Trò chơi vương quyền 5B – Trấn thủ thành Meereen
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 24
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Ban đêm, cô được các vì sao xa xăm và trăng lung linh soi sáng trên tuyết, nhưng mỗi khi bình minh lên, cô lại tỉnh dậy trong bóng tối.
Cô mở mắt và nhìn chăm chăm vào bóng tối đen xì xung quanh cô, giấc mơ của cô cũng dần phai nhạt. Giấc mơ thật đẹp, cô liếm môi và nhớ lại. Tiếng be be của đàn cừu, nỗi khiếp sợ trong mắt gã chăn cừu, tiếng chó sủa vang khi cô giết chúng từng con một, tiếng gầm gừ trong bầy đàn của cô. Việc săn mồi trở nên khó khăn hơn kể từ khi tuyết rơi, nhưng đêm qua họ có một bữa tiệc. Thịt cừu, thịt chó và thịt người. Một số cậu em màu xám của cô sợ con người, kể cả người chết, nhưng cô thì không. Thịt là thịt, và con người cũng chỉ là con mồi. Cô là một con sói đêm.
Nhưng chỉ trong những giấc mơ.
Cô gái mù lăn sang một bên, ngồi dậy, đứng lên và vươn vai. Giường của cô là một tấm đệm nhét đầy giẻ rách đặt trên một phiến đá lạnh lẽo, nên người cô luôn nhức mỏi và cứng ngắc khi tỉnh dậy. Cô đi lạch bạch ra chỗ chậu rửa mặt trên đôi chân trần nhỏ bé đầy cục chai, nhẹ nhàng như một cái bóng, té nước lạnh lên mặt và lau khô. Ser Gregor, cô nghĩ. Dunsen, Raff Ngọt Ngào. Ser Ilyn, Ser Meryn, hoàng hậu Cersei. Lời cầu nguyện buổi sáng của cô. Có phải không nhỉ? Không, cô nghĩ, không phải của mình. Mình không là ai cả. Đó là lời cầu nguyện của con sói xám. Một ngày nào đó cô sẽ tìm thấy chúng, săn đuổi chúng, ngửi thấy mùi sợ hãi của chúng và nếm máu chúng. Một ngày nào đó.
Cô thấy quần áo lót của mình chất thành một đống. Cô ngửi để đảm bảo chúng còn đủ sạch, sau đó mặc trong bóng tối. Bộ quần áo người hầu của cô vẫn ở nguyên nơi cô đã treo – một chiếc áo dài chùng bằng len, thô ráp và ngứa ngáy. Cô lấy nó ra và tròng qua đầu, động tác thuần thục vì đã làm quá nhiều lần. Cuối cùng là đi tất. Một bên đen, một bên trắng. Chiếc màu đen có đường khâu vòng quanh cổ chân, còn chiếc màu trắng không có. Cô có thể cảm nhận được chúng để chắc chắn không đi nhầm bên. Đôi chân cô tuy gầy nhẳng nhưng đủ khỏe và dẻo dai, vả lại chúng đang dài ra mỗi ngày.
Cô rất vui vì điều đó. Một vũ công nước cần có đôi chân chắc khỏe. Beth mù lòa không phải vũ công nước, nhưng cô sẽ không là Beth mãi mãi.
Cô biết đường xuống bếp, và dù không biết thì mũi cô cũng sẽ dẫn tới đó. Cô hít hà đi dọc sảnh, ngửi thấy mùi ớt cay, cá rán và bánh mì mới ra lò của Umma. Mùi hương khiến bụng cô sôi lên ùng ục. Con sói đêm đã ăn uống no say, nhưng bụng cô gái mù đang rỗng tuếch. Giấc mơ không thể nuôi sống cô, từ lâu cô đã biết điều đó.
Cô ăn sáng bằng cá mòi chiên giòn với dầu ớt, cay và nóng đến mức bỏng tay. Cô thấm chỗ dầu thừa bằng đầu mẩu xé ra từ bánh mì buổi sáng của Umma, sau đó nuốt trôi thức ăn bằng rượu pha nước, nhấm nháp hương vị của chúng và cảm nhận vỏ bánh ram ráp dưới ngón tay, dầu ăn trơn nhẫy, cảm giác buốt nhói khi ớt cay dính vào vết xước trên mu bàn tay. Nghe, ngửi, nếm, cảm nhận, cô tự nhủ. Có vô số cách để cảm nhận thế giới dù không thể nhìn.
Phía sau cô có ai đó bước vào phòng trên đôi dép lê mềm, nhẹ nhàng như một con chuột. Mũi cô phập phồng. Là ông già tốt bụng. Mùi của đàn ông khác với mùi phụ nữ, và trong không khí cũng phảng phất mùi cam. Bất cứ khi nào có thể, thầy tu già thường thích nhai vỏ cam để hơi thở thơm mát.
“Thế sáng nay cháu là ai?” Cô nghe thấy ông hỏi khi ngồi lên chiếc ghế ở đầu bàn. Cô nghe thấy tiếng đập nhẹ, sau đó là tiếng lách tách nhỏ xíu. Ông ấy đang bóc quả trứng đầu tiên.
“Không ai cả,” cô trả lời.
“Nói dối. Ta biết cháu. Cháu là cô bé ăn xin mù lòa.”
“Beth.” Cô từng biết một người tên Beth hồi ở Winterfell khi cô vẫn là Arya Stark.
