The Witcher Quyển 5 – Thử thách của lửa
Tác giả: Andrzej Sapkowski
Dịch giả: Tổng hợp
Số chương: 7
Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới
Và rồi nữ tiên tri nói với witcher: “Ta sẽ cho ngươi lời khuyên này: hãy đi ủng làm từ sắt, cầm lấy một cây gậy thép. Rồi đi đến tận cùng thế giới. Cùng với cây gậy hãy khám phá những vùng đất trước mắt ngươi và tưới ướt chúng bằng lệ của mình. Hãy đi qua lửa và nước, đừng dừng lại giữa đường, đừng ngoái lại phía sau. Và khi đôi ủng đã mòn, khi cây gậy đã gãy, khi cơn gió và cái nóng đã khiến mắt ngươi không còn nhỏ lệ được nữa, thì ở nơi tận cùng thế giới, ngươi sẽ tìm thấy điều mình muốn và người mà ngươi yêu thương…”
Witcher đi qua lửa và nước, anh không ngoảnh nhìn lại. Anh không đi ủng sắt hay cầm theo cây gậy thép. Anh chỉ mang thanh kiếm của mình.
Anh không nghe theo lời của nữ tiên tri. Và anh làm vậy bởi vì bà ta là một nhà tiên tri dỏm.
– Flourens Delannoy, Truyện cổ tích và dân gian.
Con Đường Mòn đã thay đổi ít nhiều kể từ lần cuối cùng witcher đi qua nó. Con đường từng được rải những phiến đá bazan nhẵn nhụi, được xây bởi người elves và người lùn một trăm năm về trước, giờ đã trở thành một phế tích với đầy ổ gà và đá vụn. Có những cái hố to đến độ trông như hầm mỏ. Nhịp di chuyển của đoàn lữ hành chậm lại, chiếc xe kéo luồn lách trên đường đầy khó khăn, cứ luân phiên kẹt hết hố này đến hố khác.
Zoltan Chivay biết nguyên nhân của chuyện này. Sau cuộc chiến cuối cùng với Nilfgaard, nhu cầu vật liệu xây dựng tăng lên chóng mặt. Người ta bất chợt nhận ra Đường Mòn có gần như vô tận số lượng đá xẻ. Và vì nó nằm ở giữa nơi hoang dã, chẳng dẫn từ đâu và cũng chẳng đi đến đâu, nên tầm quan trọng của nó trong việc vận chuyển đã bị lãng quên từ lâu, và họ tàn phá nó không thương tiếc, không có điểm dừng.
“Tất cả các thành phố lớn của anh,” người lùn càu nhàu giữa những tiếng quang quác điếc tai của con vẹt, “đều được xây trên nền móng của người elves và chúng tôi. Những lâu đài và thị trấn nhỏ lẻ thì các anh tự xây lấy, nhưng vẫn tiếp tục lấy đá của chúng tôi. Từ trước đến nay, đều là nhờ những kẻ không-phải-người mà các anh mới đạt được tiến bộ như bây giờ.”
Geralt không nói gì cả.
“Nhưng các anh thậm chí còn phá hủy cả nơi này,” Zoltan chửi thề, lắc đầu và giúp di chuyển chiếc xe tránh qua một cái hố khác. “Tại sao các anh lại không lấy đá bắt đầu từ cuối con đường? Các anh như một lũ trẻ con! Thay vì ăn cả chiếc bánh vòng, đúng theo trình tự, các anh chỉ liếm đi lớp mứt và vứt hết phần còn lại, bởi vì nó không được ngon như vậy.”
Geralt giải thích rằng đây là do lỗi trong địa lý chính trị. Đầu phía tây của con đường nằm ở Brugge, đầu phía đông thì ở Temeria và ngay giữa thì ở Sodden. Mỗi vương quốc đều tàn phá phần của họ. Để đáp lại, Zoltan miêu tả thật sống động một nơi mà ông ta rất sẵn lòng nhét hết các vị vua và chính trị của họ vào đó, trong khi Nguyên soái Duda bổ sung thêm một vài chi tiết về mẹ của họ.
Càng đi họ càng thấy khung cảnh tệ hại hơn. Phép so sánh của Zoltan về cái bánh vòng và mứt hóa ra ngày càng kém chính xác – con đường trông giống một cái bánh kem đã bị móc hết nho khô và hạnh nhân một cách chăm chỉ. Có vẻ như chắc chắn sẽ tới lúc mà chiếc xe sập xuống hoàn toàn và mắc kẹt trong một cái hố vĩnh viễn. Tuy nhiên, họ lại được cứu chính nhờ vào thứ mà đã phá hủy Đường Mòn. Họ bắt gặp một lối đi chạy xuống phía Nam đã được mở bởi những chuyến xe chở gỗ nặng nề từ khu rừng. Zoltan vui mừng, bởi vì theo ông ta thì con đường dẫn đến một trong các pháo đài bên bờ sông Ina. Ông ta hy vọng rằng sẽ bắt gặp quân đội đã đang ở đấy sẵn rồi. Người lùn tin chắc rằng, cũng giống như cuộc chiến lần trước, cuộc phản công của quân đội phương Bắc sẽ xuất phát từ Sodden nằm ở phía bên kia của Ina, mà sau đó tàn dư thảm hại của quân Nilfgaard sẽ phải quay trở lại và vượt qua Yaruga.
Và quả thực, thay đổi phương hướng của chuyến hành trình lại lần nữa mang đến cảnh tượng chiến tranh. Đêm xuống, bầu trời rực ánh lửa trước mắt họ, và khi bình minh lên, từng cột khói xếp hàng phía đường chân trời. Bởi vì không thể biết chắc được ai đang đánh đập và đốt phá, cũng như ai đang bị đánh đập và đốt phá, họ di chuyển thật từ tốn, và cử Percival
Schuttenbach lên trước để thám thính.
Vào một buổi sáng họ bắt gặp một bất ngờ: họ tìm thấy một con ngựa màu hạt dẻ, không còn người cưỡi. Bộ yên cương xanh mang dấu hiệu của Nilfgaard và bê bết từng cụm máu khô. Không thể biết được đó là máu của gã kỵ sĩ đã bị giết bên cạnh cỗ xe của lũ bán rong, hay của người chủ mới của con ngựa.
“Chà, thế là vấn đề kết thúc.” Milva nói, nhìn vào witcher. “Nếu quả thực đã có một vấn đề.”
“Vấn đề thực sự là chúng ta không biết ai là kẻ đã ném anh ta xuống khỏi yên ngựa.” Zoltan
lầm bầm. “Hay liệu chúng có đang lần theo dấu vết của ta và tay cận vệ kỳ lạ đó không.”
“Hắn là người Nilfgaard.” Geralt nghiến răng. “Ngữ điệu của hắn có thể khó phân biệt được, nhưng một vài người tị nạn trốn trong rừng có thể đã nhận ra…”
Milva nhìn xuống.
“Thế thì lẽ ra tôi nên giết hắn lúc trước, witcher.” Cô nói khẽ. “Hắn sẽ được chết thanh thản hơn.”
“Hắn trốn khỏi một cỗ quan tài,” Dandelion gật gù, nhìn Geralt với vẻ thấu hiểu, “chỉ để mục xác trong một cái hố.”
Và đó là những lời khắc trên bia mộ của Cahir, con trai của Ceallach, người Nilfgaard xuất hiện từ trong quan tài, người khăng khăng rằng mình không phải Nilfgaard. Họ không nhắc đến hắn nữa. Geralt – bất chấp lời đe dọa lúc trước – quyết định giữ con ngựa màu hạt dẻ và đặt Zoltan Chivay lên yên. Mặc dù chân của người lùn không với đến bàn đạp, con ngựa vẫn rất phục tùng và im lặng trong khi ông ngồi thoải mái suốt quãng đường đi.
***
Đêm xuống, đường chân trời vẫn đỏ rực và khi bình minh lên, khói bốc thành dải lên trời, làm vẩn đục sắc xanh. Họ sớm gặp những tòa nhà bị thiêu trụi, lửa vẫn liếm lên những thanh xà trơ trọi. Bên cạnh đống đổ nát là 8 người đang ngồi cùng 5 con chó. Tất cả đều đang ngấu nghiến cái xác cháy đen của một con ngựa. Bắt gặp cảnh tượng đoàn người lùn vũ trang, họ bỏ chạy trong hoảng sợ. Chỉ có một người và một con chó ngồi lại, cả hai đều không biểu lộ chút kinh hãi nào, tiếp tục xé thịt ra từ cái xác thối. Zoltan và Percival cố tra hỏi người đàn ông, nhưng không lấy được thông tin gì. Ông ta chỉ ngồi rên rỉ, co ro, cúi gằm mặt và tiếp tục gặm nốt đống xương còn lại. Con chó sủa và nhe cả nanh cả lợi ra. Cái xác của con ngựa bốc mùi tởm lợm.
Họ không dám liều lĩnh rời khỏi con đường, mà đã nhanh chóng dẫn họ đến một đống tàn tích cháy xém khác. Một ngôi làng khá lớn đã bị phóng hỏa, xung quanh chắc hẳn đã xảy ra giao tranh vì bên cạnh đó là một nghĩa trang mới được đắp. Cách nghĩa trang vài bước bên vệ đường là một cây sồi. Trên cành treo đầy hạt.
Và người.
“Chúng ta phải kiểm tra.” Zoltan Chivay quyết định, đặt dấu chấm hết cho mấy tranh luận về rủi ro và nguy hiểm. “Lại gần hơn đi.”
“Ông muốn nhìn mấy kẻ bị treo cổ đó làm cái quái gì, Zoltan?” Dandelion lên giọng, “Để mót đồ? Từ đây tôi cũng có thể thấy là họ không mang ủng.”
“Cậu là đồ ngốc. Chuyện này không phải là về ủng, mà là tình hình chiến sự hiện tại. Các tiến triển trong chiến dịch quân sự. Cậu cười cái gì? Cậu là nhà thơ thì biết chó gì về chiến thuật.”
“Tôi ghét phải làm ông thất vọng, nhưng tôi có biết đấy.”
“Và tôi bảo, cậu sẽ chẳng biết nó là cái gì kể cả khi nó nhảy ra từ bụi cây và đá vào mông cậu.”
“Ông nói đúng. Chiến thuật mà nhảy từ bụi cây ra, tôi xin nhường lại cho người lùn. Và cả treo trên cành nữa.”
Zoltan khoát tay và tiến về phía gốc sồi. Dandelion, không thể kìm chế sự tò mò, thúc Pegasus và đi theo người lùn. Geralt, sau một hồi ngẫm nghĩ, cũng đi theo họ. Milva bám theo sau anh.
Đàn quạ đang rỉa những cái xác bay lên không trung một cách miễn cưỡng, kêu quang quác và rũ lông. Một số bay về phía khu rừng, số khác chỉ đơn giản di chuyển lên cành cao hơn của cây sồi khổng lồ, ngắm nhìn với vẻ thích thú Nguyên soái Duda trên vai người lùn, lúc này đang xúc phạm mẹ chúng.
Kẻ đầu tiên trong số 7 người bị treo có đeo một tấm bảng trên cổ với dòng chữ: “Phản quốc”. Người thứ hai mang tấm bảng: “Đồng lõa”, người thứ ba: “Lũ elf chỉ điểm”, người thứ tư: “Đào ngũ”. Thứ năm là một người phụ nữ chỉ mặc đồ lót, rách rưới và máu me, trên bảng ghi: “Điếm của Nilfgaard”. Hai người còn lại không mang bảng và chỉ có thể suy đoán là họ tình cờ bị treo trên đó.
“Tin tốt đây.” Zoltan Chivay mừng rỡ, chỉ vào mấy tấm bảng. “Thấy chưa? Quân đội của chúng ta đã đi qua đây. Các chàng trai quả cảm của ta đã bắt đầu phản công và đẩy lui quân xâm lược. Và theo như tôi thấy, họ đã có khá nhiều thời gian để nghỉ ngơi và giải trí.”
“Và điều này có nghĩa gì với chúng ta?”
“Có nghĩa là tiền tuyến đã di chuyển và tách biệt ta với quân Nilfgaard. Chúng ta an toàn rồi.”
“Còn đám khói phía trước ta thì sao?”
“Đó là quân ta.” Người lùn nói. “Phóng hỏa những ngôi làng đã trợ giúp tụi Sóc. Chúng ta đã ở đằng sau tiền tuyến rồi. Từ ngã ba này con đường phía nam dẫn thẳng xuống Ameria, pháo đài nằm giữa dòng Cholta và Ina. Con đường có vẻ tốt, chúng ta có thể tiếp tục. Không cần phải sợ quân Nilfgaard nữa, ta đã an toàn rồi.”
