The Witcher Quyển 4 – Thời đại khinh miệt

The Witcher Quyển 4 – Thời đại khinh miệt

Tác giả: Andrzej Sapkowski

Dịch giả: Tổng hợp

Số chương: 7

Tóm tắt: The Witcher gồm 7 quyển kể về cuộc đời của Geralt, một “Witcher”, là những người sở hữu sức mạnh và siêu năng lực đạt được thông qua luyện tập nhằm để chống lại các giống loài quái vật nguy hiểm trên thế giới


Vedymins, những kẻ được gọi là Witcher theo ngôn ngữ phương Bắc – một tập hợp các chiến binh-thầy tu tinh nhuệ bí ẩn, có lẽ là một nhánh khác của Druid. Theo như truyền thuyết dân gian, họ sở hữu năng lực phép thuật và các khả năng siêu nhiên mà họ dùng để chiến đấu chống lại những linh hồn hắc ám, quái vật và những sinh linh độc ác. Trong thực tế, vì là những bậc thầy kiếm thuật, họ thường được các thủ lĩnh của phương bắc sử dụng trong chiến tranh bộ lạc. Trong trận chiến họ rơi vào một cơn hôn mê, mà có lẽ được gây ra bởi thôi miên và các loại độc dược, giúp họ chiến đấu với sự cuồng nộ mù quáng và hoàn toàn miễn nhiễm trước đau đớn hay kể cả những vết thương nặng nhất – chính điều này đã củng cố thêm sự mê tín đối với các khả năng siêu nhiên của họ. Giả thiết về nguồn gốc do đột biến hay kỹ thuật di truyền của họ vẫn chưa được chứng minh. Đây là những người hùng trong rất nhiều câu truyện dân gian của phương Bắc (dựa theo F.Delannoy, “Những bí ẩn và truyền thuyết của Người phương Bắc”)

Effenberg và Talbot, Đại bách khoa toàn thư về thế giới, Quyển XV.

“Nhìn cô ta mà xem. Cháy nắng, đầy thương tích, bẩn thỉu. Cô ta vẫn uống nước như một miếng xốp khô và đói bụng. Tôi thấy sợ cho cô ta. Cô ta tới từ phía đông, tôi nói anh nghe. Vượt qua Korath. Vượt qua Lòng Chảo.”

“Chỉ là những câu truyện viển vông thôi! Không ai có thể sống sót qua cái chảo cả. Cô ta tới từ phía tây, từ những dãy núi qua đèo Suchaka. Cô ta mới chỉ đang ở bên rìa Korath thôi mà đã chịu đựng quá đủ rồi. Khi chúng ta tìm thấy, cô ta đã quỵ ngã và ý chí bị bẻ gãy rồi.”

“Từ đây sang phía tây nhiều dặm làm gì có ai sinh sống. Cô ta tới từ đâu?”

“Cô ta đã đi bộ, hay có lẽ là cưỡi ngựa. Chẳng ai biết được là trong bao lâu. Có vài dấu móng guốc bên cạnh cô ta. Có lẽ là bị ngã khỏi lưng ngựa ở Suchaka, có thể lý giải vì sao cô ta bầm dập đến vậy.”

“Tại sao câu chuyện này lại quan trọng đối với Nilfgaard đến thế, tôi chỉ tò mò thôi? Khi thống đốc gọi chúng ta tới, tôi cứ tưởng là một công nương quý tộc nào đó đã đi lạc. Và cái này là gì đây? Một ả điếm thông thường, rách rưới, và hơn cả còn bị đần độn nữa chứ. Tôi không chắc là chúng ta đã tìm đúng người…”

“Đúng người rồi. Và cô ta không phải là một người bình thường đâu. Một người bình thường thì đã chết từ lâu rồi.”

“Cô ta cũng gần ngắc ngoải rồi. Và cơn mưa cũng chẳng cứu mạng cô ta được. Chết tiệt, ngay cả lão ăn mày già nhất cũng chẳng thể nhớ nổi lần cuối cùng có mưa ở Chảo là khi nào. Những đám mây luôn bay qua Korath…ngay cả khi có mưa trong thung lũng, thì cũng chẳng bao giờ có giọt nào rơi ở đó!”

“Chỉ một tuần nữa ở mấy ngọn đồi này thôi là sẽ không còn gì để ăn…Này, đồ khốn kia! Có thích thịt bò khô không? Vậy còn bánh mì khô thì sao?”

“Hỏi cô ta bằng tiếng elves đi. Hay tiếng Nilfgaard. Có lẽ cô ta không hiểu ngôn ngữ phổ thông. Cô ta là elf…”

“Cô ta là đồ ngu thì có. Khi tôi đặt cô ta lên yên ngựa sáng nay, cô ta chỉ ngồi đó như một con rối gỗ.”

“Đi sửa mắt đi.” Gã cao lớn và trọc đầu tên Skomlik nhe răng ra. “Cậu sẽ không tiến xa được ở Trappers đâu. Cô ta không đần độn hay điên rồ. Cô ta chỉ giả vờ thôi. Cô ta là một con chim quý hiếm và xảo quyệt.”

“Tại sao cô ta lại quan trọng với Nilfgaard đến vậy? Lính tuần tra được cử đi khắp nơi…Tại sao?”

“Tôi không biết. Nhưng hỏi cô ta thì cũng đâu mất gì…một roi vào lưng sẽ khuyến khích được cô ta…Ha! Có phải cô ta đang nhìn tôi không? Cô ta hiểu hết đấy, cô ta đã lắng nghe chăm chú nãy giờ. Này, cô kia! Tôi là Skomlik, một thợ săn, hay còn gọi là Trappers. Còn đây là một cây roi, cây roi. Cô có thích giữ da ở trên lưng không? Vậy thì bắt đầu nói đi…”

“Đủ rồi! Im hết đi!”

Mệnh lệnh đã được ban ra, rõ ràng và không dung thứ sự chống đối nào tới từ bên kia đống lửa, nơi người hiệp sĩ và hầu cận đang ngồi.

“Đang chán hả, Trappers?” Người hiệp sĩ hỏi với vẻ đe dọa. “Vậy thì đi làm việc đi! Mấy con ngựa cần tắm rửa! Đem áo giáp của ta đi lau! Vào rừng nhặt củi! Và đừng có động vào đứa con gái! Rõ chưa?”

“Rồi, thưa ngài Sweers,” Skomlik lầm bầm. Các đồng đội của hắn cúi đầu. “Làm việc đi! Ngài ấy đã ra lệnh rồi!” Các Trappers bắt đầu rục rịch.

“Số mệnh đã trừng phạt chúng ta bằng tên khốn này.” Một kẻ làu bàu. “Tay thống đốc không còn biết làm gì khác ngoại trừ giao chúng ta vào tay một tên hiệp sĩ chó chết…”

“Ý tôi là,” kẻ thứ hai thì thào, nhìn ngó xung quanh, “sau cùng thì cũng chính các Trappers mới là người tìm được đứa con gái. Chính chúng ta mới có linh cảm là đi qua đèo Suchaka.”

“Đúng. Công trạng phải là của chúng ta cũng như phần thưởng…chúng ta sẽ lấy tiền, cả đống florin dưới chân, cho các Trappers, rồi chúng ta sẽ cảm ơn ngài thống đốc…”

“Câm hết đi.” Skomlik rít lên. “Họ sẽ nghe thấy các người bây giờ…”

Ciri bị bỏ một mình bên cạnh đống lửa. Người hiệp sĩ và hầu cận nhìn cô bé với vẻ dò hỏi, nhưng không nói gì.

Người hiệp sĩ là một ông già nhưng khỏe mạnh, với khuôn mặt dạn dày sương gió, chi chít những vết sẹo. Trong suốt chuyến hành trình, ông ta luôn đội chiếc mũ cánh chim, nhưng chúng không phải đôi cánh mà Ciri đã nhìn thấy trong những cơn ác mộng, và trên đảo Thanedd. Ông ta không phải tên Hiệp Sĩ Đen của Cintra. Nhưng ông ta vẫn là một hiệp sĩ Nilfgaard. Khi ra lệnh, giọng ông ta trơn tru, và có ngữ điệu đặc trưng, nghe gần giống với người elves. Cùng với tay hầu cận, một cậu bé cũng không già hơn Ciri là bao, ông ta nói một thứ tiếng tương tự như Cổ Ngữ, nhưng không du dương bằng, và nghiêm nghị hơn. Đó chắc hẳn phải là tiếng Nilfgaard. Ciri, người am hiểu khá tường tận Cổ Ngữ, có thể hiểu hầu hết các từ. Nhưng cô không để lộ ra điều này. Trong lần dừng chân đầu tiên bên rìa sa mạc mà họ gọi là Lòng Chảo hay Korath, người hiệp sĩ Nilfgaard và tay hầu cận trút lên đầu cô bé một đống câu hỏi. Cô không trả lời vì vẫn còn đang choáng váng và chỉ tỉnh táo có một nửa. Sau vài ngày du hành, khi họ đã bỏ lại đằng sau những vách đá lởm chởm và bước vào một thung lũng xanh tươi, Ciri có lại được trí lực, cô bắt đầu quan sát thế giới xung quanh và phản ứng lại với tốc độ rùa bò. Nhưng cô vẫn không trả lời những câu hỏi, vậy nên người hiệp sĩ cũng không đoái hoài. Có vẻ như ông ta chẳng chú ý đến cô nữa, và chỉ làm việc với mấy tên côn đồ tự xưng là Trappers. Chúng cũng hỏi. Và hỏi rất hung hăng.

Nhưng người hiệp sĩ đội mũ cánh chim ngay lập tức chỉnh đốn lại chúng. Có thể thấy rõ ràng ai là chủ và ai là tớ.

Ciri giả vờ bị đần độn, nhưng lắng nghe thật chăm chú. Dần dần cô bé bắt đầu hiểu được tình hình. Cô đã rơi vào tay Nilfgaard. Nilfgaard đã săn lùng cô và giờ đã bắt được cô, có lẽ là nhờ bám theo con đường cô đã đi từ nơi mà cánh cổng dịch chuyển hỗn loạn trên Tor Lara đã ném cô xuống. Những gì mà Yennefer đã không làm được, mà Geralt đã không làm được, thì người hiệp sĩ Nilfgaard và băng nhóm Trappers của ông ta đã thành công.

Chuyện gì đã xảy ra với Yennefer và Geralt trên Thanedd? Cô bé đang ở đâu? Ciri có một linh cảm rất không hay. Những tên Trappers và thủ lĩnh của chúng, Skomlik, nói chuyện bằng một phiên bản vụng về và giản lược hơn của ngôn ngữ phổ thông, nhưng vẫn với ngữ điệu Nilfgaard. Các Trappers là người bình thường, nhưng lại phụng sự một hiệp sĩ Nilfgaard. Các Trappers đã rất hạnh phúc trước ý tưởng về món tiền mà thống đốc sẽ trao tặng vì tìm được Ciri. Bằng florin.

Những quốc gia duy nhất sử dụng florin làm đơn vị tiền tệ và có người dân phụng sự Nilfgaard là các Tỉnh ở phía Nam.

***

Ngày hôm sau, cạnh một dòng suối, Ciri bắt đầu tính đến các khả năng chạy trốn. Phép thuật có thể giúp cô bé. Cẩn thận, cô thử làm một câu thần chú đơn giản, một phép ngoại cảm yếu. Nhưng nỗi sợ của cô đã được xác nhận. Chẳng có lấy thậm chí là một chút năng lượng ma thuật. Sau khi đùa với lửa, khả năng phép thuật của cô đã biến mất hoàn toàn.

Cô lại rơi vào sự trống rỗng. Cô cuộn người lại và rút lui vào trạng thái lãnh cảm. Một thời gian dài.

Cho tới ngày họ đi qua một cánh đồng hoang và Hiệp Sĩ Xanh chạm trán họ.

***

“Này, này,” Skomlik thì thầm, nhìn con ngựa đang đứng chắn đường họ. “Đó là Varnhagen, từ pháo đài Sarda…”

Các kỵ binh tiến lại gần. Dẫn đầu, đang ngồi trên một con ngựa to khỏe, là một người khổng lồ mặc bộ giáp sắt toát lên một màu xanh dương. Bên cạnh ông ta là một người mặc giáp nữa, đằng sau là hai kỵ sĩ mặc quần áo xám màu bình thường, rõ ràng là hầu cận.

Người hiệp sĩ Nilfgaard đội mũ cánh chim tiến về phía họ, kìm chế con ngựa đang nhảy múa. Tay hầu của ông ta sờ lên chuôi kiếm và quay người trên yên.

“Ở lại đằng sau và chăm sóc cô gái.” Ông ta quát Skomlik và đám Trappers. “Đừng chen vào!”

“Chúng tôi đâu có ngu,” Skomlik nói khẽ sau khi tay hầu đã đi khỏi, “mà can dự vào xung đột giữa các lãnh chúa Nilfgaard…”

“Liệu sẽ có đánh nhau không Skomlik?”

“Chắc chắn. Giữa Sweers và Varnhagen là mối thù truyền kiếp. Canh giữ đứa con gái cẩn thận. Nếu may mắn, tiền thưởng sẽ là của riêng chúng ta.”

“Varnhagen cũng đang tìm kiếm cô gái. Nếu ông ta thắng, chúng ta sẽ chỉ còn bốn người…” “Năm.” Skomlik mỉm cười. “Một người đến từ Sarda ở phía sau kia là người nhà của tôi.

Rồi cậu sẽ thấy, trận đấu này sẽ chỉ có lợi cho chúng ta…”

Người hiệp sĩ mặc giáp xanh ghìm ngựa lại. Người hiệp sĩ cánh chim đứng ở phía đối diện. Bạn đồng hành của Xanh ở lại đằng sau. Chiếc mũ kỳ lạ của anh ta có gắn hai dải da thuộc ở hai bên trông như một cặp nanh hải cẩu. Trên đùi anh ta đặt một món vũ khí ghê gớm, trông như một cây giáo, khá giống với loại mà các hộ vệ của Cintra sử dụng, nhưng cán ngắn hơn và lưỡi giáo dài hơn.

Xanh và Cánh Chim trao đổi vài từ. Ciri không thể nghe ra, nhưng chắc chắn đó không phải là những câu nói giữa hai người bạn. Xanh đột nhiên đứng lên bàn đạp, chỉ vào Ciri và nói gì đó rất lớn và giận dữ. Cánh Chim cũng đáp lại tương tự và vẫy bàn tay đeo găng sắt, ý muốn bảo Xanh hãy biến đi.

Và thế là bắt đầu.

