Sinh vật huyền bí và Nơi tìm ra chúng

Sinh vật huyền bí và Nơi tìm ra chúng

Tác giả: J. K. Rowling

*Trạng thái truyện dịch: Tiếp tục cập nhật

Giới thiệu sơ lược: Sinh vật huyền bí và nơi tìm ra chúng (tựa gốc: Fantastic beasts and where to find them) của nhà văn J. K. Rowling là phần ngoại truyện của bộ truyện nổi tiếng Harry Potter, được xuất bản năm 2001. Kể về những sinh vật huyền bí trong thế giới phù thủy đầy những mê hoặc, phép thuật và nguy hiểm.

Các sinh vật được chia thành 4 cấp độ:

  • XXXXX: Được biết đến như đồ sát phù thủy (hoặc mấy con mà Hagrid thích) / không thể huấn luyện hoặc thuần hóa, tóm lại là Nguy hiểm thí mẹ, đừng có mó vào.
  • XXXX: Nguy hiểm/yêu cầu những kiến thức chuyên sâu/ phù thủy quyền năng mới có thể kiểm soát chúng.
  • XXX: Chỉ phù thủy có năng lực mới nên “dây” vào, còn lại thì xê hết ra.
  • XX: Vô hại / có thể thuần hóa, mấy con này hơi bị dễ dãi.
  • X: Chán bỏ xừ, nói chung đừng quan tâm.

Bản quyển tiếng Việt thuộc về Bapstory.net. Vui lòng không re-up, xin cảm ơn. Nguồn hình ảnh minh hoạ: artist MaryquiZe.

DIMIGUISE

Cấp độ: XXXX

Dimiguise được tìm thấy ở vùng Viễn Đông, tuy nhiên không hề dễ dàng gì, vì con sinh vật này có khả năng tàng hình mỗi khi bị đe dọa và chỉ có thể được nhìn thấy bởi những phù thủy có kỹ năng trong việc bắt chúng.

Dimiguise là sinh vật ăn cỏ hiền hòa, xuất hiện với vẻ bề ngoài như một con khỉ không đuôi duyên dáng cùng đôi mắt đen, to lớn và đượm buồm (cái này gọi là mắt giả nai thơ ngây) và thường bị ẩn bên dưới bộ lông của nó. Toàn bộ cơ thể được bao phủ bằng một lớp lông màu bạc, dài, mượt mà, rực rỡ. Những tấm da sống (da chưa thuộc) của chúng có giá trị rất cao vì lông trên tấm da đó có thể dùng để bện thành sợi may ra những chiếc Áo khoác Tàng hình.


DIRICAWL

Cấp độ: XX

Diricawl có nguồn gốc từ Mauritius. Là một loài chim không thể bay, có cơ thể phúng phính, phủ lớp lông mịn. Diricawl là một sinh vật đáng chú ý với cách thức trốn thoát khỏi nguy hiểm của nó. Chúng có thể tan biến bên trong lớp lông mịn màng đó và xuất hiện trở lại ở một chỗ khác (loài phượng hoàng cũng có khả năng này).

Một điều thú vị là các Muggle đã từng hoàn toàn biết về sự tồn tại của Diricawl, mặc dù họ biết nó với cái tên ‘Dodo’. Vì không biết rằng Diricawl có thể tan biến một khi chúng sẵn sàng nên các Muggle vẫn tin rằng họ đã săn bắn loài này đến mức tuyệt chủng. Và điều này dường như đã nâng cao nhận thức của Muggle về những hệ quả trong việc sát hại vô tội vạ những sinh vật thân thiện với họ nên Liên đoàn Phù thủy quốc tế không bao giờ coi việc để các Muggle nhận biết rằng Diricawl vẫn còn tồn tại là một điều khôn ngoan.

DOXY

Cấp độ: XXX

Doxy (đôi khi được biết đến với cái tên Tiên Cắn) thường bị nhầm lẫn với fairy mặc dù chúng là những loài khá khác biệt nhau. Giống như fairy, bọn chúng có hình dáng hơi giống con người, nhưng ở Doxy bọn chúng được bảo phủ một lớp lông đen dày, và thêm một cặp chân và một cặp cánh tay. Đôi cánh của chúng dày, uốn cong và sáng bóng, rất giống cánh của những con bọ cánh cứng.

Những con Doxy thường được tìm thấy trên khắp vùng phía bắc của Châu Âu và Mỹ, bọn chúng ưa thích những vùng khí hậu lạnh. Bọn chúng đẻ tối đa 500 quả trứng một lần và chôn chúng. Những quả trứng sẽ nở trong vòng từ 2 tới 3 tuần.