Có lẽ vì thế nên cô chọn cái tên đó. Hoặc có thể chỉ vì nghe nó hợp với từ mù.
“Đứa trẻ tội nghiệp,” ông già tốt bụng nói. “Cháu có muốn lấy lại đôi mắt không? Chỉ cần xin một câu, mắt cháu sẽ sáng trở lại.”
Sáng nào ông cũng hỏi một câu y hệt như nhau. “Có thể mai cháu sẽ cần, không phải hôm nay.” Mặt cô vẫn tĩnh lặng như nước, che giấu tất cả, không để lộ chút cảm xúc nào.
“Được thôi.” Cô nghe được tiếng ông lột vỏ quả trứng, sau đó là tiếng lanh canh nhẹ của bạc khi ông múc thìa muối lên. Ông ấy thích ăn trứng chấm nhiều muối. “Cô bé mù tội nghiệp của ta đi đâu ăn xin tối qua vậy?”
“Nhà trọ Lươn Xanh.”
“Và ba điều cháu mới biết thêm sau lần cuối cùng rời chỗ chúng ta là gì?”
“Lãnh chúa biển vẫn đang ốm.”
“Tin này không mới. Lãnh chúa biển ốm từ hôm qua rồi, và ông ta sẽ còn ốm đến mai.”
“Hoặc là chết.”
“Khi ông ta chết, đó sẽ là tin mới.”
Khi ông ta chết, người ta sẽ tiến hành một cuộc bầu chọn, và chiến tranh sẽ nổ ra.
Braavos là như vậy. Ở Westeros, khi vua chết, con trai cả sẽ lên nối ngôi, nhưng
Braavos không có vua. “Tormo Fregar sẽ là lãnh chúa biển mới.”
“Đó là những gì họ nói ở Nhà Trọ Lươn Xanh à?” “Vâng.”
Ông già tốt bụng cắn một miếng trứng. Cô gái nghe thấy tiếng nhai, ông không bao giờ nói khi miệng đang đầy thức ăn. Ông nuốt rồi tiếp tục, “Một số người nói trong rượu có trí khôn. Thật ngu ngốc. Chắc hẳn mỗi nhà trọ lại đồn đại về một cái tên khác nhau.” Ông cắn một miếng trứng nữa, nhai và nuốt. “Ba điều cháu mới biết thêm, mà trước đây cháu không biết là gì?”
“Cháu biết những kẻ nói Tormo Fregar chắc chắn sẽ là lãnh chúa biển mới,” cô trả lời. “Mấy gã đàn ông say xỉn.”
“Tốt hơn rồi đấy. Cháu còn biết gì nữa?”
Tuyết đang rơi ở vùng đất ven sông, ở Westeros, cô suýt nói như vậy. Nhưng ông sẽ hỏi làm sao cô biết điều đó, và cô không nghĩ ông sẽ thích câu trả lời. Cô cắn môi và nhớ lại đêm hôm qua. “Ả điếm tên S’vrone đang có bầu. Cô ta không rõ cha đứa bé là ai, nhưng nhiều khả năng là tên lính đánh thuê người Tyrosh mà chính cô ta đã giết chết.”
“Tin này tốt lắm. Còn gì nữa?”
“Nữ hoàng Merling đã chọn một Tiên Cá mới thay thế cho cô gái bị chết đuối. Cô ta là con gái của một người hầu của Prestayn, 13 tuổi và không một xu dính túi, nhưng đáng yêu.”
“Tất cả bọn họ ban đầu đều như vậy,” thầy tu nói, “nhưng cháu không thể biết cô ta có thực sự đáng yêu hay không nếu không được nhìn tận mắt, và cháu thì không có mắt. Cháu là ai?”
“Không ai cả.”
“Cô bé ăn xin mù lòa tên Beth, đó là những gì ta thấy. Một kẻ nói dối vụng về. Hãy để ý hoàn thành nhiệm vụ. Valar morghulis.”
“Valar dohaeris.” Cô sắp lại bát, cốc, dao và thìa rồi đứng lên. Cuối cùng cô với lấy cây gậy. Nó dài một mét rưỡi, mảnh dẻ và dẻo dai, to bằng ngón cái của cô với da cuốn quanh tay cầm, khoảng 30 phân tính từ đỉnh trở xuống. Tốt hơn cả đôi mắt, một khi cô biết cách sử dụng nó, đứa trẻ lang thang từng nói với cô như vậy.
Nói dối. Họ thường nói dối để thử cô. Chẳng có cây gậy nào tốt hơn một đôi mắt.
Tuy nhiên có gậy vẫn tốt hơn, nên cô luôn giữ nó bên mình. Umma gần đây đã quen gọi cô là Gậy, nhưng cái tên không quan trọng. Cô là chính cô. Không ai cả. Ta không là ai cả. Chỉ là một cô gái mù, một đầy tớ của Vị Thần Nhiều Mặt.
Đêm nào trong bữa tối, đứa trẻ lang thang cũng mang cho cô một cốc sữa và bảo cô uống hết. Thức uống có vị đắng rất lạ khiến cô gái mù nhanh chóng cảm thấy kinh tởm. Ngay cả mùi hương phảng phất của nó trước khi chạm vào lưỡi cũng khiến cô muốn nôn, nhưng cô vẫn cố uống cạn.
“Tôi phải bị mù trong bao lâu?” Cô hỏi.
