Trò chơi vương quyền – Xa hơn những Thành phố tự trị

Trò chơi vương quyền – Xa hơn những Thành phố tự trị

Tựa sách: Thế giới của Băng và Lửa (tựa gốc: The World of Ice & Fire)

Tác giả: George. R.R. Martin

Nhóm dịch: Bapstory.net

Chúng ta có thể biết được hết những vùng đất và dân tộc tồn tại trên thế giới này không? Chắc chắn là không. Những chiếc bản đồ mà chúng ta có đều không thể vẽ được hết, và dù là tấm bản đồ chi tiết nhất cũng đều để lại rất nhiều dấu hỏi về những vùng đất xa xôi phía Đông, thể hiện rất nhiều những khoảng trống mà chúng ta chưa biết tới. Thế nhưng chúng vẫn mang lại cho ta nhiều điều để thảo luận về những nơi mà chúng ta đã biết, dù cho những nơi này rất hiếm khi thông thương với Bảy Vương Quốc, thậm chí hiếm hoi hơn nhiều khi so với cả Những Thành Phố Tự Trị.

Phía ngoài Rừng Qohor, Essos mở ra một vùng đồng bằng rộng lớn lộng gió, những ngọn đồi thoai thoải, những thung lũng ven sông phì nhiêu, những hồ nước trong xanh và thảo nguyên vô tận, nơi cỏ mọc cao tới đầu ngựa. Từ Rừng Qohor ở phía Tây đến những ngọn núi cao chót vót được gọi là Bone, những cánh đồng cỏ trải dài hơn bảy trăm dặm.

Chính ở giữa những đồng cỏ này, những khu định cư của con người đã mọc lên tại Kỷ Bình Minh. Mười nghìn năm trước hoặc có thể hơn, khi Westeros vẫn còn là một vùng đất hoang vu chỉ có những người khổng lồ và những đứa trẻ rừng rậm sinh sống, những thị trấn thực sự đầu tiên đã xuất hiện bên cạnh bờ sông Sarne và vô số những nhánh sông nhỏ đổ ra Sarne trên suốt dòng chảy uốn khúc của nó về phía bắc cho đến Biển Rùng Mình.

Lịch sử về những ngày đó đã bị lãng quên, thật đáng buồn phải nói vậy, vì các vương quốc vùng đồng cỏ đã thành lập và lụi tàn rất lâu trước khi loài người biết đến chữ viết. Chỉ có những huyền thoại còn truyền lại. Từ những huyền thoại đó, chúng ta biết đến Những Nữ Hoàng Đánh Cá, người cai trị các vùng đất liền kề với Biển Bạc — vùng biển lớn nằm trong đất liền ở trung tâm của vùng đồng cỏ — tại một cung điện nổi trải rộng tít tắp quanh bờ biển.

Có đủ những câu chuyện để thuyết phục hầu hết mọi người tin tưởng về sự tồn tại trong quá khứ của Biển Bạc, mặc dù do lượng mưa giảm dần trong nhiều thế kỷ, nó đã bị thu hẹp nghiêm trọng đến mức ngày nay chỉ còn lại ba hồ lớn tại nơi mà trước kia từng là những vùng biển nước lấp lánh dưới ánh mặt trời.

Các vị Nữ Hoàng Đánh Cá khôn ngoan, nhân từ và sùng đạo, lịch sử kể lại như vậy, các vị vua chúa và các nhà thông thái mạo hiểm tìm đến cung điện nổi để xin lời khuyên từ họ. Tuy nhiên, phía ngoài lãnh thổ của họ, các dân tộc khác vùng lên rồi lại suy tàn qua những trận chiến, tranh giành địa vị với nhau. Một số học sĩ tin rằng những người First Men khởi nguồn từ đây trước khi bắt đầu cuộc di cư dài về phía Tây đưa họ băng qua vùng Cánh Tay xứ Dorne đến Westeros. Người Andal cũng vậy, có thể đã khởi nguồn từ những cánh đồng màu mỡ phía Nam Biển Bạc. Những câu chuyện kể về tộc Người Rậm Lông, một chủng tộc gồm những chiến binh man rợ lông xù, cưỡi kỳ lân chiến đấu. Mặc dù to lớn hơn người Ib của hiện tại, tộc người này có vẻ là tổ tiên của họ. Chúng ta cũng nghe nói về thành phố đã mất tích Lyber, nơi các nữ thần nhện và thần rắn đã chiến đấu trong một cuộc chiến đẫm máu bất tận. Phía Đông của họ là vương quốc của nhân mã, những sinh vật nửa người nửa ngựa.

Ở phía đông nam, các thành phố tự trị nổi tiếng của người Qaath mọc lên; trong những khu rừng ở phía Bắc, dọc theo bờ Biển Rùng Mình, là lãnh địa của những tộc người sống trong rừng, một loại cư dân địa phương nhỏ bé mà nhiều học sĩ tin rằng có họ hàng với những đứa trẻ rừng rậm; trong số đó có thể kể đến những vương quốc trên đồi của người Cymmeri, tộc Gipp chân dài với những chiếc khiên đan bằng liễu gai và mái tóc cứng màu vôi, và tộc Zoqora da nâu với mái tóc xám nhạt, cưỡi những chiếc xe ngựa ra chiến trận.