Xanh thúc ngựa phi lên và rướn người tới trước, giơ cao cây rìu nãy giờ được buộc cạnh yên ngựa. Cánh Chim cũng thúc ngựa lên và rút kiếm từ trong vỏ ra. Nhưng trước khi hai người đàn ông kịp giao chiến, Hai Nanh đã tấn công, thúc ngựa phi nước đại với cây giáo trong tay. Hầu cận của Cánh Chim lao vào anh ta, rút kiếm ra, nhưng Hai Nanh xoay người trên yên và đâm cây giáo vào ngực người hầu cận. Lưỡi giáo dài cắm một tiếng bang xuyên qua tấm giáp ngực, người hầu cận kêu lên và ngã xuống đất, cả hai tay nắm chặt cán ngọn giáo đang thò ra từ ngực.

Cánh Chim và Xanh va vào nhau cái rầm. Cây rìu nguy hiểm hơn nhưng thanh kiếm lại nhanh hơn. Xanh trúng đòn vào vai, một mảnh kim loại bay sang bên, người kỵ sĩ quay lại và ghìm cương, lảo đảo trên yên ngựa, một dòng máu đỏ bắt đầu chảy xuống bộ giáp xanh dương. Các đấu thủ lại phi nước đại. Cánh Chim quay đầu, nhưng Hai Nanh đã xông tới ông ta, cầm chắc thanh kiếm bằng cả hai tay, sẵn sàng ra đòn. Cánh Chim thúc ngựa nhanh hơn, Hai Nanh chỉ dẫn ngựa bằng đầu gối, phi bên cạnh. Cánh Chim xoay xở chém được anh ta. Trước mắt Ciri, tấm giáp vỡ nát và một dòng máu tuôn ra.

Xanh đã quay trở lại, vung rìu trên không và la hét. Cả hai địch thủ trao đổi vài chiêu rồi lại tách ra. Hai Nanh lại lao tới Cánh Chim, ngựa đâm nhau và kiếm tóe lửa. Hai Nanh cắt trúng Cánh Chim, đập vỡ giáp tay và khiên của ông ta. Cánh Chim vươn thẳng người và giáng một đòn mạnh vào bên phải giáp ngực của Hai Nanh. Hai Nanh lảo đảo trên yên ngựa. Cánh Chim đứng lên bàn đạp và vung hết lực, vào phần cổ giữa vai và mũ sắt. Thanh kiếm to bản và sắc cạnh cắt qua mũ, và kẹt luôn ở đó. Hai Nanh cứng người lại và rùng mình. Con ngựa đi giật lùi, chân đá loạn xạ. Cánh Chim rướn người trên yên và rút thanh kiếm ra. Hai Nanh trượt khỏi lưng ngựa. Móng guốc của con vật giẫm và đạp bẹp bộ áo giáp.

Xanh lại quay đầu và tấn công lần nữa, rìu giơ lên. Ông ta cầm dây cương đầy khó khăn, sử dụng cánh tay bị thương. Cánh Chim nhận thấy và điệu nghệ phi sang bên phải, đứng thẳng trên yên ngựa và tung một cú đánh tàn bạo. Xanh đỡ bằng chiếc rìu và kéo theo thanh kiếm của Cánh Chim. Hai con ngựa lại đâm vào nhau. Xanh là một người đàn ông lực lưỡng, chiếc rìu trên tay ông ta giơ lên rồi hạ xuống dễ dàng như que củi. Nó đập vào bộ áo giáp của Cánh Chim cái rầm và con ngựa của ông ta suýt thì khuỵu xuống. Cánh Chim lảo đảo, nhưng vẫn ngồi vững được. Trước khi cây rìu lại bổ xuống lần nữa, ông ta bỏ dây cương, tay trái rút ra một chiếc búa nặng nề treo bên cạnh và đánh vào mũ sắt của Xanh. Chiếc mũ rung như chuông, giờ thì đến lượt Xanh lảo đảo trên yên. Hai con ngựa hý vang, cố gắng cắn lẫn nhau và không muốn tách ra.

Xanh, rõ ràng là choáng váng bởi cú đánh, nhưng vẫn xoay xở bổ được một nhát rìu vào giáp ngực đối phương. Sự thật rằng cả hai vẫn đang ngồi trên lưng ngựa được có vẻ như là cả một phép màu, nhưng đó chỉ do nhờ vào bộ yên cương cao của họ. Máu chảy xuống cả hai con ngựa. Ciri nhìn kinh hãi. Ở Kaer Morhen họ đã dạy cô bé chiến đấu, nhưng cô không thể tưởng tượng nổi mình sẽ đối đầu với những người to lớn như vậy kiểu gì. Hay thậm chí là chặn nổi một cú đánh trời giáng như vậy.

Xanh nắm chặt cán cây rìu vẫn đang kẹt trên ngực Cánh Chim bằng cả hai tay, ngồi thẳng lên và kéo, cố gắng hất ngã đối thủ khỏi lưng ngựa. Cánh Chim đập ông ta bằng cây búa một lần, hai lần, ba lần. Máu túa ra từ chiếc mũ sắt và đổ xuống bộ giáp màu xanh dương. Cánh Chim thúc gót vào hông ngựa, cú nhảy đột ngột giật chiếc rìu khỏi ngực ông ta. Xanh, vẫn đang nghiêng người trên yên, đánh rơi cán rìu. Cánh Chim đổi chiếc búa sang tay phải, vung nó và đánh trúng vào đầu con ngựa của Xanh. Giữ dây cương bằng tay trái, người Nilfgaard tung đòn, tấm áo giáp xanh dương kêu như đe thợ rèn, máu chảy ra từ chiếc mũ giập nát. Thêm một đòn nữa và Xanh đổ xuống đất. Con ngựa đốm của Xanh lùi lại, nhưng con ngựa màu be của Cánh Chim, rõ ràng là đã được huấn luyện, đá người hiệp sĩ đang nằm dưới đất một cái. Xanh vẫn còn sống, có thể nhận ra được nhờ vào tiếng kêu đau đớn tuyệt vọng của ông ta.    Con ngựa tiếp    tục đá kịch liệt tới nỗi Cánh Chim không thể ngồi vững được và đổ xuống đất, ngay bên cạnh Xanh.

“Cả hai bọn họ đã chết rồi.” Tên Trappers đang giữ Ciri la lên. “Hiệp mới chả sĩ, đáng đời.” Một tên khác nói.

Hai người hầu của Xanh đứng nhìn từ xa. Một người quay ngựa lại.

“Đợi đã, Remiz!” Skomlik hét lên. “Cậu đi đâu thế? Về Sarda? Cậu vội lên giá treo cổ thế cơ à?”

Anh ta dừng lại, lấy tay che mắt cho bớt nắng. “Có phải ông đấy không Skomlik?”

“Phải! Lại đây Remiz, đừng sợ! Xung đột giữa các hiệp sĩ không phải vấn đề của chúng ta!”

Ciri đột nhiên cảm thấy thờ ơ vậy là đủ rồi. Khéo léo luồn khỏi cánh tay của kẻ đang giữ mình, cô bé bắt đầu chạy, bắt lấy con ngựa đốm của Xanh và nhảy lên yên.

Cô lẽ ra đã thoát được, nếu không phải vì hai tay hầu từ Sarda đang ngồi sẵn trên yên, và ngựa của họ vẫn còn khỏe. Họ bắt được cô dễ dàng, túm lấy dây cương. Cô nhảy xuống và phi vào khu rừng, nhưng đám kỵ sĩ lại bắt kịp cô. Một gã túm lấy tóc cô và kéo lê đi. Ciri hét lên và bám lấy tay hắn. Tên kỵ sĩ ném cô xuống dưới chân Skomlik. Hắn quất sợi roi da, nó huýt sáo một tiếng, Ciri hét lên và cuộn người lại, hai tay ôm đầu. Sợi roi lại huýt sáo và đánh vào tay cô. Cô lăn trên đất, nhưng Skomlik chắn đường, đá cô và giẫm chân lên lưng cô.

“Còn muốn chạy nữa không, con điếm?”

Sợi roi huýt sáo. Ciri hú lên. Skomlik lại quất vào lưng cô bé. “Đừng đánh tôi!” cô kêu lên, lùi lại khỏi hắn.

“Vậy ra mày cũng biết nói đó chứ, con đĩ! Thấy nhớ cái lưỡi của mình hả? Tao sẽ…

“Nhớ đấy, Skomlik!” Một tên Trappers kêu lên. “Ông muốn giết cô ta à? Cô ta quá đáng giá để vứt đi!”

“Chết tiệt!” Remiz nói, xuống ngựa. “Đây có phải người mà Nilfgaard đã tìm kiếm suốt cả một tuần không?”

“Chính xác.”

“Ha! Cả trại lính đang truy lùng cô ta! Ông không biết người này quan trọng thế nào với Đế chế đâu! Họ nói là một pháp sư hùng mạnh đã xác định được cô ta đang ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Sarda đang bàn tán ầm lên. Các ông bắt được cô ta ở đâu vậy?”

“Lòng Chảo.” “Nói dối!”

“Thật đấy, thật đấy,” Skomlik nói giận dữ. “Chúng tôi đã tóm được cô ta và phần thưởng sẽ là của chúng tôi! Sao đứng như trời chồng thế! Trói con khốn này vào yên ngựa! Chúng ta biến khỏi đây thôi, anh em!”

“Ngài Sweers,” một tên Trappers nói, “vẫn còn đang thở…”

“Không lâu đâu. Cắt cổ lão đi! Chúng ta sẽ đi thẳng tới Amarillo, các anh em, tới gặp ngài thống đốc. Chúng ta đã bắt được đứa con gái và giờ phần thưởng là của chúng ta.”

“Tới Amarillo?” Remiz nói, gãi trán, nhìn vào bãi chiến trường vừa mới diễn ra. “Ở đó chúng ta sẽ được các đao phủ tiếp đón! Ông định nói gì với ngài thống đốc? Người hiệp sĩ đã bại trận nhưng ông vẫn còn lành lặn? Khi toàn bộ sự việc hé lộ, thống đốc sẽ treo cổ các ông, còn chúng tôi sẽ bị ném về Sarda…và rồi người nhà Varnhagen sẽ lột da chúng tôi ở đó. Các ông đi mà tới Amarillo, tôi sẽ ở trong rừng…”

“Cậu là em rể tôi, Remiz.” Skomlik nói. “Mặc dù cậu là một thằng chó vì đã đánh đập em gái tôi, nhưng cậu vẫn là người nhà. Thế nên tôi sẽ cứu cái mạng của cậu. Tôi bảo, chúng ta tới Amarillo. Thống đốc biết rõ ân oán giữa Sweers và Varnhagen. Họ gặp, họ đánh nhau, chuyện bình thường. Và chúng ta làm gì? Đứa con gái bỏ chạy, chúng ta đuổi theo nó. Chúng ta là Trappers. Và giờ thì cậu cũng là một Trappers, Remiz. Thống đốc sẽ chẳng biết chuyện gì đã xảy ra với Sweers. Sẽ không ai mở mồm nói gì…”

“Ông có quên điều gì không đấy, Skomlik?” Remiz hỏi trong khi liếc mắt sang người hầu đến từ Sarda kia.

Skomlik chậm rãi quay lại và bất chợt rút một con dao ra và đâm vào cổ người hầu. Anh ta ậm ực và đổ xuống đất.

“Tôi không quên.” Gã Trappers nói lạnh lùng. “Rồi, giờ thì chỉ còn cậu và chúng tôi. Không còn nhân chứng nào cả, và bớt đi một cái đầu để chia phần thưởng. Lên ngựa nào anh em, tới Amarillo! Vẫn còn một đoạn đường khá xa giữa chúng ta và tiền thưởng. Không có thời gian để lãng phí đâu!”

***

Khi ra khỏi khu rừng tăm tối và ẩm ướt, họ trông thấy một ngôi làng nằm dưới chân ngọn núi, vài mái lán quây lại thành một vòng tròn bởi một hàng rào thấp, tách họ khỏi một con sông chảy qua.

Cơn gió mang đến mùi khói. Ciri di chuyển bàn tay tê liệt, đang bị trói vào yên ngựa. Cô bé hoàn toàn đờ đẫn, mông đau nhừ, buồn tè khủng khiếp. Cô đã ngồi trên lưng ngựa từ lúc bình minh. Vào buổi đêm, cô không ngủ được do mỗi tay bị trói vào cổ tay hai tên Trappers nằm hai bên, mà đe dọa sẽ kết liễu mạng cô mỗi khi cô cựa quậy.

“Một nông trại,” một tên nói. “Tôi thấy rồi,” Skomlik đáp lại.

Móng ngựa bước ra từ trong rừng được chào đón bởi tràng cỏ cao, cháy nắng. Họ sớm đến được một con đường gập ghềnh dẫn xuống ngôi làng, hướng về một cây cầu và một cánh cổng gỗ.

Skomlik dừng ngựa lại và đứng trên bàn đạp.

“Đây là làng nào vậy? Chúng ta chưa qua đây bao giờ. Remiz, cậu có biết chỗ này không?” “Trước đây,” Remiz trả lời, “ngôi làng này có tên Sông Trắng. Nhưng một cuộc nổi dậy đã

nổ ra, một số người dân làng tham gia vào quân khởi nghĩa, rồi Varnhagen của Sarda quét qua làng và giết hoặc bắt mọi người làm nô lệ. Giờ thì chỉ còn người Nilfgaard sinh sống ở đây, toàn là nông dân. Và họ gọi ngôi làng này là Glyswen. Người ta nói đám nông dân không được tốt tính cho lắm. Tôi khuyên chúng ta không nên dừng ở đây. Hãy đi xa hơn.”

“Chúng ta phải để lũ ngựa nghỉ ngơi,” một tên Trappers lên tiếng. “và ăn uống. Tôi cũng nghe thấy tiếng nhạc đang chơi bên trong. Nếu đám nông dân này gây rắc rối, tôi sẽ chìa tờ công lệnh của ngài thống đốc ra, ông ta cũng là người Nilfgaard như bọn họ. Rồi cả đống sẽ phải quỳ xuống.”

“À, phải,” Skomlik làu bàu, “đã có ai nhìn thấy người Nilfgaard quỳ bao giờ chưa. Remiz, ở Glyswen có nhà trọ không?”

“Có. Varnhagen vẫn chưa đốt trụi nó.” Skomlik quay người lại và nhìn Ciri.

“Chúng ta sẽ phải cải trang cho cô ta. Nếu có ai phát hiện thấy…đưa tôi một cái áo choàng.

Và trùm mũ lên đầu cô ta đi…đi nào! Sẵn sàng chưa, con điếm kia?” “Tôi phải vào bụi cây cái đã…”

“Tao sẽ cho mày thấy bụi cây, con khốn! Bò trên đường đi! Và đừng có quên: ở trong làng hay ở ngoài, đừng bao giờ nghĩ là mày thông minh! Chỉ một từ thôi và tao sẽ cắt cổ mày. Nếu tao không có được phần thưởng, thì sẽ không ai có hết.”

Họ bước đi từ tốn, móng ngựa vang âm trên cây cầu. Đột nhiên những bóng người cầm giáo hiện ra từ đằng sau hàng rào.

