Trò chơi vương quyền 5A – Đánh thức rồng thiêng
Tác giả: George R.R. Martin
Dịch giả: Khánh Thủy
Số chương: 24
Tóm tắt: Trò chơi vương quyền gồm 7 quyển kể về cuộc chiến vương quyền giữa các gia tộc lớn trong thế giới giả tưởng Westeros. Và cùng lúc đó một thế lực khác đáng sợ hơn đang trỗi dậy từ bóng tối
Chớp lóe sáng rạch đôi bầu trời phương bắc, tòa tháp Đèn Đêm trông như một khối đen sì khắc lên bầu trời trắng xanh. Sáu giây sau là sấm rền vang nghe như tiếng trống từ đằng xa vọng lại.
Đám lính canh giải Davos Seaworth đi qua cây cầu bằng đá bazan đen, bên dưới một khung lưới sắt có dấu hiệu han gỉ. Sâu hơn bên trong là một con hào nước mặn sâu và một cây cầu kéo được đỡ bởi hai sợi xích sắt vĩ đại. Làn nước xanh cuộn lên phía dưới đưa từng lớp sóng xô vào chân lâu đài. Tiếp theo là một cánh cổng nữa lớn hơn cánh cổng thứ nhất, tảo xanh phủ kín bức tường đá. Davos bị trói ở cổ tay, lật đật đi qua khoảng sân đầy bùn nhão. Cơn mưa lạnh khiến mắt ông đau nhói. Đám lính canh đẩy ông lên bậc thang dẫn vào pháo đài Breakwater bằng đá trông như một chiếc hang.
Khi vào trong, tên đội trưởng cởi áo choàng và treo vào một cái móc để nước không nhỏ lên tấm thảm Myr mòn xơ chỉ. Davos cũng làm tương tự, ông lần sờ nơi chiếc móc gài với đôi tay bị trói. Ông vẫn chưa quên những cử chỉ lịch sự học được ở Dragonstone trong những năm phục vụ.
Họ thấy vị lãnh chúa đang ở một mình trong căn sảnh tối tăm ảm đạm; ông đang ăn tối với bia, bánh mỳ và món hầm của vùng đảo Three Sisters. Hai mươi chân đuốc bằng sắt được gắn dọc trên bức tường đá dày, nhưng chỉ có bốn chân có cắm đuốc, và không có cây đuốc nào được thắp cả. Hai cây nến mỡ to tỏa ánh sáng lập lòe mờ ảo. Davos nghe thấy tiếng mưa rào rào dội vào tường và tiếng nước nhỏ giọt đều đều qua một lỗ thủng trên mái nhà.
“Thưa lãnh chúa,” viên đội trưởng nói, “chúng tôi tìm thấy người đàn ông này trong Bụng Cá Voi khi hắn đang cố tìm đường ra khỏi đảo. Hắn đem theo 12 đồng vàng và thứ này nữa.” Viên đội trưởng đặt nó lên bàn trước mặt vị lãnh chúa: một dải ruy băng rộng bằng nhung đen viền vải kim tuyến, bên trên có ba con dấu: một con hươu đội vương miện được đóng trên sáp ong màu vàng, một trái tim rực cháy màu đỏ, và một bàn tay trên nền trắng.
Davos ướt nhẹp đứng chờ, nước nhỏ giọt xuống nền nhà, dây trói làm trầy da cổ tay ông. Chỉ cần một lời từ vị lãnh chúa này, ông sẽ nhanh chóng bị treo trên cổng Giá Treo Cổ của Sisterton, nhưng ít nhất lúc này ông cũng được trú mưa, với đá cứng dưới chân thay vì boong thuyền chao đảo. Toàn thân ông ướt sũng, đau nhức và mệt mỏi, người ngợm hốc hác vì đau buồn và những lần bị phản bội. Ông đã chán ngấy những cơn bão biển.
Vị lãnh chúa lau miệng bằng mu bàn tay và nhặt sợi ruy băng lên, nheo mắt nhìn.
Ánh chớp lóe lên bên ngoài khiến những khe bắn tên sáng chói với hai màu xanh và trắng trong một tích tắc. Một, hai, ba, bốn. Davos đếm trước khi tiếng sấm vang lên. Khi tiếng sấm kết thúc, ông lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt và tiếng vọng ầm ì dưới chân, nơi những con sóng đập vào khung cửa đá tò vò vĩ đại của Breakwater và tràn qua những căn ngục tối. Rất có thể ông sẽ kết thúc ở dưới đó, họ sẽ cùm ông vào nền đá ẩm ướt và để ông chết đuối khi thủy triều lên. Không, ông cố tự nhủ, một tên buôn lậu có thể chết theo cách đó, nhưng Quân sư của nhà vua thì không. Ta đáng giá hơn nếu hắn bán ta cho thái hậu của hắn.
