỡi và miệng nó rộng tới mức cậu có thể cho cánh tay mình vào tới tận khuỷu tay. Nếu đây là sừng của một con bò rừng thì nó hẳn là con bò to nhất thế gian. Thoạt tiên cậu nghĩ những cái nẹp xung quanh tù và làm bằng đồng, nhưng khi lại gần hơn cậu nhận ra chúng là vàng, vàng cũ có màu nâu và được khắc chữ cổ.

“Ygritte nói ông chưa bao giờ tìm thấy cái tù và.”

“Ngươi nghĩ chỉ có những con quạ mới biết nói dối sao? Ta khá thích ngươi, trong cương vị một đứa con hoang, nhưng ta chưa bao giờ tin ngươi. Một người phải cố gắng mới có thể giành được niềm tin của ta.

Jon nhìn ông ta. “Nếu ông đã có trong tay chiếc tù và của Joramun từ lâu, sao ông không sử dụng nó? Tại sao lại phải dựng những chiếc xe phá thành và cho đám người Thenn tới giết chúng ta khi chúng ta đang ngủ? Nếu cái tù và này đúng như các bài ca nói thì sao không thổi nó lên và kết thúc mọi chuyện?”

Chính Dalla là người đưa ra câu trả lời cho cậu. Dalla với đứa con trong bụng đang nằm trên đống lông thú bên cạnh lò than. “Dân tộc tự do chúng ta biết những thứ mà những kẻ quỳ gối như các ngươi đã lãng quên. Đôi lúc con đường ngắn không phải là con đường an toàn nhất, Jon Snow. Lãnh chúa Horned từng nói rằng phép thuật là một thanh kiếm không chuôi. Chẳng có cách nào an toàn để nắm lấy nó.”

Mance đưa tay vuốt dọc đường cong trên thân tù và. “Không ai đi săn chỉ với một mũi tên trong bao cả,” ông ta nói. “Ta hy vọng Styr và Jarl sẽ làm cho các anh em của ngươi mất cảnh giác và mở cổng thành cho chúng ta. Ta đã cho đánh nhử, phục kích và tổ chức các đợt tấn công phụ. Bowen Marsh đã tiêu diệt hết những đòn nhử đó như ta dự đoán, nhưng đám quân tàn tật và mồ côi của các ngươi lại ngoan cố hơn ta tưởng. Đừng bao giờ nghĩ rằng các ngươi có thể ngăn chúng ta. Sự thật là các ngươi có quá ít người, còn chúng ta lại quá đông. Ta có thể vừa ra lệnh tấn công ở đây, vừa cử một vạn người đi phà băng qua Vịnh Hải cẩu và đánh úp Trạm Đông từ phía sau. Ta cũng có thể chiếm cả Tháp Đêm nữa. Ta biết rõ các lối ra vào như bất cứ ai ở đó. Ta có thể cho người và ma mút tới xới tung những cánh cổng lâu đài mà các ngươi bỏ lại, tất cả cùng một lúc.”

“Vậy sao ông không làm như vậy? Lúc đó Jon có thể rút thanh Móng Dài ra, nhưng cậu vẫn muốn nghe tên du mục này nói.

“Máu,” Mance Rayder nói. “Cuối cùng ta sẽ thắng, đúng vậy, nhưng các người đã khiến ta đổ máu. Và người của ta đã đổ máu đủ rồi.”

“Nhưng những mất mát của ông chưa nặng nề tới mức đó mà.”

“Không phải dưới tay các ngươi.” Mance nhìn Jon. “Ngươi đã thấy Nắm Đấm của Tiền Nhân. Ngươi cũng biết chuyện gì đã xảy ra ở đó. Ngươi biết chúng ta đang phải đối mặt với điều gì.”

“Bọn Ngoại Nhân…”

“Khi ngày ngắn hơn và đêm lạnh hơn cũng là lúc bọn chúng ngày càng trở nên lớn mạnh. Thoạt đầu họ sẽ giết các ngươi, sau đó họ dùng chính những xác chết đó để chống lại các ngươi. Người khổng lồ không thể chống lại họ, cả người Thenn, các bộ tộc bên dòng sông băng và người Hornfoot cũng vậy.”

“Kể cả ông cũng không?