“Họ canh cổng,” Remiz thì thầm. “Tôi tò mò không biết tại sao…”

“Tôi cũng thế,” Skomlik đáp lại, nhổm người lên. “Họ canh cổng trong khi hàng rào cạnh cái cối xay đã đổ và người ta có thể lái cả một cái xe hàng qua đó…”

Họ tiến lại và ghìm dây cương.

“Xin chào, các quý ông!” Skomlik hồ hởi kêu lên, nghe có phần thiếu tự nhiên. “Chào buổi sáng!”

“Các người là ai?” Người nông dân cao nhất hỏi.

“Chúng tôi, thưa các bạn, là quân đội,” Skomlik nói dối, nghiêng người sang bên. “Phục vụ ngài thống đốc của Amarillo.”

Người nông dân lướt tay dọc cán giáo, liếc xéo Skomlik. Chắc không biết rằng mình đang nói chuyện với một Trappers.

“Ngài thống đốc Amarillo đã cử chúng tôi tới đây.” Skomlik tiếp tục lời dối trá. “Để xem những người nông dân tốt bụng của Glyswen đang sinh sống ra sao.”

“Chúng tôi vẫn ổn.” Người nông dân nói. Ciri để ý thấy ông ta cũng dùng ngôn ngữ phổ thông như Cánh Chim, với cùng ngữ điệu và kiểu cách, mặc dù đang cố nhại lại thứ tiếng thổ dân của Skomlik. “Chúng tôi đã quen sống một mình rồi.”

“Ngài thống đốc sẽ rất hài lòng khi chúng tôi thuật lại cho ngài ấy. Quán trọ có còn mở cửa không? Cổ chúng tôi khô rát cả rồi…”

“Nó vẫn mở.” Người nông dân nói u ám. “Vào lúc này, nó vẫn mở.” “Trong bao lâu?”

“Trong lúc này. Sớm thôi nó sẽ bị lột hết gỗ để đem cất vào kho. Chúng tôi chẳng được lợi gì từ cái nhà trọ đấy cả. Chúng tôi quá bận làm việc để tới quán trọ. Chỉ có người lạ mới ở đấy thôi, và đó là những người chúng tôi không ưa. Chỉ có những người chúng tôi không ưa mới ở đấy.”

“Ai?” Remiz hơi tái. “Những người từ pháo đài Sarda? Có thể nào là các lãnh chúa Varnhagen không?”

Người nông dân nhăn mặt và cái miệng di chuyển như thể muốn khạc một bãi. “Không, thật đáng tiếc. Đó là quân lính của nam tước. Các Nissir.”

“Nissir là ai?” Skomlik cau mày. “Và họ từ đâu đến? Ai chỉ huy họ?” “Có một người già hơn tất cả bọn họ, cao, đen ngòm, râu dài như cá trê.”

“Heh!” Skomlik quay lại các đồng đội. “Tuyệt vời. Nghe có quen không? Có vẻ như đó là ông bạn già “Tin Tôi Đi” Vercta của chúng ta. Còn nhớ ông ta chứ? Và người đàn ông này và các Nissir đang làm gì tại làng của ông?”

“Các Nissir,” người nông dân nói u ám, “đang trên đường tới Tyffi. Chúng tôi rất vinh dự được tiếp đón. Họ mang theo một tù nhân. Hắn là một thành viên của băng Rats.”

“Chắc rồi!” Remiz khịt mũi. “Và sao không phải là hoàng đế Nilfgaard luôn đi nữa?”

Người nông dân nhăn mặt, tay trái nắm chặt cán giáo. Những người đồng hành của ông ta thì thào với nhau khe khẽ.

“Hãy tới nhà trọ, các quý ngài.” quai hàm của người nông dân run lên bần bật. “Và nói chuyện với các Nissir. Các ngài đang phụng sự thống đốc kia mà. Cứ việc hỏi tại sao họ lại áp tải tù nhân tới Tyffi mà không đóng đinh hắn lên một cây cọc ngay tại đây, và ngay bây giờ như ngài thống đốc đã ra lệnh. Và cũng nhắc nhở mấy người bạn Nissir của các ngài rằng người cầm quyền ở đây không phải là nam tước Tyffi. Chúng tôi có cọc đẽo sẵn rồi. Nếu các lãnh chúa Nissir không muốn làm, chúng tôi sẽ tự tay giải quyết. Đi mà bảo với họ thế.”

“Tôi sẽ bảo.” Skomlik nháy mắt với đồng đội. “Tạm biệt, các quý ông.”

Họ bước đi giữa những mái lán. Ngôi làng có vẻ hoang vắng, chẳng có bóng người nào lảng vảng quanh đây cả. Bên trong một hàng rào, một con lợn gầy nhom đang lăn lộn giữa đống bùn. Một con mèo đen lớn chạy qua trước mặt họ.

“Pah, con mèo khốn khiếp!” Remiz nghiêng người sang bên và khạc một bãi, rồi làm dấu thánh. “Thứ quỷ quái chạy qua mặt chúng ta!”

“Tôi hy vọng là nó mắc nghẹn mấy con chuột mà chết.” “Cái gì?” Skomlik nhìn xung quanh.

“Một con mèo. Đen như hũ nút. Nó chạy qua đường.”

“Kệ nó đi.” Skomlik lại nhìn xung quanh. “Thấy nơi này trống rỗng thế nào không. Nhưng tôi vẫn thấy bóng người trong nhà, quan sát. Cánh cửa kia vừa mới lóe lên ánh sáng từ một thanh kiếm.”

“Họ đang bảo vệ vợ con.” Cái gã đã ước con mèo mắc nghẹn lên tiếng. “Các Nissir đang ở trong làng! Ông có nghe tay nông dân nói không? Hắn không thích đám Nissir.”

“Và cũng chẳng có gì ngạc nhiên. “Tin Tôi Đi” và đồng đội của mình không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội. Rồi có ngày họ sẽ nhận được những gì thích đáng, các lãnh chúa Nissir đó. Nam tước gọi họ là những “Kẻ Gìn Giữ Hòa Bình”, và đó là những gì họ được trả công để làm. Hét vào tai một tay nông dân: “Nissir!” là hắn sẽ sợ vãi cả ra quần. Tuy nhiên con giun xéo lắm cũng quằn. Một khi họ đã giết quá nhiều gia súc, cưỡng bức quá nhiều phụ nữ, đám nông dân sẽ xé xác họ ra. Rồi cậu sẽ thấy. Cậu có nhận ra vẻ giận dữ của họ ở ngoài cổng không? Đây là những người Nilfgaard. Không đùa với họ được đâu…Ha, nhà trọ kia rồi…”

Họ thúc ngựa.

Nhà trọ có mái lợp, hơi xập xệ và bám đầy rêu mốc. Nó cách khá xa khu dân cư, tuy nhiên lại là tâm điểm của vùng đất nằm trong cái hàng rào đổ nát, nơi hai con đường cắt qua ngôi làng. Trong bóng râm của cái cây to duy nhất ở xung quanh đấy là một bãi quây, để nhốt gia súc và ngựa. Có khoảng 5 hoặc 6 con ngựa không có yên cương. Phía trước cửa, trên cầu thang, là hai người đàn ông mặc áo da và đội mũ nhọn đang ngồi. Cả hai đang ôm trong người vài cốc đất sét và một cái bát đầy những mẩu xương gặm nham nhở.

“Các ngươi là ai?” một người quát lên khi nhìn thấy Skomlik và đồng đội đang xuống ngựa. “Các ngươi tìm gì? Tốt hơn là biến ra chỗ khác đi! Nhà trọ đã bị tịch thu nhân danh luật pháp!”

“Đừng hét, Nissir, đừng hét.” Skomlik nói, kéo Ciri từ trên yên ngựa xuống. “Cánh cổng đang mở và chúng tôi đã vào. Chỉ huy của các anh, Vercta, là bạn của chúng tôi.”

“Tôi không biết ông!”

“Bởi vì anh là lính mới! “Tin Tôi Đi” và tôi đã từng phục vụ trong quân ngũ cùng nhau, từ trước cả khi ông ta tới Nilfgaard.”

“Chà, nếu vậy…” người đàn ông lưỡng lự, bỏ tay ra khỏi cán kiếm. “Cứ vào đi. Tôi đếch quan tâm…”

Skomlik đẩy Ciri, một tên Trappers khác túm cổ áo cô bé. Họ đi vào bên trong.

Nhà trọ khá tối và ngột ngạt, có mùi khói cùng nhiều thứ đang cháy. Nó phần lớn là trống rỗng, chỉ có một cái bàn duy nhất nằm ngay trên vệt sáng chiếu qua ô cửa sổ mỏng như mang cá. Đang ngồi quanh đó là 7 người đàn ông. Ở đằng sau, gần lò sưởi, chủ nhà trọ đang bận loảng xoảng nồi niêu xoong chảo.

“Xin kính chào các lãnh chúa Nissir!” Skomlik cúi đầu.

“Chúng ta không cần con bò nào nữa.” Một người ngồi gần cửa sổ nói, khạc một bãi xuống sàn. Một người khác cản anh ta lại bằng một cử chỉ.

“Im lặng đi.” Ông ta nói. “Đây là các chiến hữu của chúng ta, anh không nhận ra họ sao?

Skomlik và đám Trappers của ông ta. Chào mừng, chào mừng!”

Skomlik bước tới cái bàn, nhưng dừng lại khi ánh mắt liếc qua cây cột chống mái. Bên cạnh cây cột, đang ngồi trên một cái ghế, là một thanh niên gầy gò, tóc vàng, chưa đầy 20 tuổi, thân mình vặn vẹo kỳ quặc. Ciri nhận ra vẻ thiếu tự nhiên đó là do cánh tay của anh ta bị trói ngoặt ra sau, và cổ bị buộc vào cây cột bằng một sợi thắt lưng da.

“Cầu cho tôi bị ung nhọt đi!” tên Trappers đang túm cổ áo Ciri kêu lên, khịt mũi lớn tiếng. “Nhìn kìa Skomlik! Đó là Kayleigh!”

“Kayleigh? Không thể nào!”

Một Nissir đang ngồi ở bàn, một người đàn ông to béo với mái tóc đẹp như tranh vẽ, phá lên cười khục khặc.

“Có thể đấy.” Ông ta nói, liếm láp một cái thìa. “Đó là Kayleigh, trong bộ dạng bẩn thỉu của hắn. Dậy sớm quả là có tác dụng. Hắn ít nhất sẽ kiếm được cho chúng tôi 30 florin ngon lành.”

“Kayleigh, chà chà.” Skomlik nhăn mặt. “Vậy nghĩa là tay nông dân Nilfgaard đã nói đúng…”

“30 florin, chết tiệt.” Remiz thở dài. “Một món bở đấy…Lutz, nam tước của Tyffi sẽ trả tiền à?”

“Đúng.” Một Nissir khác với mái tóc và bộ ria mép nâu xác nhận. “Lutz của Tyffi, lãnh chúa và người bảo trợ của chúng tôi, là một nam tước quyền lực. Băng Rats dám ăn cướp của ông ấy trên xa lộ. Ông ấy tức giận và treo tiền thưởng. Và chúng tôi, Skomlik, sẽ lấy phần thưởng này, tin tôi đi. Ha, các cậu nhìn xem ông ta xù lông thế nào chưa? Ông ta không thích là chúng ta mới là người bắt được tên Rats, trong khi ngài thống đốc cũng đã ra chỉ thị truy bắt cả băng!”

“Trappers Skomlik,” người đàn ông to béo với mái tóc đẹp lên tiếng, chỉ vào Ciri bằng cái thìa, “cũng bắt được ai kìa. Một cô gái. Ông có thấy không, Vercta?”

“Tôi thấy rồi,” một người đàn ông với bộ ria mép đen cười. “Skomlik, ông nghèo túng tới nỗi phải bắt cóc trẻ con để tống tiền à? Con điếm này là ai?”

“Không cần ông bận tâm!”

“Wow, nóng nảy thế.” Người đàn ông to béo cười. “Chúng tôi chỉ muốn chắc nó không phải con gái ông mà thôi.”

“Con gái ông ta?” Vercta, người đàn ông với bộ ria mép đen cười. “Để có con gái thì ông ta phải có bi cái đã.”

Các Nissir phá lên cười.

“Ôi im đi lũ ngốc!” Skomlik la lên. “Với ông, Vercta, tôi sẽ không nói thêm gì nữa, nhưng trước ngày chủ nhật, ông sẽ biết ai là người nổi tiếng hơn, ông và tên Rats của ông hay là tôi và những gì tôi đã làm. Và chúng ta sẽ xem ai hào phóng hơn: ngài nam tước của ông hay thống đốc của Amarillo!”

“Ông có thể hôn cái mông của tôi.” Vercta nói đầy khinh bỉ, quay lại bát súp. “Cả cái lão thống đốc của ông, Hoàng đế và cả Nilfgaard nữa, tin tôi đi. Tôi đếch quan tâm. Kể cả tôi cũng biết là Nilfgaard đang truy lùng một đứa con gái. Tôi biết là có tiền thưởng. Nhưng tôi đếch quan tâm. Tôi đã từng phục vụ thống đốc và Nilfgaard, giờ thì tôi phỉ nhổ cả hai bọn chúng. Giờ tôi phục vụ nam tước Lutz và chỉ tuân lệnh ông ta mà thôi.”

“Ngài nam tước của ông,” Skomlik vặc lại, “cũng phục vụ Nilfgaard, cũng liếm gót giày của Hoàng đế. Vậy nên đừng ăn nói tùy tiện như vậy.”

“Đừng hét lên thế,” gã Nissir nói bằng giọng hòa giải. “Tôi không nên nói xấu ông như thế, tin tôi đi. Việc ông đang giữ đứa con gái và Nilfgaard đang truy lùng nó là một điều tốt. Tôi rất vui lòng khi nhìn ông lĩnh phần thưởng chứ không phải bọn chó Nilfgaard ấy. Và ông phục vụ thống đốc? Ai mà chọn được chủ của mình chứ, phải không? Thôi nào, ngồi xuống với chúng tôi và uống một ly mừng cuộc hội ngộ này nào.”

“Chà, sao lại không.” Skomlik đồng tình. “Đưa tôi một đoạn dây. Tôi sẽ trói đứa con gái vào cây cột cạnh tên Rats của ông, được chứ?”

Các Nissir cười rần.

“Skomlik, cơn ác mộng của biên giới!” Người đàn ông to béo sặc sụa. “Lực lượng cảnh vệ của Nilfgaard! Phải rồi, SKomlik, trói cô ta chặt vào. Nhưng hãy dùng một đoạn xích sắt, bởi vì ả tù nhân nguy hiểm này chuẩn bị giật đứt dây ra và bẻ gãy mũi ông trước khi chạy mất đấy. Trông cô ta ghê gớm tới nỗi tóc tai tôi dựng ngược hết lên này.”

Skomlik và thậm chí cả đồng đội cũng phá ra cười. Tên Trappers đang giữ Ciri đỏ mặt, bỏ dây xuống và quay lại bàn.