Hầu hết các dân tộc này giờ đã biến mất, các thành phố của họ bị đốt cháy và chôn vùi, các vị thần và người hùng của họ đều bị lãng quên. Trong số các thành phố của người Qaath, chỉ còn lại Qarth, lưu giữ những ký ức về những vinh quang trong quá khứ bên cạnh Cổng Ngọc Bích được canh gác cẩn mật, nối liền Biển Mùa Hạ và Biển Ngọc Bích. Những nơi khác đã bị tiêu diệt, bị bỏ hoang, hoặc bị chinh phục và đồng hóa bởi những người đến sau.

Cư dân Westeros vẫn còn tưởng nhớ những người chinh phục của mình là những người Sarnori, vì ở thời kỳ đỉnh cao, vương quốc vĩ đại của họ bao trùm tất cả các vùng đất quanh sông Sarne và các nhánh của nó, và ba hồ lớn vốn là những gì còn lại của Biển Bạc. Họ tự gọi mình là Tall Men – Những Người Cao Lớn (theo ngôn ngữ riêng của họ là Tagaez Fen). Có chân tay dài và da nâu, giống với tộc Zoqora, mặc dù vậy tóc và mắt của họ đen như màn đêm. Các chiến binh, thầy phù thủy và học giả, họ đều là hậu duệ của vị vua anh hùng mà họ gọi là Huzhor Amai (Xuất Chúng), được sinh ra bởi vị Nữ Hoàng Đánh Cá cuối cùng, ông đã kết hôn với con gái của các vua chúa vĩ đại nhất thuộc các tộc Gipp, Cymmeri, và Zoqora, thống nhất cả ba dân tộc dưới quyền cai trị của mình. Người ta nói rằng chính người vợ Zoqora lái chiếc xe ngựa của ông, người vợ Cymer đã rèn ra chiếc áo giáp cho ông (vì dân tộc của bà là những người đầu tiên biết kĩ năng luyện sắt), và ông khoác trên vai mình một chiếc áo choàng lớn làm từ da của một vị vua của tộc Người Rậm Lông.

Đại Học Sĩ Hagedorn đã đưa ra giả thuyết rằng các nhân mã thực ra chỉ là những chiến binh cưỡi trên lưng ngựa, bị nhầm lẫn bởi các bộ tộc lân cận, những người chưa biết cách thuần hóa và cưỡi ngựa. Quan điểm của ông đã được chấp nhận rộng rãi tại Old Town, bất chấp những “bộ xương nhân mã” thỉnh thoảng lại xuất hiện một cách có mục đích trong các cửa hàng tạp hóa.

Một người như vậy có thể đã từng tồn tại hoặc cũng có thể không, nhưng không ai có thể nghi ngờ về vinh quang của tộc Tall Men ở thời đỉnh cao của họ. Một dân tộc kiêu hãnh và hay xung đột, họ hiếm khi thống nhất dưới một người cai trị duy nhất, nhưng những vương quốc của họ thống trị vùng đồng cỏ phía Tây, từ rừng Qohor đến bờ Đông của Biển Bạc giờ đã biến mất, và trải dài thêm ra xa hơn năm mươi dặm nữa. Các thành phố lấp lánh của họ nằm rải rác trên đồng cỏ như những viên ngọc quý trên lớp áo nhung xanh, lấp lánh dưới ánh sáng của mặt trời và các vì sao. Vĩ đại nhất trong số những thành phố này là Sarnath của vùng Tháp Cao, nơi Đức Vua Tối Cao ngự ở trong Cung Điện Một Nghìn Căn Phòng nổi tiếng.

Theo luật lệ và truyền thống, tất cả những vị vua nhỏ của người Sarnori đều chịu cai trị bởi Đức Vua Tối Cao, nhưng trong thực tế rất hiếm Đức Vua Tối Cao có được quyền lực thực sự.

Ở phương Đông mọc lên Kasath, Thành Phố Của Những Cỗ Xe Ngựa; Sathar, Thành phố Thác Nước, ở điểm giao nhau của hai nhánh của Sarne; Gornath Bên Hồ, với các kênh đào rộng lớn; Sallosh cạnh Bờ Biển Bạc, Thành Phố Của Các Học Giả, với thư viện rộng lớn và những Bức Tường Tranh Vẽ. Ở hạ lưu, nơi Sarne đổi hướng về phía bắc, các thành phố ven sông thịnh vượng Rathylar, Hornoth và Kyth tiếp đón những con tàu lướt qua vùng nước xanh thẳm của dòng sông. Ở đây cũng có Mardosh, Thành Phố Của Những Chiến Binh, nổi tiếng với cái tên Mardosh Không Thể Bị Chinh Phục. Tại vùng đồng bằng phù sa, nơi Sarne tách ra và chảy vào Biển Rùng Mình, có các thành phố cảng Saath (ở phía Tây) và Sarys (ở phía Đông).