“Kể cả ta.” Lời thú nhận của ông ta nghe có phần cay đắng và giận dữ. “Raymun Râu Đỏ, Bael Thi Sĩ, Gendel và Gorne, Lãnh chúa Horned, tất cả bọn họ đều xuôi nam chinh phạt, nhưng ta lại phải cúp đuôi đến ẩn núp sau bức Tường Thành của các ngươi”. Ông ta chạm vào cái tù và lần nữa. Nếu ta thổi chiếc Tù Và Mùa Đông này lên, Tường Thành sẽ sập xuống. Các bài hát vẫn khiến ta tin như vậy. Trong số người của ta có những kẻ không mong gì hơn thế…”

“Nhưng một khi Tường Thành sập xuống,” Dalla nói, “Cái gì sẽ ngăn chặn Ngoại Nhân?”

Mance nở một nụ cười trìu mến với cô. “Ta đã tìm được một người phụ nữ thật thông minh. Một hoàng hậu thật sự.” Ông ta quay về phía Jon. “Hãy quay về và bảo họ mở cổng thành cho chúng ta qua. Nếu họ thực hiện, ta sẽ trao cho họ cái tù và, Tường Thành sẽ đứng đó vững vàng mãi mãi.”

Mở cổng thành và để họ qua ư? Nói thì dễ lắm, nhưng điều gì sẽ diễn ra sau đó đây? Những tên khổng lồ sẽ đóng quân tại Winterfell đổ nát? Những con thú ăn thịt đồng loại sẽ ở trong rừng sói, xe ngựa sẽ càn quét các vùng đất, đám man di sẽ tự do cướp đoạt con gái của thợ đóng tàu và thợ bạc từ Cảng White và các bà bán cá bên bờ biển Stony? “Ông có là một vị vua thật sự không?” Jon đột nhiên hỏi.

“Ta chưa bao giờ đội vương miện trên đầu hay đặt mông lên cái ngai vàng chết tiệt nào cả, nếu đó là điều ngươi muốn hỏi.” Mance trả lời. “Ta sinh ra tầm thường như bao kẻ tầm thường khác, chẳng có tư tế nào xức dầu thánh lên đầu ta. Ta không sở hữu bất kỳ lâu đài nào, và hoàng hậu của ta chỉ mặc lông thú và hổ phách, không phải lụa là gấm vóc và ngọc saphia. Ta là người anh hùng, là gã hề, là nhạc công của chính mình. Một người không trở thành vị Vua-Ngoài-Tường-Thành chỉ vì cha anh ta đã từng làm vua. Những cư dân tự do không đi theo một gia tộc nào, và họ không quan tâm người nào sinh trước, người nào sinh sau. Họ đi theo các chiến binh. Khi rời Tháp Đêm, ta thấy có năm người tranh luận làm sao có thể trở thành vua. Tormund là một, Magnar là thứ hai, ba kẻ khác đã bị ta giết, bởi chúng tuyên bố sẽ chống lại thay vì phục tùng ta.”

“Ông có thể giết kẻ thù của mình.” Jon nói thẳng thừng, “nhưng ông có thể cai trị bạn bè của mình không? Nếu chúng ta để người của ông qua, ông có đủ sức mạnh để khiến họ giữ cho vương quốc được yên bình và tuân thủ luật pháp không?”

“Luật của ai? Luật của Winterfell và Vương Đô à?” Mance phá lên cười. “Khi nào muốn có luật, chúng ta sẽ tự tạo ra luật cho riêng mình. Các ngươi có thể giữ lại công lý của các ngươi, và cả thuế má của nhà vua nữa. Ta sẽ giao cho các ngươi cái tù và, chứ không phải trao đi tự do của chúng ta. Chúng ta sẽ không quỳ gối trước các ngươi.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta từ chối lời đề nghị này?” Jon chắc chắn là họ sẽ từ chối. Ít nhất thì Gấu Già có thể sẽ chịu lắng nghe, nhưng ông ấy sẽ dừng khựng lại khi nghe đến việc cho ba mươi, bốn mươi nghìn tên du mục tràn vào Bảy Phụ Quốc. Nhưng Alliser Thorne và Janos Slynt sẽ gạt phắt ý kiến đó đi.

“Nếu các ngươi từ chối,” Mance Rayder nói, “Tormund Giantbane sẽ thổi chiếc Tù Và Mùa Đông trong vòng ba ngày nữa, vào lúc bình minh.”