“Cho đến khi với cô bóng tối cũng ngọt ngào như ánh sáng,” đứa trẻ lang thang nói, “hoặc đến khi cô cầu xin chúng tôi trả lại đôi mắt. Và cô sẽ lại nhìn thấy.”
Và khi đó các người sẽ đuổi tôi đi. Thà mù còn hơn. Họ sẽ không thể bắt cô đầu hàng được.
Trong ngày đầu tiên khi cô thức dậy và trở nên mù lòa, đứa trẻ lang thang nắm tay cô, dắt qua các căn hầm và địa đạo bằng đá bên dưới Đền Đen Trắng, rồi đi lên những bậc thang đá dốc dẫn lên ngôi đền. “Hãy đếm các bậc thang khi leo,” cô ta nói. “Dùng các ngón tay rờ lên tường. Ở đó có những dấu hiệu, tuy không nhìn thấy bằng mắt nhưng có thể sờ thấy rõ ràng.”
Đó là bài học đầu tiên của cô. Còn rất nhiều bài học nữa.
Buổi chiều, cô làm quen với các loại độc dược. Cô có thể ngửi, sờ và nếm, nhưng sờ và nếm có thể nguy hiểm chết người khi tán chất độc, và đứa trẻ lang thang có một số thuốc độc mà chỉ cần ngửi thôi cũng đã không an toàn. Cô đã quá quen với những ngón tay bỏng rát và môi sưng phồng. Có lần cô ốm nặng đến nỗi không nuốt nổi thứ gì suốt mấy ngày trời.
Bữa tối là thời gian học ngoại ngữ. Cô gái mù hiểu tiếng Braavos và có thể giao tiếp
ở mức tạm chấp nhận được, cô đã hầu như loại bỏ được ngữ điệu thô cứng, nhưng ông già tốt bụng vẫn chưa hài lòng. Ông khăng khăng bắt cô phải trau dồi tiếng High Valyria, học thêm tiếng Lys và Pentos.
Buổi tối, cô chơi trò nói dối với đứa trẻ lang thang, nhưng khi không có mắt để nhìn, trò chơi trở nên lạ lẫm. Đôi khi tất cả những gì cô có thể dựa vào là ngữ giọng và cách dùng từ; một số lần đứa trẻ lang thang cho phép cô sờ tay lên mặt cô ta. Đầu tiên, trò chơi khó hơn rất, rất nhiều, nếu không muốn nói là không thể… nhưng khi cô bối rối và thất vọng đến mức muốn hét lên, mọi thứ đột nhiên trở nên dễ dàng hơn nhiều. Cô học cách nghe những lời nói dối, cảm nhận chúng trong cử động của cơ quanh miệng và mắt.
Những nhiệm vụ khác vẫn y nguyên như cũ, nhưng khi thực hiện, cô không va vào đồ đạc thì cũng đâm đầu vào tường, làm rơi khay, hoặc là đi lạc một cách tuyệt vọng trong ngôi đền. Một lần cô suýt ngã đâm đầu xuống cầu thang, nhưng kiếp trước khi còn là Arya, Syrio Forel đã dạy cô cách giữ thăng bằng, nhờ đó cô có thể trấn tĩnh và đứng vững lại được.
Có những đêm cô khóc cho đến khi ngủ thiếp đi. Những lúc đó cô vẫn là Arry, Chồn, Cat, hoặc thậm chí là Arya Nhà Stark… nhưng không ai cả không có nước mắt. Khi không có mắt, ngay cả một việc đơn giản nhất cũng trở nên khó khăn. Cô bị bỏng hơn chục lần khi làm việc với Umma trong bếp. Một lần khi đang thái hành, cô cắt vào ngón tay sâu đến tận xương. Hai lần cô không thể tìm thấy căn phòng trong hầm nên phải ngủ trên sàn nhà dưới chân cầu thang. Tất cả các góc thụt và ngóc ngách khiến cho ngôi đền trở nên nguy hiểm, ngay cả sau khi cô gái mù đã học được cách sử dụng đôi tai; tiếng bước chân của cô dội lên sàn nhà và vọng lại quanh chân của ba mươi vị thần bằng đá cao lớn khiến cô cảm giác như những bức tường đang chuyển động, và bể nước đen tĩnh lặng cũng phản ứng lạ lùng trước âm thanh.
“Cháu có năm giác quan,” ông già tốt bụng nói. “Hãy học cách dùng bốn giác quan còn lại, cháu sẽ ít bị thương và xây xát hơn.”
Giờ cô có thể cảm nhận cả các dòng không khí trên da, dựa vào mùi hương để tìm xuống bếp và phân biệt đàn ông với phụ nữ. Cô phân biệt được Umma, đám người hầu và các thầy dòng bằng tiếng bước chân, có thể phân biệt được người này với người kia trước khi họ đến đủ gần để ngửi thấy mùi (nhưng với đứa trẻ lang thang và ông già tốt bụng thì không, vì họ hầu như chẳng tạo ra âm thanh nào trừ khi họ muốn). Các cây nến thắp trong đền cũng có mùi hương; ngay cả những cây nến không mùi cũng tỏa ra những làn khói nhạt từ sợi bấc. Chúng chẳng khác gì âm thanh, một khi cô đã học được cách sử dụng cái mũi của mình.