Vị lãnh chúa mân mê sợi ruy băng và nhíu mày nhìn những con dấu. Đó là một gã đàn ông xấu xí, to cao và béo ị, với đôi vai rộng của một tay chèo và không có cổ. Trên má và cằm ông ta, râu cứng màu muối tiêu mọc bờm xờm như gốc rạ. Bên trên vầng trán rộng là cái đầu hói nhẵn thín. Mũi ông ta lổn nhổn thành từng bướu và đỏ rực các mạch máu vỡ, đôi môi dày cộp và ba ngón giữa bàn tay phải của ông ta dường như dính vào nhau, ở giữa là những tấm màng mỏng. Davos đã nghe nói tay và chân một số lãnh chúa trên đảo Three Sisters có màng như ếch, nhưng ông vẫn luôn cho rằng đó chỉ là câu chuyện phiếm của các thủy thủ.
Vị lãnh chúa dựa người về phía sau. “Thả hắn ra,” ông ta nói, “và tháo găng tay ra. Ta muốn nhìn thấy bàn tay hắn.”
Viên đội trưởng làm theo. Khi hắn đang tháo găng bên tay bị cụt ngón của tù binh, chớp lại lóe lên một lần nữa, bóng của bàn tay với những ngón ngắn ngủn của Davos Seaworth in lên khuôn mặt lỗ mãng và tàn ác của Godric Borrell, lãnh chúa đảo Sweetsister. “Ai cũng có thể ăn cắp một sợi ruy băng,” vị lãnh chúa nói, “nhưng những ngón tay đó không nói dối. Ngươi chính là Hiệp Sĩ Củ Hành.”
“Họ gọi tôi như vậy, thưa lãnh chúa.” Davos từng là một lãnh chúa, và đã là một hiệp sĩ trong nhiều năm, nhưng trong sâu thẳm ông vẫn là chính mình, một tên buôn lậu với xuất thân tầm thường, kẻ mua tước hiệu hiệp sĩ bằng hành và cá muối. “Tôi cũng bị gọi bằng những cái tên tệ hại hơn.”
“Đúng rồi. Tạo phản. Phiến loạn. Phản bội.”
Ông nổi giận với danh hiệu cuối cùng. “Tôi chưa bao giờ phản bội, thưa lãnh chúa. Tôi luôn là người của nhà vua.”
“Chỉ khi Stannis là vua thôi.” Vị lãnh chúa nhìn ông chăm chú với đôi mắt đen dữ dội. “Hầu hết các hiệp sĩ cập bến ở cảng luôn đến đại sảnh tìm kiếm ta, chứ không phải ở Bụng Cá Voi. Nơi đó là hang ổ của lũ buôn lậu. Ngươi định ngựa quen đường cũ sao, Hiệp Sĩ Củ Hành?”
“Không thưa lãnh chúa, tôi đang tìm đường đến Cảng White. Nhà vua cử tôi đến
cùng với một thông điệp cho lãnh chúa ở đó.”
“Vậy thì ngươi đã đến nhầm chỗ, và gặp nhầm người rồi.” Lãnh chúa Godric có vẻ thích thú. “Đây là Sisterton, trên Đảo Sweetsister.”
“Tôi biết chứ.” Tuy nhiên chẳng có gì ngọt ngào ở Sisterton cả. Đó là một thị trấn tồi tàn, bẩn thỉu, nhỏ bé, nghèo đói và tanh mùi cứt lợn cùng cá thối. Davos vẫn nhớ như in từ những ngày còn là tên buôn lậu. Quần đảo Three Sisters luôn là nơi ẩn nấp ưa thích của dân buôn lậu trong suốt hàng trăm năm, và là hang ổ của bọn cướp biển từ trước đó. Đường phố Sisterton lát những tấm ván dài và đầy bùn đất, những ngôi nhà tranh vách đất lợp mái rơm trông tồi tàn dơ dáy, và ở cổng Giá Treo Cổ lúc nào cũng có xác người đung đưa, ruột gan lòi ra lòng thòng.
“Ngươi hẳn có bạn bè ở đây, ta không nghi ngờ gì điều đó,” vị lãnh chúa nói. “Mọi tên buôn lậu đều có bạn bè ở quần đảo Sisters. Vài người trong số họ cũng là bạn ta. Những kẻ không phải là bạn, ta sẽ treo cổ. Ta để chúng bị siết cổ chết từ từ, ruột lủng lẳng đến tận đầu gối.” Căn sảnh lại sáng bừng khi chớp lóe lên qua cửa sổ. Hai giây sau là tiếng sấm vang rền. “Nếu ngươi muốn đến Cảng White thì tại sao ngươi lại ở Sisterton? Điều gì đã mang ngươi tới đây?”
Mệnh lệnh của một vị vua và sự phản bội của một người bạn, Davos định nói như vậy. Nhưng thay vào đó, ông trả lời, “Vì bão biển.”