“Tôi muốn chắc chắn, chứ không phải…”

“Đừng lo về mấy thằng đểu cáng này.” Vercta ngắt lời, bẻ đôi chiếc bánh mỳ trong tay. “Nếu muốn nói chuyện, hãy ngồi xuống và làm một cốc. Còn đứa con gái này, ông có thể treo ngược cô ta lên xà nhà cũng được. Tôi không quan tâm. Đúng thật là buồn cười, Skomlik. Đối với ông và ngài thống đốc của ông, cô ta có thể là một tù nhân quan trọng, nhưng đối với tôi cô ta là một đứa trẻ rách rưới và sợ sệt. Ông muốn trói cô ta lại? Tin tôi đi, cô ta còn chẳng đứng nổi chứ đừng nói là chạy trốn. Ông sợ cái gì?”

“Tôi sẽ nói tôi sợ cái gì.” Skomlik cắn môi. “Đây là một ngôi làng của Nilfgaard. Ở đây chúng ta không được chào đón bằng muối và bánh mì, và đối với tên Rats của ông, họ nói rằng mình đang đẽo sẵn một cây cọc cho hắn. Và đó là quyền của họ, ngài thống đốc đã ra sắc dụ rằng công lý sẽ được thực thi với những tên cướp đường ngay tại nơi bị bắt. Và nếu không giao tù nhân ra cho họ, thì mấy cây cọc đó sẽ dành cho tất cả các ông.”

“Ôi trời.” Người đàn ông to béo nói. “Đến quạ cũng dọa được cái lũ đó. Tốt hơn hết là họ đừng có đụng đến chúng ta bằng không máu sẽ đổ.”

“Chúng ta sẽ không giao tên Rats ra.” Vercta nói. “Chúng ta sẽ tới Tyffi. Nam tước Lutz có thể bàn luận với thống đốc. Ah, cứ để họ cãi cọ vô ích. Ngồi xuống đi.”

Tên Trappers bỏ kiếm ra, các Nissir vui vẻ gọi chủ quán. Skomlik với lấy một cái ghế và đá nó về phía cây cột, túm lấy Ciri và dúi cô bé ngã vào gã thanh niên đang bị cột chặt.

“Ở yên đó.” Hắn làu bàu. “Và đừng có ngọ nguậy nữa, con đĩ này.”

“Bọn chó.” Gã thanh niên kêu lên, nheo mắt nhìn hắn. “Bọn khốn nạn…”

Ciri không hiểu được phần lớn câu từ thoát ra từ cái miệng méo xệch của anh ta, nhưng nhờ vào nét thay đổi trên gương mặt của Skomlik, cô có thể đoán được rằng chúng phải tục tĩu và xúc phạm vô cùng. Tên Trappers tái nhợt vì giận dữ, bàn tay run rẩy, hắn tát vào mặt gã thanh niên, túm lấy tóc anh ta và giập đầu anh ta vào cột.

“Này!” Vercta kêu lên, đứng dậy. “Có chuyện gì thế?”

“Tôi đang nhổ răng của con chuột bẩn thỉu này!” Skomlik gầm gừ. “Tôi sẽ đá cả hai chân vào mông hắn!”

“Lại đây đi và đừng đánh đập hắn nữa.” Gã Nissir ngồi xuống, nhấp một ngụm bia và chùi ria mép, “ả tù nhân của ông có thể ngồi, chúng tôi sẽ không ở đây lâu đâu. Và ngươi, Kayleigh, đừng đùa với quỷ nữa. Hãy ngồi yên đó và nghĩ về cái giá treo cổ mà nam tước Lutz đã cho dựng lên. Danh sách những điều mà ngài nam tước định làm với ngươi đã được viết sẵn rồi, và tin ta đi, nó dài đến 3 mét lận. Cả nửa thị trấn đã cá cược xem ngươi sẽ chịu được bao lâu. Thế nên hãy giữ sức đi, Rats. Ta cũng đã cược một mớ vàng và hy vọng rằng ngươi sẽ không làm ta thất vọng và trụ lại cho tới lúc bị thiến.”

Kayleigh quay đầu lại và khạc ra, xa hết mức mà sợi dây lưng quấn quanh cổ cho phép. Skomlik lôi thắt lưng ra và lườm Ciri bằng ánh mắt đe dọa, rồi gia nhập cùng với đồng đội ở bàn, chửi rủa, bởi vì cái cốc mà người chủ quán mang ra cho hắn chỉ còn lại chút bọt.

“Làm sao ông bắt được Kayleigh?” Hắn hỏi, tỏ ý muốn gọi chủ quán. “Và trên cả, còn sống nữa! Bởi vì vị trí của hắn trong băng Rats, tôi phải thấy thán phục ông.”

“Nói thật,” Vercta lên tiếng, nhìn chăm chú cái thứ vừa cạy ra từ mũi, “chúng tôi đã gặp may, thế thôi. Hắn tách khỏi băng nhóm để tới New Forge gặp một ả điếm và ngủ qua đêm ở đó. Tay thị trưởng, mà biết là chúng tôi đang ở gần đấy, đã gửi điện báo. Chúng tôi tới trước lúc bình minh và tóm được hắn trong vựa cỏ khô, trước khi hắn kịp chuồn mất.”

“Và ả điếm của hắn đã tiêu khiển cho tất cả chúng tôi.” Người đàn ông to béo cười. “Có vẻ như là Kayleigh vẫn chưa thỏa mãn cô ta. Khi chúng tôi xong việc cô ta không nhấc nổi tay chân được nữa.”

“Vậy thì tôi phải nói điều này với lũ khốn các ông.” Skomlik nói lớn và mỉa mai. “Lẽ ra các ông có thể đã kiếm thêm được tiền. Thay vì tốn thời gian với ả điếm đó, các ông có thể đuổi theo băng Rats và tìm xem chúng qua đêm ở đâu. Các ông lẽ ra có thể tóm được Giselher và Reef…chỉ Giselher không thôi, nhà Varnhagen của Sarda đã ra giá 20 florin năm ngoái. Và con đĩ đó, tên cô ta là gì nhỉ…Mistle, tôi nghĩ vậy…Ngài thống đốc sẽ trả nhiều tiền hơn cho cô ta sau những gì mà cô ta đã làm với cháu trai ông ấy ở Druigh khi băng Rats cướp một đoàn xe.”

“Ông, Skomlik.” Vercta gầm gừ, “hoặc là ngu bẩm sinh, hoặc là cái cuộc sống này đã làm làm gì bậy bạ với cái đầu ông rồi. Chúng tôi chỉ có 6 người. Ông nghĩ tôi sẽ tấn công cả băng nhóm chỉ với 6 người? Và phần thưởng sẽ không tuột khỏi tay chúng tôi đâu. Nam tước Lutz sẽ luộc sống Kayleigh trong hầm ngục, chứ không tốn thời gian đâu, tin tôi đi. Kayleigh rồi sẽ phải khai thôi, cho chúng tôi biết tất cả nơi ẩn nấp và trú ẩn của bọn chúng, rồi chúng tôi sẽ tập hợp một đội mạnh, bao vây và lùa chúng như lùa cua.”

“Rõ ràng là chúng sẽ đợi. Khi chúng biết được Kayleigh đã bị các ông bắt, chúng sẽ trốn ở những nơi ẩn náu khác. Không, Vercta, ông phải nhìn vào sự thật. Ông đã đánh đổi phần thưởng lấy một ả điếm. Ông thật là…đầu ông chỉ toàn cứt thôi.”

“Ông là đồ ngu!” Vercta đứng dậy. “Nếu ông vội như thế thì cứ việc đuổi theo bọn Rats với cái băng nhóm anh hùng của mình! Nhưng coi chừng đấy, săn cướp không giống như bắt trẻ vị thành niên đâu!”

Các Nissir và Trappers bắt đầu la ó và chửi bới lẫn nhau. Người chủ quán nhanh chóng mang thêm bia ra, bắt lấy cái cốc rỗng trong tay người đàn ông to béo, mà đang nhắm vào Skomlik. Cuộc xung đột sớm dịu đi, bia làm ướt cổ họng và hạ hỏa.

“Mang thức ăn lên!” Họ hét lên với tay chủ quán béo ị. “Trứng tráng với xúc xích, đậu, bánh mỳ và pho mát!”

“Và bia!”

“Ông làu bàu cái gì, Skomlik? Ngày hôm nay chúng ta có tiền! Chúng ta đã bắt được Kayleigh cùng với con ngựa của hắn, ví, trang sức, kiếm, yên cương và da cừu, và mọi thứ chúng tôi đã bán hết cho người lùn!”

“Chúng tôi cũng bán cả đôi giày đỏ của ả điếm nữa. Và sợi dây chuyền của cô ta!” “Ho, ho, còn lý do nào tốt hơn để uống nữa!”

“Ông mừng làm cái gì? Chúng tôi mới có lý do để uống, đâu phải ông. Ông chỉ có thể đi vắt mũi với bắt rận cho con bé kia thôi! Tù nhân với chiến lợi phẩm của ông đó, ha, ha!”

“Thằng con hoang.”

“Ha, ha, ngồi xuống đi, và ngậm miệng lại.” “Hãy uống nào! Chúng tôi mời!”

“Trứng tráng đâu rồi, chủ quán, bệnh dịch bắt ông đi! Nhanh tay lên!” “Và mang thêm bia nữa!”

Ciri thu người lại trên ghế, ngẩng đầu lên, nhận thấy đôi mắt xanh lục giận dữ của Kayleigh đang liếc nhìn cô từ dưới bờm tóc vàng tả tơi. Một cơn ớn lạnh chạy dọc người cô. Gương mặt của Kayleigh, dù không xấu xí, nhưng rất độc ác, rất độc ác. Ciri chợt nhận ra gã thanh niên mà không già hơn cô là bao này dám làm mọi thứ mình muốn.

“Tôi nghĩ là các vị thần đã gửi cô đến cho tôi,” gã Rats nói, đôi mắt xanh xuyên thủng cô. “Vậy mà tôi đã từng không tin họ, thế nhưng họ vẫn gửi cô đến cho tôi. Đừng nhìn, đồ ngốc. Cô phải giúp tôi…giỏng tai lên mà nghe này, chết tiệt…”

Ciri càng thu mình lại, hạ thấp đầu.

“Nghe này,” Kayleigh rít lên, nhe răng ra và trong một thoáng nhìn như một con chuột thực sự. “Trong vài phút nữa, khi gã chủ quán đi qua đây, hãy la lên…nghe tôi này, chết tiệt,…”

“Không,” cô nói. “Hắn sẽ đánh tôi…”

Đôi môi của Kayleigh giựt giựt và Ciri hiểu rằng bị Skomlik đánh chẳng nhằm nhò gì so với thứ tồi tệ nhất có thể xảy ra. Mặc dù Skomlik rất to con và Kayleigh thì nhỏ và bị trói, cô vẫn có thể cảm thấy rằng ai mới là kẻ đáng sợ hơn.

“Nếu cô giúp tôi,” gã Rats thì thầm. “Tôi sẽ giúp cô. Tôi không một mình đâu. Tôi có những người bạn mà sẽ không để cô lại đây…cô hiểu chứ? Nhưng khi bạn tôi đến, khi mọi việc bắt đầu, tôi không thể bị trói vào cây cột này bởi vì tôi sẽ bị lũ khốn kia chặt ra thành từng mảnh…Nghe tôi đi, chết tiệt. Tôi sẽ bảo cô phải làm gì…”

Ciri cúi đầu còn thấp hơn. Đôi môi cô run rẩy.

Các Nissir và Trappers ngấu nghiến trứng tráng như lợn rừng. Tay chủ quán quay lại bàn từ cái nồi bốc khói và đem theo mấy vại bia cùng bánh mì.

“Tôi đói!” Ciri miễn cưỡng la lên, hơi tái đi. Tay chủ quán dừng lại, nhìn cô bé, rồi quay sang cái bàn nhậu.

“Tôi có thể cho cô ta chút gì không, thưa các ngài?”

“Không!” Skomlik nói, đỏ rực và nhổ trứng tráng ra. “Tránh xa cô ta ra, đến gần cô ta và ta sẽ bẻ giò ngươi! Ta cấm! Còn mày, ngồi im đó và ngậm họng lại đi, nếu không…”

“Này, này, Skomlik, cô ta đã làm gì chứ?” Vercta chen vào, nuốt một miếng bánh mì với hành khô. “Nhìn ông ta xem, các cậu, ông ta ăn bằng tiền của người khác, nhưng lại keo kiệt với đứa con gái. Chủ quán, cho cô ta một cái bát. Ta trả tiền, vậy nên ta sẽ quyết định ai được ăn và ai không. Và người nào không đồng ý thì cứ việc cuốn xéo.”

Skomlik lại đỏ mặt hơn, nhưng không nói gì.

“Tôi vừa mới nhớ ra một chuyện,” Vercta thêm vào. “Tên Rats cũng phải được ăn nữa, nếu không hắn sẽ ngất xỉu trên đường, và rồi ngài nam tước sẽ lột da chúng ta, tin tôi đi. Này con bé kia, bón cho hắn. Chủ quán! Đem cho chúng ít đồ ăn đi! Còn ông, Skomlik, ông bị sao thế? Ông bực bội cái gì?”

“Để mắt đến cô ta đấy,” tên Trappers ra hiệu về phía Ciri, “bởi vì đây là một con chim kỳ lạ. Nếu bình thường, Nilfgaard đã chẳng truy lùng cô ta, và ngài thống đốc cũng chẳng ra tiền thưởng…”

“Nếu muốn biết cô ta bình thường hay bất thường,” người đàn ông to béo cười lớn, “tôi có thể cho ông xem, chỉ cần nhìn vào giữa hai chân cô ta thôi! Các anh em thấy thế nào hả? Chúng ta có nên đem cô ta ra nhà kho một lát không?”

“Đừng có dám đụng vào cô ta!” Skomlik gầm gừ. “Tôi không cho phép!” “Đó, trông kìa! Cứ như thể chúng ta cần ông ta cho phép ý!”

“Chuyện này ngoài tầm tay của tôi, tôi phải trao trả cô ta còn sống và lành lặn! Thống đốc Amarillo…”

“Kệ mẹ cái lão thống đốc của ông. Ông ăn uống bằng tiền của chúng tôi và giờ từ chối chúng tôi một nháy với ả điếm này? Này, Skomlik, đừng có keo kiệt thế chứ! Đầu ông sẽ không rơi xuống đâu, đừng sợ, hay là tiền của ông cũng chẳng giảm bớt đi! Ông sẽ trao trả cô ta lành lặn, một đứa con gái có phải một cái bàng quang đâu, cô ta sẽ không nổ tung chỉ vì một lần vui vẻ đâu.”

Các Nissir phá lên cười châm chọc. Đồng đội của Skomlik cũng hùa vào. Ciri run rẩy, mặt biến sắc và ngước lên. Kayleigh mỉm cười mỉa mai.