Người chết cũng có mùi riêng. Một trong những nhiệm vụ của cô là tìm xác họ trong đền mỗi sáng, bất cứ nơi nào họ chọn để nằm xuống và nhắm mắt sau khi uống nước từ hồ.
Sáng nay cô tìm được hai người.
Một người đàn ông chết dưới chân Kẻ Lạ Mặt, một cây nến lập lòe phía trên xác anh ta. Cô cảm nhận được sức nóng của nó và mùi hương tỏa ra khiến mũi cô nhồn nhột. Cô biết ngọn lửa bốc lên từ cây nến có màu đỏ đậm; với những người có mắt, cái xác sẽ trông như chìm trong một quầng sáng hồng hào. Trước khi gọi những người phục vụ đến mang anh ta đi, cô quỳ xuống và cảm nhận khuôn mặt anh ta, sờ theo khuôn hàm, xoa các ngón tay lên má, mũi và chạm vào tóc anh. Mái tóc dày và xoăn. Một khuôn mặt đẹp và không có nếp nhăn. Anh ta còn trẻ. Cô tự hỏi điều gì đã đem anh ta
đến đây để tìm lấy món quà của thần chết. Các tên cướp khi chết thường tìm đến Đền Đen Trắng để được chết nhanh hơn, nhưng ở người đàn ông này, cô không tìm thấy một vết thương nào cả.
Cái xác thứ hai là của một bà già. Bà ngủ trên một chiếc ghế giấc mơ trong góc khuất, nơi có loại nến đặc biệt gợi ra hình ảnh những thứ từng được yêu và từng mất đi. Một cái chết nhẹ nhàng và ngọt ngào, ông già tốt bụng vẫn hay nói như vậy. Những ngón tay bảo với cô rằng bà già chết với nụ cười trên môi. Bà mới mất cách đây chưa lâu. Xác bà ấy vẫn còn ấm. Da bà mềm mại như tấm da cũ mỏng được vò gấp đến một nghìn lần.
Khi đám người hầu đến để đem cái xác đi, cô gái mù đi theo bọn họ. Cô để tiếng bước chân của họ dẫn đường, nhưng khi họ đi xuống, cô bắt đầu đếm. Cô đã thuộc lòng số bậc thang. Bên dưới ngôi đền là một mê cung của những hang hốc và địa đạo, nơi ngay cả những người mắt sáng cũng thường đi lạc, nhưng cô gái mù đã thông thạo từng ngõ ngách trong đó, và cô có cây gậy giúp tìm đường nếu chẳng may trí nhớ không tốt.
Những cái xác được đặt trong hầm. Cô gái mù làm việc trong bóng tối. Cô cởi quần áo, giày dép và tư trang của người chết, dốc ví họ và đếm những đồng lẻ. Nhận dạng tiền chỉ bằng cách sờ là một trong những điều đầu tiên đứa trẻ lang thang dạy cô, sau khi họ lấy đi đôi mắt của cô. Những đồng bạc của Braavos đã quá quen thuộc với cô như những người bạn cũ; cô chỉ cần xoa đầu ngón tay lên mặt đồng tiền là đã nhận ra chúng. Nhưng tiền từ những vùng đất và thành phố khác khó hơn, đặc biệt là từ những nơi xa xôi. Tiền của Volantis là thông dụng nhất, những đồng nhỏ chỉ có kích thước bằng một xu với hình vương miện ở một mặt và mặt kia hình một cái đầu lâu. Tiền của Lys là những đồng xu ô van khắc hình một phụ nữ khỏa thân. Những đồng khác có hình con thuyền, hoặc voi, dê… in trên đó. Tiền xu của Westeros có hình đầu một vị vua phía trước và một con rồng ở phía sau.
Bà già không có ví, cũng chẳng có của cải gì ngoài chiếc nhẫn đeo trên một ngón tay gầy guộc. Trên người đàn ông đẹp trai cô tìm được bốn đồng rồng vàng của Westeros. Cô rờ tay lên đồng vàng đã cũ và mòn nhất, cố xác định xem trên đó có hình vị vua nào. Đúng lúc đó, cô nghe thấy tiếng cửa khẽ mở phía sau.
“Ai đấy?” Cô hỏi.
“Không ai cả.” Giọng nói trầm, khàn khàn và lạnh lẽo.
Tiếp đó là chuyển động. Cô tránh sang một phía, cầm lấy gậy và giơ lên để bảo vệ mặt. Tiếng cạch của gỗ chạm vào gỗ vang lên. Lực của cú đánh suýt nữa làm cây gậy bắn khỏi tay cô. Cô nắm chặt gậy và vụt lại… nhưng chỉ vụt vào không khí vì hắn đã không còn đứng đó. “Không phải ở đó,” giọng nói cất lên. “Ngươi mù à?”
Cô không trả lời. Nói chuyện sẽ làm xáo động mọi âm thanh phát ra từ hắn. Cô biết hắn sẽ di chuyển. Bên trái hay bên phải? Cô nhảy sang trái, vụt bên phải, nhưng chẳng trúng cái gì. Bắp chân cô đau nhói vì một nhát chém từ phía sau. “Ngươi điếc à?” Cô quay lại, tay trái cầm gậy khua khoắng, nhưng vẫn trượt. Cô nghe thấy tiếng cười từ phía bên trái. Cô chém về bên phải.
Lần này cô chém trúng. Cây gậy của cô đập trúng gậy của hắn. Cú đánh mạnh làm tay cô bật lại. “Tốt lắm,” giọng nói cất lên.