Hai mươi chín con thuyền ra khơi từ Tường Thành. Nếu một nửa trong số chúng vẫn còn trên biển thì đó sẽ là cú sốc đối với Davos. Bầu trời đen kịt, gió giật từng cơn và những trận mưa như trút đã luôn bám theo họ trong suốt quãng đường men theo bờ biển. Hai chiếc ga-lê Oledo và Con Trai Mẹ Già đã đâm vào đá ở Skagos, hòn đảo của kỳ lân và những bộ tộc ăn thịt người, nơi ngay cả tên Con Hoang Mù cũng không dám cập bến ở đó; chiếc thuyền cog vĩ đại Saathos Saan bị đắm gần rặng núi Grey Cliffs. “Stannis sẽ phải đền chúng,” Salladhor Saan cáu kỉnh nói. “Ông ta sẽ phải đền một số vàng lớn cho tất cả những con thuyền đắm.” Dường như có một vị thần nào đó đang tức giận đòi họ trả giá cho cuộc hành trình dễ dàng trước đó từ Dragonstone ở phương nam lên Tường Thành phương bắc. Một chiếc ga-lê khác xé toạc phần buồm của chiếc Vụ Mùa Bội Thu, buộc Salla phải kéo nó lên bờ. Cách Tháp Góa Phụ hơn 30 dặm, biển lại dậy sóng khiến Vụ Mùa đâm vào một trong hai chiếc ga lê kéo nó khiến cả hai chìm nghỉm. Toàn bộ phần còn lại của hạm đội Lys tan tác trên biển hẹp. Một số trôi dạt vào các bến cảng. Số khác không ai nhìn thấy bao giờ nữa.
“Salladhor Ăn Mày, nhà vua của ông đã khiến ta trở thành như vậy đấy,” Salladhor Saan phàn nàn với Davos khi phần còn lại của hạm đội ông ta ì ạch trở về trên vịnh Bite. “Salladhor Đắm Thuyền. Thuyền của ta đâu hết rồi? Và vàng của ta nữa, số vàng ông ấy hứa trả cho ta đâu?” Khi Davos cố thuyết phục rằng ông ta sẽ nhận được
khoản tiền, Salla nổi quạu. “Khi nào, khi nào mới được chứ? Sáng mai, tháng sau, hay là khi sao chổi đỏ xuất hiện lần nữa? Ông ấy đã hứa trả ta vàng và đá quý, lúc nào cũng hứa hẹn, nhưng ta chưa nhìn thấy vàng đâu cả. Ta có lời hứa của ông ấy, ồ đúng rồi, lời hứa hoàng gia rành rành trên giấy tờ cơ mà. Nhưng Salladhor Saan có ăn được những lời hứa đó không? Liệu ông ta có làm nguôi cơn khát bằng đống giấy da và con dấu sáp đó được không? Ông ta có biến những lời hứa thành giường lông hay đàn bà để vui vẻ mỗi đêm được không?”
Davos cố thuyết phục ông đứng về phía lẽ phải. Nếu Salla rời bỏ Stannis, ông ta sẽ không có cơ hội lấy được số vàng lẽ ra là của mình. Nếu vua Tommen chiến thắng, hắn sẽ không đời nào trả số nợ cho ông chú bại trận. Niềm hy vọng duy nhất của Salla là tiếp tục trung thành với Stannis Baratheon cho đến khi ngài giành được Ngai Sắt. Nếu không ông ta sẽ không có được một đồng xu nào hết. Điều cần thiết lúc này là kiên nhẫn.
Có thể miệng lưỡi đường mật của một lãnh chúa nào đó sẽ khiến tên trùm cướp biển xứ Lys nguôi ngoai đôi chút, nhưng Davos lại là Hiệp Sĩ Củ Hành, và những lời nói của ông chỉ khiến cho Salla thêm tức tối. “Ở Dragonstone ta đã kiên nhẫn,” ông nói, “khi ả nữ tu đỏ đốt các vị thần bằng gỗ và thiêu cả người sống. Suốt dọc đường đến Tường Thành ta đã kiên nhẫn. Ở Trạm Đông ta đã kiên nhẫn… và còn lạnh tái tê nữa chứ. Thôi đi. Ta đã chịu quá đủ cái lòng kiên nhẫn chết tiệt và nhà vua chết tiệt của ông. Người của ta đang đói. Họ đang muốn được về ngủ với vợ, chăm lo con cái, được nhìn thấy Stepstones và những khu vườn xinh tươi ở Lys. Họ chán ngấy băng giá, bão biển và những lời hứa suông rồi. Phương bắc quá lạnh và đang mỗi lúc một lạnh hơn.”
Mình biết ngày đó rồi sẽ đến, Davos tự nhủ. Mình thích lão già lừa đảo đó, nhưng không ngu đến mức tin tưởng ông ta.
“Bão táp.” Lãnh chúa Godric nói từ đó một cách hoan hỉ như thể một người đàn ông gọi tên người tình. “Sóng biển là thứ thuộc về thần linh trên Quần Đảo Sisters trước khi người Andals đến. Các vị cựu thần của chúng ta là Phu nhân Sóng Biển và Lãnh chúa Bầu Trời. Họ tạo ra những cơn bão mỗi khi ân ái.” Ông ta rướn người về phía trước. “Các vị vua chẳng thèm màng đến quần đảo Sisters. Sao họ phải quan tâm? Chúng ta vừa nghèo vừa bé tí tẹo. Nhưng giờ ngươi đã ở đây. Dạt đến đây vì những cơn bão biển.”
Được một người bạn đưa đến cho ông, Davos nghĩ.
Lãnh chúa Godric quay sang phía viên đội trưởng. “Để ông ta lại đây với ta. Ông ta chưa bao giờ tới đây.”