“Không có lửa làm sao có khói?” Milva lên tiếng. “Và nơi nào có lửa tức nơi đó có thứ để đốt. Tôi nghĩ hướng về phía đám lửa thì thật ngu ngốc. Và cũng thật ngu ngốc nếu đi trên đường, nơi ta có thể bị cướp phục kích bất cứ lúc nào. Hãy quay lại khu rừng đi.”
“Quân đội Sodden đã đi đường này.” Người lùn nhất quyết. “Chúng ta đang ở sau tiền tuyến. Chúng ta không cần phải sợ đi trên đường, và kể cả nếu có bắt gặp quân đội đi chăng nữa thì đó cũng là quân ta.”
“Quá liều lĩnh.” Nữ cung thủ lắc đầu. “Một người lính và một nhà chiến thuật như ông, Zoltan, thì phải biết rằng kỵ binh Nilfgaard thường xuyên tập kích các tiền đồn của đối phương. Rất có khả năng khu vực này đã bị nhắm làm mục tiêu. Nhưng chúng ta cũng không biết được cái gì đang ở phía trước. Về phía nam, bầu trời đen kịt khói, quân đội đang thiêu trụi mọi thứ trên đường tới Ameria. Và chúng ta không ở đằng sau tiền tuyến, mà đang ở ngay giữa tiền tuyến. Chúng ta có thể đụng phải lính từ cả hai bên, bọn đào ngũ, hôi của hay Scoia’tael. Hãy tới Cholta, nhưng đi theo con đường rừng.”
“Cô nói phải.” Dandelion ủng hộ, “Tôi cũng không thích mấy đám khói. Kể cả nếu Temeria có đang phản công, phía trước chúng ta vẫn có thể là quân Nilfgaard. Bọn Áo Đen thường chọc rất sâu vào lãnh thổ đối phương, cùng với Scoia’tael, đốt phá, cướp bóc, gây hoảng loạn rồi lại quay về. Tôi vẫn nhớ những gì đã xảy ra ở Upper Sodden trong cuộc chiến trước. Tôi tin là chúng ta nên bám theo khu rừng. Trong rừng sẽ an toàn hơn.”
“Tôi sẽ không chắc thế đâu.” Geralt chỉ vào một người treo trên cây, mà mặc dù đang ở rất cao, nhưng bắp đùi ông ta bị xé nát và ở chỗ bàn chân chỉ còn lại khúc xương ló ra. “Nhìn đi. Một con ghoul đã làm chuyện đấy.”
“Quái vật ư?” Zoltan Chivay khạc một bãi. “Bọn ăn xác thối?” “Chính xác. Chúng ta cần phải canh phòng cẩn mật khi đêm xuống.” “Lũũũũũũũ chó đẻ!” Nguyên soái Duda ré lên.
“Mi nói đúng ý ta đó, chim.” Zoltan nhăn mặt. “Vậy là chúng ta có một vấn đề. Nên làm gì đây? Đi vào rừng, nơi đầy rẫy ghoul, hay trên đường, nơi có thể đụng phải quân đội và cướp?”
“Vào rừng.” Milva nói kiên quyết. “Và càng rậm càng tốt. Tôi thà gặp ghoul còn hơn gặp người.”
***
Họ băng qua khu rừng, ban đầu cực kỳ căng thẳng, cẩn trọng và phản ứng lại với mọi chuyển động trong lùm cây. Tuy nhiên, họ sớm có lại được phong thái, khiếu hài hước và nhịp di chuyển bình thường. Họ không thấy con ghoul nào cả, hay thậm chí là dấu hiệu nhỏ nhất cho thấy sự tồn tại của chúng. Zoltan đùa rằng tất cả lũ quái vật và ác quỷ mà có mắt, đều biết về quân đội đang đi qua đây và đã được trông thấy những gì mà lính tình nguyện Verden làm với những kẻ đào ngũ, bèn bỏ chạy vào chốn hoang vu, trốn chui trốn nhủi như mấy con chuột nhắt.
“Chúng cần phải bảo vệ vợ con của mình.” Milva làu bàu. “Lũ quái vật biết rằng đang có mấy tên lính háo sắc lởn vởn xung quanh đây, mà thậm chí còn không tha cho mấy con cừu. Và nếu mấy gã đó khoác quần áo lên một cây liễu, thì chúng cũng làm được với mấy cái lỗ trên thân cây.”
Dandelion, người mà đã có lại khiếu hài hước và lắm mồm, thắt chặt dây đàn và bắt đầu ngâm vài câu thơ về mấy cây liễu, lính háo sắc và lỗ cây. Người lùn và con vẹt giúp gieo vần.
***
“Ô.” Zoltan thốt lên.
“Cái gì? Ở đâu?” Dandelion hỏi , đứng trên bàn đạp và nhìn theo hướng người lùn. “Tôi chẳng thấy gì cả!” “Ô.”
“Đừng nói như con vẹt của ông thế! Ô cái gì?”
“Dòng sông.” Zoltan điềm tĩnh đáp lời. “Nó chảy vào dòng Cholta. Tên nó là Ô.” “À…….. ”
“Ôi, không!” Percival Schuttenbach cười, lắc đầu. “À chảy vào thượng nguồn dòng Cholta, cách xa nơi đây. Đây là Ô, không phải À.”
Khe núi, nơi mà dòng sông với cái tên phức tạp chảy qua, mọc đầy tầm ma cao hơn cả đầu của những người lùn. Bầu không khí sặc mùi bạc hà và gỗ mục, âm vang tiếng ếch ộp liên tục. Nó cũng có sườn rất dốc. Điều này là một thảm họa. Chiếc xe hàng cũ kỹ mà cho đến giờ khó khăn lắm mới sống sót nổi qua tất cả mớ chướng ngại vật và ổ gà, đã kết thúc chuyến hành trình của mình bên bờ sông Ô. Nó trượt khỏi tay những người lùn, lăn xuống khe núi và vỡ tan thành từng mảnh.
“Lũũũũũũũ chó đẻ!” Nguyên soái Duda ré lên, tạo nên một điệp khúc trái ngược lại với Zoltan và đoàn của ông.
***
“Phải nói thật,” Dandelion cất lời, nhìn những mảnh vụn của chiếc xe và đống hành lý ở bên dưới. “Đó là một tai nạn vui vẻ. Cái xe cọt kẹt của ông đang khiến chúng ta chậm lại. Chấp nhận đi, Zoltan, quả thật may mắn là đã không có ai phát hiện ra và đuổi theo ta. Nếu phải chạy, chúng ta không thể làm gì ngoại trừ bỏ lại chiếc xe cùng với toàn bộ đồ.”
Người lùn khịt mũi tức giận, nhưng ngạc nhiên là Percival Schuttenbach lại ủng hộ nhà thi sĩ.
Ủng hộ, mà witcher trông thấy, còn đi kèm vài cái nháy mắt đầy ý nghĩa. Người ta có thể đoán rằng những cái nháy mắt đó lẽ ra phải kín đáo, nhưng đường nét trên gương mặt nhỏ bé của người gnome loại trừ hết khả năng đó.
“Nhà thơ nói đúng đấy.” Percival lên tiếng, nhăn mặt và nhấp nháy. “Chúng ta đang ở gần pháo đài nằm giữa Cholta và Ina. Phía trước ta là Fen Carn, địa hình cũng phức tạp tương tự. Muốn vượt qua nó cùng chiếc xe là rất khó khăn. Và nếu chạm trán quân đội Temeria ở bên kia Ina, cùng với hàng hóa trên xe…Chúng ta có thể gặp rắc rối.”
Zoltan gãi mũi, suy ngẫm.
“Thôi được rồi.” Cuối cùng ông ta nói, nhìn xuống phần còn lại của chiếc xe, đang từ từ trôi theo dòng nước lười biếng. “Chúng ta sẽ tách ra. Munro, Figgis, Caleb và Yazon sẽ ở đây. Số còn lại sẽ tiếp tục. Chúng ta phải chất nhu yếu phẩm và dụng cụ lên yên ngựa. Munro, cậu biết phải làm gì chưa? Cậu có xẻng đó.”
“Chúng tôi biết.”
“Đừng để lại dấu vết nào! Hãy đánh dấu thật kín đáo! Và đừng quên nơi mà các cậu giấu đồ!”
“Cứ yên tâm.”
“Hãy bắt kịp chúng tôi khi có thể.” Zoltan giắt cây rìu trên thắt lưng và ném ba lô lên vai, cùng với Sihil. “Chúng tôi sẽ đi qua Ô, rồi theo dòng Cholta xuống Ina. Tạm biệt.”
“Thú vị thật.” Milva lầm bầm với Geralt, khi đoàn lữ hành của họ bắt đầu lên đường, vẫy tay chào bốn người lùn ở lại. “Tôi tò mò không biết trong mấy cái hộp có gì quan trọng đến mức họ phải trôn chúng xuống và đánh dấu. Và còn không để cho bất cứ ai trong chúng ta trông thấy.”
“Đó không phải việc của chúng ta.”
“Tôi không nghĩ,” Dandelion nhẹ nhàng lên tiếng trong khi cẩn thận dẫn Pegasus tránh những thân cây đổ, “mấy cái hộp đựng đồ lót sạch đâu. Họ rất trông mong vào chúng. Tôi đã nói chuyện với họ nhiều đêm để tìm hiểu họ đang giấu cái gì.”
“Và theo ý anh thì họ đang giấu cái gì?”
“Tương lai của họ.” Nhà thơ nhìn xung quanh xem có ai đang nghe lén không. “Percival là một thợ kim hoàn chuyên nghiệp, ông ấy muốn mở xưởng riêng. Figgis và Yazon là thợ rèn, và có nói gì đó về một lò rèn. Caleb Stratton muốn kết hôn nhưng gia đình nhà vợ đã đuổi anh ta đi vì không một xu dính túi. Và Zoltan ”
“Dừng lại đi, Dandelion. Buôn dưa lê là việc của đàn bà.” “Tôi xin lỗi, Milva.”
“Không cần.”
Sau khi họ đã qua sông, những đám cây u ám và ẩm ướt trở nên thưa dần, và chuyển thành những thân cây phong thấp bé và cỏ khô. Bất chấp điều này, họ vẫn đi rất chậm. Họ noi theo gương của Milva, người mà ngay sau khi ra khỏi khu rừng, đã đặt một đứa bé gái mặt tàn nhang với bím tóc lên yên ngựa của mình. Dandelion cũng để một đứa trẻ ngồi trên Pegasus, và Zoltan để hai đứa ngồi trên con ngựa màu hạt dẻ, trong khi ông cầm dây cương đi bên cạnh. Nhưng tốc độ di chuyển cũng chẳng hơn được, những người phụ nữ đến từ Kernow không thể đi nhanh hơn nữa.
***
Trời gần tối, sau hàng giờ đồng hồ lang thang giữa những khe suối và hẻm núi, Zoltan Chivay đứng lại và trao đổi vài câu với Percival Schuttenbach, sau đó quay sang đoàn lữ hành.
“Đừng lo lắng và xin cũng đừng cười tôi.” Ông nói. “Nhưng có vẻ như là tôi đã khiến chúng ta đi lạc. Chết tiệt, tôi không biết chúng ta đang ở đâu hay phải đi lối nào bây giờ.”
“Đừng nói vớ vẩn thế.” Dandelion giận dữ thở ra. “Ông nói không biết là sao? Chúng ta đang men theo dòng chảy còn gì. Và khe suối kia là cái sông Ô của ông. Tôi nói đúng không?”
“Cậu nói đúng. Nhưng hãy để ý xem nó đang chảy hướng nào?” “Chết tiệt. Không thể nào!”
“Có thể đấy.” Milva nói u ám, kiên nhẫn nhặt những chiếc lá khô và thông ra khỏi đầu của đứa bé mặt tàn nhang mà đang ngồi trên yên ngựa của cô. “Có quá nhiều ngã rẽ. Chúng ta đi nhầm hướng rồi.”
“Nhưng đấy vẫn là sông Ô.” Dandelion bướng bỉnh lặp lại. “Nếu cứ men theo nó thì ta không thể đi lạc được. Dòng sông sẽ thu hẹp lại, xoắn xít, nhưng rồi cuối cùng vẫn đổ ra cửa sông thôi. Đó là trật tự của thế giới.”
“Đừng có tỏ vẻ thông minh, nhạc sĩ.” Zoltan nhăn mũi. “Im miệng đi. Cậu không thấy là tôi đang bận suy nghĩ à?”