Cô gái mù không biết đó là giọng nói của ai. Cô đoán đó là một trong các thầy dòng. Cô không nhớ đã nghe thấy giọng nói này bao giờ chưa, nhưng ai dám đảm bảo các đầy tớ của Đa Diện Thần không thay đổi giọng nói được dễ dàng như thay đổi khuôn mặt? Ngoài cô ra, trong Đền Đen Trắng còn có hai hầu nam, ba thầy dòng, Umma đầu bếp và hai thầy tu mà cô gọi là đứa trẻ lang thang và ông già tốt bụng. Những người khác đến rồi đi, đôi khi trong bí mật, nhưng chỉ có bọn họ là những người sống ở đây. Đối thủ của cô có thể là bất cứ ai trong số đó.
Cô gái quay người và chém sang ngang, cây gậy xoay tròn. Âm thanh vang lên ở phía sau, cô chém về phía đó nhưng chỉ trúng không khí. Đột nhiên gậy của hắn nằm giữa hai chân cô, làm chúng vướng vào nhau khi cô cố quay người và nạo vào cẳng chân cô. Cô vấp ngã và quỳ một gối, mạnh đến mức cô cắn phải lưỡi.
Cô dừng lại ở đó. Tĩnh lặng như đá. Hắn đâu rồi?
Phía sau cô, hắn ta phá lên cười. Hắn khéo léo đánh trúng một bên tai cô, sau đó vụt vào đốt ngón tay cô khi cô lật đật đứng lên. Cây gậy của cô rơi cạch xuống nền đá. Cô rít lên giận dữ.
“Nhặt nó lên. Hôm nay ta đánh cô đủ rồi.”
“Không ai đánh được ta cả.” Cô gái bò trên cả hai chân và hai tay cho đến khi tìm được cây gậy, sau đó đứng bật dậy, người ngợm xây xát và bẩn thỉu. Căn sảnh im ắng và tĩnh mịch. Hắn đi rồi. Hay là vẫn chưa đi? Hắn có thể đang đứng ngay bên cạnh cô, làm sao cô biết được. Lắng nghe tiếng thở của hắn, cô tự nhủ, nhưng chẳng có gì cả. Cô lắng nghe thêm một lúc nữa, sau đó buông gậy xuống và tiếp tục công việc. Nếu có mắt, ta có thể đánh hắn tuốt xác. Khi ông già tốt bụng trả lại mắt cho cô, cô sẽ cho bọn họ thấy.
Xác người phụ nữ lúc này đã lạnh, còn xác tên lính đánh thuê đang cứng lại. Cô gái đã quen với chuyện đó. Hầu như ngày nào cô cũng dành nhiều thời gian với người chết hơn người sống. Cô nhớ đám bạn khi cô còn là Cat vùng kênh rạch; Brusco Già với cái lưng đau, các con gái của ông là Talea và Brea, đám nghệ sĩ diễn kịch câm trên Con Thuyền, Merry và lũ điếm của bà ta ở Cảng Hạnh Phúc, tất cả những kẻ cặn bã và
đểu cáng gần bến cảng. Cô nhớ Cat nhất, còn hơn cả nhớ đôi mắt của mình. Cô luôn thích được là Cat, hơn tất cả những lúc là Salty, Squab, Chồn hay Arry. Ta đã giết Cat khi ta giết tên ca sĩ đó. Ông già tốt bụng nói đằng nào họ cũng sẽ lấy đôi mắt của cô, để giúp cô học cách sử dụng các giác quan khác, nhưng ít nhất phải nửa năm nữa. Các thầy dòng mù rất phổ biến ở Đền Đen Trắng, nhưng rất ít người trẻ như cô. Tuy vậy, cô gái không hối tiếc. Dareon là tên đào ngũ bỏ chạy khỏi Đội Tuần Đêm; hắn xứng đáng phải chết.
Cô cũng nói như vậy với ông già tốt bụng. “Thế cháu là một vị thần, có quyền quyết định ai sống ai chết hay sao?” Ông hỏi. “Chúng ta chỉ dành món quà đó cho những ai được Đa Diện Thần lựa chọn, sau rất nhiều thời gian cầu nguyện và hy sinh. Từ trước đến giờ luôn là như vậy. Ta đã kể cho cháu về sự hình thành của hội nhóm chúng ta, về việc người sáng lập đáp ứng nguyện ước được chết của các nô lệ. Món quà chỉ được dành cho những ai mong mỏi nó ngay từ đầu… Nhưng một ngày, người sáng lập nghe thấy một người không cầu nguyện cho cái chết của chính mình mà cho chủ nhân của anh ta. Anh ta mong mỏi điều đó đến mức dám đánh đổi tất cả những gì mình có để lời cầu nguyện được đáp ứng. Và có vẻ người sáng lập của chúng ta cho rằng sự hy sinh này sẽ khiến vị Đa Diện Thần hài lòng, vì thế đêm đó ông giúp anh ta hoàn thành tâm nguyện. Sau đó ông đến chỗ người nô lệ và nói, ‘Anh đề nghị đánh đổi tất cả những gì anh có để người đàn ông kia phải chết, nhưng nô lệ chẳng có gì ngoài mạng sống. Đó là thứ ngài muốn ở anh. Anh sẽ sống toàn bộ phần đời còn lại của mình để phục vụ ngài.’ Và từ đó trở đi, nhóm chúng ta có hơn một người.” Ông nhẹ nhàng nắm chặt lấy cánh tay cô. “Tất cả mọi người đều phải chết. Chúng ta chỉ là công cụ của thần chết, chứ không phải thần chết. Khi cháu giết tên ca sĩ, cháu đã tự cho mình quyền năng của thần linh. Chúng ta giết người, nhưng không có quyền phán xét họ. Cháu có hiểu không?”