“Giờ thì cô hiểu chưa?” anh ta thì thầm, “một khi say mèm chúng sẽ cưỡng bức cô. Đánh đập cô. Giờ thì chúng ta cùng hội cùng thuyền. Hãy làm như tôi bảo. Nếu tôi thành công, cô cũng…”

“Thức ăn sẵn sàng rồi đây!” chủ quán la lên, ông ta không có giọng Nilfgaard. “Lại đây nào, cô gái!”

“Một con dao.” Ciri thì thầm, nhận lấy cái bát từ chủ quán. “Cái gì?”

“Đưa tôi một con dao, nhanh lên.”

“Thế là đủ rồi, không thêm nữa!” Chủ quán giả vờ hét lên, nheo mắt nhìn về phía cái bàn tiệc và cho thêm thịt lợn vào nồi. “Làm ơn đi đi.”

“Một con dao.”

“Không. Tôi thấy tội cho cô, cô gái. Nhưng tôi không thể. Tôi không thể, xin hãy hiểu cho.

Đi đi…”

“Sẽ không ai bước ra khỏi cái quán trọ này mà còn sống,” cô nhắc lại lời của Kayleigh bằng một giọng run rẩy. “Một con dao, nhanh lên. Và khi mọi chuyện bắt đầu, chạy đi.”

“Giữ chắc cái bát vào, đồ quỷ!” Người chủ quán kêu lên, quay người lại để che cho Ciri.

Ông ta tái nhợt và răng đánh cầm cập. “Lại gần cái chảo hơn đi!”

Cô bé cảm thấy cái lạnh của con dao làm bếp mà ông ta luồn cho mình từ trên thắt lưng, lấy vạt áo che đi.

“Giỏi lắm.” Kayleigh rít lên. “Giờ hãy ngồi xuống để chắn cho tôi. Đặt cái bát vào lòng tôi. Cầm cái thìa bằng tay trái và con dao bằng tay phải. Giờ thì cắt dây đi. Không phải ở đó, đồ đần, cắt cái nút buộc ý. Cẩn thận, chúng đang nhìn kìa.”

Ciri cảm thấy cổ họng khô rát. Đầu cô bé cúi gần chạm cái bát.

“Bón cho tôi ăn, và cũng tự ăn chút gì đi.” Đôi mắt xanh của anh ta nhìn cô từ dưới cặp mi hé một nửa, trông có vẻ mơ màng. “Chậm thôi, chậm thôi. Hãy dũng cảm lên, cô gái. Nếu tôi thoát được, cô cũng…”

Đúng, Ciri nghĩ trong khi cắt dây. Con dao có mùi hành khô và sắt, cạnh dao mòn đi vì mài quá nhiều. Anh ta nói đúng, làm sao mình biết được lũ vô lại này định đem mình đi đâu? Làm sao mình biết được cái lão thống đốc Nilfgaard này muốn gì ở mình? Có thể thứ đang chờ đợi mình ở Amarillo là bánh xe, khoan, hàng đống sắt nung…mình sẽ không bị vác đi như cừu vào lò mổ. Tốt hơn hết là đánh liều…

Với một tiếng gầm, cái cửa sổ vỡ tung vào bên trong, cùng với khung cửa, những khúc gỗ dùng để chặt củi ở bên ngoài bay vào bàn, đánh đổ hết cốc và bát đĩa. Theo chân những khúc gỗ, một cô gái với mái tóc vàng cắt ngắn nhảy lên bàn, mặc một cái áo đỏ và ủng cao quá đầu gối. Cô ta quỳ xuống, vẫy kiếm. Một tên Nissir, phản ứng chậm hơn, đã không kịp đứng dậy và lùi lại, hắn đổ xuống đất, máu bắn ra từ cổ. Cô gái nhẹ nhàng đáp xuống đất, nhường chỗ cho một thanh niên mặc áo khoác da cừu nhảy vào qua cửa sổ.

“Băng Ratttttttssssss!” Vercta hét lên, vật lộn với thanh kiếm đang vướng vào thắt lưng.

Gã to béo rút vũ khí ra, nhảy về phía cô gái đang quỳ trên sàn, vung kiếm, nhưng cô gái vẫn đang quỳ, khéo léo đỡ đòn đánh và đổ rạp xuống đất, gã thanh niên mặc áo da cừu vừa mới nhảy theo cô ta chém vào thái dương hắn dễ dàng. Gã to béo đổ xuống đất như một tấm thảm rơm.

Cánh cửa nhà trọ bật mở với một cú đá và hai tên Rats nữa bước vào. Người đầu tiên cao ráo, da sậm và mặc một chiếc áo khoác da buộc khăn quàng đỏ trước cổ. Với hai nhát kiếm chớp nhoáng, anh ta đốn ngã hai tên Trappers vào góc phòng và đuổi theo Vercta. Người thứ hai, một người vai rộng tóc vàng, cắt một đường kiếm mạnh về phía Remiz, em trai của Skomlik. Tất cả số còn lại tháo chạy về phía nhà bếp. Nhưng băng Rats cũng từ trong đó bước ra. Một cô gái da đen mặc quần áo sặc sỡ nhảy tới, bằng một cú chọc từ thanh kiếm, xuyên thủng một tên Trappers, rồi đuổi theo kẻ còn lại, và nhanh như cắt đâm chết người chủ quán trước khi ông ta kịp la lên mình là ai.

Căn phòng tràn ngập tiếng la hét và gươm kiếm chan chát. Ciri nấp sau cột nhà.

“Mistle!” Kayleigh la lên, đã thoát ra được khỏi sợi dây trói, và giờ đang vật lộn với cái thắt lưng đang buộc cổ mình vào cột nhà. “Giselher! Reef! Ra chỗ tôi!”

Tuy nhiên, băng Rats vẫn còn đang bận chiến đấu, nhưng Skomlik đã nghe thấy tiếng kêu của Kayleigh. Tên Trappers quay lại với ý định đâm gã Rats dính vào cột. Ciri hành động nhanh và theo phản xạ, y như trận đấu với con wyvern ở Gors Velen, y như ở Thanedd, tất cả các động tác mà cô bé đã học ở Kaer Morhen chợt bộc phát, tự ý triển khai mà không cần đợi cô. Ciri nhảy ra từ đằng sau cây cột, xoay nửa vòng, lao vào Skomlik và đá trúng hông hắn. Cô quá nhỏ con và yếu ớt để có thể xô ngã được tên Trappers, nhưng cũng phá được nhịp di chuyển của hắn. Và khiến sự chú ý của hắn hướng vào mình.

“Con điếm!”

Skomlik vung kiếm và bầu không khí rít lên. Thân thể Ciri lại tự né, tên Trappers suýt thì bị đường kiếm của mình kéo ngã dập mặt. Chửi thề ác liệt, hắn lại tấn công, dồn toàn trọng lượng cơ thể lên đòn đánh. Ciri nhanh nhẹn tránh sang bên, đáp nhẹ nhàng bằng chân trái rồi xoay mình theo hướng ngược lại. Skomlik lại tấn công, nhưng không với đến cô.

Vercta đột nhiên ngã vào giữa bọn họ, người bết máu.

Tên Trappers lùi lại và nhìn xung quanh. Bao vây hắn là xác chết. Và băng Rats đang tiến lại từ mọi hướng, kiếm sẵn sàng trong tay.

“Dừng lại.” Người da sậm quàng khăn đỏ nói lạnh lùng, cuối cùng cũng cởi trói cho Kayleigh. “Có vẻ như hắn muốn cắt đôi cô gái này ra bằng mọi giá. Tôi không biết tại sao. Tôi cũng không biết nhờ vào phép màu nào mà hắn vẫn chưa thực hiện được. Nhưng hãy cho hắn một cơ hội, vì hắn khao khát đến mức đó cơ mà.”

“Hãy cho cả cô ta một cơ hội nữa.” Giselher nói, người có bờ vai rộng. “Hãy để đây là một chận triến công bằng. Đưa sắt cho cô ta, Spark.”

Ciri cảm thấy cán kiếm ở trong tay. Nó hơi nặng quá.

Skomlik nguyền rủa điên loạn, xông tới cô, nhấc cao thanh kiếm trong tay. Hắn quá chậm. Ciri tránh bằng động tác giả và nửa bước chân, không thèm đỡ đòn đánh đang giáng xuống. Thanh kiếm có tác dụng như đối trọng khiến cô di chuyển nhẹ nhàng hơn.

“Phi thường!” Cô gái cắt tóc ngắn cười. “Cô ta là một vận động viên thứ thiệt đấy.”

“Cô ta rất nhanh.” Người mặc trang phục sặc sỡ mà đã đưa cho Ciri thanh kiếm nói. “Nhanh như một người elves. Này ngươi! Có lẽ ngươi muốn đấu với một trong số chúng ta? Bởi vì ngươi chẳng có lấy một tí cơ hội nào với cô ta cả!”

Skomlik lườm lại, rồi đột nhiên bật về phía Ciri, vươn mình hết cỡ như một con cò. Ciri tránh đợt tấn công, chuyển mình. Trong một giây cô trông thấy một mạch máu đập thình thịch trên cổ Skomlik. Cô biết rằng trong tư thế này hắn sẽ không thể né được. Cô biết phải tấn công vào đâu và như thế nào.

Nhưng cô đã không tấn công.

“Đủ rồi.” Cô cảm nhận một bàn tay đặt lên vai mình. Cô gái mặc trang phục sặc sỡ đẩy cô, trong khi hai tên Rats, người thanh niên khoác áo da cừu và người tóc ngắn, dồn Skomlik vào một góc.

“Đùa thế là đủ rồi.” Trang phục sặc sỡ nhắc lại, Ciri quay sang đối diện với cô ta. “Mất thời gian quá. Và đó là lỗi của cô, cô gái. Cô có thể giết hắn, nhưng đã không xuống tay. Tôi có cảm tưởng là cô không sống nổi được lâu nữa đâu.”

Ciri run rẩy, nhìn vào đôi mắt hạnh nhân đen, lớn, những chiếc răng hé ra qua nụ cười nhỏ tới nỗi không nhận ra nổi. Đó không phải mắt và răng của con người. Cô gái mặc trang phục sặc sỡ là một người elves.

“Đến lúc kết thúc rồi.” Giselher, người quàng khăn đỏ, rõ ràng là thủ lĩnh nói lớn. “Đúng thật là mất thời gian! Mistle, kết liễu tên khốn đó đi!”

Tóc ngắn tiến lại gần, kiếm trong tay.

“Xin hãy thương hại!” Skomlik rên la, quỳ xuống. “Hãy tha mạng cho tôi! Tôi còn con nhỏ…”

Cô gái vung một nhát kiếm mạnh, xoay hông. Máu bắn lên thành những vệt lớn trên bức tường trắng toát.

“Ta không thể chịu nổi trẻ con.” Tóc ngắn nói, trong khi vẩy máu ra khỏi kiếm bằng một động tác nhanh gọn.

“Đừng đứng đực ra đó như thế, Mistle.” Khăn quàng đỏ giục cô ta. “Ra chỗ mấy con ngựa mau! Chúng ta phải biến thôi! Đây là một ngôi làng của Nilfgaard, chúng ta không có bạn ở đây!”

Băng Rats nhanh chóng rút khỏi nhà trọ. Ciri không biết phải làm gì, nhưng cũng không có thời gian để do dự, Mistle, người cắt tóc ngắn, đẩy cô bé ra phía cửa.

Trước nhà trọ, nằm giữa đống xương gặm nham nhở và cốc đất sét là xác của hai tên Nissir canh cửa. Các nông dân cầm chĩa đang chạy ra từ trong làng, nhưng khi trông thấy băng Rats, tất cả đều nhanh chóng lủi vào nhà.

“Cô có biết cưỡi ngựa không?” Mislte quát Ciri. “Có…”

“Vậy thì lên đi và chuồn thôi! Đầu của tất cả chúng ta đều được treo phần thưởng trong ngôi làng này! Họ đang đi tìm nỏ và giáo! Chạy phía sau Giselher! Giữa đường! Và tránh xa những ngôi nhà ra!”

Ciri nhảy qua cái hàng rào thấp, túm lấy dây cương một con ngựa của mấy tên Trappers, bay lên yên và để thanh kiếm mà cô vẫn chưa bỏ xuống ra đằng sau. Cô phi nước đại đằng trước Kayleigh và người elves sặc sỡ, có tên Spark. Băng Rats hướng về phía cái cối xay. Cô trông thấy một người đàn ông cầm nỏ nhảy ra từ bóng tối của một ngôi nhà, nhắm vào lưng Giselher.

“Ngăn hắn lại!” Cô nghe thấy từ đằng sau. “Ngăn hắn lại, cô gái!”

Ciri nghiêng sang bên, giật dây cương và bắt con ngựa chuyển hướng, giơ kiếm lên. Người đàn ông cầm nỏ quay lại trong giây cuối cùng, cô trông thấy gương mặt ông ta ngập tràn sợ hãi. Bàn tay cô lưỡng lự trong giây lát, mà quá đủ để ngựa của cô chạy ngang qua mặt ông ta. Cô nghe thấy tiếng dây bật, tiếng con ngựa hý, quỵ xuống và nằm lăn ra đất. Ciri nhảy, đạp chân lên bàn đạp, hạ cánh nhẹ nhàng trong tư thế ngồi xổm. Spark, đang chạy lại, chém một đường kiếm từ trên yên, đốn ngã người cung thủ. Ông ta quỵ xuống, ngã sấp mặt vào một vũng bùn. Con ngựa bị thương khịt mũi và bật sang bên, cuối cùng chạy vào giữa những ngôi nhà, chân đạp điên cuồng.

“Đồ ngu!” Người elves quát lên khi chạy qua Ciri. “Đồ ngu ngốc chết tiệt!”

“Nhảy lên đi!” Kayleigh la, chạy lại gần cô bé. Ciri chạy, nắm lấy bàn tay anh ta đang chìa ra. Lực kéo mạnh đến nỗi làm trật khớp vai cô, nhưng cô đã lên được yên ngựa, bám lấy lưng của gã Rats tóc vàng. Họ phi qua Spark. Người elves quay đầu lại, đuổi theo một cung thủ khác, người ngay lập tức bỏ vũ khí xuống và chạy về phía cánh cửa nhà kho. Spark bắt kịp ông ta dễ dàng. Ciri quay mặt đi. Cô nghe tiếng người cung thủ la lên như thú hoang.

Mistle bắt kịp họ, kéo theo một con ngựa. Cô ta hét cái gì đó, Ciri không thể hiểu được, nhưng nhận ra ngay tức thì. Cô bỏ lưng Kayleigh ra và nhảy xuống đất, chạy tới con ngựa đang đứng gần một ngôi nhà với khoảng cách nguy hiểm. Mistle ném dây cương cho cô, nhìn lên và hét một câu cảnh báo. Ciri quay lại vừa kịp lúc để làm một động tác xoay nửa vòng mà giúp cô tránh được một ngọn giáo đang bay đến từ tay một người nông dân vạm vỡ vừa mới hiện ra từ một cái chuồng lợn.