Có hai hàng răng ở mỗi hàm trên và hàm dưới với những chiếc răng sắc nhọn và có nọc độc. Nếu bị chúng cắn cần phải dùng thuốc giải độc ngay.


DRAGON

Có lẽ trong hầu hết các sinh vật phép thuật nổi tiếng nhất, rồng là loài rất khó để không bị phát hiện. Con cái nhìn chung thường lớn hơn và hung dữ hơn con đực, nhưng dù cái hay đực chúng ta cũng không nên tự ý tiếp cận nếu không phải là những pháp sư đã được đào tạo và có kỹ năng phép thuật cao siêu. Da, máu, tim, gan và sừng của chúng đều có giá trị phép thuật lớn, nhưng trứng của chúng được xếp vào Sản phẩm Cấm buôn bán cấp độ A.

Có 10 loài rồng, mặc dù trong số đó có một vài loài là kết quả của sự giao phối giữa hai loài với nhau, tạo ra những chủng quý hiếm. Những loài rồng thuần chủng bao gồm các loài sau:

ANTIPODEAN OPALEYE

Cấp độ: XXXXX

Opaleye có nguồn gốc từ New Zealand, sau này được biết đã di cư đến Úc khi môi trường sống trở nên khan hiếm ở vùng đất bản địa của nó. Đây là điều không thường xuyên đối với một con rồng khi nó thích trú ẩn trong những thung lũng hơn là trên những ngọn núi. Có kích cỡ trung bình (cân nặng khoảng 2 đến 3 tấn).

Có lẽ đây là loài rồng xinh đẹp nhất, với lớp vảy có màu trắng phát ra ánh ngũ sắc và đôi mắt lấp lánh, nhiều màu và không có đồng tử, giống như tên của nó. Bọn chúng phun ra ngọn lửa màu đỏ sặc sỡ và mặc dù mang đầy đủ những đặc tính của loài rồng nhưng chúng đặc biệt hiền lành và hiếm khi giết chóc trừ khi chúng đói. Thức ăn ưa thích của chúng là cừu, mặc dù chúng cũng tấn công những con thú săn mồi lớn hơn. Số lượng kangaroo bị giết hại tăng lên chóng mặt vào cuối những năm 1970 được quy do sự việc một con Opaleye cái có sức mạnh vượt trội “hất cẳng” một con Opaleye đực ra khỏi lãnh thổ của con Opaleys đực này.

Trứng của Opaleye có màu xám nhạt và thường bị nhầm lẫn là những hóa thạch bởi những Muggle có bản tính cẩu thả.


CHINESE FIREBALL

(QUẢ CẦU LỬA TRUNG HOA)
(thỉnh thoảng được biết với cái tên Rồng Sư tử)

Cấp độ: XXXXX

Đây là loài rồng Phương Đông duy nhất sở hữu một vẻ ngoài đặc biệt nổi bật. Nó có lớp vảy bóng láng với màu đỏ tươi, một viền các gai nhọn chạy xung quanh khuôn mặt hếch lên của nó và đôi mắt của nó thì cực kỳ lồi.

Fireball có trong tên của nó bởi vì mỗi khi nó giận dữ, nó sẽ phun ra một ngọn lửa có hình như cây nấm từ lỗ mũi của mình. Nó nặng khoảng từ 2 đến 4 tấn, con cái lớn hơn con đực. Những quả trứng của nó có màu đỏ thẫm rực rỡ được điểm xuyết bởi những đốm màu vàng kim và vỏ trứng được sử dụng nhiều làm những phần thưởng cho những phù thủy Trung Hoa.

Fireball rất hung hãn nhưng bọn chúng lại trở nên nền nã với loài của mình hơn bất cứ giống rồng nào, thỉnh thoảng còn đồng ý chia sẻ nơi ở của mình với hai con khác. Thức ăn ưa thích của chúng là những động vật có vú, trong đó thứ chúng ưa thích hơn cả là heo và con người.


COMMON WELSH GREEN

Cấp độ: XXXXX

Rồng Welsh Green dễ dàng hòa lẫn vào trong màu cỏ xanh mơn mởn ở quê hương chúng, nó làm tổ ở những ngọn núi cao, nơi được hình thành để dành riêng cho việc bảo vệ nó. Mặc dù xảy ra sự kiện Ilfracombe Incident*, nhưng loài rồng này là một trong số ít loài rồng ít gây rắc rối nhất, và cũng giống như Opaleye, bọn chúng thích săn những con cừu và tránh xa con người miễn là đừng có quấy rầy chúng.