“Vâng, thưa lãnh chúa, chưa bao giờ.” Viên đội trưởng rời đi, đôi giày ướt nhẹp để
lại những dấu chân ẩm ướt trên tấm thảm. Dưới sàn nhà, sóng biển đang ầm ì vỗ từng đợt không ngớt vào chân lâu đài. Cánh cửa ngoài đóng lại với một tiếng rầm nghe như tiếng sấm từ xa vọng lại, và chớp một lần nữa lóe lên như để đáp lời.
“Thưa lãnh chúa,” Davos nói, “nếu ngài có thể đưa tôi đến Cảng White, nhà vua sẽ coi đây là một hành động thể hiện tình bằng hữu.”
“Ta có thể đưa ngươi đến Cảng White,” vị lãnh chúa đồng ý. “Hoặc ta cũng có thể đưa ngươi đến địa ngục lạnh giá và ướt át.”
Sisterton đã đủ là địa ngục rồi. Davos sợ điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Quần Đảo Three Sisters là những con điếm không kiên định, chỉ trung thành với bản thân. Tuy họ thề trung thành với Nhà Arryn của vùng Thung Lũng, nhưng quyền thống trị của Eyrie ở nơi này thực chất rất mong manh.
“Sunderland sẽ đòi ta giao nộp ngươi nếu biết ngươi ở đây.” Borrell trung thành với Sweetsister, giống như Longthorpe trung thành với Longsister và Torrent với Littlesister; tất cả đều là chư hầu của Triston Sunderland, Lãnh chúa Quần Đảo Three Sisters. “Ông ta sẽ bán ngươi cho nữ hoàng để đổi lấy một hũ vàng của Nhà Lannister. Ông già tội nghiệp đó cần thật nhiều vàng, vì cả bảy người con trai đều khăng khăng muốn làm hiệp sĩ. “Vị lãnh chúa cầm một chiếc thìa gỗ lên và tiếp tục múc món hầm. “Ta từng nguyền rủa các vị thần đã cho ta toàn con gái cho đến khi nghe Triston phàn nàn về số tiền mua những con chiến mã. Ngươi sẽ kinh ngạc khi biết phải đổi bao nhiêu cá mới được một bộ giáp tử tế cho con ngựa.”
Tôi cũng có bảy người con trai, nhưng bốn đứa đã bị chết cháy. “Lãnh chúa Sunderland thề trung thành với Eyrie,” Davos nói. “Ông ta có quyền giải tôi đến gặp phu nhân Arryn.” Ông đoán mình sẽ có cơ hội nhiều hơn với bà thay vì với Nhà Lannister. Dù không tham gia vào cuộc chiến Năm Vị Vua, Lysa Arryn vẫn là con gái của Lãnh chúa Riverrun và là dì của Sói Trẻ.
“Lysa Arryn chết rồi,” Lãnh chúa Godric nói, “bị hại chết bởi một tên ca sĩ nào đó. Giờ thì Lãnh chúa Ngón Út đang cai trị vùng Thung Lũng. Đám cướp biển đâu?” Khi Davos không trả lời, ông ta đập chiếc muỗng xuống bàn. “Đám người Lys. Torrent nhìn thấy chúng dong thuyền ra khơi từ Littlesister, và trước đó là Nhà Flint từ Tháp Góa Phụ. Những cánh buồm da cam, xanh và hồng. Salladhor Saan. Hắn ở đâu?”
“Ngoài biển.” Salla hẳn đang lượn quanh quần đảo Fingers và xuôi dòng biển hẹp. Ông ta đang trở về Stepstones với vài con thuyền còn lại. Có lẽ ông ta sẽ chiếm thêm vài con thuyền nữa trên đường, nếu gặp được tên lái buôn nào đó. Một chút cướp bóc để giết thời gian. “Nhà vua đã cử ông ta về phương nam để quấy rối Nhà Lannister và bạn bè của chúng.” Lời nói dối được ông tập đi tập lại trong khi chèo tới Sisterton dưới cơn mưa. Sớm hay muộn cả thế giới cũng sẽ biết rằng Salladhor Saan đã bỏ
Stannis Baratheon, chẳng để lại cho ông ta một hạm đội nào, nhưng sẽ không ai nghe thấy một lời nào từ Davos Seaworth.
Lãnh chúa Godric khuấy món canh hầm. “Tên cướp biển già tên Saan đó bắt ngươi bơi vào bờ à?”
“Tôi vào bờ trên một con thuyền nhỏ, thưa lãnh chúa.” Salla đã chờ cho đến khi đèn hiệu của tháp Đèn Đêm sáng lên trên Cảng Valyria trước khi rời đi. Ít nhất tình bạn của họ cũng có giá trị chừng đó. Gã người Lys sẽ rất sẵn lòng đưa ông về phương nam cùng ông ta, nhưng Davos đã từ chối. Stannis cần Wyman Manderly, và đã tin tưởng giao cho Davos nhiệm vụ thuyết khách. Ông sẽ không phản bội lòng tin đó, Davos nói với Salla. “Thôi nào,” tên tướng cướp trả lời, “ông ta sẽ giết ông bằng mấy cái thứ danh dự đó, ông bạn già ạ. Ông ta sẽ giết ông.”
“Ta chưa bao giờ tiếp quân sư của nhà vua dưới mái nhà này,” Lãnh chúa Godric nói. “Liệu Stannis có chịu chuộc ngươi không nhỉ?”