Không, cô nghĩ. “Cháu hiểu ạ,” cô nói.
“Nói dối. Cho nên bây giờ cháu phải sống trong bóng tối cho đến khi nhìn thấy đường đi. Trừ khi cháu muốn bỏ chúng ta. Chỉ cần cháu hỏi một câu, chúng ta sẽ trả lại mắt cho cháu.”
Không, cô nghĩ. “Không ạ,” cô nói.
Tối hôm đó sau khi dùng bữa và chơi nói dối một lát, cô gái mù buộc một mảnh vải quanh đầu để che đi đôi mắt vô dụng, tìm cái bát ăn mày và nhờ đứa trẻ lang thang giúp cô khoác lên bộ mặt của Beth. Đứa trẻ lang thang đã cạo đầu cô khi họ lấy đi đôi mắt của cô; cô gọi đó là tóc của diễn viên kịch câm, vì rất nhiều diễn viên kịch câm làm như vậy để đội tóc giả vừa vặn hơn. Nhưng với ăn xin nó cũng có tác dụng tránh bọ chét và chấy rận. Nhưng cô cần nhiều thứ hơn một bộ tóc giả. “Tôi có thể cải trang
cho cô bằng bệnh đau mắt đỏ,” đứa trẻ lang thang nói, “nhưng như vậy các chủ quán trọ và quán rượu sẽ đuổi cô ra khỏi cửa.” Thay vào đó cô ta dùng sẹo đậu mùa và một cái nốt ruồi trên một bên má, với một sợi lông đen mọc ra từ đó. “Trông có xấu lắm không?” Cô gái mù hỏi.
“Không thể gọi là đẹp.”
“Tốt.” Cô chưa bao giờ quan tâm mình xinh hay xấu, ngay cả khi cô còn là Arya Stark đần độn. Chỉ có cha cô nói cô xinh đẹp. Ông ấy, và thỉnh thoảng là Jon Snow. Mẹ cô thường nói cô có thể trở nên xinh đẹp nếu chịu khó gội đầu, chải tóc và chăm chút váy áo như chị gái cô. Đối với chị cô, các bạn của chị ấy và tất cả mọi người, cô chỉ là Arya Mặt Ngựa. Nhưng giờ tất cả bọn họ đều đã chết, kể cả Arya, tất cả mọi người, ngoại trừ Jon, anh trai cùng cha khác mẹ của cô. Có những đêm cô nghe mọi người nói chuyện về anh, trong các nhà trọ và nhà thổ ở cảng Ragman. Một người gọi anh là Tên Con Hoang Áo Đen ở Tường Thành. Kể cả Jon cũng sẽ không bao giờ nhận ra Beth Mù Lòa, mình dám chắc như vậy. Cô thấy buồn vì điều đó.
Quần áo cô mặc trên người là một đống giẻ, bạc phếch và rách rưới, nhưng ấm áp và sạch sẽ. Bên dưới chúng, cô giấu ba con dao – một con trong bốt, một con trong ống tay áo, và một con đút trong bao ở sau lưng. Người Braavos phần lớn đều tốt bụng; họ thường giúp một cô gái ăn xin mù lòa tội nghiệp hơn là cố hại cô, nhưng ở đâu cũng có kẻ xấu, và chúng có thể coi cô là đối tượng để cướp bóc hoặc hãm hiếp. Những con dao là để dành cho họ, dù cho đến giờ này, cô gái mù vẫn chưa phải dùng đến chúng. Một cái bát ăn xin bằng gỗ nứt nẻ và thắt lưng bằng dây thừng sợi gai dầu giúp hoàn chỉnh bộ trang phục của cô.
Cô lên đường khi bức tượng Titan gầm lên báo hiệu mặt trời lặn, cô đếm các bậc thang dẫn từ cửa ngôi đền xuống, sau đó chống gậy đi đến cây cầu bắc qua con kênh, tới Hòn Đảo Của Các Vị Thần. Cô biết sương giá dày đặc vì quần áo cô dính chặt vào người và tay cô cảm nhận được độ ẩm trong không khí. Cô phát hiện ra sương mù ở Braavos cũng khiến âm thanh trở nên méo mó. Tối nay, một nửa thành phố cũng sẽ trở nên mù dở.
Khi đi qua ngôi đền, cô nghe thấy tiếng hát với các vì sao đêm của các thầy dòng Giáo Phái Trí Tuệ Sao Sáng trên đỉnh các tòa tháp bói cầu. Một làn khói thơm bảng lảng trong không khí, dẫn cô đi dọc con đường ngoằn ngoèo, đến nơi những thầy tu đỏ đốt các lò sắt vĩ đại bên ngoài ngôi nhà của Thần Ánh Sáng. Cô nhanh chóng cảm nhận được sức nóng trong không khí khi đám người thờ vị thần đỏ R’hllor cất tiếng. “Vì màn đêm tối tăm và đầy rẫy nỗi kinh hoàng,” họ cầu nguyện.