Welsh Green có giọng gầm dễ nhận ra và giọng gầm của chúng du dương một cách ngạc nhiên. Chúng phun ra những luồng lửa nhanh và mỏng. Trứng của Welsh Green có màu nâu đất, điểm xuyết những đốm màu xanh lá.

* Ilfracombe Incident (Sự cố Ilfracombe): Năm 1932, một con Welsh Green đang bay gần một bờ biển ở Devon thì nó tấn công những người đang tung tăng phía dưới. Có một gia đình phù thủy duy nhất ở đó lúc ấy và họ đã thi triển Bùa chú Lãng quên lớn nhất thế kỷ 20. Gia đình Tike đã trao Huân chương Merlin, Đệ nhất đảng vì hành động anh hùng của họ.

Tuy nhiên, một vài Muggle làm thế nào đó đã tránh được Bùa chú Lãng quên và một người tên là Dirk vẫn cứ huyên thuyên trong nhiều năm rằng “một con thằn lằn bay” đã làm thủng cái phao tắm của anh ta ngày hôm đó. Tuy nhiên, lời kể không làm được gì ngoài việc gây ra bối rối cho những Muggle khác. Và điều này được ghi lại trong quyển sách Muggles Who Notice xuất bản năm 1972.

 



 
 
 


HEBRIDEAN BLACK
(RỒNG ĐEN XỨ HEBRIES)

Cấp độ: XXXXX

Loài rồng có xuất xứ từ Anh khác có tính khí hung hãn hơn bản sao của nó, loài rồng Welsh. Môi trường sống của loài này yêu cầu phải cỡ hàng trăm mét vuông cho một con rồng. Thân hình dài 30 feet (khoảng 9m), với lớp vảy cứng cùng đôi mắt tinh ranh và một dải vây ngắn nhô lên nhưng vô cùng sắc nhọn chạy dọc theo sống lưng. Chóp đuôi của nó có hình thù giống mũi tên và đôi cánh có hình dáng tựa cánh dơi.

Heridean Black đa số thường săn những con nai, đôi khi cũng “quất” những con chó có kích cỡ lớn và thậm chí là ăn cả những con gia súc như bò, ngựa…

Hiệp hội phù thủy Macfusty đã sinh sống ở Hebries trong nhiều thế kỷ có truyền thống lâu đời trong việc chịu trách nhiệm trông nom những con rồng Hebridean Black này.


HUNGARIAN HORNTAIL
(RỒNG ĐUÔI SỪNG HUNGARY)

Cấp độ: XXXXX
Ảnh của Pietro Bastas

Được cho là loài rồng nguy hiểm nhất (đang nói giỡn hay nói đùa vậy) trong số các loài rồng, Hungarian Horntail có lớp vảy màu đen và hình dáng giống thằn lằn. Nó có đôi mắt màu vàng, những cái sừng màu đồng và những gai nhọn có màu sắc tương tự nhô lên từ cái đuôi dài của nó. Horntail là một trong những loài rồng phun ra ngọn lửa dài nhất (lên tới 50 feet ~15m).

Trứng của chúng có màu xám xi măng và vỏ đặc biệt cứng. Những con rồng con sẽ chui ra ngoài bằng cách dùng đuôi của chúng, dù mới nở thôi nhưng những gai nhọn trên đuôi đã phát triển rất cứng cáp.

Hungarian Horntail ăn chủ yếu là dê, cừu và bất cứ khi nào có thể, con người.


NORWEGIAN RIDGEBACK BABY ROBERT

Cấp độ: XXXXX

Norwergian Ridgeback là loài rồng có hình dạng giống với loài Horntail nhất, tuy nhiên, thay vì có gai ở đuôi thì loài này lại có một hàng gai đen tuyền nổi bật chạy dọc sống lưng. Cùng với bản tính đặc biệt hung hãn, loài Ridgeback ngày nay trở thành một trong những loài vô cùng quý hiếm. Nó nổi tiếng với việc thích tấn công các loài động vật có vú to lớn trên cạn, và điều không thường thấy ở loài rồng, con quỷ này nó cũng tấn công luôn mấy sinh vật bơi dưới nước.

Một báo cáo chưa xác thực ‘cáo buộc’ một con Ridgeback đã cắp một con cá voi con khỏi bờ biển Nauy năm 1802. Trứng của loài này có màu đen và khả năng phun lửa ở các con non của loài này sớm hơn các loài khác (trong khoảng giữa 1 – 3 tháng).