Ông ấy có chuộc không? Stannis đã cho Davos đất đai, danh hiệu và tước vị, nhưng liệu ông ấy có chịu trả vàng để chuộc mạng sống của ta không? Nhà vua không có vàng. Nếu không ông ấy đã giữ Salla lại rồi. “Ngài sẽ thấy nhà vua ở Hắc Thành nếu muốn tìm ngài ấy để đòi tiền chuộc.”
Borrell càu nhàu. “Quỷ lùn cũng đang ở Hắc Thành à?”
“Quỷ lùn?” Davos không hiểu câu hỏi. “Hắn đang ở Vương Đô, bị kết tội chết vì giết hại cháu trai.”
“Cha ta vẫn thường nói tường Thành lúc nào cũng nghe tin muộn nhất. Quỷ lùn đã trốn thoát rồi. Hắn chui qua chấn song cửa nhà ngục và dùng tay không xé xác cha hắn. Một lính canh nhìn thấy hắn chạy trốn, toàn thân đỏ rực từ đầu đến chân như thể vừa tắm trong máu vậy. Thái hậu sẽ phong chức lãnh chúa cho bất kỳ ai giết được hắn.”
Davos cố tin vào những gì ông vừa nghe thấy. “Ngài vừa nói là Tywin Lannister đã chết à?”
“Đúng vậy, dưới tay chính con trai mình.” Vị lãnh chúa uống một ngụm bia. “Khi Quần Đảo Sisters còn có các vị vua cai trị, chúng ta không bao giờ cho phép những tên lùn được sống. Chúng ta vứt bọn chúng xuống biển như một món đồ cúng tế cho các vị thần. Tuy nhiên các vị tư tế phản đối và bắt chúng ta dừng lại. Một đám sùng đạo ngu ngốc. Tại sao các vị thần tạo ra con người với hình hài bình thường mà lại tạo ra một con quái vật như hắn cơ chứ?”
Lãnh chúa Tywin đã chết. Điều này thay đổi mọi thứ. “Lãnh chúa, ngài cho phép tôi
gửi quạ đến Tường Thành được không? Nhà vua sẽ cần biết tin về cái chết của Lãnh chúa Tywin.”
“Ông ta sẽ biết thôi. Nhưng không phải từ ta. Cũng không phải từ ngươi, một khi ngươi còn ở đây bên dưới mái nhà dột nát này. Ta sẽ không để ai nói rằng ta trợ giúp cho Stannis. Nhà Sunderland đã lôi Sisters vào cả hai cuộc tạo phản của Blackfyre, và chúng ta đã chịu tổn thất quá nhiều rồi.” Lãnh chúa Godric vẫy chiếc thìa về phía một cái ghế. “Ngồi đi ser, không lại ngã lăn ra đó. Sảnh của ta có thể lạnh lẽo, tối tăm và ẩm ướt, nhưng chút lịch sự thì không thiếu. Chúng ta sẽ tìm quần áo khô cho ngươi mặc, nhưng đầu tiên phải ăn đã.” Ông ta hô gọi người, và một phụ nữ bước vào. “Chúng ta có một vị khách ở đây. Mang bia và món hầm Sister lên nhé.”
Bia nâu, bánh mỳ đen và món hầm trắng sữa. Mâm ăn được làm từ một ổ bánh mỳ lạt khoét lỗ. Món hầm đậm đặc với tỏi tây, cà rốt, yến mạch, củ cải trắng, củ cải vàng, cùng với trai, cá thu và thịt cua, tất cả dầm trong nước sốt ngậy kem và bơ. Thứ đồ ăn đem lại cho người ta cảm giác ấm áp đến tận xương tủy, quá phù hợp cho một đêm lạnh giá và ướt át như thế này. Davos vui vẻ múc ăn.
“Ngươi được ăn món hầm Sister bao giờ chưa?”
“Rồi ạ, thưa lãnh chúa.” Món hầm này được bán khắp nơi trên quần đảo Three Sisters, trong mọi nhà trọ và quán rượu.
“Chắc chắn ngươi sẽ thấy lần này ngon hơn những lần trước. Chính Gella tự tay nấu đấy. Con gái của con gái ta. Ngươi đã lấy vợ chưa, Hiệp Sĩ Củ Hành?”
“Rồi, thưa lãnh chúa.”
“Tiếc quá. Gella chưa có chồng. Phụ nữ chất phác bao giờ cũng là những người vợ tuyệt nhất. Ở đây có ba loại cua. Cua đỏ, cua nhện và cua chinh phạt. Ta không bao giờ ăn cua nhện, trừ trong món canh hầm Sister. Nó làm ta có cảm giác như mình là kẻ ăn thịt đồng loại vậy.” Vị lãnh chúa chỉ tay ra lá cờ treo phía trên chiếc lò sưởi đen lạnh lẽo. Trên đó có in hình con cua nhện màu trắng trên nền xanh xám. “Chúng ta đã nghe những câu chuyện về việc Stannis thiêu Quân sư của ông ta.”