Chuyện xảy ra tiếp theo đã ám ảnh những giấc mơ của cô trong một thời gian dài. Cô bé nhớ mọi thứ, mọi chuyển động. Cú xoay nửa vòng cứu cô khỏi ngọn giáo, đặt cô vào một vị trí lý tưởng. Tuy nhiên, người nông dân đang quá nghiêng về phía trước do cầm ngọn giáo bằng cả hai tay, đã không thể nhảy đi hay che chắn cho mình. Ciri cắt một nhát, xoay một nửa vòng đối diện. Trong một thoáng cô trông thấy đôi môi ông ta hé ra một tiếng hét trên gương mặt lún phún râu nhiều ngày không cạo. Cô trông thấy vệt cháy nắng do đội mũ trên cái đầu trọc lốc của ông ta. Và rồi mọi thứ khác cô trông thấy đều bị nhấn chìm bởi một dòng suối máu.

Vẫn giữ dây cương con ngựa, cô bé ngã chúi xuống khi con vật bất chợt lồng lên. Ciri không bỏ dây cương ra. Người đàn ông đang giãy chết bị đá vào đống rơm và phân bón, máu chảy ra như lợn bị cắt tiết. Ciri cảm thấy buồn nôn.

Bên cạnh cô bé là Spark. Người elves cầm lấy dây cương và giật, bắt Ciri, cũng vẫn đang túm lấy dây cương, phải đứng dậy.

“Lên ngựa!” Cô ta hét. “Và chạy!”

Ciri kiềm chế cơn buồn nôn và nhảy lên yên ngựa. Thanh kiếm cô vẫn đang cầm trên tay dính máu. Cô cố hết sức bình sinh để không ném món vũ khí đi xa nhất có thể.

Mistle hiện ra từ giữa mấy ngôi nhà, đuổi theo hai người. Một thoát được do nhảy qua hàng rào, kẻ còn lại dính đòn, đổ gục xuống và hai tay ôm đầu.

Cả Ciri và người elves bắt đầu phi nước đại, nhưng sau một lúc lại đứng yên. Đang trở về từ chỗ cái cối xay là Giselher với các Rats còn lại. Đằng sau họ là một nhóm nông dân đang la hét, khích lệ lẫn nhau.

“Đi theo chúng tôi!” Giselher hét lên khi vượt qua họ. “Đi theo chúng tôi, Mistle! Ra bờ sông!”

Mistle, nghiêng sang bên, giật dây cương quay đầu con ngựa lại và sớm phi ngay đằng sau anh ta, nhảy qua một hàng rào thấp. Ciri cúi rạp xuống cổ con ngựa và lao theo. Spark phi bên cạnh cô. Tốc độc của cuộc chạy trốn đã làm rối bù mái tóc đen đẹp đẽ của cô ta, để lộ ra cái tai nhọn với một chiếc khuyên nho nhỏ.

Người đàn ông mà bị Mistle đả thương vẫn đang quỳ giữa đường, cào cấu loạn xạ cái đầu chảy máu bằng hai tay. Spark quay lại, lao đến ông ta và chém bằng thanh kiếm trong tay với toàn bộ sức lực. Người đàn ông bị thương hét lên. Ciri trông thấy những ngón tay bị chặt đứt bay sang bên như mấy miếng khoai chiên, rồi rơi bịch xuống đất như những con sâu béo ú trắng bệch.

Với cố gắng phi thường, cô bé đã không nôn ra.

Phía trước cái lỗ to đùng trên hàng rào là Mistle và Kayleigh đang đợi, phần còn lại của băng Rats đã chạy được một đoạn xa. Cả bốn phi nước đại ngay lập tức, ra bờ sông, nước bắn tung tóe quá đầu họ. Cúi rạp người xuống, họ vượt sang bãi cát ở bờ bên kia, rồi phi qua một cánh đồng phủ đầy hoa lupin. Spark, có con ngựa nhanh nhất, chạy đầu tiên.

Họ đi vào một khu rừng, giữa bóng râm ẩm ướt của những thân cây giẽ gai. Họ bắt kịp Giselher và những người còn lại, nhưng chỉ dừng chân trong chốc lát. Họ băng qua rừng và tới một đầm lầy, rồi lại phi nước đại. Ciri và Kayleigh sớm tụt ở đằng sau, hai con ngựa của lũ Trappers không thể nào theo kịp với những con ngựa của băng Rats. Ciri còn có một vấn đề nữa: đây là một con ngựa lớn và bàn chân cô bé chỉ chới với tới bàn đạp, trong suốt lúc phi ngựa cô không thể điều chỉnh chúng được. Cô có thể cưỡi ngựa không cần bàn đạp, nhưng biết rằng cứ đà này cô không thể trụ được lâu.

May mắn thay, sau vài phút Giselher đi chậm lại rồi dừng hẳn, để cho cô và Kayleigh có thể bắt kịp. Ciri từ từ tiến lại. Cô bé vẫn không thể chỉnh cái bàn đạp. Không đi chậm lại, cô chuyển chân phải qua và ngồi về một bên của yên ngựa.

Mistle, trông thấy dáng cưỡi ngựa của Ciri, phá lên cười.

“Thấy không, Giselher? Cô ta không chỉ là vận động viên, mà còn ở trong cả gánh xiếc nữa? Ê, Kayleigh, anh kiếm đâu ra cái đồ quỷ này vậy?”

Spark, dừng con ngựa màu hạt dẻ tuyệt đẹp lại, vẫn khô ráo và nóng lòng đi tiếp, tiến lại gần con ngựa xám Ciri đang cưỡi. Con ngựa khịt mũi và lùi lại, lúc lắc đầu. Ciri ghìm dây cương và nghiêng người trên yên.

“Cô có biết tại sao mà mình vẫn còn sống không, đồ ngu?” người elves làu bàu, gạt tóc sang bên. “Cái gã nông dân mà vô cùng quý trọng mạng sống của cô đó đã ra tay sớm và bắn trúng con ngựa. Nếu không thì giờ này cô đã có một mũi tên găm sau lưng rồi! Cô vẫn đeo thanh kiếm đó làm gì?”

“Để mặc cô ta đi, Spark.” Mistle nói, vuốt mồ hôi trên cổ con ngựa của mình. “Giselher, chúng ta cần đi chậm lại, anh đang giết lũ ngựa đấy! Làm gì có ai đuổi theo chúng ta!”

“Tôi muốn vượt qua Velda càng sớm càng tốt.” Giselher nói. “Chúng ta có thể nghỉ ngơi khi đã qua con sông. Kayleigh, ngựa của cậu thế nào?”

“Nó chịu được. Đây là một con ngựa thuần chủng, không phải dùng để đua, nhưng vẫn rất dẻo dai.”

“Vậy thì đi thôi.”

“Đợi đã.” Spark nói. “Vậy còn đứa ranh con này?”

Giselher quay lại, chỉnh lại chiếc khăn quàng cổ và nhìn Ciri. Gương mặt anh ta, biểu cảm của anh ta gợi cô nhớ đến Kayleigh – cùng nét giận dữ trên môi, cùng đôi mắt nheo lại và hàm dưới nhô ra. Nhưng anh ta già hơn gã Rats tóc vàng – những vệt xanh trên má cho thấy anh ta thường xuyên cạo râu.

“Đúng vậy.” Anh ta nói gãy gọn. “Còn cô thì sao, cô gái?” Ciri cúi đầu xuống.

“Cô ấy đã giúp.” Kayleigh nói. “Nếu không vì cô ấy, tên Trappers khốn khiếp đó đã đâm dính tôi vào cột…”

“Những người dân làng,” Mistle thêm vào, “đã trông thấy cô ta bỏ chạy cùng chúng ta. Cô ta đã chém một người, tôi không nghĩ là hắn sống nổi sau nhát kiếm đó. Mấy gã Nilfgaard đấy là nông dân. Nếu cô ta rơi vào tay họ, họ sẽ giết cô ta. Chúng ta không thể để mặc cô ta được.”

Spark khịt mũi giận dữ, nhưng Giselher giơ tay lên.

“Hãy vượt qua Velda đã,” anh ta quyết định. “Rồi xem. Đi nào, ngồi cho ngay ngắn, cô gái.

Nếu cô ngã, chúng tôi sẽ không quay lại đâu. Hiểu chứ?” Ciri gật đầu.

***

“Nói tôi nghe đi, cô là ai? Cô tới từ đâu? Tên cô là gì? Tại sao cô lại bị áp tải?”

Ciri cúi đầu. Trong lúc phi ngựa cô bé đã có nhiều thời gian để suy ngẫm và bịa ra một câu truyện. Cô đã bịa khá nhiều. Nhưng thủ lĩnh của băng Rats có vẻ là người sẽ không dễ dàng tin vào ba cái mớ nhảm nhí đó.

“Nhanh lên,” Giselher giục. “Cô đã đi với chúng tôi được vài giờ rồi. Cô đã nghe chúng tôi nói chuyện, nhưng tôi vẫn chưa có cơ hội được nghe giọng của cô. Cô bị câm à?”

Ngọn lửa bắn lên không trung, lấp đầy cái lán bỏ hoang của một người chăn cừu bằng những cơn sóng ánh sáng. Như thể tuân theo lệnh Giselher, ngọn lửa chiếu rọi gương mặt Ciri, khiến mọi người có thể dễ dàng phát hiện ra vẻ thành thật hay dối trá trong lời nói của cô.

Nhưng mình không thể kể thật cho họ nghe, Ciri cảm thấy tuyệt vọng. Họ là cướp, trộm. Nếu biết tại sao đám người Nilfgaard muốn mình, họ có thể sẽ muốn phần thưởng đó. Vả lại, sự thật quá hoang đường. Đến mình còn chẳng tin nổi nữa là.

“Chúng tôi đã cứu cô khỏi ngôi làng,” thủ lĩnh của những tên cướp chậm rãi tiếp tục. “Chúng tôi mang cô tới nơi ẩn náu của mình. Chia cho cô đồ ăn của mình. Cô ngồi đây cạnh đống lửa của chúng tôi. Vậy hãy nói cho tôi cô là ai?”

“Để mặc cô ấy đi.” Mistle đột nhiên thốt lên. “Khi nhìn anh, Giselher, tôi lại nhớ đến bọn Nissir, hay Trappers hay mấy thằng khốn người Nilfgaard đó. Tôi cảm thấy như mình đang ở trong một phòng hỏi cung, bị trói vào một buồng giam trong hầm ngục.”

“Mislte đúng đó,” người tóc vàng khoác áo da cừu nói. Ciri hơi giật mình khi nghe thấy giọng anh ta. “Rõ ràng là cô gái không muốn nói mình là ai và cô ấy có quyền đó. Khi tôi gia nhập với anh, tôi cũng không nói nhiều lắm. Tôi đã không muốn đề cập rằng mình là một trong số mấy thằng khốn người Nilfgaard đó…”

“Đừng có ngu thế, Reef.” Giselher khoát tay. “Với cậu thì khác. Còn cô, Mistle, cô đang phóng đại lên thôi. Chẳng có ai hỏi cung gì ở đây cả. Tôi chỉ muốn nghe xem cô ấy là ai và từ đâu tới. Một khi đã biết tôi sẽ chỉ cho cô ấy đường về nhà, và có thế thôi. Làm sao tôi làm được mà không biết…”

“Anh chẳng biết cái đếch gì cả.” Mistle quay đi. “Ngay cả khi cô ấy có một ngôi nhà, mà tôi cũng nghi ngờ đấy, thì bọn Trappers cũng đã bắt được cô ấy trên đường, vì cô ấy đang đơn độc. Đó là đặc điểm của lũ hèn đó. Nếu bị đuổi đi, cô ấy sẽ không sống nổi ở trên núi. Chó sói sẽ xé xác cô ấy hoặc cô ấy sẽ chết vì đói.”

“Vậy chúng ta làm gì với cô ấy bây giờ?” người vai rộng nói bằng chất giọng trẻ trung, trong khi lấy que cời lửa. “Chúng ta có bỏ mặc cô ấy ở một ngôi làng nào đó không?”

“Ý tưởng hay đấy, Asse.” Mistle mỉa mai. “Anh có biết mấy tay nông dân đó như thế nào không? Họ luôn thiếu người lao động. Họ sẽ bắt cô ấy chăn gia súc, đó là sau khi đã bẻ gãy hai chân để đảm bảo là cô ấy không chạy trốn được. Khi đêm xuống, cô ấy sẽ bị đối xử như một kẻ vô danh, và do vậy là tài sản công cộng. Anh biết là cô ấy sẽ trả tiền cho cái mái nhà trên đầu kiểu gì rồi đó. Và khi mùa xuân tới, cô ấy sẽ chết vì lên cơn sốt sau khi sinh hạ đứa con hoang của ai đó trong chuồng lợn.”

“Nếu chúng ta để lại cho cô ấy con ngựa và thanh kiếm,” Giselher nói từ tốn, vẫn đang nhìn Ciri. “Tôi sẽ không muốn là mấy tay nông dân định bẻ gãy chân cô ấy đâu. Hay có ý định làm một đứa con hoang. Cô đã thấy cô ấy múa như thế nào trong cái nhà trọ với tên Trappers mà cô đã cắt cổ rồi đó. Hắn chỉ chém không khi trong khi cô ấy bình chân như vại…ha, tôi không quan tâm tên cô ấy là gì hay gia đình là ai, nhưng sẽ rất vui lòng nếu biết cô ấy học được mấy trò đó ở đâu…”

“Chiêu trò sẽ không cứu được cô ta,” Spark đột nhiên nói, nãy giờ vẫn đang bận mài kiếm.

“Cô ta chỉ biết múa. Để sống sót được, cô ta phải biết giết, mà rõ ràng là cô ta không làm được.”

“Tôi nghĩ là cô ấy làm được.” Kayleigh mỉm cười. “Lúc ở ngôi làng đó cô ấy đã rạch cổ một gã nông dân, máu bắn phải xa đến nửa mét…”

“Và cô ta suýt ngất khi nhìn thấy cảnh đó.” Người elves khịt mũi.

“Bởi vì cô ấy vẫn chỉ là một đứa trẻ.” Mistle chen vào. “Tôi có thể đoán được cô ấy là ai và cô ấy học được mấy mánh đó từ đâu. Tôi đã từng nhìn thấy những người như cô ấy rồi. Cô ấy là một vũ công hay người làm trò nhào lộn trong một gánh xiếc.”