Với ta thì không. Màn đêm của cô tắm đẫm trong ánh trăng và tràn ngập những bài ca của những con sói trong đàn, với vị của thịt tươi vừa được xé khỏi xương, với hơi
ấm và mùi hương quen thuộc của các anh em màu xám. Chỉ có ban ngày, cô mới mù lòa và cô đơn.
Cô không còn là người lạ ở khu bến cảng này. Cat thường lang thang trên các cầu tàu và ngõ nhỏ ở cảng Ragman để bán vẹm, trai và hàu cho Brusco. Với đống giẻ rách, cái đầu cạo và nốt ruồi giả, trông cô không còn giống như hồi đó, nhưng để an toàn, cô vẫn tránh xa Con Thuyền, Cảng Hạnh Phúc và tất cả những nơi Cat thường hay lui đến.
Cô phân biệt được mỗi nhà trọ và quán rượu bằng mùi của chúng. Thủy Thủ Sà Lan Đen có mùi mằn mặn. Pynto tanh mùi rượu chua, pho mát hôi và mùi của Pynto, kẻ chẳng bao giờ chịu thay quần áo hay gội đầu. Ở quán Thợ Sửa Tàu, không khí lúc nào cũng đầy khói và mùi thịt quay. Nhà Bảy Cây Đèn luôn thoảng mùi hương trầm, Điện Sa Tanh đượm mùi nước hoa của các cô gái trẻ đang ngày đêm mơ được làm gái điếm hạng sang.
Mỗi nơi cũng có âm thanh riêng của nó. Moroggo và Nhà Trọ Lươn Xanh hầu như đêm nào cũng có ca sĩ biểu diễn. Ở nhà trọ Vô Gia Cư, các khách trọ say xỉn tự hát bằng mấy chục thứ tiếng khác nhau. Nhà Trọ Ếch luôn chật ních các tay chèo trên các con thuyền nhỏ. Họ tranh luận về các vị thần, về gái điếm hạng sang, và liệu Lãnh Chúa Biển có phải là tên ngốc hay không. Điện Sa Tanh yên tĩnh hơn nhiều, một nơi dành cho những lời âu yếm thủ thỉ, tiếng sột soạt của váy lụa và tiếng cười khúc khích của các cô gái.
Mỗi đêm, Beth lại đi ăn xin ở một chỗ khác nhau. Ngay từ đầu, cô đã biết các chủ quán rượu và nhà trọ thường dễ tính hơn nếu cô không xuất hiện ở chỗ họ thường xuyên. Đêm qua cô đã ngồi bên ngoài Nhà Trọ Lươn Xanh, vì thế tối nay cô rẽ phải thay vì rẽ trái sau khi đi qua Cầu Máu, và đi thẳng tới quán rượu Pynto ở đầu bên kia cảng Ragman, ngay rìa Thị Trấn Chết Chìm. Dù ồn ào và cơ thể bốc mùi nhưng Pynto có trái tim nhân hậu đằng sau bộ quần áo bẩn thỉu và những lời quát tháo. Thông thường, ông sẽ cho cô vào trong cho khỏi lạnh nếu quán rượu không quá đông, và thỉnh thoảng ông còn cho cô một cốc bia hoặc một mẩu thức ăn rồi kể chuyện cho cô nghe. Pynto nói hồi còn trẻ, ông ta từng là tên cướp biển khét tiếng ở Stepstones; việc ông ta yêu thích nhất là ngồi kể những câu chuyện lê thê về những chiến công chói lọi của mình.
Tối nay cô gặp may. Quán rượu vắng teo, và cô có thể tìm một góc yên tĩnh không xa lò sưởi cho lắm. Ngay khi ngồi xuống và khoanh chân, cô cảm nhận được thứ gì đó cọ vào đùi. “Lại là mày à?” Cô gái mù nói. Cô gãi phía sau tai nó, con mèo nhảy lên đùi cô và bắt đầu rên rừ rừ. Ở Braavos tràn ngập mèo, và không đâu nhiều mèo bằng ở nhà trọ Pynto. Lão cướp biển già tin rằng chúng đem lại vận may và giúp nhà trọ
của ông ta tránh khỏi các loại sâu hại. “Mày biết tao đúng không?” Cô lẩm bẩm. Lũ mèo không bị lừa bởi mấy cái nốt ruồi giả mạo. Chúng nhớ Cat vùng Kênh Rạch.
Đó là một đêm tốt lành cho cô gái mù. Pynto đang trong tâm trạng vui vẻ và và đưa cho cô một cốc rượu trắng, một mẩu bơ bốc mùi và nửa cái bánh lươn. “Pynto là người rất tốt bụng,” ông nói, sau đó ngồi xuống kể cho cô nghe về khoảng thời gian họ dành ra để chiếm chiếc thuyền chở gia vị, một câu chuyện cô đã nghe kể hàng chục lần trước đó.
Dần dần, quán rượu trở nên đông đúc hơn. Pynto quá bận rộn nên chẳng còn thời gian quan tâm đến cô, nhưng vài người khách quen của ông thả tiền xu vào cái bát ăn mày của cô. Các bàn khác đều là những người lạ: Các thợ săn cá voi đến từ Ibben, người tanh mùi máu và mỡ cá, hai tên cướp xức dầu thơm trên tóc, một gã béo đến từ Lorath đang phàn nàn rằng quán rượu của Pynto quá bé so với cái bụng của gã. Và sau đó là ba gã người Lys, các thủy thủ trên thuyền Nhân Hậu, một chiếc ga lê bị bão biển quật nát bươm, vừa mới lết vào Braavos đêm qua và sáng nay bị lính của Lãnh Chúa Biển bắt giữ.