Cậu có thể mang thông điệp về Hắc Thành và nói với họ chuyện cái tù và, nhưng nếu cậu để Mance còn sống thì Lãnh chúa Janos và Ser Alliser sẽ vịn vào đó làm cớ để nói cậu là kẻ phản bội. Cả nghìn ý nghĩ đang quanh quẩn trong đầu Jon. Nếu mình có thể hủy cái tù và, đập nát nó ở đây và ngay bây giờ… Tuy vậy, trước khi cậu có thể suy nghĩ kỹ càng về chuyện đó, Jon nghe thấy văng vẳng tiếng rền rĩ của một chiếc tù và khác, âm thanh bị chặn lại bởi những tấm lều chắn. Mance cũng nghe thấy. Ông ta cau mày và đi ra cửa. Jon theo sau.

Ở bên ngoài tiếng tù và chiến nghe to hơn. Tiếng kêu của nó khuấy động cả khu trại. Ba tên Hornfoot đi ngang qua, trên tay cầm những cây giáo dài. Đám ngựa hí vang và khịt mũi, những gã khổng lồ gào thét bằng thứ Ngôn Ngữ Cổ, và thậm chí cả những con ma mút cũng trở nên kích động.

“Tù và của người mở đường,” Tormund nói với Mance.

“Có gì đó đang đến đây.” Varamyr ngồi khoanh chân trên mặt đất đông cứng. Hai con sói chạy xung quanh hắn một cách bồn chồn. Một cái bóng quét qua người hắn và Jon ngước lên nhìn đôi cánh màu xanh xám của con đại bàng. “Chúng đang đến từ phía đông.”

Khi người chết bước đi, những bức tường, cọc và đao kiếm chẳng còn ý nghĩa gì, Jon nhớ lại. Ngươi không thể đánh lại người chết, Jon Snow. Không ai biết rõ điều này hơn ta.

Harma cau mày. “Phía đông? Đáng lẽ bọn chúng phải ở sau chúng ta chứ.”

“Phía đông,” kẻ biến hình nhắc lại. “Có cái gì đó đang đến.”

“Ngoại Nhân đúng không?” Jon hỏi.

Mance lắc đầu. “Ngoại Nhân không bao giờ đến vào ban ngày.” Những cỗ xe ngựa đang rầm rập di chuyển trên cánh đồng chết, cùng với những kỵ sỹ mang những cây giáo sắc nhọn. Vị vua kêu lên. “Chúng nghĩ chúng đang đi đâu chứ? Quenn, hãy đẩy lùi lũ ngu ngốc này trở về nơi của chúng. Gọi người mang ngựa đến cho ta. Ngựa cái không phải ngựa đực. Mang cả áo giáp nữa.” Mance liếc nhìn về phía Tường Thành một cách hoài nghi. Trên đỉnh Tường Thành phủ băng, những hình nộm đang đứng hứng tên, nhưng không có bất cứ một hoạt động nào khác. “Harma, bố trí người đi. Tormund tìm các con trai của ngươi và tập hợp cho ta ba hàng giáo.”

“Được.” Tormund trả lời rồi sải bước đi.

Gã biến hình nhỏ bé nhắm mắt lại và nói, “Ta thấy chúng rồi. Chúng đang đi dọc theo dòng suối và những con đường mòn…”

“Là ai vậy?”

“Con người. Người cưỡi ngựa. Người mặc giáp sắt và người mặc áo choàng đen.”

“Những con quạ.” Mance nguyền rủa. Ông ta quay sang phía Jon. “Có phải những người anh em cũ của ta nghĩ rằng họ sẽ thấy ta không mặc quần nếu họ tấn công trong lúc chúng ta đang nói chuyện không?”

“Nếu họ có kế hoạch tấn công thật thì họ đã không nói với tôi.” Jon không tin. Lãnh chúa Janos không đủ người để tấn công trại du mục. Hơn nữa, ông ta đang ở phía bất lợi của Tường Thành, và cánh cổng thì bị gạch đá vụn bịt kín. Ông ta chắc hẳn có tính toán khác trong đầu, việc này không thể do ông ta làm được.