“Và kể từ khi nào,” Spark lại khịt mũi, “chúng ta bắt đầu quan tâm đến vũ công hay người làm xiếc? Chết tiệt, sắp nửa đêm rồi, tôi thấy buồn ngủ lắm. Dừng cái màn trò chuyện sáo rỗng này đi. Chúng ta phải ngủ và nghỉ ngơi, sáng mai chúng ta sẽ tới Forge. Tay trưởng làng đó đã giao Kayleigh cho lũ Nissir. Cả ngôi làng tối nay sẽ đỏ rực cho mà xem. Còn cô ta? Cô ta có thể lấy con ngựa và thanh kiếm, cô ta đã giành được chúng một cách công bằng. Đưa cho cô ta chút đồ ăn và tiền. Vì đã giúp cứu Kayleigh. Hãy để cô ta đi đâu tùy thích, làm gì tùy thích…”

“Tốt thôi.” Ciri nói, cắn môi và đứng dậy. Sự im lặng bao trùm chỉ trừ tiếng lách tách của lửa. Băng Rats nhìn cô với vẻ tò mò, chờ đợi.

“Tốt thôi.” Cô nhắc lại, ngạc nhiên vì giọng nói của mình quá xa lạ. “Tôi không cần các người, tôi không đòi hỏi điều gì…Và tôi không muốn ở cùng các người! Tôi sẽ đi…”

“Vậy là cô không bị câm.” Giselher nói nghiêm nghị. “Cô có thể nói, và còn chua chát là đằng khác.”

“Nhìn mắt cô ta xem.” Spark độp lại. “Nhìn cô ta ngẩng đầu cao chưa kìa. Một con chim săn mồi đích thực. Diều hâu!”

“Cô muốn đi.” Kayleigh hỏi. “Nhưng cô có biết là đi đâu không?”

“Anh quan tâm làm gì.” Ciri hét lên, đôi mắt rực một ngọn lửa xanh lục. “Tôi có hỏi anh đi đâu không? Tôi không quan tâm! Tôi không cần các người chút nào! Tôi có thể…tôi có thể tự lo liệu! Một mình!”

“Một mình?” Mistle nhắc lại, mỉm cười bí ẩn. Ciri im lặng, đầu cúi thấp. Băng Rats cũng im lặng.

“Giờ đang là buổi đêm.” Cuối cùng Giselher lên tiếng. “Đừng đi vào buổi đêm. Đừng đi một mình, cô gái. Kẻ nào đi một mình, sẽ chết một mình. Ở đó, gần mấy con ngựa, có chăn và chiếu. Hãy lấy một ít. Buổi đêm trên núi rất lạnh. Sao cô nhìn tôi bằng cặp đèn lồng đó? Hãy chuẩn bị giường và ngủ một giấc. Cô cần nghỉ ngơi.”

Sau một phút cân nhắc, Ciri nghe theo. Khi quay lại, cô bé đem theo một cái chăn và chiếu. Băng Rats không còn ngồi quanh đống lửa nữa. Họ đứng thành một vòng tròn, ánh lửa phản chiếu trong mắt họ.

“Chúng ta là băng Rats của vùng Cao Nguyên.” Giselher nói tự hào. “Chúng ta ngửi thấy chiến lợi phẩm từ xa cả dặm. Và không có gì chúng ta không thể lấy trộm. Chúng ta là băng Rats. Lại đây nào, cô gái.”

Cô bé vâng lời.

“Cô không có gì cả.” Giselher nói, đưa cho cô một sợi dây lưng bằng bạc. “Hãy nhận vật này.”

“Cô không có gì và không có ai.” Mislte nói, mỉm cười, choàng qua vai cô một chiếc áo chẽn sa tanh màu xanh lục và một chiếc áo cánh mỏng.

“Cô không có gì.” Asse nhắc lại sau khi đưa Ciri một giải đeo gươm trạm trổ.

“Cô không có gia đình.” Reef nói bằng chất giọng Nilfgaard, đưa cho cô một đôi găng tay mềm. “Cô không có ai…”

“Ở nơi đâu cô cũng là người lạ.” Spark kết thúc miễn cưỡng, và nhanh tay đội một chiếc mũ bê rê đính lông gà tây lên đầu cô. “Một kẻ ngoài cuộc ở mọi nơi và luôn luôn khác biệt. Chúng tôi sẽ gọi cô là gì đây, diều hâu nhỏ?”

Ciri nhìn vào mắt cô ta. “Gvalch’ca.”

Người elves cười.

“Một khi đã nói, cô nói bằng rất nhiều thứ tiếng, diều hâu nhỏ! Được rồi. Cô sẽ mang một cái tên của Giống Loài Cổ Xưa, một cái tên mà cô đã tự chọn. Cô sẽ được gọi là Falka.”

***

Falka.

Cô bé không ngủ được. Những con ngựa giậm chân và hý khẽ trong đêm, gió xào xạc qua tán thông. Bầu trời đầy sao. Con Mắt, ngôi sao chỉ đường trung thành cho cô trong sa mạc, sáng rực rỡ. Con Mắt nằm ở phía tây. Nhưng Ciri không chắc lắm. Cô bé không chắc về cái gì nữa.

Cô không thể ngủ được dù cho đây là lần đầu tiên trong nhiều ngày cô cảm thấy an toàn. Cô không còn cô đơn nữa. Cô rải chiếu và chăn vào một góc, cách xa băng Rats, đang ngủ trên sàn nhà của cái lán, cạnh đống lửa. Cô ở cách xa họ nhưng vẫn cảm thấy sự gần gũi. Cô không còn cô đơn nữa.

Cô nghe thấy tiếng bước chân.

“Đừng sợ.” Giọng Kayleigh cất lên. “Tôi sẽ không nói với ai đâu,” gã Rats tóc vàng thì thầm, cúi xuống bên cạnh cô. “Tôi sẽ không kể với ai về phần thưởng mà thống đốc Amarillo treo trên đầu cô. Ở cái nhà trọ đó cô đã cứu mạng tôi. Tôi sẽ đền đáp cô. Bằng một điều rất đẹp. Ngay bây giờ.”

Anh ta nằm xuống cạnh cô, từ từ và cẩn thận. Ciri định đứng dậy nhưng Kayleigh ép cô nằm xuống bằng một hành động không thô bạo, mà cứng rắn và mạnh mẽ. Anh ta dịu dàng đặt một ngón tay lên môi cô. Không cần thiết. Ciri đông cứng vì sợ và cổ khô rát, cô không thể kêu được dù muốn. Nhưng cô đã không làm. Sự im lặng và bóng tối tốt hơn. An toàn hơn. Thân mật hơn. Che đi nỗi sợ và ngại ngùng của cô. Cô rên lên một tiếng.

“Im lặng nào.” Kayleigh thì thầm, chậm rãi cởi áo cô ra. Từ tốn và nhẹ nhàng, anh ta kéo lớp vải xuống vai cô và vén áo cô lên. “Đừng sợ. Cô sẽ thấy nó dễ chịu thế nào.”

Ciri rùng mình trước cái chạm của ngón tay anh ta, khô ráp và cứng cỏi. Cô nằm bất động, duỗi người và ngập tràn sợ hãi cùng cảm giác ghê sợ tỏa từng đợt máu nóng lên thái dương và má cô. Kayleigh luồn tay trái cô vào dưới đầu mình và kéo cô lại gần hơn, cố gạt đi bàn tay phải đang vô thức kéo áo xuống trong vô vọng. Cô bắt đầu run rẩy.

Trong bóng tối cô bất chợt cảm thấy một chuyển động, cô cảm thấy một cái giật mình và một cú đá.

“Cô bị điên à, Mistle?” Kayleigh la lên, ngồi dậy một chút. “Để cô ấy yên, đồ con lợn.”

“Biến dùm. Quay lại ngủ đi.” “Tôi bảo để cô ấy yên.”

“Tôi có làm gì quá đáng không? Cô ấy có la hét hay giãy dụa không? Tôi chỉ muốn ôm cô ấy ngủ thôi. Đừng chen ngang.”

“Đi ra nếu không tôi sẽ bắt anh đi ra.”

Ciri nghe tiếng một thanh kiếm trượt khỏi vỏ.

“Tôi không đùa đâu,” Mistle nhắc lại, phủ bóng lên họ. “Đi ra chỗ những người khác đi!

Ngay lập tức!”

Kayleigh ngồi dậy, chửi rủa. Rồi đứng lên và nhanh chóng bỏ đi.

Ciri cảm thấy nước mắt chảy xuống má, nhanh hơn và nhanh hơn, di chuyển như những con sâu nhỏ bò xuống tóc cạnh tai mình. Mistle nằm xuống cạnh cô và đắp chăn cho cô. Nhưng vẫn để cái áo mở toang. Ciri lại bắt đầu run rẩy.

“Im lặng nào, Falka. Mọi thứ sẽ ổn thôi.”

Mislte ấm áp và có mùi như gia súc và khói. Bàn tay cô, không như của Kayleigh, mềm mại hơn, dịu dàng hơn. Dễ chịu hơn. Nhưng sự đụng chạm lại làm Ciri căng thẳng, cơ thể cô đông cứng với sợ hãi và ghê tởm, cô nghiến chặt răng lại. Mistle nằm dính lấy cô, bao bọc cô và thì thầm những lời ru trấn tĩnh, nhưng bàn tay mềm mại của cô cũng di chuyển không mệt mỏi như một con sên, ấm áp, bình thản, tự tin, quyết đoán, biết rõ đường đi và đích đến của nó. Ciri cảm thấy nỗi sợ buông móng vuốt và giải phóng con mồi, cô cảm thấy cơn khoái lạc và chìm dần, chìm dần, sâu xuống đầm lầy ẩm ướt của buông xuôi.

Cô rên khe khẽ, tuyệt vọng. Hơi thở của Mistle đốt cháy da cô, đôi môi ẩm ướt hôn lên vai cô, xương đòn và dần xuống thấp hơn.

Ciri lại rên lên.

“Im lặng nào, diều hâu nhỏ.” Mistle thì thầm, dịu dàng luồn tay vào dưới đầu cô. “Em sẽ không cô đơn nữa. Không bao giờ nữa.”

***

Ciri tỉnh dậy vào bình minh. Cô luồn ra khỏi lớp chăn ấm áp và từ từ, cẩn thận để không đánh thức Mistle, vẫn đang ngủ say, môi hé mở và tay che mắt. Ciri đắp lại chăn cho cô. Sau một phút lưỡng lự cô bé cúi xuống và dịu dàng hôn lên mái tóc cắt ngắn của Mistle. Mislte khẽ kêu lên. Ciri lau một giọt nước mắt khỏi má.

Cô không còn cô đơn nữa.

Phần còn lại của băng Rats cũng vẫn đang ngủ, một người ngáy ầm ĩ, trong khi người khác xì ra một tiếng rắm. Spark nằm ôm lấy Giselher, tóc tai xõa xượi. Ngựa khịt mũi và giậm chân, chim gõ kiến mổ từng cú chậm rãi.

Ciri chạy ra bờ sông. Cô tắm rửa một lúc lâu, run rẩy vì lạnh. Cô chà xát tay thật mạnh, cố xóa đi những gì không thể xóa được. Nước mắt lại chảy xuống má cô.

Falka.

Nước sủi bọt và bóc hơi trên những tảng đá, chìm vào ở phía xa, vào màn sương. Mọi thứ chìm vào phía xa. Vào màn sương.

Mọi thứ.

***

Họ là những kẻ ngoài cuộc. Họ là một đám hỗn loạn tạo nên bởi chiến tranh, đau khổ và khinh miệt. Chiến tranh, đau khổ và khinh miệt đem họ lại, và nhổ họ ra, như một dòng suối đánh dạt những hòn cuội đen và những mảnh gỗ lên bờ.

Kayleigh đã thức dậy bên cạnh đám khói, lửa và máu trong một tòa lâu đài bị chiếm đánh, nằm giữa những xác chết của cha mẹ và anh chị em nuôi của mình. Bò giữa những cái xác trong sân trước là Reef. Reef là một người lính trong đoàn quân viễn chinh, mà Hoàng đế Emhyr var Emreis đã gửi đến để đàn áp cuộc nổi loạn ở Ebbing. Anh là một trong những người đã cướp bóc tòa lâu đài sau hai ngày bao vây. Sau khi đã chiếm được tòa lâu đài, đồng đội của Reef đã bỏ mặc anh ta, dù Reef vẫn còn sống. Nhưng chăm sóc người bị thương chưa bao giờ là truyền thống của lực lượng đặc nhiệm Nilfgaard.

Đầu tiên Kayleigh muốn kết liễu Reef. Nhưng Kayleigh không muốn cô đơn. Và Reef cùng Kayleigh chỉ mới 16 tuổi.

Cùng nhau, họ liếm láp vết thương. Cùng nhau, họ giết và cướp một người thu thuế. Cùng nhau, họ bao cả nhà trọ một chầu bia, rồi chạy qua ngôi làng trên những con ngựa ăn cắp, ném đi phần còn lại của số tiền cướp được, suýt chết vì cười suốt cả đoạn đường.

Cùng nhau, họ trốn thoát khỏi lính tuần tra Nilfgaard và Nissir.

Giselher đào ngũ. Chắc đó là quân đội của lãnh chúa Geso đã hợp tác cùng với quân nổi loạn từ Ebbing. Chắc vậy. Giselher cũng chẳng nhớ mình bị bắt đi lính từ lúc nào. Anh say rượu. Ngay khi tỉnh táo và gặp tay sĩ quan đầu tiên, anh bỏ trốn. Đầu tiên, anh lang thang một mình, nhưng khi quân Nilfgaard đập tan liên minh kháng chiến, khu rừng trở nên đầy rẫy những kẻ đào ngũ và tị nạn. Dân tị nạn sớm họp lại thành các nhóm. Giselher gia nhập vào một trong các nhóm đó.

Băng nhóm cướp bóc và đốt cháy các ngôi làng, tấn công các đoàn xe vận chuyển đang bỏ chạy tán loạn trước kỵ binh Nilfgaard. Trong một lần chạy trốn đó, băng nhóm chạy vào rừng nhưng đụng phải người elves, họ tìm thấy cái chết và hủy diệt. Cái chết tới dưới dạng những mũi tên đính lông chim màu xám vô hình bắn từ mọi phía. Một mũi tên trúng vai và găm Giselher vào một cái cây. Người kéo mũi tên ra và chăm sóc vết thương cho anh vào sáng hôm sau là Aenyeweddien.

Giselher chưa bao giờ hiểu tại sao những người elves lại đuổi Aenyeweddien đi, vì tội gì mà cô bị kết án tử hình. Bởi vì đối với một người elves tự do, cái chết chính là sự cô đơn giữa nơi đồng không mông quạnh tách biệt con người khỏi Giống Loài Cổ Xưa. Một người elves đơn độc sẽ chết, nếu không tìm thấy bạn đồng hành.

Aenyeweddien đã tìm thấy một người bạn đồng hành. Tên cô, trong Cổ Ngữ có nghĩa là “Đứa con của lửa”, quá phức tạp và thi vị với Giselher. Anh gọi cô là Spark.