PERUVIAN VIPERTOOTH

Cấp độ: XXXXX

Đây là loài rồng nhỏ nhất trong tất cả các loài rồng được biết đến và là loài có tốc độ nhanh nhất khi đánh nhau. Có chiều dài khoảng tầm 4.7m, loài Peruvian Vipertooth có lớp vảy mềm màu đồng cùng với những vết lằn gợn màu đen. Sừng của chúng ngắn và răng nanh chúng cực kỳ độc.

Bọn chúng có thể tóm gọn dễ dàng những con dê và bò nhưng cũng rất thích thú với con người, đến nỗi Liên đoàn Phù thuỷ quốc tế đã phải phái người đi giết bớt bọn chúng vào cuối thế kỷ thứ 19 nhằm bớt số lượng loài Vipertooth, khi số lượng chúng thời điểm đó tăng lên với mức độ báo động.


ROMANIAN LONGHORN

Cấp độ: XXXXX

Longhorn có lớp vảy màu lục sẫm, những chiếc sừng dài, màu vàng lấp lánh, sử dụng để húc con mồi trước khi nướng chín chúng. Khi ở dạng bột, sừng của chúng có giá trị cao trong nguyên liệu độc dược.

Lãnh thổ sinh sống của Longhorn giờ đây đã trở thành nên bảo tồn rồng quan trọng nhất của thế giới, với rất nhiều pháp sư tề tựu để nghiên cứu về các loài rồng ở phạm vi gần. Longhorn cũng đã trở thành một đề tài nghiên cứu nhân giống chuyên sâu vì số lượng giảm đi đáng kể trong những năm gần đây, khi nạn buôn lậu sừng xảy ra thường xuyên. Hiện giờ sừng của chúng được xếp vào Hàng hoá có thể trao đổi Cấp độ B.


SWEDISH SHORT – SNOUT

Cấp độ: XXXXX

Loài Swedish Short – Snout là loài rồng có màu lục bạc vô cùng thu hút, lớp da của nó luôn được săn kiếm cho việc sản xuất các găng tay bảo vệ và khiên chắn.

Ngọn lửa phun ra từ lỗ mũi của chúng có màu lam rực rỡ và có thể thiêu đốt gỗ và xương thành tro chỉ trong vòng vài giây. Loài Short – Snout này ít liên quan tới mấy vụ giết chóc con người hơn các loài rồng khác. Mặc dù chúng thích sống ở các nơi hoang dã và vùng núi không có người sinh sống, nhưng con người cũng không nên tin tưởng chúng quá nhiều.


UKRAINIAN IRONBELLY

Cấp độ: XXXXX

Là loài rồng lớn nhất thế giới, Ironbelly được biết đến với cân nặng lên đến 6 tấn. Tiếng kêu chói tai và chậm chạp khi đánh nhau khi so với loài Vipertooth hay Longhorn, tuy nhiên loài Ironbelly cũng cực kỳ nguy hiểm, có khả năng nghiền nát nhà cửa, chỗ ở trong phạm vi vùng đất của chúng. Lớp vảy loài này có màu xám ánh kim, cặp mắt sâu màu đỏ và móng vuốt cực kỳ dài và xấu xí.

Ironbell là loài rồng chịu sự giám sát thường xuyên của chính quyền pháp sư Ukraina kể từ sự kiện chúng cắp một con tàu (ơn trời là không có ai trong đó) lên khỏi Biển Đen năm 1799.


DUGBOG

Cấp độ: XXX

Dugbog là sinh vật vùng đầm lầy được tìm thấy ở Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ. Nhìn xa trông chúng như một khúc gỗ khô khi chúng bất động, nhưng khi lại gần sẽ nhìn thấy những bàn chân có màng và hàm răn sắt nhọn. Chúng lướt và trượt nhẹ nhàng ở vùng nước đầm lầy, thức ăn chủ yếu là các động vật có vú nhỏ và cũng sẵn lòng làm bị thương mắc cá chân của con người khi họ đi vào khu vực của chúng.

Tuy nhiên, thức ăn ưa thích của chúng là Mandrake. Những người trồng Mandrake được biết là khi tới thu hoạch lá của loài cây quý này đã phát hiện ra một đống bầy nhầy nát bươm kinh hãi bởi vì sự ‘quan tâm’ từ một con Dugbog.

About The Author

Ngo David

Power is Power