“Không, chẳng có vẻ là ông đang nghĩ ngợi gì hết. Tôi nói lại, nếu ta bám theo con sông, rồi sẽ…”
“Bớt lảm nhảm đi.” Milva gầm gừ. “Anh là một con chuột thành thị. Trật tự thế giới của anh chỉ gói gọn trong bốn bức tường thành thôi. Mấy con phố rải đá của anh có thể ngoạn mục đó, nhưng nhìn xung quanh đi! Thung lũng và khe suối, sườn dốc và bờ sông rậm rạp. Làm thế quái nào mà ta bám theo con sông được? Khi mà khe suối đổ vào những bụi cây và đầm lầy, rồi lại đi lên, rồi lại xuống rồi lại lên? Cứ thử làm thế vài lần mà không đánh rơi dây cương xem. Chúng ta còn có phụ nữ và trẻ em, Dandelion. Và trời thì sắp tối rồi.”
“Tôi thấy rồi. Tôi sẽ giữ im lặng. Hãy nghe xem một người thông thuộc rừng núi như cô có ý kiến gì?”
Zoltan tát vào đầu con vẹt, chửi rủa, ngón tay ông ta kẹt trong chòm râu, ông ta giật nó giận dữ.
“Percival?”
“Chúng ta gần như không biết hướng đi.” Người gnome nhìn mặt trời đang treo gần ngọn cây. “Đề nghị đầu tiên là thế này: chúng ta quay lại và tránh xa bùn lầy, di chuyển lên chỗ cao ráo hơn và đi qua Fen Carn, đi dọc con sông xuống Cholta.”
“Vậy còn kế hoạch khác?”
“Ô rất nông. Mặc dù sau trận mưa gần đây mực nước của nó dâng cao hơn bình thường, nhưng vẫn dễ dàng vượt qua được. Chúng ta sẽ đi sang bờ bên kia. Bám theo mặt trời ta sẽ tới được nơi dòng Cholta và Ina giao nhau.”
“Không.” Witcher nói. “Tôi loại bỏ hoàn toàn phương án hai. Và các ông cũng đừng nên nghĩ về nó nữa. Sang bờ bên kia sớm muộn ta sẽ gặp rừng rêu. Đó là một nơi tồi tệ. Lời khuyên của tôi là tránh xa nó.”
“Anh biết nơi đó sao? Anh đã từng đi qua rồi? Anh biết cách tới đó?” Witcher xoa trán, cẩn thận tìm câu trả lời.
“Tôi đã từng tới đó một lần,” anh kể bằng một giọng trầm. “Ba năm trước. Tôi đã tới từ phía bên kia, từ phía đông. Tôi đang trên đường đến Brugge và muốn đi đường tắt. Tôi không nhớ đã thoát khỏi đó như thế nào. Người ta đã khiêng tôi ra trên một chiếc xe, dở sống dở chết.”
Người lùn nhìn anh một lúc, nhưng không hỏi thêm câu gì.
Họ quay lại trong im lặng. Những người phụ nữ Kernow bước đi khó khăn, vấp ngã và đỡ mấy đứa trẻ, nhưng không ai mở mồm cằn nhằn. Milva đi bên cạnh witcher, đứa bé gái tóc bím ngủ trên tay cô.
“Nếu tôi hiểu đúng,” cô nói, “thì có thứ gì đó trong khu rừng đã gần kết liễu mạng anh ba năm về trước. Nghề của anh thật nguy hiểm, Geralt.”
“Tôi không thể phủ nhận.”
“Tôi biết chuyện xảy ra hồi đó,” Dandelion khoe. “Anh đã bị trọng thương, một người lái buôn đã đưa anh ra. Tại trang trại nhà của anh ta, anh đã tìm thấy Ciri. Yennefer đã kể với tôi.”
Khi nghe thấy cái tên đó, Milva khẽ mỉm cười. Điều này đã không qua được mắt của Geralt. Anh quyết định là lần tới khi họ hạ trại, anh sẽ bạt tai Dandelion một trận vì cái lưỡi không kiểm soát nổi của cậu. Nhưng biết rõ nhà thơ, nó sẽ chẳng được tác dụng gì hết, đặc biệt là khi Dandelion có lẽ đã hát về mọi thứ mà cậu biết.
“Có lẽ chúng ta đã phạm sai lầm khi không đi qua rừng rêu,” Milva lớn tiếng. “Có lẽ anh sẽ tìm ra được cô bé của mình cũng nên…Người elves tin rằng nếu quay trở lại nơi đã từng xảy ra sự kiện nào đó quan trọng, ta có thể khiến nó lặp lại…Họ gọi nó là…Mẹ kiếp, tôi quên mất rồi. Thòng lọng của số phận?”
“Vòng lặp.” Geralt sửa lại. “Vòng lặp của định mệnh.”
“Ugh!” Dandelion khạc ra, “hai người có thể dừng nói về các mối quan hệ và thòng lọng được không. Đã từng có một người elves ở Thung Lũng Ngàn Hoa tiên đoán rằng tôi sẽ bị treo cổ. Tôi chắc chắn là không tin vào mấy lời bói toán rẻ tiền này, nhưng hai ngày trước tôi đã mơ là mình bị treo cổ. Tôi choàng dậy, mồ hôi đầy người, không nuốt nước bọt hay thở nổi. Vậy nên đừng ngạc nhiên khi tôi không thích nghe về mấy cái thòng lọng.”
“Tôi không nói chuyện với anh, mà là witcher.” Milva nói. “Và cụp tai vào đi, không bọ bay vô đấy. Thế nào, Geralt? Anh nghĩ sao về vòng lặp của định mệnh? Nếu anh đi vào rừng rêu liệu nó có lặp lại không?”
“Tốt hơn hết là chúng ta quay lại.” Anh đáp cộc lốc. “Tôi không có chút ham muốn nào được lặp lại cơn ác mộng đó.”
***
“Xin chào mừng,” Zoltan Chivay vừa nhìn xung quanh vừa lắc đầu. “Chúng ta đã đến một nơi lãng mạn đấy, Percival.”
“Fen Carn.” Người gnome lẩm bẩm, gãi cái chóp mũi dài ngoằng của mình. “Cánh Đồng Mộ…Tôi luôn thắc mắc tại sao người ta lấy cái tên đó…”
“Giờ thì ông biết rồi đấy.”
Thung lũng rộng lớn trước mặt họ ngập trong sương đêm. Xa ngút tầm mắt, làn sương bao phủ một biển những nấm mồ cổ xưa và những tảng đá mòn vẹt. Một vài tảng chỉ là những đống không hình thù như bình thường. Còn lại những trụ đá và đài tưởng niệm được cắt gọt nhẵn nhụi. Và có một số, đứng ở trung tâm của rừng đá, xếp thành một vòng tròn, theo cách mà không thể nào là do tự nhiên được.
“Chắc rồi,” người lùn tiếp tục. “Một nơi lãng mạn để qua đêm đây. Một nghĩa trang của elves. Nếu tôi nhớ chính xác, witcher có nhắc đến ghoul đúng không nhỉ? Giờ thì tôi có thể cảm nhận chúng ở giữa những nấm mồ. Chắc là có đủ mọi thứ ở đây. Ghoul, gravier, ma cà rồng, devourer, thậm chí cả hồn ma elves, toàn bộ đoàn xiếc luôn. Tất cả đều ở đây. Và ông biết chúng đang thì thầm cái gì không? Không cần phải đi tìm bữa tối nữa, bởi vì nó đã tự dẫn xác đến rồi.”
“Sao chúng ta không quay lại nhỉ?” Dandelion gợi ý một cách lo lắng. “Hãy chạy đi trong khi trời vẫn còn sáng?”
“Tôi cũng có đồng ý kiến.”
“Những người phụ nữ đang loạng choạng,” Milva giận dữ nói. “Mấy đứa trẻ đang tuột khỏi tay họ. Những con ngựa đã mệt. Chúng ta phải dừng lại, Zoltan, ông đã nói chỉ còn nửa dặm từ một dặm rưỡi trước đó rồi, họ cần nghỉ ngơi. Và giờ thì sao đây? Ông muốn họ đi bộ lại một dặm? Mẹ kiếp! Nghĩa trang hay không, họ sẽ qua đêm ngay ở đây!”
“Đương nhiên rồi.” Geralt ủng hộ cô, xuống ngựa. “Đừng hoảng sợ. Không phải nghĩa trang nào cũng đều nhung nhúc quái vật và ma quỷ. Tuy rằng tôi chưa bao giờ tới Fen Carn, nhưng nếu có gì đó nguy hiểm ở đây thì tôi đã nghe nói đến rồi.”
Không ai bình luận câu nào, ngay thậm chí cả Nguyên soái Duda. Những người phụ nữ Kernow bồng con mình lên, ngồi sát lại thành một nhóm, im lặng và rõ ràng là đang rất kinh hãi. Percival và Dandelion buộc ngựa lại và để chúng gặm cỏ. Geralt, Zoltan và Milva tiến lại rìa của cánh đồng, quan sát nghĩa địa đang dần chìm vào bóng đêm và sương mù.
“Để cho mọi việc tệ hơn, đêm nay còn có trăng tròn.” Người lùn lẩm bẩm. “Ôi, tối nay sẽ là một bữa tiệc ê hề cho lũ ghoul, tôi có thể cảm nhận được, ôi, chúng ta sẽ cho chúng…Cái gì đang lấp lánh ở phía nam thế nhỉ? Một dạng ánh sáng nào đấy?”
“Ông biết ánh sáng đó mà.” Geralt nói. “Lại lần nữa, có người đã phóng hỏa mái nhà của ai đó. Ông biết gì không, Zoltan? Theo cách nào đó, tôi lại cảm thấy an toàn hơn khi ở Fen Carn này.”
“Tôi cũng thấy thế, nhưng đấy là khi vẫn còn mặt trời. Hy vọng là bọn ghoul để chúng ta sống cho tới bình minh.”
Milva lục lọi túi đồ của mình và rút ra cái gì đó sáng loáng.
“Một cái đầu mũi tên bằng bạc.” Cô giải thích. “Tôi đã để dành đúng cho dịp này. Tốn đến 5 crown ở chợ. Liệu thứ này có giết được ghoul không, witcher?”
“Tôi không nghĩ là có ghoul ở đây.”
“Chính anh đã nói,” Zoltan bật lại. “rằng người đàn ông treo trên cây đã bị ghoul ăn. Và chúng ta đang đứng giữa nghĩa trang, nơi trú ẩn của ghoul.”
“Không phải luôn luôn.”
“Tôi sẽ bắt anh giữ lời. Anh là một witcher, một dân chuyên, anh sẽ bảo vệ chúng tôi khỏi chúng chứ, tôi hy vọng thế. Những con ghoul này đánh có giỏi hơn cướp đường không?”
“Ông không thể so sánh chúng được. Tôi yêu cầu ông đừng hoảng loạn.”
“Liệu thế này có đủ cho một con ma cà rồng không?” Milva xoay cái đầu mũi tên bằng bạc, lướt ngón tay dọc nó để đảm bảo độ sắc bén. “Hay một hồn ma?”
“Có thể.”
“Trên thanh Sihil của tôi,” Zoltan gầm gừ, giơ thanh kiếm ra, “có khắc những ký tự rune của một câu thần chú cổ của người lùn. Bất kỳ con ghoul nào đến gần thanh kiếm này sẽ nhớ mặt tôi. Rồi anh sẽ thấy.”
“Ha.” Dandelion lại gần ba người, thốt lên. “Vậy ra đó là những ký tự rune bí ẩn của người lùn. Trên thanh kiếm viết gì thế?”
“Đi chết đi thằng chó.”
“Có gì đó đang di chuyển giữa những phiến đá!” Percival bất thình lình la lên. “Ghoul, ghoul!”
“Đâu?”
“Kia kìa! Nó đang nấp sau những tảng đá!” “Một con thôi à?”
“Tôi chỉ thấy một thôi!”
“Nó chắc hẳn phải đói lắm mới dám liều bắt chúng ta trước khi trời tối.” Người lùn khạc ra tay và cầm lấy Sihil. “Ha! Giờ thì chúng sẽ biết lòng tham dẫn đến cái chết! Milva, cắm một mũi tên vào mông nó, tôi sẽ rạch bụng thằng khốn!”
“Tôi chẳng nhìn thấy gì cả!” Milva thì thầm với sợi lông vũ của mũi tên quét lên má. “Chẳng có gì ngoại trừ mấy ngọn cỏ đang di chuyển giữa những tảng đá. Ông có nhầm không đấy, gnome?”
“Không.” Percival phản đối. “Cô có thấy tảng đá trông như một cái bàn bị vỡ không? Con ghoul đang nấp sau đó.”