“Nếu ngươi nói dối ta lần nữa, ngươi sẽ không giữ được mạng mà ra khỏi đây đâu,” Mance cảnh báo. Lính của ông ta mang ngựa và áo giáp đến. Ở các khu vực khác quanh doanh trại, Jon thấy mọi người chạy toán loạn. Một số người tập trung thành hàng như thể chuẩn bị tấn công Tường Thành, những người khác lẩn vào rừng, phụ nữ điều khiển xe chó kéo về phía đông, những con ma mút đi về hướng tây. Cậu với tay qua vai và rút thanh Móng Dài ra, đúng lúc một hàng lính biệt kích xuất hiện nơi bìa rừng cách đó ba trăm thước. Họ mặc giáp xích đen, mũ nửa đầu đen và áo choàng đen. Nửa thân mang giáp, Mance rút kiếm ra. “Ngươi không biết tí gì về chuyện này đúng không?” Ông ta lạnh lùng hỏi Jon.

Chậm rãi như mật ong chảy trong một buổi sáng lạnh lẽo, đám lính biệt kích tràn về phía doanh trại qua những lùm cây, băng qua đám rễ cây và những tảng đá. Đám dân du mục chạy đến đối đầu, hò hét ầm ĩ, giơ gậy gộc, kiếm đồng và rìu đá lên, lao thẳng về phía kẻ thù truyền kiếp. La hét, đâm chém và chết một cách dũng cảm. Jon đã nghe các đồng đội nói về cách chiến đấu của dân du mục.

“Cứ tin những gì ông muốn,” Jon nói với vị Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành, “nhưng ta hoàn toàn không biết gì về đợt tấn công này.”

Harma rầm rập đi qua trước khi Mance kịp trả lời, dẫn đầu ba mươi tên thổ phỉ. Người cầm cờ tiến lên đầu tiên, trên lá cờ có hình một con chó chết với một cây giáo xuyên qua. Máu chảy ròng ròng trong mỗi bước đi. Mance quan sát khi cô ta xông vào đám lính biệt kích. “Có lẽ ngươi nói sự thật,” ông ta nói. “Bọn chúng có vẻ đến từ Trạm Đông, những tên thủy thủ trên lưng ngựa. Cotter Pyke luôn là kẻ hữu dũng vô mưu. Hắn từng đánh bại Lãnh chúa Xương ở Long Barrow, và có lẽ hắn định làm điều tương tự với ta. Nếu như vậy thì hắn là một tên đại ngốc. Hắn không có đủ người, hắn…”

“Mance!” tiếng hét cất lên. Đó là một tên trinh thám xuất hiện sau những lùm cây trên lưng một con ngựa nhễ nhại mồ hôi. “Mance, có rất nhiều người, chúng ở quanh đây, những tên người Iron, một đội quân người Iron.”

Mance chửi thề và nhảy lên lưng ngựa. “Varamyr, ở lại đây và trông chừng Dalla.” Vị Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành chỉ kiếm vào Jon. “Và để mắt tới cả con quạ này nữa. Nếu hắn chạy, cắt cổ hắn.”

“Tuân lệnh.” Kẻ biến hình thấp hơn Jon một cái đầu, trông yếu ớt và mỏng manh, nhưng Jon biết con mèo ma kia có thể moi ruột cậu chỉ với một cú cào. “Chúng đến từ phía bắc nữa,” Varamyr nói với Mance. “Ngài tốt nhất nên đi đi.”

Mance đội lên đầu chiếc mũ hình cánh quạ. Người của ông ta cũng đã sẵn sàng. “Tạo mũi nhọn,” Mance ra lệnh, “Lập đội hình chữ V, đi theo ta.” Ông ta thúc ngựa băng qua cánh đồng tới chỗ đám lính biệt kích. Đội quân của ông ta đuổi theo sau, đội hình ban đầu không còn nguyên hình dạng.

Jon bước về phía cái lều nghĩ đến chiếc tù và, nhưng con mèo ma đã chặn cậu lại, quất mạnh đuôi. Lỗ mũi của con thú banh ra, nước dãi chảy xuống. Nó cảm thấy nỗi sợ hãi của mình. Cậu thấy nhớ Bóng Ma hơn bao giờ hết. Hai con sói gầm gừ phía sau cậu.