Đó là Quân sư phục vụ trước mình. Melisandre đã dâng Alester Florent cho vị thần của cô ta ở Dragonstone để gọi gió đưa họ về phương bắc. Lãnh chúa Florent mạnh mẽ giữ im lặng suốt quá trình người của hoàng hậu trói ông ta vào cột, và tỏ ra cao quý hết sức có thể khi bị lột trần một nửa người, nhưng khi ngọn lửa bắt đầu liếm lên chân, ông ta bắt đầu la hét, tiếng hét của ông ta bay đến tận Trạm-Đông-Bên-Bờ-Biển nếu những lời của nữ tu đỏ là chính xác. Davos không thích cơn gió đó. Dường như nó mang theo mùi thịt cháy và tấu lên những âm thanh đau đớn khi thổi vào những cánh buồm. Mình cũng có thể chết dễ dàng như vậy. “Tôi không bị thiêu,” ông trấn an
Lãnh chúa Godric, “tuy nhiên Trạm Đông gần như khiến tôi chết cóng.”
“Tường Thành là một nơi như vậy.” Người phụ nữ đem cho họ một ổ bánh mỳ mới, vẫn còn ấm vì mới được lôi từ lò ra. Davos nhìn chăm chăm vào bàn tay cô ta. Lãnh chúa Godric để ý thấy điều đó. “Đúng là tay con bé có đánh dấu. Giống như tất cả người Nhà Borrell trong suốt 5000 năm qua. Con gái của con gái ta. Không phải người nấu món hầm.” Ông ta xé đôi chiếc bánh mỳ và đưa một nửa cho Davos. “Ăn đi, ngon lắm đấy.”
Đúng là nó rất ngon, dù đối với Davos lúc này thì chút vỏ bánh mỳ ôi cũng đã đủ ngon rồi. Điều đó cho thấy ông là khách ở đây, ít nhất là trong đêm nay. Các lãnh chúa của Three Sisters vẫn thường mang tiếng xấu, và trong số đó không ai tiêu biểu bằng Godric Borrell, Lãnh chúa đảo Sweetsister, Tấm Khiên của Sisterton, Chủ Nhân lâu đài Breakwater, và Người Giữ Đèn Đêm… nhưng ngay cả các lãnh chúa trộm cắp và cướp biển cũng bị ràng buộc bởi luật lệ cổ xưa về lòng hiếu khách. Ít nhất ta sẽ được nhìn thấy bình minh, Davos tự nhủ. Ta đã ăn bánh mỳ và muối của ông ta.
Dù trong món hầm Sister có những gia vị rất lạ chứ không phải muối. “Có phải tôi đang được nếm mùi vị của nghệ tây không?” Nghệ tây còn quý hơn cả vàng. Trước kia Davos mới được nếm thử có một lần, khi vua Robert gửi cho ông nửa con cá trong bữa tiệc ở Dragonstone.
“Đúng rồi, mua từ Qarth. Còn có cả tiêu nữa.” Lãnh chúa Godric bốc một nhúm nhỏ giữa ngón trỏ và ngón cái rồi rải lên trên mâm ăn của mình. “Tiêu đen xay nhỏ nhập từ Volantis, không loại tiêu nào có thể ngon hơn. Ngươi có thể lấy bao nhiêu cũng được nếu thích. Ta có 40 rương cơ. Đấy là còn chưa kể đinh hương, nhục đậu khấu và một biển nghệ tây. Lấy từ trên thuyền Thiếu Nữ Mắt Đen xuống đấy.” Ông ta phá lên cười. Davos nhận thấy ông ta vẫn chưa mất cái răng nào, dù hầu hết chúng đã vàng ố và phần gốc đã đen lại thành răng chết. “Con thuyền đang dong buồm tới Braavos, nhưng một chiếc ga-lê va phải nó làm con thuyền dạt vào Vịnh Bite, đâm phải một số tảng đá của ta và vỡ tan tành. Giờ ngươi thấy đấy, ngươi không phải là món quà duy nhất mà các cơn bão đem lại cho ta. Biển cả rất bội bạc và tàn khốc.”
Chẳng bội bạc bằng con người, Davos nghĩ. Tổ tiên của Lãnh chúa Godric từng là các trùm cướp biển cho đến khi Nhà Stark tìm tới họ với lửa và kiếm. Ngày nay người dân trên Đảo Sisters để lại cái danh cướp biển cho Salladhor Saan cùng người của ông ta, rồi lừa đánh đắm thuyền của họ. Các đèn hiệu cháy dọc theo bờ biển Three Sisters lẽ ra phải có tác dụng cảnh báo chỗ nước nông, san hô, đá ngầm và chỉ dẫn cho tàu bè đường đi an toàn, thế nhưng trong những đêm bão bùng hay sương giá, một số người dân Đảo Sisters lại dùng ám hiệu sai để lừa đưa các thuyền trưởng không cảnh giác vào chỗ chết.