“Ở yên đây.” Geralt, với một chuyển động chớp nhoáng, rút thanh kiếm đeo sau lưng ra khỏi vỏ. “Trông coi lũ ngựa và chăm sóc những người phụ nữ. Nếu bọn ghoul tấn công, ngựa sẽ hoảng loạn. Tôi sẽ đi kiểm tra xem nó là gì.”
“Anh sẽ không đi một mình đâu.” Zoltan nói. “Ngày hôm trước ở cánh đồng, tôi bỏ chạy vì sợ đậu mùa. Tôi không ngủ nổi suốt hai đêm liền vì xấu hổ. Không bao giờ nữa! Percival, ông đi đâu thế? Ra đằng sau à? Ông đã phát hiện ra con ghoul, giờ ông có thể đi lên trước. Đừng sợ, tôi sẽ ở ngay phía sau.”
Họ bước đi cẩn thận giữa những nấm mồ. Họ cố hết mức có thể để không gây ra tiếng động trong bụi cỏ, dâng cao đến tận đầu gối Geralt và thắt lưng người lùn và gnome. Khi lại gần bia mộ, họ chia ra, chặn mọi lối thoát của con ghoul. Nhưng chiến thuật của họ không cần thiết. Geralt biết chuyện gì sẽ diễn ra: tấm mề đay của anh không động đậy chút nào hết.
“Chẳng có ai cả.” Zoltan nói, nhìn xung quanh. “Không một sinh linh. Ông bị ảo giác rồi, Percival. Báo động giả. Ông làm mọi người sợ chẳng vì cái gì hết. Ông xứng đáng ăn một đá vào mông.”
“Tôi đã thấy mà!” Người gnome kiên quyết. “Tôi thấy nó nhảy giữa những tảng đá! Nó gầy gò và đen đúa như một người thu thuế…”
“Im đi, đồ gnome ngu ngốc, bởi vì ông mà…”
“Cái mùi gì lạ thế nhỉ?” Geralt bất chợt hỏi. “Các ông có ngửi thấy không?” “Anh nói đúng.” Người lùn trả lời, hít hà như một con chó săn. “Có mùi lạ thật.”
“Thảo mộc.” Percival lên tiếng, hít không khí vào cái mũi dài ngoằng. “Húng quế, ngải đắng, hồi hương,…quế? Cái quái gì thế nhỉ?”
“Ghoul có mùi thế nào, Geralt?”
“Như xác thối.” Witcher nhìn xung quanh thật nhanh, tìm kiếm dấu vết trên cỏ, rồi với vài bước chân anh trở lại bia mộ và gõ cán kiếm lên đá. “Ra đi.” Anh nói qua hàm răng nghiến chặt. “Tôi biết ông ở đó. Nhanh lên, nếu không tôi sẽ đâm thanh kiếm xuyên qua cái lỗ này.”
Từ cái lỗ được ngụy trang hoàn hảo bên dưới bia mộ phát ra một tiếng sột soạt. “Ra đi.” Geralt lặp lại. “Tôi sẽ không hại ông.”
“Sẽ không ai đụng đến một sợi tóc trên đầu ông.” Zoltan trấn an bằng giọng ngọt ngào, nhưng với ánh nhìn khát máu, trong khi tay với lấy Sihil đằng sau lưng. “Không có gì phải lo cả.”
Geralt lắc đầu và với một cử chỉ kiên quyết, ra lệnh cho ông ta lùi lại. Từ cái lỗ bên dưới bia mộ, lại phát ra tiếng sột soạt và mùi thảo mộc sặc sụa. Sau một phút họ trông thấy mái tóc xám cùng một gương mặt quý phái với một cái mũi khoằm ấn tượng, mà không phải của một con ghoul, mà là một người đàn ông trung niên khẳng khiu. Percival đã không nhầm. Người đàn ông đúng là giống một người thu thuế.
“Tôi không có gì phải sợ chứ?” Ông ta hỏi, nhướng cặp mắt đen bên dưới hàng lông mày xám lên với Geralt.
“Đúng vậy.”
Người đàn ông chui ra khỏi hố, phủi sạch chiếc áo khoác đen, buộc ở thắt lưng bằng một thứ trông như một cái khăn, sửa sang lại cái bao tải, làm phát tán thêm một làn hương thảo mộc nữa.
“Các quý ngài, tôi đề nghị mọi người hãy cất vũ khí đi.” Ông ta nói bằng chất giọng điềm tĩnh, đôi mắt đảo xung quanh. “Các bạn sẽ không cần đến chúng. Như các bạn thấy, tôi không đeo kiếm. Tôi không bao giờ đeo. Tôi cũng không mang theo gì đáng giá trong túi. Tên tôi là Emiel Regis. Tôi tới từ Dillingen. Tôi là một bác sĩ phẫu thuật.”
“Đương nhiên rồi.” Zoltan Chivay hơi nhăn mặt. “Thầy thuốc, thợ cắt tóc hay bác sĩ phẫu thuật. Không có ý gì đâu, nhưng ông bạn bốc mùi như dược sư vậy.”
Emiel Regis nở một nụ cười nhẹ trên cặp môi mỏng dính và giơ tay xin lỗi.
“Mùi hương đã làm lộ vị trí của ông, ngài bác sĩ.” Geralt nói, tra thanh kiếm lại vào vỏ. “Ông có lý do cụ thể nào cho việc trốn tránh chúng tôi không?”
“Cụ thể ư?” Người đàn ông chuyển cặp mắt đen láy sang phía anh. “Không, chỉ là một lý do chung chung mà thôi. Tôi đơn giản chỉ là sợ các vị. Thời buổi nguy hiểm mà.”
“Cũng đúng.” Người lùn gật đầu và chỉ ngón tay lên bầu trời. “Thời buổi quả là nguy hiểm. Tôi nghĩ có lẽ ông cũng là một người tị nạn, như chúng tôi. Tuy nhiên, tò mò cái là ông lại chạy từ tận Dillingen đến đây chỉ để trốn, ẩn náu giữa những ngôi mộ. Chà, trong chiến tranh thì cuộc sống có thể trở nên khá lẫn lộn. Ông đã làm chúng tôi sợ, và chúng tôi lại làm ông sợ. Nỗi sợ khiến con người ta tưởng tượng ra đủ thứ.”
“Về phần tôi,” người đàn ông tự giới thiệu là Emiel Regis không nhìn họ. “Không có gì đáng để lo ngại cả. Tôi hy vọng về phần các vị cũng vậy.”
“Ông nghĩ chúng tôi là cái gì, đồ lang thang?” Bộ râu của Zoltan khẽ đung đưa. “Chúng tôi, thưa ngài bác sĩ, cũng là dân tị nạn. Chúng tôi đang trên đường tới biên giới Temeria. Nếu muốn, ông có thể đi cùng chúng tôi. Càng đông càng vui, và an toàn hơn là ở một mình, và có một bác sĩ trong đoàn sẽ rất hữu dụng. Chúng tôi đi cùng phụ nữ và trẻ em. Ông không tình cờ mang theo thuốc trong cái bao tải bốc mùi đó chứ?”
“Có một vài thứ.” Người bác sĩ nói khẽ. “Tôi sẽ giúp hết mức có thể. Còn về lời đề nghị, tôi rất cảm kích, nhưng thưa các quý ngài, tôi không phải dân tị nạn. Tôi không chạy khỏi Dillingen vì chiến tranh, tôi sống ở đây.”
“Cái gì?” Người lùn tự giác lùi lại một bước. “Ông sống ở đây? Trong cái nghĩa trang này?” “Nghĩa trang ư? Không hẳn, tôi có một cái lán ở cách đây không xa. Và một ngôi nhà cùng
cửa hàng ở Dillingen, đương nhiên rồi. Nhưng tôi dành mùa hè ở đây, mọi năm, từ tháng Sáu đến tháng Chín, từ hạ chí cho tới thu phân. Tôi thu thập thảo dược, rễ cây và bào chế thuốc ở đây…”
“Ông biết về cuộc chiến,” Geralt nói, “dù cho đang sống giữa nơi đồng không mông quạnh, cách xa thế giới và con người. Bằng cách nào?”
“Từ những người tị nạn khác đã đi qua đây. Chưa đầy hai dặm từ đây tới sông Cholta, có một trại tập kết lớn. Ở đó là vài trăm người tị nạn, các dân làng từ Sodden và Brugge.”
“Còn quân đội Temeria?” Zoltan hỏi với vẻ hồi hộp. “Họ có đang tiến quân không?” “Cái đó thì tôi không biết.”
Người lùn nguyền rủa rồi nheo mắt về phía ông bạn vừa làm quen.
“Vậy là ông sống ở đây, ông Regis.” Ông ta dài giọng. “Và buổi đêm ông lang thang giữa những ngôi mộ. Ông không thấy sợ sao?”
“Sao tôi lại phải sợ?”
“Quý ngài đây,” Zoltan chỉ về phía Geralt, “là một witcher. Anh ta nhận ra có dấu hiệu của ghoul. Xác chết biết đi, ông có hiểu không? Và thường thì ghoul hay trú ẩn trong nghĩa địa.”
“Một witcher.” người bác sĩ nhìn Geralt với vẻ tò mò không thèm che đậy. “Một thợ săn quái vật. Chà, thú vị thật. Xin hãy giải thích với người đồng hành của mình, ngài witcher, rằng nghĩa trang này đã hơn một thiên niên kỷ rưỡi rồi. Còn về thức ăn, ghoul không kén chọn lắm, nhưng sau 500 năm phải gặm mấy khúc xương cũ kỹ, chúng đã bỏ đi hết rồi.”
“Thế là bớt một điều phải lo.” Zoltan nói, nhìn xung quanh. “Ngài bác sĩ, hãy để tôi mời ông về trại của chúng tôi. Ông có thích thịt ngựa nguội không?”
Regis nhìn họ bằng cặp mắt thấu hiểu.
“Cám ơn ông.” Ông ta nói nghiêm trang. “Nhưng tôi có một ý hay hơn. Tôi xin mời các vị về nhà tôi. Ngôi nhà mùa hè của tôi chỉ hơn một cái túp lều chút xíu, một cái lán. Nó khá nhỏ nên các vị sẽ phải ngủ ngoài trời. Nhưng bên cạnh lán là một dòng suối. Và một lò sưởi nơi ta có thể đun nóng thịt ngựa.”
“Chúng tôi vui mừng chấp nhận.” Người lùn cúi chào. “Có thể không có ghoul ở đây, nhưng ý nghĩ phải qua đêm trong một nghĩa trang vẫn không hấp dẫn tôi cho lắm. Đi nào, chúng tôi sẽ giới thiệu ông với phần còn lại của đoàn lữ hành.”
Khi họ lại gần khu trại, những con ngựa khụt khịt và giậm chân bồn chồn.
“Xin đừng đứng ở đầu gió, ông Regis.” Zoltan ném về phía người bác sĩ một ánh nhìn ra vẻ. “Mùi thảo mộc làm lũ ngựa hoảng sợ. Còn về tôi, tôi buộc phải thừa nhận là nó làm tôi có cảm giác như đau răng.”
***
“Geralt,” Zoltan lầm bầm sau khi Emiel Regis biến mất đằng sau tấm rèm được dùng làm cửa ra vào cho cái lán của ông ta. “Mở to mắt ra canh chừng nhé. Tôi không ưa gã dược sư bốc mùi này.”
“Có lý do cụ thể nào không?”
“Tôi không tin những người dành mùa hè để ở bên cạnh nghĩa địa. Thêm vào, nghĩa địa lại còn cách xa nơi có người sống nữa. Chẳng lẽ thảo mộc không mọc được ở những nơi tử tế hơn sao? Cái tay Regis này trông như một kẻ đào trộm mộ. Bác sĩ phẫu thuật, nhà hóa học và mấy gã na ná như vậy hay có thói quen đào mả để đánh cắp xác, dùng cho việc thí nghiệm sau này.”
“Thí nghiệm, Zoltan, phải được làm trên những cái xác còn tươi. Cái nghĩa trang này cổ lắm rồi.”
“Phải,” người lùn gãi râu suy ngẫm, và nhìn những người phụ nữ Kernow đang sửa soạn để qua đêm trong mấy bụi dâu tây mọc quanh lán của người bác sĩ. “Hay là ông ta ăn trộm đồ quý giá trong hầm mộ?”
“Thế thì hỏi ông ta đi.” Geralt nhún vai. “Ông đã chấp nhận lời mời của ông ta mà không do dự, và giờ thì bỗng nhiên đa nghi như cô hầu gái được khen đểu vậy.”