Mistle đến từ một gia đình quý tộc giàu có của điền trang Thurn, nằm về phía bắc của Maecht. Cha cô là một chư hầu của hoàng tử Rudiger, ông tham gia vào quân nổi loạn, bị giết và biến mất không dấu vết. Khi điền trang Thurn bỏ trốn khỏi thành phố trước tin tức về quân đoàn viễn chinh Trị An lừng danh của Gemmer, gia đình của Mislte cũng bỏ chạy, nhưng lạc mất Mistle trong một đám đông hoảng loạn. Một tiểu thư quyền quý và mảnh mai, từ lúc bé đã luôn được chở đi bằng kiệu, không thể theo kịp đoàn người tị nạn. Sau ba ngày lang thang một mình cô rơi vào tay của lũ thợ săn nô lệ theo chân quân Nilfgaard. Một cô gái dưới 17 tuổi rất đáng giá. Nếu cô ấy còn nguyên vẹn. Những tên thợ săn không đụng vào Mislte, sau khi đã kiểm tra là cô còn nguyên vẹn. Sau lần kiểm tra đó, Mislte đã khóc suốt đêm.

Trong thung lũng Velda, đoàn xe của lũ thợ săn bị tấn công bởi một băng nhóm lính đào ngũ Nilfgaard. Họ giết hết lũ thợ săn và các nô lệ nam. Họ chỉ tha cho các cô gái. Các cô gái không hiểu tại sao mình lại được tha. Nhưng cũng chẳng lâu cho tới lúc họ hiểu được.

Mislte là người duy nhất sống sót. Cô được kéo lên khỏi một cái hố, nơi cô bị ném vào đó, trần chuồng, bầm dập, bẩn thỉu, be bét máu và bùn. Cô được cứu bởi Asse, con trai của người thợ rèn trong làng. Anh đã theo chân quân Nilfgaard được ba ngày, điên cuồng với ham muốn trả thù những gì chúng đã làm với cha anh, mẹ anh và các chị em của anh, mà anh đã chứng kiến khi nấp trong một bụi sậy.

Tất cả họ đều gặp mặt vào ngày lễ Lammas, Lễ Hội Thu Hoạch, tại một ngôi làng ở Geso. Chiến tranh và nghèo đói vẫn chưa phá hủy được truyền thống của đất nước. Các nông dân ăn mừng theo đúng phong tục vào ngày đầu tiên của trăng tròn, với ca hát và nhảy múa.

Họ không phải tìm nhau lâu trong đám đông. Họ tách biệt quá nhiều so với những người khác. Họ có nhiều điểm chung. Họ cùng yêu thích sự ồn ã, sặc sỡ, trang phục sáng tạo, nữ trang ăn cắp, ngựa đẹp và những thanh kiếm mà họ thậm chí còn không bỏ ra để nhảy. Họ khác biệt bởi sự kiêu ngạo và tự tin, bằng giọng nói mỉa mai và tính thô bạo.

Và lòng căm hận.

Họ là những đứa trẻ trong thời đại khinh miệt. Và với những người khác, họ chỉ có sự khinh miệt. Thứ duy nhất quan trọng với họ là sức mạnh. Hiệu quả trong chiến đấu, mà họ nhanh chóng có được trên các xa lộ. Ngựa nhanh và kiếm sắc.

Họ trở thành đồng đội. Bạn bè. Bởi vì những kẻ đơn độc sẽ chết vì đói, kiếm, cung, mũi giáo nông dân, hay trên giá treo cổ, hay ngọn lửa. Kẻ nào đơn độc sẽ chết. Bị đâm, đánh đập, đá, làm nhục, như một món đồ chơi chuyền từ tay người nọ sang người kia.

Họ gặp nhau tại Lễ Hội Thu Hoạch. Giselher nghiêm nghị, u ám, gầy gò. Kayleigh mảnh mai, tóc dài, với đôi mắt và cái miệng ác độc xếp trên một gương mặt xấu xí. Reef, vẫn nói bằng giọng Nilfgaard. Mislte, cao, chân dài, mái tóc màu rơm cắt ngắn và xơ như một đầu chổi. Spark, đôi mắt lớn, uyển chuyển, với những bước nhảy nhẹ nhàng nhưng nhanh nhẹn và chết chóc trong chiến trận, với đôi môi mỏng và những chiếc răng nhỏ của người elves. Asse, vai rộng, ria mép trắng và râu xoắn vặn.

Giselher trở thành thủ lĩnh. Họ lấy cái tên Rats. Có người đã từng gọi họ như vậy và họ thích cái tên đó.

Họ cướp và giết, và sự tàn ác của họ trở nên nổi tiếng.

Đầu tiên, các thống đốc của Nilfgaard đánh giá thấp họ. Họ cứ nghĩ rằng, cũng như các băng nhóm khác, họ sẽ sớm trở thành nạn nhân của những tay nông dân phẫn nộ, hay sẽ tự hủy hoại lẫn nhau, khi lòng tham vượt lên trên tình bằng hữu. Các thống đốc đã đúng về những băng nhóm khác, nhưng họ đã sai về băng Rats. Bởi vì băng Rats, những đứa trẻ của khinh miệt, coi thường chiến lợi phẩm. Họ tấn công, họ cướp và giết vì vui thích và lấy đi ngựa, gia súc, rơm, muối, hắc ín và vải vóc của quân đội, rồi phân phát khắp các ngôi làng. Với đầy vàng bạc đủ để trả cho các thợ may và thợ rèn cho những thứ họ yêu thích hơn cả: vũ khí, quần áo và trang sức. Họ trả hậu hĩnh cho những người bao che và chứa chấp mình. Ngay cả khi chịu những nhát roi của quân Nilfgaard hay Nissir, họ cũng không bao giờ phản bội lại băng Rats.

Các thống đốc treo một số tiền thưởng lớn, và có những người đã vui mừng trước ý tưởng về những đồng vàng của Nilfgaard. Nhưng khi đêm xuống, khi căn nhà của những kẻ chỉ điểm bốc lửa, và khi ngọn lửa dịu xuống, những kỵ sĩ ma quỷ hiện ra với vũ khí trên tay. Băng Rats tấn công như những con chuột. Trong im lặng, tàn ác và quỷ quyệt. Chuột thích giết chóc.

Các thống đốc dùng đến những biện pháp khác đã từng có tác dụng với những băng nhóm khác. Họ cố gài vào những kẻ phản bội trong hàng ngũ của Rats. Nhưng không thành công. Băng Rats không chấp nhận ai cả. Họ là một nhóm khăng khít, một hội anh em 6 thành viên, tạo nên bởi thời đại khinh miệt, và họ không muốn người lạ. Họ căm ghét người lạ.

Cho tới một ngày khi một cô gái xuất hiện, tóc màu tro, kín miệng và nhanh nhẹn như một vận động viên, người không biết gì hết về băng Rats.

Ngoại trừ việc cô cũng giống như họ. Cô cũng đơn độc và u buồn, u buồn vì những gì mà thời đại khinh miệt đã cướp đi từ cô.

Và trong thời đại khinh miệt, kẻ nào đơn độc sẽ chết. Giselher, Kayleigh, Reef, Spark, Mistle, Asse và Falka.

Thống đốc của Amarillo đã ngạc nhiên vô cùng khi biết rằng băng Rats giờ có 7 thành viên.

***

“Bảy?” Ngài thống đốc ngỡ ngàng của Amarillo nói, nhìn vào người lính với vẻ không tin. “Có bảy, chứ không phải sáu? Ngươi chắc chứ?”

“Tôi ước là mình cũng khỏe mạnh được như độ chắc chắn của tôi.” Người lính sống sót khỏi trận thảm sát nói yếu ớt.

Mong ước của anh ta rất đơn giản – cái đầu và nửa khuôn mặt của người lính được che phủ bởi băng gạc và máu. Ngài thống đốc, đã từng tham gia nhiều hơn là một trận đánh, biết rằng người lính đã bị tấn công vào sau lưng từ trên cao – đầu mũi của một thanh kiếm, bay từ trái qua phải, chính xác, đòi hỏi kỹ năng và tốc độ, nhắm vào tai phải và má, nơi mà không được bảo vệ bởi mũ hay thiết cầu sắt.

“Báo cáo cho ta xem.”

“Chúng tôi đang đi dọc Velda theo đường tới Thurn.” Người lính bắt đầu. “Mệnh lệnh là cứu một đoàn xe vận chuyển của lãnh chúa Evertsen đang trên đường về phía nam. Chúng tôi bị mai phục ở gần cây cầu gãy khi vượt qua sông. Một chiếc xe bị mắc, chúng tôi phải dùng ngựa từ chiếc thứ hai để kéo nó qua. Phần còn lại của đoàn xe đã đi trước, tôi bị bỏ lại với 5 người và đại diện hoàng gia. Và chúng tôi bị mai phục. Đại diện hoàng gia, trước khi bị giết, đã kịp hét lên rằng đó là băng Rats rồi chúng cắt cổ ông ta…chúng nhào tới chúng tôi. Khi tôi trông thấy…”

“Khi ngươi trông thấy ông ta,” ngài thống đốc làu bàu, “ngươi đã thúc ngựa chạy đến.

Nhưng quá trễ để cứu mạng ông ta.”

“Cô ta bắt kịp tôi.” Người lính cúi đầu. “Người thứ bảy. Tôi đã không trông thấy cô ta. Một cô gái. Gần như là trẻ con. Tôi đoán là cô ta đã bị bỏ lại đằng sau băng Rats, bởi vì cô ta còn trẻ và thiếu kinh nghiệm…”

Một người khách viếng thăm của ngài thống đốc hiện ra từ trong bóng tối nãy giờ đang ngồi.

“Đó có phải một cô gái không?” Ông ta hỏi. “Cô ta trông thế nào?”

“Như tất cả bọn chúng. Trang điểm nhòe nhoẹt như elves, sặc sỡ như một con vẹt, mặc đồ tím và gấm thêu, đội một cái mũ đính lông chim.”

“Tóc vàng?”

“Tôi nghĩ vậy, thưa ngài. Khi trông thấy cô ta, con ngựa của cô ta chạy rất nhanh, nghĩ rằng đồng đội của mình sắp biến thành thịt xay và cô ta sẽ bắt chúng tôi trả giá bằng máu…Tôi lao tới từ bên phải và chém cô ta. Cô ta làm cách nào tôi không thể biết được. Nhưng tôi đã trượt. Như thể thanh kiếm chém xuyên qua một bóng ma…Tôi không biết thế quái nào…như thể tôi bỗng dưng đứng lại và cô ta luồn ra sau tôi. Ngay vào mũi…thưa ngài, tôi đã từng ở Sodden và Aldersberg. Và giờ thì nhờ cô gái đó tôi đã có một món quà lưu niệm để đời trên mặt…”

“Hãy mừng là ngươi còn sống,” ngài thống đốc khịt mũi, nhìn vào người khách của mình. “Và hãy mừng là ngươi bị thương khi vẫn đang tỉnh táo. Giờ ngươi sẽ trở thành một người hùng. Nếu ngươi trốn tránh trận chiến, nếu ngươi không có món quà lưu niệm trên mặt khi báo cáo về việc mất hàng và mất ngựa, ngươi sẽ sớm thấy mình đang đứng trên giá treo cổ. Giờ thì đi đi. Tới bệnh viện đi.”

Người lính rời đi. Ngài thống đốc quay ra vị khách.

“Ngài thấy đó, thanh tra, rằng công việc ở đây không hề dễ dàng, tôi chẳng được nghỉ ngơi chút nào, luôn tay luôn chân. Còn ngài, ở thủ đô, ngài nghĩ rằng các tỉnh chỉ toàn ruồi muỗi, bia rượu, gái điếm và các quan chức ăn hối lộ. Ngài không bao giờ gửi thêm người hay chó săn, chỉ thêm mệnh lệnh –cho, nhận, tìm. Đặt mọi người vào trạng thái cảnh giác, chạy dọc chạy xuôi từ sáng tới tối…và ở đây chúng tôi đã có đủ rắc rối của riêng mình rồi. Năm hay sáu băng nhóm như Rats luôn rình rập xung quanh. Đúng là băng Rats là bọn tồi tệ nhất, nhưng không ngày nào…”

“Đủ rồi, đủ rồi.” Stefan Skellen mím môi. “Tôi biết mấy màn cằn nhằn của ông có mục đích gì, thống đốc. Nhưng vô ích thôi. Ông không được từ bỏ trách nhiệm. Rats hay không Rats, băng nhóm hay không băng nhóm, ông phải tiếp tục tìm kiếm. Bằng mọi cách có thể, cho tới khi tôi bảo dừng. Đây là mệnh lệnh của Hoàng đế.”

“Chúng tôi đã lùng sục ba tuần nay rồi.” Ngài thống đốc càu nhàu. “Mà không biết rằng mình đang phải tìm ai, hay cái gì, một bóng ma, hay một cây kim dưới đáy bể. Và kết quả là gì? Vài người của tôi đã biến mất không dấu vết, khả năng lớn là bị giết bởi cướp hoặc lũ ăn mày. Tôi sẽ nhắc lại, ngài thanh tra, nếu chúng tôi vẫn chưa tìm được cô gái của ngài, nghĩa là cô ta sẽ không bao giờ tìm được. Kể cả nếu cô ta có ở đây thật, mà tôi rất nghi ngờ điều đó. Trừ khi…”

Thống đốc dừng lại, ngẫm nghĩ, nhìn ngài thanh tra với vẻ dò hỏi. “Cô gái đó…thành viên thứ bảy của băng Rats…”

Cú Nâu vẫy tay, cố để hành động của mình có vẻ đáng tin.

“Không, thống đốc. Đừng tìm giải pháp dễ dàng. Cô gái đã được miêu tả hay bất kỳ cô gái nào mặc gấm thêu thì chắc chắn không phải là người chúng ta muốn. Chắc chắn không phải là cô ta. Tiếp tục tìm đi. Đó là lệnh.”

Ngài thống đốc lầm bầm, nhìn ra cửa sổ.

“Còn về băng nhóm đó,” Thanh tra trưởng của Hoàng đế Emhyr, Stefan Skellen, còn gọi là Cú Nâu, thêm vào bằng một giọng lạnh lùng, “băng Rats hay chúng tên là gì đi chăng nữa…hãy lập lại trật tự, thống đốc. Trật tự phải tồn tại ở các tỉnh. Bắt tay vào việc đi. Tóm và treo cổ chúng lên, không cần màu mè hay quy trình. Tất cả bọn chúng.”

“Nói thì dễ lắm.” Ngài thống đốc lầm bầm. “Nhưng tôi sẽ làm hết khả năng. Hãy đảm bảo với Hoàng đế như vậy. Nhưng tôi nghĩ là thành viên thứ bảy này của băng Rats đáng giữ lại, để chắc ăn…”

“Không,” Cú Nâu ngắt lời, cẩn thận để giọng của mình không lộ ra điều gì. “Không, không ngoại lệ, treo cổ tất cả lên. Tất cả bảy tên. Tôi không muốn nghe thêm về chúng nữa. Tôi không muốn nghe thêm một lời nào nữa.”

 

 

About The Author

Ngo David

Power is Power