“Cơn bão đã thật tốt bụng khi thổi ngươi dạt đến cửa của ta,” Lãnh chúa Godric nói. “Chắc chắn ngươi sẽ không bao giờ được chào đón nếu đến Cảng White. Ngươi đến quá muộn rồi, ser. Lãnh chúa Wyman muốn quỳ gối, nhưng không phải trước Stannis.” Ông ta uống một ngụm bia. “Nhà Manderly về bản chất không phải người phương bắc. Họ mới chỉ di chuyển lên phương bắc 900 năm về trước, đem theo nặng trĩu vàng và các vị thần của họ. Họ từng là các lãnh chúa lớn của vùng Mander cho đến khi đi quá xa và bị bàn tay xanh của Nhà Gardener đẩy xuống. Các vua sói lấy số vàng nhưng cho họ đất đai và để họ giữ lại các vị thần của riêng mình.” Ông ta vét sạch súp bằng một miếng bánh mỳ. “Nếu Stannis nghĩ tên béo sẽ mang cờ con hươu thì ông ta nhầm to. Thuyền Sao Sư Tử mới cập cảng Sisterton 12 ngày trước để lấy nước. Ngươi có biết con thuyền đó không? Buồm đỏ thẫm và có hình sư tử vàng trên mũi. Trên thuyền toàn người Nhà Frey đang thẳng tiến đến Cảng White.”
“Nhà Frey à?” Đó là điều cuối cùng Davos hy vọng được nghe. “Nhà Frey đã giết con trai của Lãnh chúa Wyman, chúng tôi nghe nói vậy.”
“Đúng,” Lãnh chúa Godric nói, “và gã béo đã giận dữ đến nỗi hắn thề sẽ ăn bánh mỳ và uống rượu lạt cho đến khi trả thù được mới thôi. Nhưng chưa kịp thực hiện thì ông ta đã được nhét ngao sò và bánh đầy miệng. Lúc nào cũng có sẵn thuyền từ Quần Đảo Sisters đến Cảng White. Chúng ta bán cho họ cua, cá và pho mát dê, họ bán cho chúng ta gỗ, len và da sống. Theo những gì ta nghe được thì lãnh chúa của chúng ta đang béo hơn bao giờ hết. Quá nhiều lời thề. Lời nói gió bay, và gió bay ra từ miệng Manderly chẳng có ý nghĩa gì hơn hơi xì ra từ trôn hắn.” Vị lãnh chúa xé một mẩu bánh mỳ nữa và chấm ăn. “Nhà Frey đang mang cho lão béo ngu ngốc một túi xương. Một số người gọi đó là lịch sự khi trả cho ai đó nắm xương tàn của con trai ông ta. Nếu đó là con trai ta, ta sẽ đáp trả thái độ lịch sự đó và cảm ơn Nhà Frey trước khi treo cổ chúng, nhưng tiếc là gã béo lại tỏ ra quá cao thượng.” Ông ta nhét miếng bánh mỳ vào miệng, nhai và nuốt. “Ta từng mời Nhà Frey tới dùng bữa tối. Một gã ngồi đúng chỗ ngươi đang ngồi. Hắn tự nhận mình là Rhaegar, khiến ta suýt nữa cười vào mặt hắn. Hắn nói hắn đã mất vợ, nhưng sẽ tìm một người mới thay thế ở Cảng White. Quạ vẫn bay đi bay lại. Lãnh chúa Wyman và Lãnh chúa Walder đã liên minh với nhau và định củng cố mối quan hệ đó bằng một cuộc hôn nhân.”
Davos cảm giác như vị lãnh chúa vừa đấm vào bụng ông. Nếu những gì ông ta nói là thật thì nhà vua của ta thua rồi. Stannis Baratheon cần có Cảng White vô cùng. Nếu Winterfell là trái tim của miền bắc thì Cảng White là cái miệng. Cửa sông không bao giờ đóng băng kể cả trong mùa đông lạnh giá suốt hàng thế kỷ. Khi mùa đông đang đến, điều đó lại càng có ý nghĩa hơn. Và cả tiền bạc của thành phố nữa. Nhà Lannister có tất cả vàng của Casterly Rock, và lại thông gia với Highgarden giàu có. Két tiền của vua Stannis đã cạn kiệt. Ít nhất ta phải cố gắng. Phải có cách nào đó để ngăn chặn
cuộc hôn nhân này. “Tôi phải đến Cảng White,” ông nói. “Lãnh chúa, tôi xin ngài hãy giúp tôi.”
Lãnh chúa Godric bắt đầu ăn bằng đôi tay to bản. Món hầm làm mềm bánh mỳ lạt. “Ta không yêu quý gì người phương bắc,” ông ta nói. “Các học sĩ nói cuộc Chiếm Đoạt diễn ra trên quần đảo Three Sisters đã hai nghìn năm trước, nhưng Sisterton vẫn chưa quên. Trước đó chúng ta là những người tự do với vị vua của riêng mình. Nhưng sau đó, chúng ta phải quỳ gối trước Eyrie để đánh đuổi người phương bắc. Lũ sói và chim ưng tranh giành chúng ta hàng ngàn năm, cho đến khi chúng đã nhằn hết mỡ lẫn thịt của mấy hòn đảo tội nghiệp này và để lại trơ xương. Còn về phần vua Stannis của ngươi, khi còn là chủ quản tàu bè của Robert, ông ta đã cho hạm đội đến cảng của ta mà không được ta cho phép, sau đó lại bắt ta treo cổ hàng chục người bạn tốt. Những người như ngươi. Thậm chí hắn còn cả gan dọa treo cổ ta nếu chẳng may có con thuyền nào mắc cạn vì tháp hải đăng Đèn Đêm bị cháy. Ta vẫn phải nín nhịn trước tính kiêu ngạo của hắn.” Ông ta tiếp tục ăn. “Giờ hắn khiêm tốn, cúp đuôi tiến về phương bắc. Tại sao ta phải trợ giúp hắn nhỉ? Trả lời câu hỏi đó cho ta.”