“Hmm,” Zoltan nghĩ. “Anh có lý. Nhưng chúng ta đã ở đây, chúng ta nên xem trong lán có cái gì. Ồ phải, để chắc chắn…”
“Hãy vào đó và hỏi mượn một cái dĩa.” “Sao lại là dĩa?”
“Sao lại không?”
Người lùn ngước nhìn anh, nhưng cuối cùng quyết tâm. Ông bước về phía cái lán, gõ lên khung cửa và đi vào. Ông ở trong đó một lúc lâu, trước khi lại xuất hiện ở ngưỡng cửa.
“Geralt, Percival, Dandelion, vào đây mà xem này. Nhanh lên, Regis đã mời mấy người còn gì.”
Bên trong lán khá tối và ngập trong mùi thảo dược nồng nặc, treo thành từng búi trên tường. Món nội thất duy nhất là một cái giường, cũng rải đầy thảo dược, và một cái bàn cong queo, chất trên đó là vô số lọ thủy tinh, đồ gốm và chai sứ. Chút ánh sáng le lói giúp họ nhìn được đến từ một cái nồi hình đồng hồ cát để bệt trên sàn. Quấn xung quanh cái nồi là một mạng lưới các ống thủy tinh, uốn cong thành đủ dạng xoáy trôn ốc. Phía cuối một trong những cái ống có để một cái bát, đang hứng thứ chất lỏng trong suốt chảy ra từ ống.
Khi trông thấy cái nồi, Percival Schuttenbach tròn mắt, há mồm và khẽ thốt lên đầy ngưỡng mộ. “Ôi, ôi, ôi.” Ông ta ta kêu lên với sự hồi hộp không che giấu nổi. “Tôi đang thấy gì ở đây thế này? Một cái lò nung hóa học thật sự! Và đặt ở trên là dụng cụ chưng cất với bộ điều chỉnh và thiết bị làm mát bằng đồng! Một vật tuyệt đẹp! Ông đã tự làm ra nó sao, thưa ngài bác sĩ?”
“Vâng,” Emiel Regis khiêm tốn thừa nhận. “Tôi chuyên tâm vào việc điều chế thần dược, nên cần phải chưng cất nhiều. Để tách ra dạng vật chất thứ năm, cũng như…”
Ông ta dừng lại, trông thấy Zoltan để ngón tay bên dưới một cái ống và hứng một giọt, rồi liếm nó. Người lùn thở ra. Ngay cả trong bóng đêm, gương mặt khắc khổ của ông cũng hiện rõ vẻ hạnh phúc không tả xiết.
Dandelion không kìm được và cũng nếm thử. Cậu khẽ rên lên.
“Dạng vật chất thứ năm,” cậu nói, chép môi thán phục. “Có lẽ là thứ sáu hay bảy không chừng.”
“Vâng.” Người bác sĩ khẽ mỉm cười. “Như tôi đã nói: một món chưng cất…”
“Rượu.” Zoltan sửa lại đầy phẫn nộ. “Và một món rượu thật tuyệt vời làm sao. Thử đi, Percival.”
“Nhưng tôi không hiểu hóa học hữu cơ.” Người gnome có vẻ lơ đãng, quỳ gối săm soi chi tiết của cái nồi hóa học. “Tôi không nghĩ là mình có thể nhận ra được các thành phần trong đó…”
“Đây là sản phẩm chưng cất từ nhân sâm.” Regis xua đi sự nghi ngờ của ông. “Với thêm một chút cà dược. Và tinh bột lên men…”
“Ý ông là bã gạo?” “Có thể gọi như vậy.”
“Có cái cốc nào ở đây không?”
“Zoltan, Dandelion.” Witcher khoanh hai tay trước ngực. “Hai người điếc à? Rượu đó làm từ nhân sâm đấy. Tránh xa cái thùng ra.”
“Nhưng thưa ngài Geralt thân mến,” nhà hóa học lôi ra một cái chén lớn từ giữa đống chai lọ bụi bặm và lau sạch nó bằng một cái giẻ, “không có gì phải sợ. Nhân sâm được xử lý chuẩn xác, và liều lượng được đo đếm kỹ càng. Với một cân men tôi chỉ cho 4 lạng nhân sâm và nửa lạng cà dược…”
“Đó không phải là vấn đề.” Zoltan nhìn witcher, ông ta đã hiểu ra và trở nên cảnh giác, lùi ra xa khỏi cái nồi. “Đó không phải là vấn đề, ngài Regis, mà là nhân sâm rất đắt đỏ. Quá đắt để chúng tôi làm một ly.”
“Nhân sâm.” Dandelion huýt sáo ngưỡng mộ, chỉ vào một đống để trong góc phòng trông giống một túm củ cải đường. “Đây là nhân sâm? Nhân sâm chính hiệu sao?”
“Loại cái,” nhà hóa học trả lời. “Tôi tìm thấy rất nhiều trong nghĩa địa nơi chúng ta gặp nhau. Đó chính xác là lý do vì sao tôi luôn dành mùa hè ở đây.”
Witcher nhìn Zoltan. Người lùn nháy mắt. Regis mỉm cười.
“Làm ơn, làm ơn, các quý ngài. Nếu muốn thì các vị cứ việc nếm thử. Tôi rất trân trọng phép lịch sự của mọi người, nhưng với tình cảnh hiện tại tôi khó có cơ hội đem món đồ uống này tới Dillingen trong thời gian chiến tranh. Tất cả sẽ phí hoài mất, vậy nên đừng băn khoăn về giá cả. Xin thứ lỗi, nhưng tôi chỉ có duy nhất một cái chén.”
“Một là đủ rồi.” Zoltan nói, nhận lấy cái chén và cẩn thận rót đầy nó. “Mừng sức khỏe của ngài, ngài Regis. Uuuchh…”
“Tôi xin lỗi,” Regis nói. “Chất lượng của sản phẩm vẫn còn chưa hoàn toàn đạt yêu cầu…Nó vẫn đang trong giai đoạn sản xuất.”
“Chà, nó là thứ tuyệt vời nhất tôi từng uống trong nửa đời người.” Zoltan thở bình thường lại. “Đây, nhà thơ.”
“Aaachh…Ôi, tuyệt hảo! Thử đi, Geralt.”
“Mừng chủ nhà.” Witcher hơi cúi chào Regis. “Phép tắc của cậu để đâu hả Dandelion?” “Xin các vị thứ lỗi,” nhà hóa học nói. “Tôi không uống được. Sức khỏe của tôi giờ không còn được như trước, tôi đã phải từ bỏ…nhiều thú vui.” “Thậm chí một ngụm cũng không sao?”
“Đây là vấn đề quy tắc.” Regis khẽ lên tiếng. “Tôi không bao giờ vi phạm các quy tắc mà mình tự đề ra.”
“Tôi ngưỡng mộ và ghen tị với sự kiên định của ông.” Geralt hớp một ngụm, sau một phút chần chừ anh uống hết cả chén. Sau khi nếm thử, anh không thể không nhỏ một giọt lệ. Món rượu lan tỏa cảm giác ấm áp dễ chịu ra khắp người anh.
“Tôi sẽ đi gọi Milva.” Anh đề nghị, đưa lại cái chén cho người lùn. “Đừng có uống hết trước khi chúng tôi kịp quay lại đấy.”
Milva đang ngồi cạnh lũ ngựa và chơi đùa với đứa bé gái tàn nhang buộc tóc bím mà cô đã đặt lên yên ngựa cả ngày. Đầu tiên khi nghe về đề nghị hiếu khách của Regis, cô đã từ chối, tuy nhiên cũng chẳng mất nhiều thời gian lắm để thuyết phục được cô.
Khi họ bước vào lán, đoàn lữ hành đang ngắm nghía những cây nhân sâm được bảo quản. “Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy đấy,” Dandelion nói, xoay xoay cái rễ trong lòng bàn tay.
“Quả thực là trông chúng giống người.”
“Một người đang bị đau lưng.” Zoltan lên tiếng. “Và củ kia, trông giống một người phụ nữ đang mang thai. Và củ này, tôi xin lỗi, trông như hai người đang nằm đè lên nhau.”
“Trong đầu mấy người lúc nào cũng chỉ có mấy thứ đó.” Milva dũng cảm nuốt trôi món rượu, và bật ra ho dữ dội. “Chà…rượu mạnh quá! Nó thực sự được làm từ nhân sâm ư? Ha, vậy thì uống thôi! Đâu phải ngày nào cũng được như này đâu. Cảm ơn, ông bác sĩ.”
“Niềm vui là của tôi.”
Chiếc chén liên tục được dốc ngửa truyền đi giữa những người đang có mặt và tạo nên một bầu không khí thoải mái và dễ chịu.
“Tôi thường nghe người ta nói nhân sâm là một loại thực vật có ma thuật cực mạnh.” Percival Schuttenbach lên tiếng.
“Quả đúng như vậy.” Dandelion xác nhận, uống hết chén, lắc đầu và tiếp tục. “Rất nhiều bài ca đã được sáng tác về chủ đề này. Các nam pháp sư cho nhân sâm vào thần dược, mà đem lại cho họ sự trẻ trung bất tử. Các nữ pháp sư dùng nhân sâm để chế ra một loại dầu gọi là glamour. Khi một nữ pháp sư dùng dầu này, cô ấy trở nên đẹp đến nỗi tất cả mọi người xung quanh đều mắt lồi khỏi tròng. Tôi cũng có thể nói nhân sâm là một chất kích dục cực mạnh, được sử dụng trong các loại mê thuật, đặc biệt là để phá vỡ sự kháng cự của phụ nữ. Vì thế nên nó được biết đến nhiều hơn với cái tên: táo tình yêu. Nó dùng để quyến rũ bạn tình.”
“Ngu ngốc.” Milva bình luận.
“Tôi nghe nói,” người gnome cất lời, nhấc chén lên, “rằng nếu một cái rễ nhân sâm bị nhổ lên khỏi mặt đất, nó sẽ khóc và cằn nhằn như thể đang sống.”
“Bah!” Zoltan lắc đầu. “Nếu nó chỉ cằn nhằn thôi thì đã tốt! Người ta bảo nhân sâm có thể hét to tới mức làm ta điếc tai, và hơn cả nó còn biết đọc thần chú và nguyền rủa kẻ đã nhổ nó lên. Một việc liều lĩnh như thế có thể làm ta mất mạng.”
“Nghe như mấy câu truyện cổ tích nhảm nhí vậy,” Milva cầm lấy chén, uống một hơi và rùng mình. “Tôi không tin là một cái cây có sức mạnh như vậy.”
“Nó đã được chứng minh là thật rồi!” Người lùn la lên. “Nhưng các nhà thảo dược học thông thái đã nghĩ ra một cách để bảo vệ bản thân. Khi tìm được một cây nhân sâm, họ sẽ buộc một sợi dây vào rễ còn đầu kia buộc vào một con chó…”
“Hoặc một con lợn.” Người gnome thêm vào.
“Hoặc một con heo rừng.” Dandelion lên tiếng với vẻ nghiêm trọng thái quá.
“Cậu ngu thật, nhà thơ. Mánh ở đây là để con chó hay con lợn kéo cái rễ lên, vậy là tất cả lời nguyền sẽ trút xuống đầu chúng, trong khi nhà thảo dược học sẽ nấp trong một bụi cây ở xa, an toàn chạy thoát thân. Gì vậy, ngài Regis? Bộ tôi đã nói gì sai sao?”
“Phương pháp đó quả thực thú vị,” người bác sĩ thừa nhận với một nụ cười, “đặc biệt là vì sự ngây thơ của nó. Vấn đề, theo ý kiến của tôi, đó là nó quá phức tạp. Theo lý thuyết, có thể dùng đủ dây mà không cần vật kéo. Tôi không nghĩ là nhân sâm có khả năng nhận ra cái gì đang kéo mình lên. Thần chú và lời nguyền sẽ rơi vào sợi dây, mà rẻ hơn và đỡ rắc rối hơn là dùng một con chó hay lợn.”
“Ông đang trêu tôi đấy à?”
“Không hề. Tôi nói là tôi ngưỡng mộ sự ngây thơ của nó. Mặc dù nhân sâm, theo ý kiến cá nhân của tôi, không có khả năng hét thần chú hay nguyền rủa, tuy nhiên trong trạng thái nguyên chất thì cực kỳ độc hại. Kể cả đất đai xung quanh rễ cũng bị nhiễm độc. Nước cây còn mới nếu bắn vào mặt hay vết thương hở, hay thậm chí là hơi nếu hít phải, đều gây chết người. Cá nhân tôi thì dùng găng tay và mặt nạ, nhưng không có nghĩa là tôi phản đối phương pháp sợi dây và con chó.”