“Những ngọn cờ,” cậu nghe thấy Varamyr lẩm bẩm, “Ta thấy những lá cờ vàng, ồ…” Một con ma mút nặng nề đi qua, năm, sáu cung thủ đứng trên lưng nó. “Nhà vua… không…”

Gã biến hình ngửa đầu lên trời và thét lên. Âm thanh nghe chói tai, đau đớn. Varamyr ngã xuống, quằn quại và con mèo cũng kêu ré lên thảm thiết… Cao cao trên bầu trời phía đông giữa màn mây dày đặc, Jon thấy con đại bàng đang bốc cháy. Trong tích tắc nó cháy sáng hơn cả một ngôi sao, cuồn cuộn trong các màu đỏ, vàng, cam; cánh nó đập mạnh trong không trung như thể nó cố bay thoát khỏi cơn đau. Nó bay cao hơn, cao hơn và cao hơn nữa.

Tiếng thét khiến Val chui ra khỏi căn lều, mặt trắng bệch. “Chuyện gì thế? Chuyện gì xảy ra vậy?” Hai con sói của Varamyr đang đánh nhau và con mèo ma đã biến mất hút trong lùm cây. Nhưng người đàn ông thì vẫn quằn quại trên mặt đất. “Có chuyện gì xảy ra với ông ấy vậy?” Val hỏi, giọng sợ hãi. “Mance đâu?”

“Ở đằng kia.” Jon chỉ tay. “Ông ta xông lên chiến đấu rồi.” Vị vua đã dẫn đám người rách rưới của mình lao vào một đám lính biệt kích, kiếm của ông ta sáng lên loang loáng.

“Đi rồi ư? Ngài ấy không thể đi lúc này, không phải bây giờ. Đến lúc rồi.”

“Trận chiến ấy à?” Cậu quan sát đám lính biệt kích rải rác đằng sau cái đầu chó chết tiệt của Harma. Đám du mục la hét, chém giết và đuổi những tên lính mặc áo đen quay trở lại lùm cây. Nhưng những người khác tiếp tục xuất hiện từ cánh rừng, một hàng kỵ sĩ. Jon thấy các kỵ sĩ ngồi trên những con ngựa lớn. Harma phải tập hợp lại đội hình để đối phó với chúng, nhưng một nửa đám người của cô ta đã chạy lên phía trước quá xa.

“Hoàng hậu sắp sinh!” Val hét vào mặt cậu.

Tiếng kèn trumpet vang lên, to và lanh lảnh. Đám dân du mục không có kèn, họ chỉ có tù và chiến. Họ cũng biết rõ điều đó như cậu. Âm thanh đó khiến đám du mục trở nên hỗn loạn, một số kẻ xông lên chiến đấu, những kẻ khác bỏ chạy. Một con ma mút giẫm đạp lên một bầy cừu mà một nhóm ba người đàn ông đang cố lùa về phía tây. Tiếng trống nổi lên, đám dân du mục xếp hàng và lập đội hình. Nhưng lúc này đã quá muộn, quá rối ren và quá chậm chạp. Kẻ địch ào ra từ cánh rừng, từ phía đông, đông bắc và phía bắc. Ba đội quân ngựa chiến vĩ đại, tất cả đều trang bị giáp sắt đen lấp lánh, bên ngoài là áo choàng len sáng màu. Đội quân này không đến từ Trạm Đông, bởi ở Trạm Đông chỉ có một nhóm trinh sát nhỏ. Đây là quân đội. Nhưng của vị vua nào? Jon cũng bối rối chẳng khác gì đám dân du mục. Phải chăng là Robb đã trở lại? Hay thằng nhóc trên Ngai Sắt cuối cùng cũng đã thức tỉnh? “Cô tốt nhất nên quay trở lại lều đi,” cậu nói với Val.

Phía bên kia cánh đồng một đội kỵ binh đã dẹp tan Harma Đầu Chó. Một nhóm khác quét vào bên sườn đội giáo binh của Tormund khi hắn cùng các con trai của mình cố gắng chống trả một cách tuyệt vọng. Tuy nhiên, đám người khổng lồ lại leo lên những con ma mút; và các kỵ sĩ không thích điều này chút nào. Cậu thấy những con ngựa chiến hí vang và chạy tán loạn bên sườn núi. Tuy nhiên, phe của dân du mục cũng đang hoảng loạn và sợ hãi. Hàng trăm phụ nữ và trẻ em hối hả thoát khỏi chiến trường. Vài người hoảng sợ vấp cả vào móng ngựa. Cậu thấy một chiếc xe chó kéo của một bà già xoay về phía ba cỗ xe ngựa và đâm vào nhau.

“Thánh thần ơi,” Val nói thầm, “Thánh thần ơi, sao chúng lại làm chuyện này?”