Bởi vì ngài ấy là vị vua đích thực của ông, Davos nghĩ. Bởi vì ngài mạnh mẽ và ngay thẳng, là người đàn ông duy nhất có thể khôi phục lại vương quốc và bảo vệ nó trước sự hủy diệt đang lớn dần ở phương bắc. Bởi ngài có một thanh kiếm thần kỳ phát ra ánh sáng của mặt trời. Nhưng những lời lẽ như nghẹn lại ở họng ông. Chúng sẽ không thể lay chuyển Lãnh chúa của Sweetsister. Chúng sẽ không thể đưa ông đến gần Cảng White hơn một tấc, một gang nào hết. Ông ta muốn câu trả lời thế nào đây? Ta có nên hứa trao cho ông ta vàng, thứ hiện nay chúng ta không có? Một người chồng dòng dõi cao quý cho con gái của con gái ông ta? Đất đai? Danh vọng? Tước vị? Lãnh chúa Alester Florent từng cố chơi trò chơi này, và nhà vua đã thiêu ông ta vì việc đó.
“Dường như vị quân sư đã bị cắt mất lưỡi rồi thì phải. Ông ta không thích món hầm ở Quần Đảo Sisters, hoặc là không thích sự thật.” Lãnh chúa Godric lau miệng.
“Con sư tử đã chết rồi,” Davos nói chậm rãi. “Đó là sự thật dành cho ngài, thưa lãnh chúa. Tywin Lannister đã chết.”
“Thế thì sao?”
“Giờ ai sẽ cai trị Vương Đô? Không thể là Tommen, đó chỉ là một thằng nhóc. Lẽ nào là Ser Kevan?”
Ánh nến sáng lên trong đôi mắt đen của Lãnh chúa Godric. “Nếu như vậy thì giờ này ngươi đã đeo cùm rồi. Người trị vì là thái hậu.”
Davos đã hiểu. Ông ta luôn nghi ngờ. Ông ta không muốn mình ở bên thua cuộc.
“Stannis giữ được Storm’s End trước sự tấn công của Nhà Tyrell và Redwyne. Ngài lấy được Dragonstone từ tay triều đại Targaryen cuối cùng. Ngài đập tan Hạm Đội Sắt trên Đảo Fair. Tên vua nhóc con chẳng là gì so với ngài ấy cả.”
“Tên vua nhóc con nắm trong tay sức mạnh của Casterly Rock và Highgarden. Cậu nhóc có Nhà Bolton và Nhà Frey.” Lãnh chúa Godric xoa cằm. “Tuy nhiên… trên thế giới này chỉ có mùa đông là chắc chắn. Ned Stark từng nói với cha ta như vậy trong chính căn phòng này.”
“Ned Stark từng ở đây sao?”
“Khi Robert mới nổi loạn. Vị vua điên yêu cầu Eyrie giao nộp cái đầu của Stark, nhưng Jon Arryn lại công khai khiêu chiến. Tuy nhiên, Gulltown vẫn trung thành với ngai Sắt. Để trở về nhà và kêu gọi các chư hầu, Stark phải vuợt qua núi để đến Quần Đảo Fingers, tìm một người đánh cá đưa ông ta qua Vịnh Bite. Giữa đường họ gặp một cơn bão. Người đánh cá bị chết đuối, nhưng con gái ông ta đã đưa được Stark tới Sisters trước khi con thuyền vỡ hẳn. Họ nói ông ta bỏ lại cô gái với một túi bạc và một cậu con hoang trong bụng. Cô ta đặt tên cho thằng bé là Jon Snow, theo tên của Jon Arryn.
“Cứ cho là thế đi. Cha ta từng ngồi chính nơi ta đang ngồi khi Lãnh chúa Eddard tới Sisterton. Các maester thúc giục chúng ta gửi đầu Stark cho Aerys để chứng tỏ lòng trung thành. Chắc chắn chúng ta sẽ nhận được phần thưởng lớn. Vua Điên rất hào phóng với những kẻ khiến ông ta hài lòng. Tuy nhiên, khi đó chúng ta nghe tin Jon Arryn đã chiếm được Gulltown. Robert là người đầu tiên chiếm được tường thành và tự tay giết Marq Grafton. ‘Gã Baratheon đó rất dũng mãnh,’ ta phải công nhận như vậy. ‘Ông ta chiến đấu đúng theo kiểu của một vị vua.’ Học sĩ của chúng ta cười khẩy và cho rằng Hoàng tử Rhaegar chắc chắn sẽ dập tắt cuộc tạo phản. Đó là khi Stark nói, ‘Trên thế giới này chỉ có mùa đông là chắc chắn. Chúng ta có thể mất đầu, đúng… nhưng nếu chúng ta chiến thắng thì sao?’ Cha ta cho ông ta lên đường với cái đầu còn nguyên trên cổ. ‘Nếu ngươi thua trận,’ ông ấy nói với Lãnh chúa Eddard, ‘thì ngươi sẽ chưa từng ở đây.’”
“Tôi cũng vậy thôi,” Davos Seaworth nói.