“Hmm…” người lùn ngẫm nghĩ. “Vậy còn vấn đề về tiếng hét khi nhổ nhân sâm lên?” “Nhân sâm không có dây thanh quản,” người bác sĩ trả lời. “Thực vật thì thường như vậy mà, phải không? Tuy nhiên, nhựa cây tiết ra từ một cái rễ tươi có thể gây ra ảo giác. Tiếng thì thầm, những giọng nói, tiếng hét và những âm thanh khác đều có thể được sản sinh từ một hệ thần kinh bị tác động.”
“Sao tôi lại quên mất chứ?” Dandelion kêu lên, vừa mới uống hết một chén nữa. “Nhân sâm rất độc! Chúng ta đã cầm nó lên tay! Và giờ thì ngồi đây uống…”
“Chỉ có rễ tươi mới độc thôi,” Regis trấn an. “Những cây này đã được xử lý và bảo quản cẩn thận rồi, và món chưng cất được chắt lọc kỹ càng. Không cần phải lo lắng.”
“Đương nhiên là không rồi,” Zoltan nói. “Rượu luôn là rượu. Cậu có thể lọc nó qua sợi tầm ma, vẩy cá hay dây giày cũng được. Đưa chén đây cho tôi, Dandelion, cậu đang lấn lượt đấy.”
Chiếc chén lại bắt đầu di chuyển. Mọi người ngồi thoải mái trên nền đất bằng phẳng. Witcher rít lên một hơi và nguyền rủa. Anh cẩn thận duỗi chân ra vì đầu gối lại bắt đầu nhức nhối. Anh trông thấy Regis chăm chú nhìn mình.
“Chấn thương gần đây hả?”
“Không gần lắm. Nhưng vẫn rất đau. Ông có loại thảo dược nào trong đây giúp giảm đau không?”
“Còn tùy vào đau thế nào.” Người bác sĩ mỉm cười. “Và nguyên nhân là gì. Tôi ngửi thấy có mùi lạ trong mồ hôi của anh, witcher. Anh đã được chữa trị bằng ma thuật đúng không? Với thần dược?”
“Tôi được cho uống vài loại thuốc. Tôi không hề biết là có thể ngửi được chúng trong mồ hôi của mình đấy. Ông có khứu giác nhạy phi thường, Regis.”
“Ai cũng có thế mạnh của mình. Cũng như điểm yếu. Anh đã bị thương gì vậy?” “Một cái tay và chân bị gãy.”
“Đã bao lâu rồi?”
“Chỉ mới hơn một tháng.”
“Và anh đã có thể đi lại được rồi sao? Phi thường. Người Dryad rừng Brokilon, đúng chứ?” “Làm sao ông biết?”
“Chỉ người dryad mới có loại thuốc có thể phục hồi xương cốt nhanh đến vậy. Trên mu bàn tay anh tôi phát hiện có những đốm đen, vết tích nơi mà hoa chuông tím và dây conynhael đã đâm xuyên qua da. Chỉ người dryad mới dùng conynhael và hoa chuông tím chỉ mọc ở Brokilon.”
“Hoan hô. Một kết luận hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên, tôi lại quan tâm đến một vấn đề khác. Tôi đã làm gãy xương đùi và cẳng tay. Vậy mà lại thấy rất đau ở đầu gối và cùi chỏ.”
“Dễ hiểu thôi,” người bác sĩ gật gù. “Ma thuật của người dryad đã chữa lành phần xương hư hại của anh, nhưng cũng gây ra một vài biến đổi đến dây thần kinh. Tác dụng phụ này thường thấy ở các khớp chân tay.”
“Có thể làm gì để chữa?”
“Đáng buồn là không gì hết. Trong một thời gian dài anh sẽ có thể dự đoán chuẩn xác thời tiết xấu. Khi mùa đông đến cơn đau sẽ tệ hơn nhiều. Tôi không thể khuyên anh dùng bất kỳ loại thuốc nào để giảm đau. Đặc biệt là thuốc gây nghiện. Anh là một witcher, cơ thể anh không thể chấp nhận điều đó.”
“Vậy phương thuốc tốt nhất chính là nhân sâm của ông.” Witcher nhấc chiếc chén mà Milva vừa mới rót đầy và đưa cho anh, uống cạn rồi ho đến khi chảy nước mắt. “Chết tiệt, tôi thấy khá hơn rồi đấy.”
“Tôi không chắc,” Regis nói với một nụ cười mỉm, “là anh đang chữa bệnh theo cách đúng đắn. Tôi nhớ là ta nên chữa nguyên nhân chứ không phải triệu chứng.”
“Không phải đối với witcher này.” Một Dandelion với gương mặt hồng hào khụt khịt. “Đối với anh ta và những nỗi lo của anh ta, rượu là quá đủ rồi.”
“Cậu cũng nên thế.” Geralt làm nhà thơ đông cứng với một ánh mắt. “Đặc biệt là nếu nó làm lưỡi cậu tê liệt.”
“Đừng trông đợi vào việc đó.” Nhà phẫu thuật lại mỉm cười. “Một trong các thành phần là cà dược. Nó chứa nhiều chất đạm hữu cơ, bao gồm cả scopolamine. Món đồ uống trước mặt quý vị đây, rồi sẽ bắt từng người một phát biểu cho tôi nghe một bài hùng biện.”
“Phát biểu cái gì cơ?” Percival hỏi.
“Trở nên nói nhiều. Xin lỗi. Hãy dùng những từ ngữ đơn giản hơn nào.” Môi trên của Geralt mở ra giống như bắt chiếc một nụ cười.
“Phải đó.” Anh nói. “Thật dễ làm sao để sa đà vào phép lịch sự và bắt đầu sử dụng những từ đó hằng ngày. Những người xung quanh rồi bắt đầu coi ta như mấy thằng dở hơi kênh kiệu.”
“Hay là một nhà hóa học.” Zoltan nói, rót thêm một chén nữa.
“Hay một witcher,” Dandelion khụt khịt, “người mà đã đọc thật nhiều sách để gây ấn tượng với một nữ pháp sư. Không gì hấp dẫn các nữ pháp sư hơn là một câu truyện thú vị. Phải không, Geralt? Thôi nào, nói cho chúng tôi biết đi…”
“Bỏ bớt vài lượt đi, Dandelion.” Witcher lạnh lùng ngắt lời. “Một vài chất đạm hữu cơ bắt đầu tác dụng lên cậu hơi nhanh rồi đấy. Cậu nói quá nhiều.”
“Đến lúc anh hé lộ một vài bí mật của mình rồi đấy, Geralt.” Zoltan nhăn mặt. “Dandelion chẳng kể cho chúng tôi nghe gì mới cả. Anh không thể lờ đi sự thật rằng mình là một huyền thoại sống được. Những câu truyện phiêu lưu của anh được biểu diễn ở mọi nhà hát múa rối. Trong số đó là một câu truyện về anh và một nữ pháp sư tên là Guinevere.”
“Yennefer.” Regis nhẹ nhàng đính chính lại. “Tôi có xem một buổi diễn đó. Câu truyện là về anh săn lùng một thần đèn, nếu trí nhớ của tôi chính xác.”
“Tôi đã ở trong câu truyện đó.” Dandelion khoe. “Chúng tôi đã rất vui. Tôi có thể kể cho mọi người…”
“Cứ việc kể đi.” Geralt đứng dậy. “Đừng quên uống và bốc phét thêm vài chi tiết nữa nhé.
Tôi sẽ đi dạo.”
“Whoa,” người lùn nói. “Không cần phải bực tức thế…”
“Ông nhầm rồi, Zoltan. Tôi ra ngoài để đi đái. Kể cả một huyền thoại sống cũng phải có lúc đi đái chứ.”
***
Màn đêm lạnh như địa ngục. Những con ngựa khụt khịt và khói bốc lên từ mũi chúng. Cái lán của nhà phẫu thuật nhìn thật lộng lẫy dưới ánh trăng. Geralt cởi cúc quần ra.
Milva, người đã ra khỏi lán trước đó một lúc, hắng giọng hơi thiếu tự tin. Bóng của cô đứng bên cạnh bóng của Geralt.
“Sao anh không quay vào trong?” Cô hỏi. “Anh thật sự giận à?” “Không.” Anh phủ nhận.
“Vậy tại sao anh lại đứng đây một mình dưới ánh trăng?” “Tôi đang đếm.”
“Hả?”
“Từ khi chúng ta rời Brokilon, đã 12 ngày trôi qua, và chúng ta đã đi được khoảng 60 dặm đường. Ciri, nếu đúng như lời đồn, đang ở Nilfgaard, tại thủ phủ của đế chế, một nơi cách xa tôi 2500 dặm đường. Một phép tính đơn giản cho thấy nếu cứ với tốc độ này, tôi sẽ đến được đó trong một năm và 4 tháng. Cô nói sao?”
“Không gì cả.” Milva nhún vai và lại hắng giọng. “Tôi không biết đếm giỏi như anh. Tôi không biết đọc và viết. Tôi ngu ngốc, một ả thôn nữ ngờ nghệch từ một ngôi làng nhỏ bé. Tôi không phải là bạn đồng hành tốt cho anh. Thậm chí còn chẳng phải là người để trò chuyện cùng.”
“Đừng nói như vậy.”
“Nhưng nó là sự thật!” Cô nói gãy gọn. “Sao phải kể cho tôi ngày và dặm làm gì? Anh muốn lời khuyên của tôi sao? Anh muốn tôi khích lệ anh? Muốn tôi xua đi sự sợ hãi và làm vơi nỗi buồn còn tồi tệ hơn là một cái xương bị gãy? Tôi không thể! Anh cần một người khác. Nói chuyện với Dandelion ý. Anh ta rất khôn ngoan, và hiểu biết. Được quý mến!”
“Dandelion chỉ là kẻ thích khoe mẽ.”
“Chắc rồi. Nhưng đôi lúc anh ta cũng có thể nói thật. Hãy quay vào trong nào. Tôi muốn uống thêm.”
“Milva?”
“Cái gì?”
“Cô chưa bao giờ nói tại sao cô quyết định đi cùng tôi.” “Anh chưa bao giờ hỏi cả.”
“Giờ tôi đang hỏi đây.”
“Trễ quá rồi. Giờ tôi còn chẳng biết nữa.”
***
“Cuối cùng, anh đã quay lại.” Zoltan vui vẻ chào đón họ. “Giờ khi tất cả đang ở đây, tưởng tượng mà xem, Regis đã quyết định đi cùng chúng ta.”
“Thật sao?” Geralt nhìn nhà hóa học. “Sao lại đột ngột quyết định vậy?”
“Zoltan,” Regis hạ mắt, “đã khiến tôi nhận ra rằng cuộc chiến đang nổ ra xung quanh nghiêm trọng hơn nhiều so với những câu truyện mà tôi đã được nghe từ những người tị nạn. Quay trở về Dillingen không còn là lựa chọn nữa và trốn ở nơi hoang vu này cũng không được khôn ngoan cho lắm. Hay cả việc lang thang một mình cũng vậy.”
“Và chúng tôi, mặc dù nhìn bề ngoài không giống vậy, nhưng rất an toàn để đi cùng. Chỉ một cái nhìn là đủ với ông chứ?”
“Hai,” người bác sĩ sửa lại. “Một cái liếc với những người phụ nữ trong nhóm của ông. Một cái với mấy đứa trẻ của họ.”
Zoltan ợ một tiếng thật to. Chiếc chén cạ vào ống thủy tinh.
“Bề ngoài có thể đánh lừa,” ông ta đùa. “Nhỡ đâu chúng tôi định bán mấy người phụ nữ đó làm nô lệ thì sao? Percival, làm gì đó với cái máy này đi. Chúng tôi muốn uống, nhưng nó chỉ nhỏ giọt như nước mũi vậy.”
“Món chưng cất đã nguội rồi. Rượu chảy ra sẽ ấm.” “Không cần bận tâm, đêm lạnh rồi.”
Món đồ uống gợi không khí trò chuyện. Dandelion, Zoltan và Percival đỏ ửng, giọng của họ thậm chí còn thay đổi hơn – trong trường hợp của nhà thơ và người gnome, âm thanh phát ra chỉ là những tiếng ngọng nghịu. Họ bắt đầu đói và nhai thịt ngựa nguội và rau cải, mà có khá nhiều trong lán. Họ chảy nước mắt vì món rau cũng mạnh như rượu. Và nó tạo thêm lửa cho cuộc tán gẫu.