Đám người Lys ngồi ở cái bàn gần lò sưởi nhất và nói chuyện rì rầm đằng sau những cốc rượu rum đen kịt, họ nói thật nhỏ để không ai có thể nghe lén. Nhưng cô là không ai cả nên có thể nghe gần như không sót từ nào. Và đôi khi cô gần như nhìn thấy họ qua đôi mắt màu vàng lim dim của con mèo đực đang gừ gừ trên đùi cô. Một tên già, một tên trẻ và một tên bị mất một tai, nhưng cả ba đều có mái tóc bạc trắng và làn da trắng mịn màng của người Lys, nơi dòng máu Freehold cổ đại vẫn còn chảy mạnh mẽ.
Sáng hôm sau, cô đã sẵn sàng để trả lời khi ông già tốt bụng hỏi cô ba điều mới mà trước đó cô không biết.
“Cháu đã biết tại sao Lãnh Chúa Biển giữ thuyền Nhân Hậu rồi. Con thuyền chở theo nô lệ. Hàng trăm nô lệ, phụ nữ và trẻ em, tất cả đều bị trói trên thuyền.” Các nô lệ trốn thoát xây dựng nên Braavos, và ở đây nghiêm cấm buôn bán nô lệ.
“Cháu cũng biết nô lệ đến từ đâu. Họ là dân du mục đến từ Westeros, từ một nơi gọi là Hardhome.” Một nơi cũ kỹ, đổ nát và bị nguyền rủa. Già Nan đã kể cho cô nghe chuyện về Hardhome, hồi ở Winterfell khi cô vẫn còn là Arya Stark. “Sau trận chiến vĩ đại khiến Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành bị giết, đám du mục bỏ chạy, và mụ phù thủy rừng rậm nói nếu tới Hardhome, họ sẽ được những con thuyền tới đón và chở đến một nơi ấm áp. Nhưng chẳng có con thuyền nào tới cả, trừ hai thuyền cướp biển của Lys là Nhân Hậu và Voi dạt về phương bắc vì bão biển. Họ thả neo ngoài khơi Hardhome để sửa chữa và gặp đám dân du mục, nhưng ở đó có hàng nghìn người và họ không có đủ chỗ cho tất cả, vì thế họ nói sẽ chỉ đem theo phụ nữ và trẻ em. Đám
du mục chẳng có gì ăn, vì thế cánh đàn ông quyết định cho vợ con mình lên thuyền, nhưng ngay khi thuyền vừa ra đến biển, người Lys đã đưa họ xuống khoang và trói lại. Chúng muốn bán họ ở Lys. Ở đây, họ gặp phải một cơn bão khác và hai con thuyền thất lạc nhau. Thuyền Nhân Hậu bị hư hỏng nặng nên thuyền trưởng không còn cách nào khác đành phải cập bến ở đây, nhưng Voi có lẽ đã đến được Lys. Đám người Lys ở quán rượu Pynto đoán thuyền Voi sẽ dẫn thêm nhiều thuyền khác quay lại Hardhome. Giá nô lệ đang tăng, họ nói vậy, và ở đó vẫn còn hàng nghìn phụ nữ và trẻ em.”
“Tốt lắm. Mới có hai thôi, có điều thứ ba không?”
“Có. Cháu biết ông là người đã đánh cháu.” Cô vụt cái que vào ngón tay ông, khiến gậy của ông rơi xuống sàn nhà.
Vị thầy tu cau mày và giật tay lại. “Tại sao một cô gái mù có thể biết được điều đó?”
Cháu nhìn thấy ông. “Cháu đã nói ông ba điều rồi. Không cần phải nói điều thứ tư nữa.” Có thể ngày mai cô sẽ kể cho ông nghe về con mèo của Pynto, đêm qua đã theo cô về nhà. Con mèo đang nằm trên xà nhà và nhìn xuống họ. Hoặc có thể không. Nếu ông ấy có những bí mật của riêng mình thì cô cũng vậy.
Tối hôm đó Umma dọn ra món cua rang muối cho bữa tối. Khi mọi người đưa cốc cho cô, cô gái mù chun mũi và uống cạn nó chỉ trong ba hớp. Uống xong, cô thở hổn hển và đánh rơi cái cốc. Lưỡi cô như bốc cháy, và khi cô uống một cốc rượu, lửa như lan xuống họng và lên mũi cô.
“Rượu chẳng có tác dụng gì đâu, còn nước chỉ như đổ thêm dầu vào lửa,” đứa trẻ lang thang nói với cô. “Ăn cái này đi.” Cô ta ấn một mẩu cùi bánh mì vào tay cô. Cô gái nhét nó vào miệng, nhai và nuốt. Đúng là nó có tác dụng thật. Cô ăn thêm một mẩu bánh nữa.
Buổi sáng, khi con sói đêm bỏ đi và cô mở mắt, cô thấy có một cây nến mỡ đang cháy, dù đêm hôm trước không có cây nến nào ở đó. Ngọn lửa lập lòe đong đưa trông như con điếm ở Cảng Hạnh Phúc. Cô chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì đẹp đẽ đến vậy.