“Vào trong lều và trông chừng Dalla đi. Ở đây không an toàn đâu”. Thực ra trong đó cũng không an toàn hơn là bao, nhưng cô không cần phải nghe điều đó.

“Ta cần một bà đỡ,” Val nói.

“Cô là bà đỡ. Còn tôi sẽ ở đây cho đến khi Mance quay trở lại”. Cậu đã mất dấu Mance nhưng giờ đã lại nhìn thấy ông ta, đang mở đường qua một đám kỵ binh. Những con ma mút phá tan trung tâm đội kỵ binh, nhưng hai nhóm khác đang áp sát, siết chặt như hai cái càng cua. Mé đông khu trại, vài cung thủ đang bắn tên đốt cháy những túp lều. Cậu thấy một con ma mút quật ngã một tên kỵ sĩ khỏi yên ngựa và quăng tên này ra xa bằng cái vòi của mình. Đám quân du mục ào qua, phụ nữ và trẻ em chạy khỏi chiến trường. Vài gã trai tráng hối hả đi theo. Một vài kẻ nhìn Jon không thiện cảm nhưng thanh Móng Dài đang trong tay cậu, nên không ai gây rắc rối cho cậu cả. Ngay cả Varamyr cũng bò đi bằng tay và đầu gối.

Số người xuất hiện từ khu rừng càng lúc càng nhiều hơn, không chỉ có kỵ sĩ mà cả những cung thủ mặc giáp và đám lính được trang bị áo mũ; hàng chục, hàng trăm gã. Một ngọn cờ phấp phới trên đầu bọn chúng. Cơn gió thổi quá mạnh khiến Jon không thấy rõ hình hiệu trên cờ nhưng cậu thoáng thấy một con cá ngựa, một đàn chim và một vòng hoa. Cả màu vàng, rất nhiều màu vàng, những lá cờ vàng với một hình trang trí màu đỏ. Đội quân này của ai vậy nhỉ?

Phía đông và phía bắc, cả phía đông bắc, cậu thấy đám dân du mục đang cố gắng chống cự và chiến đấu, nhưng những kẻ tấn công đã đánh bại họ. Đám dân du mục đông hơn về số lượng, nhưng những kẻ tấn công có giáp thép và ngựa khỏe. Ở nơi hỗn loạn nhất của trận chiến, Jon thấy Mance đứng hiên ngang trên bàn đạp ngựa. Chiếc áo choàng đỏ-đen và chiếc mũ hình cánh quạ khiến người ta dễ nhận ra ông ta. Ông ta giơ cao thanh kiếm, người của ông ta tụ tập xung quanh, trong khi một nhóm kỵ sĩ lao vào họ với thương, kiếm và rìu. Con ngựa của Mance đá hai chân sau. Một lưỡi giáo xuyên qua ngực con vật. Rồi sau đó, đội quân thép nhấn chìm ông ta.

Xong rồi, Jon nghĩ, chúng đang vỡ trận. Đám dân du mục đang bỏ chạy, vứt bỏ vũ khí. Những người Hornfoot, bọn ăn lông ở lỗ, và người Thenn trong giáp vảy đồng, tất cả đều đang bỏ chạy. Mance đã chết. Ai đó đang giương đầu của Harma trên một cái cột. Đội quân của Tormund tan rã. Chỉ có những tên khổng lồ trên lưng những con ma mút cầm cự như những hòn đảo thưa thớt trong một biển thép đỏ rực. Lửa cháy lan từ lều này sang lều khác, vài cây thông cũng bốc cháy. Xuyên qua những đám khói, một đội kỵ binh khác đến trên những con ngựa bọc giáp. Phấp phới trên đầu họ là những lá cờ to nhất mà cậu nhìn thấy từ trước đến nay, những lá cờ hoàng gia lớn như những chiếc ga trải giường. Một lá cờ màu vàng với những vạt dài nhọn, bên trên in hình một trái tim đang bốc cháy. Một lá cờ khác trông như một miếng vàng dát với một con hươu đen đang nhảy dựng lên. Những lá cờ tung bay trong gió.

Robert, Jon bần thần một lúc và nhớ về Owen tội nghiệp, nhưng khi tiếng kèn vang lên một lần nữa và đám kỵ binh tập hợp lại, họ hô vang cái tên “Stannis! Stannis! STANNIS!”

Jon quay lưng và trở lại trong lều.

About The Author

Ngo David

Power is Power