Regis tỏ ra ngạc nhiên khi hóa ra đích đến cuối cùng của chuyến hành trình không phải là một khu vực nào đó gần rặng núi Mahakam, mà đã từ lâu là quê hương của người lùn. Zoltan, đã trở nên lắm mồm còn hơn cả Dandelion, nói rằng ông sẽ không quay về Mahakam trong bất kỳ hoàn cảnh nào, trút hết sự bực bội về trật tự xã hội ở đó, đặc biệt là về luật pháp và ông thống đốc, Brouver Hogg, người nắm quyền tuyệt đối với các tộc người lùn.
“Lão già hợm hĩnh!” Ông la lên và khạc vào đống than trong nồi. “Khi nhìn lão ta các anh khó có thể phân biệt được là lão còn sống hay đã bị nhồi bông rồi. Lão gần như không bao giờ di chuyển, mà cũng tốt, vì cứ mỗi khi làm thế là lão lại đánh rắm. Không thể hiểu nổi lão đang nói cái gì, bởi vì râu và ria mép của lão dán dính vào với nhau. Nhưng lão cai quản tất cả mọi người, và ai cũng phải nhảy theo điệu nhạc của lão…”
“Không thể nói là các chính sách của thống đốc Hogg sai được,” Regis lên tiếng. “Nhờ vào tầm nhìn kiên định của ông ấy mà người lùn đã tách ra và không chiến đấu cho các biệt đội Scoia’tael. Và các cuộc thanh trừng đã chấm dứt, không có cuộc thập tự chinh nào xảy ra ở Mahakam. Công cuộc bình thường hóa quan hệ với mọi người đã đem lại kết quả.”
“Nhảm nhí,” Zoltan uống từ cái chén. “Lão già khốn khiếp chẳng theo đuổi mục đích cao cả gì trong trường hợp của tụi Sóc hết, đơn giản chỉ vì quá nhiều thanh thiếu niên đã bỏ việc trong các hầm mỏ và lò rèn để tận hưởng tự do và phiêu lưu cùng các biệt đội elves. Một khi sự việc leo thang, Hogg mới ra tay với bọn oắt con. Lão chẳng quan tâm mẹ gì đến số lượng con người bị sát hại dưới tay lũ Sóc, hay kể cả những kẻ thiệt mạng trong các vụ thanh trừng khốn khiếp của các ông cũng vậy. Bởi vì lão cho rằng bất kỳ người lùn nào sống trong các thành phố hay thị trấn của con người thì đều là những kẻ vô lại. Còn về nguy cơ xảy ra một cuộc viễn chinh đến Mahakam, xin đừng lố bịch như vậy, chẳng có nguy hiểm nào cả, và sẽ không bao giờ có. Vị vua nào dám đứng lên chống lại Mahakam đây? Tôi sẽ nói cho ông điều này, ngay cả người Nilfgaard nếu chiếm được hết toàn bộ thung lũng nằm bên dưới Mahakam, cũng chẳng dám động đậy. Ông biết vì sao không? Để tôi nói cho: Mahakam là thép. Và không chỉ là loại thép thông thường bất kỳ. Còn có cả than, quặng từ, và đủ mọi tài nguyên vô tận. Những nơi khác chỉ toàn là quặng rác.”
“Và công nghệ cũng nằm ở Mahakam.” Percival thêm vào. “Luyện kim và chạm khắc! Các lò rèn lớn, chứ không phải cái ống khói vớ vẩn nào đấy. Búa hơi…”
“Đây, Percival, uống chút cho ướt miệng đi.” Zoltan đưa cho người gnome một chén đầy. “Ông sẽ làm tất cả chúng tôi phát nhàm với cái mớ công nghệ đó. Nhưng không phải ai cũng biết Mahakam xuất khẩu sắt đâu nhé. Đến các Vương quốc phương Bắc, nhưng cũng đến cả Nilfgaard nữa. Nên nếu có ai dám động tay động chân, chúng tôi sẽ bắt đầu phá hết các công xưởng và đánh ngập các mỏ quặng. Và rồi con người sẽ phải ra trận với gậy gộc và đá sỏi.”
“Dù có khó chịu với Brouver Hogg và các nhà chức trách của Mahakam,” witcher để ý, “nhưng ông đã bắt đầu nói “chúng tôi”.
“Đương nhiên rồi,” người lùn xác nhận đầy nhiệt huyết. “Cũng phải có thứ gọi là tinh thần đoàn kết chứ, đúng không? Tôi thừa nhận là tôi rất tự hào rằng chúng tôi thông minh hơn nhiều so với lũ elves kiêu ngạo đó. Chẳng việc gì phải phủ nhận cả. Người elves trong vài trăm năm đã vờ rằng con người các anh không tồn tại. Họ nhìn ngắm bầu trời, hít thở hương hoa và quay đi khỏi con người. Và tới khi hóa ra làm thế chẳng được tích sự gì, họ đột nhiên thức tỉnh và sờ tay vào vũ khí. Họ quyết định đã tới lúc giết hoặc bị giết. Còn những người lùn chúng tôi? Chúng tôi đã thích nghi. Các anh tưởng đã chinh phạt được chúng tôi ư, nằm mơ thôi. Chúng tôi đã chinh phạt các anh. Bằng kinh tế.”
“Nếu phải nói thật,” Regis lên tiếng, “thì người lùn các ông thích nghi dễ dàng hơn người elves. Elves gắn bó với đất đai và lãnh thổ của họ, các ông gắn bó với bộ tộc của các ông. Nơi nào bộ tộc các ông sinh sống, thì nơi đó là quê hương. Kể cả nếu ngẫu nhiên có kẻ trị vì ngu ngốc nào đó tấn công Mahakam, các ông sẵn sàng đánh ngập hầm mỏ và phá dỡ công xưởng mà không nuối tiếc, rồi chuyển tới nơi khác định cư. Có thể là một quả núi xa xăm nào đó. Hay thậm chí là trong một thành phố của con người.”
“Chính xác! Ngay cả trong thành phố của các ông, chúng tôi vẫn sống ổn.”
“Kể cả ở khu ổ chuột sao?” Dandelion hớp hơi sau khi nốc hết một chén đầy rượu nữa.
“Và khu ổ chuột thì làm sao? Tôi thích sống cạnh đồng bào của mình. Việc gì tôi phải hòa đồng với con người?”
“Miễn sao họ cho chúng ta ở cạnh hội thương nhân là được.” Percival lau mũi bằng tay áo. “Rồi thì họ cũng sẽ cho thôi”, người lùn nói với vẻ thuyết phục, “và nếu không, chúng ta sẽ tự lập hội thương nhân của riêng mình, và cạnh tranh với họ luôn.”
“Nhưng ở Mahakam an toàn hơn là trong các thành phố và thị trấn.” Regis nói. “Thành phố có thể bị thiêu rụi và phá hủy trong thời loạn. Đợi chiến tranh qua đi thì trốn trong núi là khôn ngoan nhất.”
“Những ai muốn đi thì cứ việc.” Zoltan uống hết một chén nữa. “Tôi thích tự do hơn, và tôi không thể tìm thấy điều đó ở Mahakam. Ông không thể tưởng tượng nổi sống dưới chế độ cũ như thế nào đâu. Dạo gần đây lão thống đốc còn tự mình giải quyết cái mà lão gọi là “những vấn đề chung của cộng đồng”. Ví như, liệu ông có được phép đeo vòng tay hay không. Cá thì phải ăn ngay hay đợi đến khi nhũn ra. Đàn orca thì chơi theo các giai điệu truyền thống hàng thế kỷ, hay theo sự ảnh hưởng độc hại và suy đồi của văn hóa con người. Sau bao nhiêu năm lao động thì được phép nộp đơn xin kết hôn. Cách hầm mỏ bao xa thì được phép huýt sáo. Và nhiều vấn đề mang tính thời sự khác. Không đâu, các chàng trai, tôi sẽ không quay lại Núi Carbon. Tôi không có ý định dành những năm tháng còn lại của cuộc đời dưới hầm mỏ. Bốn mươi năm hít khí mêtan ở dưới đó là đã đủ với tôi rồi. Chúng tôi có những kế hoạch khác, phải không, Percival? Chúng tôi đã có một tương lai đảm bảo rồi…”
“Tương lai, tương lai…” người gnome dốc hết chén, hỉ mũi và nhìn người lùn với đôi mắt lờ mờ. “Đừng nói gì hết, Zoltan. Có khi chúng ta có thể bị bắt, và rồi tương lai của chúng ta sẽ là thòng lọng…hoặc Drakenborg.”
“Ngậm mồm đi.” Người lùn gầm gừ, nhìn ông ta với vẻ đe dọa. “Ông nói nhiều quá rồi đó!” “Scopolamine.” Regis khẽ thì thầm.
***
Người gnome thì lảm nhảm. Milva thì cáu bẳn. Zoltan, quên mất là đã kể với mọi người rồi, lại bắt đầu lèm bèm về Hogg. Geralt, quên mất là anh đã nghe một lần rồi, lại bắt đầu lắng nghe. Regis cũng nghe và thậm chí còn chêm vài câu bình luận, hoàn toàn điềm tĩnh vì là người duy nhất vẫn còn tỉnh táo trong căn phòng toàn những người say khướt. Dandelion gảy dây đàn và hát.
Chẳng trách quý cô xinh đẹp kia lại kiêu kỳ đến vậy, Cây càng cao, thì càng khó trèo.
“Ngu ngốc,” Milva bình luận. Dandelion tiếp tục mà không quan tâm.
Đối xử với phụ nữ như cây cao,
Lấy rìu ra và một, hai, ba,…
“Một cái chén…” Percival Schuttenbach lầm bầm. “Một cái chén…làm từ một viên đá mắt mèo trắng sữa nguyên chất…Ôi, tuyệt đẹp…tôi tìm thấy nó trên đỉnh Montsalvat. Phần rìa được đính thạch anh và đế bằng vàng. Một kỳ quan đích thực…”
“Đừng cho ông ta thêm rượu nữa.” Zoltan nói.
“Đợi chút đã,” Dandelion có vẻ hứng thú, cũng lầm bầm theo. “Chuyện gì đã xảy ra với cái chén huyền thoại này?”
“Tôi đã đổi nó lấy một con la. Tôi cần một con la để chở đồ… corundum và các bon kết tinh. Tôi có…hức…một đống…hức…hàng, nặng, không có la sao chở được…Tôi cần một cái chén để làm gì?”
“Corundum? Các bon?”
“Ờ, đối với cậu thì đó là ngọc ruby và kim cương. Rất…hức…hữu dụng.” “Để làm gì?”
“Để khoan và giũa. Để cầm. Tôi có cả đống…”
“Nghe thấy không, Geralt?” Zoltan khua tay loạn xạ, gần tự vỗ vào lưng mình. “Ông ta đang mơ về một đống kim cương. Cẩn thận đấy, Percival, giấc mơ của ông có thể không thành sự thật đâu. Hay kể cả một nửa giấc mơ đó. Mà tôi không nói đến một nửa về kim cương đâu.”
“Mơ, mơ,” Dandelion lại làu bàu. “Còn anh, Geralt? Anh có lại mơ về Ciri nữa không? Bởi vì ông nên biết, Regis à, Geratl đã có một cơn báo mộng! Ciri là một Đứa Trẻ Bất Ngờ, Geralt đã được định mệnh gắn kết với cô bé, vậy nên anh ấy có thể nhìn thấy cô bé trong mơ. Hãy biết luôn rằng chúng tôi đang trên đường tới Nilfgaard để đòi lại Ciri, đã bị bắt cóc bởi Hoàng đế Emhyr. Bằng bất cứ giá nào, chúng tôi sẽ tìm được cô bé trước khi thằng con hoang đó nhận ra! Tôi có thể nói thêm với các ông, nhưng đó là một bí mật. Một bí mật kinh khủng và đen tối…Không ai được phép biết điều này, hiểu chứ? Không một ai!”
“Tôi chưa nghe thấy gì cả,” Zoltan nói, dũng cảm nhìn vào witcher. “Tai tôi có sáp rồi.” “Sáp tai khó chịu lắm đó,” Regis nói, giả vờ ngoáy tai.
“Chúng tôi tới Nilfgaard…” Dandelion tựa vào người lùn. Nó đáng lẽ phải giúp cậu đứng vững hơn, nhưng hóa ra chỉ làm cậu chực ngã. “Nhưng như tôi nói, một bí mật! Một đích đến bí mật!”
“Quả thực, che giấu rất tài tình,” người bác sĩ gật gù, liếc mắt về phía Geralt lúc này đang tái nhợt đi vì giận. “Nếu xét phương hướng chuyến du hành của anh, thì cả những người đa nghi nhất cũng không thể đoán ra được mục đích thật sự.”
***
“Milva, sao thế?”
“Đừng nói chuyện với tôi, đồ say xỉn gàn dở.” “Này, cô ấy đang khóc! Này, nhìn xem…”
“Tôi bảo, xuống địa ngục đi!” Nữ cung thủ lau mắt. “Bởi vì tôi sẽ đấm vào giữa hai mắt anh đấy, đồ khốn…Đưa cái chén đây, Zoltan…”
“Tôi không biết nó đang ở đâu rồi…” người lùn lầm bầm. “À, đây. Cảm ơn, bác sĩ…và Schuttenbach đang ở chỗ quái nào rồi?”
“Ông ta đi ra ngoài rồi. Một lúc trước. Dandelion, tôi nhớ là cậu đã hứa kể cho tôi nghe câu truyện về Đứa Trẻ Bất Ngờ kia mà.”
“Ngay đây. Từ từ đã, Regis. Một ngụm nhỏ thôi…và rồi tôi sẽ kể cho ông nghe hết…về Ciri và witcher…thật chi tiết…”
“Thần linh ơi, đồ khốn khiếp!”
“Bé tiếng đi, người lùn! Ông sẽ đánh thức lũ trẻ đang ngủ ngoài lán bây giờ!” “Bình tĩnh đi, nữ cung thủ. Đây, uống một chén này.”
“Eeeecchh.” Đôi mắt nhoèn nước của Dandelion quét một lượt căn phòng. “Tôi vừa mới thấy bá tước phu nhân de Lettenhove…”
“Ai cơ?”
“Kệ đi. Chết tiệt, món rượu này làm người ta lắm mồm quá. Geralt, tôi rót cho anh một chén nữa nhé? Geralt!”
“Để anh ấy yên đi.” Milva nói. “Để anh ấy mơ.”
***
Đứng bên rìa ngôi làng, cái nhà kho rung chuyển với âm nhạc, âm nhạc bắt kịp ngay cả trước khi họ tới nơi, tràn ngập phấn khích. Một cách vô thức, họ bắt đầu nhún nhảy trên yên ngựa, đi chậm lại, đầu tiên theo nhịp trống, rồi sau đó là giai điệu và tiếng sáo véo von. Màn đêm lạnh lẽo, ánh trăng sáng ngời. Trong ánh sáng, nhà kho trông như một lâu đài cổ tích.
Trong ánh sáng hắt ra từ khe cửa là bóng hình lập lòe của đàn ông và phụ nữ đang nhảy múa.
Khi họ bước vào, âm nhạc dừng lại tức thì, chết đứng giữa một nốt. Những người dân làng ướt đẫm mồ hôi và mệt nhoài vì nhảy múa, vội vã lùi lại những bức tường và cột chống. Ciri, đi bên cạnh Mistle, trông thấy ánh nhìn sợ sệt của phụ nữ và đàn bà, đôi mắt khắc nghiệt, thiếu thiện cảm của trai trẻ và đàn ông. Cô bé nghe thấy tiếng rì rầm, trong khoảng thời gian ngắn nó trở nên lớn như tiếng kèn túi bập bẹ, và âm thanh réo rắt của dây đàn violin. Họ thì thầm: “Rats, Rats…bọn cướp…”
“Không phải sợ,” Giselher nói to, và ném một túi tiền cho người nhạc sĩ đang im lặng. “Chúng ta đến để vui chơi. Một buổi tiệc là phải dành cho mọi người, có đúng thế không?”
“Và bia đâu rồi?” Kayleigh lắc lắc cái túi. “Lòng hiếu khách của các người đâu?”
“Và tại sao tất cả lại im lặng thế hả?” Spark nhìn xung quanh. “Chúng ta xuống núi là để vui chơi. Chứ không phải đi dự đám tang.”
Cuối cùng một người dân làng tiến lại phía Giselher với một cốc bia trên tay, bọt tràn qua cả mép. Giselher cúi chào và uống một hơi, rồi lịch sự cảm ơn họ. Vài người đứng đó nâng cốc lên chúc mừng. Nhưng số còn lại vẫn giữ im lặng.
“Này, hàng xóm,” Spark nói, “Ta muốn tham gia vào điệu nhảy, nhưng như các người thấy, các người phải bắt đầu di chuyển cái đã!”
Bên cạnh một bức tường của nhà kho là một cái bàn dài, chất đầy đồ gốm. Ả elf vỗ tay và uyển chuyển nhảy lên chiếc bàn bằng gỗ sồi. Những người dân làng nhanh tay thu gom đĩa lại hết mức có thể, những cái mà chưa kịp được đem đi, bị Spark đá không thương tiếc.
“Nào, các quý ngài,” Spark lên tiếng, hai tay chống hông, lúc lắc mái tóc. “Cho ta xem các người làm được gì đi. Âm nhạc!”
Cô ta gõ một nhịp nhanh bằng gót giầy. Dàn trống và dã cầm lặp lại nó. Sáo và vĩ cầm bắt nhịp, làm nó trở nên phức tạp hơn, thách thức Spark phải đổi giai điệu và nhịp điệu. Người elves, nhanh nhẹn và màu mè như một con bướm, dễ dàng thích nghi. Những người dân làng bắt đầu vỗ tay.
“Falka!” Spark la lên, mắt nhíu lại. “Cô múa kiếm nhanh đấy! Vậy còn nhảy thì sao? Cô có theo kịp được bước nhảy không?”
Ciri, gỡ mình ra khỏi vòng tay của Mistle, cởi chiếc khăn quàng cổ cùng mũ và áo khoác ra. Cô bé nhảy lên bàn bên cạnh người elves. Những người dân làng hoan hô, tiếng trống rộn ràng và tiếng kèn ví von.
“Chơi đi, nhạc công!” Spark kêu lên. “Nhiệt huyết! Và đam mê!”
Nghiêng sang một bên và ngửa đầu ra sau, ả elf dậm chân, nhảy múa, gõ gót giày theo nhịp nhanh. Ciri, bị cuốn theo giai điệu, lặp lại bước nhảy. Người elves cười, nhảy và thay đổi nhịp chân. Ciri, lắc đầu thật mạnh, hất tóc ra khỏi trán và lặp lại bước nhảy một cách hoàn hảo. Cùng nhảy trong một khoảnh khắc, cả hai trông như những cái bóng của nhau. Những người dân làng reo hò và vỗ tay. Giai điệu vượt lên trên tiếng trầm đục của trống và bập bẹ của kèn túi.
Cả hai nhảy, đứng thẳng như cây gậy, khuỷu tay chạm nhau, tay đặt lên hông. Những chiếc đĩa và cái bàn rung chuyển theo nhịp gót giày của họ, trong ánh sáng le lói của nến mỡ và đèn dầu, bụi bay tá lả.
“Nhanh hơn nữa!” Spark giục người nhạc công. “Mạnh hơn nữa!” Nó không còn là âm nhạc nữa, nó là sự cuồng loạn.
“Nhảy đi, Falka! Hãy quên hết mọi thứ!”
Gót, ngón chân, gót, ngón chân, bước lên trước, bước lùi lại, giậm liên tục, vung tay, lắc đầu, gót, ngón chân, gót, ngón chân. Cái bàn rung chuyển, ánh sáng lập lòe, khán giả nhốn nháo, mọi thứ xoay vần, cả nhà kho nhảy múa, nhảy múa…dân làng reo hò, Giselher la hét, Asse la hét, Mistle cười và vỗ tay, tất cả vỗ tay và giậm chân, cả nhà kho rung chuyển, mặt đất rung chuyển, cả thế giới rung chuyển. Thế giới? Thế giới nào? Thế giới không còn nữa, chẳng còn gì nữa, chỉ có điệu nhảy, nhảy…Gót, ngón chân, gót…khuỷu tay của Spark…cơn sốt…chỉ là vĩ cầm đang chơi, sáo đang hót, kèn túi, trống, nhanh rồi lại chậm, không cần gì cả, chỉ có giai điệu, Spark và Ciri, gót chân họ, cái bàn lắc lư, rung chuyển, cả nhà kho lắc lư, rung chuyển…Nhịp điệu, nhịp điệu chính là họ, âm nhạc chính là họ, họ chính là âm nhạc. Spark nhảy, mái tóc đen vung vẩy trên trán và qua vai. Dây đàn vĩ cầm như lên cơn sốt, nóng bỏng đến âm vực cao nhất. Máu truyền lên thái dương họ.
Quên đi. Quên đi.
“Ta là Falka. Ta vẫn luôn là Falka! Nhảy đi, Spark! Vỗ đi, Mistle!”
Vĩ cầm và sáo kết thúc bằng một nốt cao. Spark và Ciri kết thúc điệu nhảy bằng một cú giậm chân, khuỷu tay họ vẫn chạm nhau. Hết hơi, mồ hôi đầm đìa, run rẩy, họ lao vào nhau, để ôm, mỗi người ướt đẫm, nóng bỏng và hạnh phúc. Nhà kho nổ tung với những tiếng la á và vỗ tay của hàng chục người.
“Falka, đồ quỷ dữ,” Spark hớp hơi. “Khi đã chán cướp bóc rồi, chúng ta có thể ra ngoài thế giới và kiếm sống bằng nghề vũ công…”
Ciri cũng đang hớp hơi. Cô bé không nói lên lời và chỉ có thể cười hổn hển. Nước mắt chảy xuống má cô.
Đám đông đột nhiên hét lên kích động. Kayleigh thô bạo đẩy một người đàn ông, người đàn ông đẩy lại Kayleigh, cả hai vật lộn, nắm đấm bay tứ tung. Reef nhanh chóng xáp lại gần họ và ánh sáng của đuốc hắt lên trên một lưỡi dao.
“Không, dừng lại!” Spark hét lên the thé. “Đừng đánh nhau! Đây là một đêm để khiêu vũ!” Người elves cầm tay Ciri và cả hai nhảy xuống khỏi bàn.
“Nhạc công, chơi đi! Ai muốn chỉ cho chúng ta xem cách khiêu vũ nào, ai dũng cảm nào?”
Âm thanh đều đều của kèn túi trở thành một tiếng ngân dài, đi cùng tiếng réo rắt của vĩ cầm. Những người dân làng cười, vượt qua sự ngại ngùng. Một trong số họ, một người tóc vàng cao ráo, lại gần Spark. Người thứ hai, trẻ hơn và mảnh mai hơn, bẽn lẽn cúi đầu trước Ciri. Cô bé kiêu hãnh ngẩng cao, nhưng nhanh chóng mỉm cười niềm nở. Cậu trai vòng tay quanh eo Ciri. Cô đặt tay lên vai cậu. Cái chạm xuyên qua cô như một mũi tên bốc lửa, khơi gợi trong cô sự ham muốn điên cuồng.
“Mạnh lên, nhạc công!”
Nhà kho lắc lư với những tiếng hò reo, rung động với âm nhạc và nhịp điệu. Ciri nhảy.
Ma cà rồng, hay còn gọi là upir, một xác chết được hồi sinh bởi Hỗn Mang. Sau khi đã mất cuộc đời đầu tiên, cuộc đời thứ hai của chúng buộc phải sống trong bóng tối. Chúng ra khỏi hầm mộ khi trăng lên, tấn công khi người ta vẫn say ngủ, đặc biệt là phụ nữ trẻ, mà không đánh thức họ dậy, hút lấy máu trong người họ.
- Physiologus.
Người dân làng đã ăn thật nhiều tỏi, và để chắc chắn hơn, quàng theo nhiều vòng tỏi quanh cổ họ. Một số, đặc biệt là phụ nữ, rắc tỏi ở khắp mọi nơi. Cả ngôi làng nồng nặc mùi tỏi, và những người dân tin chắc rằng họ đã an toàn, ma cà rồng không thể làm gì họ. Và họ đã ngạc nhiên biết bao khi con ma cà rồng tới vào buổi đêm, hắn không những sợ mà còn cười lớn, răng nghiến trèo trẹo. “Thật là tốt,” hắn nói, “là các ngươi đã tự nêm nếm gia vị cho chính mình, ta thích ăn thịt như vậy hơn. Cũng nên cho thêm ít muối cùng hạt tiêu vào nữa, và chớ quên mù tạt.”
- Silvester Bugiardo, Liber Tenebrarum hay Tuyển tập những truyện kỳ quái nhưng xác thực vẫn chưa được khoa học chứng minh.
Ánh trăng sáng ngời Ma cà rồng bay
Vạt áo phần phật, phần phật trong gió Hỡi trinh nữ, người không sợ sao?
- Dân ca.