Vương quốc Sarnor (thường được gọi như vậy, mặc dù nơi đây có khoảng bốn chục vị vua đối đầu nhau) là một trong số những nền văn minh vĩ đại của thế giới trong hơn hai nghìn năm, nhưng phần lớn những gì chúng ta biết về họ chỉ đến từ những mẩu tài liệu rời rạc của lịch sử đã thất truyền, đáng chú ý nhất là cuốn Biên Niên Sử Đông Và Hạ, và những ghi chép về họ tại Qarth, Vịnh Nô Lệ và các Thành Phố Tự Trị. Các thương nhân Sarnori đã đến Valyria và Yi Ti, đến Leng và cả Asshai. Tàu của người Sarnori đi trên Biển Rùng Mình đến Ib, vùng Ngàn Đảo và vùng Far Mossovy. Các vị vua của Sarnori đã chiến đấu chống lại người Qaath cùng với Đế Chế Cổ Ghis, và dẫn dắt nhiều cuộc chiến chống lại các nhóm kỵ sĩ du mục lang thang trên thảo nguyên ở phía Đông vương quốc của họ.

Những kỵ sĩ của họ mang trang bị bằng thép và tơ nhện, cưỡi những con ngựa đen như than, trong khi những chiến binh vĩ đại nhất của họ ra trận trên những cỗ chiến xa được kéo bởi những con ngựa lông đỏ như máu (thường do vợ hoặc con gái của họ điều khiển, vì phong tục của những người Sarnori là nam nữ cùng ra trận với nhau).

Ngay cả tại Bảy Vương Quốc, vinh quang của Sarnath vùng Tháp Cao cũng được tôn vinh, và Lomas Longstrider đã đưa Cung Điện Một Nghìn Phòng vào một trong số chín Kỳ Quan Nhân Tạo.

Tuy nhiên, ngày nay, Vương quốc Sarnori hầu như đã bị lãng quên, và ngày càng có nhiều người ở Westeros, ngay cả những học viên tại Citadel, biết rất ít về lịch sử lâu đời, đáng tự hào của nơi này. Các tòa tháp của họ đều đã sụp đổ, các thành phố của họ đổ nát và hoang phế, cỏ dại độc mọc cao vút ở những nơi từng là những trang trại, cánh đồng và thị trấn. Những vùng đất mà họ từng cai trị giờ đây chỉ còn là những vùng thưa thớt dân cư và chỉ có những khalasar tha hương của các chúa ngựa Dothraki đi ngang qua và những đoàn lữ hành được các khal cho phép hành hương một chặng đường dài và chậm chạp từ các Thành Phố Tự Trị đến Vaes Dothrak và Mẹ Của Những Ngọn Núi.

Những kẻ lữ hành đặt tên cho những vùng đất này là những Vùng Đất Ma Ám vì nhiều thành phố đổ nát nằm rải rác, hoặc Đại Hoang Phế vì sự trống trải nơi đây, nhưng ngày nay nơi đây được biết đến nhiều nhất với cái tên biển Dothraki. Tuy nhiên, cách gọi đó chỉ xuất hiện gần đây, vì Dothraki là một chủng tộc trẻ, và chỉ kể từ khi sự kiện Ngày Tận Thế phá hủy Valyria, các khalasar của họ mới thống trị những vùng đất này, quét sạch phía Đông bằng lửa và thép để chinh phục và phá hủy các thành phố cổ đại từng phát triển mạnh mẽ, biến những dân tộc nơi đây thành nô lệ.

Các vương quốc Sarnori vĩ đại sụp đổ chỉ trong chưa đầy một thế kỷ. Trong khi các Thành Phố Tự Trị ở phía Tây bị phong tỏa trong một cuộc xung đột đẫm máu để giành quyền thống trị trong suốt quãng thời gian được gọi là Thế Kỷ Đẫm Máu, vùng đồng cỏ cũng chìm đắm trong chiến tranh. Trong suốt những năm sau sự kiện Ngày Tận Thế, những kỵ sỹ ở vùng thảo nguyên phía Đông, ngày nay bị chia thành ba bộ tộc xung đột và chiến tranh liên miên với nhau, cuối cùng đã được thống nhất dưới một thủ lĩnh duy nhất, một vị khal tên là Mengo. Được sự cố vấn của mẹ mình, nữ hoàng phù thủy Doshi, Khal Mengo đã buộc những người du mục khác chấp nhận quyền cai trị của mình, tiêu diệt hoặc bắt làm nô lệ những kẻ kháng cự.

Đế Chế Cổ Ghis đã chiến đấu năm cuộc chiến chống lại Đế Chế Freehold của Valyria đang trỗi dậy, lịch sử đã chứng minh. Trong các cuộc Chiến Tranh Ghiscari lần thứ hai và thứ ba, tộc Tall Men đã kết liên minh tham chiến cùng với người Valyria. Trong cuộc Chiến tranh lần thứ tư, các vị vua đối địch nhau đứng về phía các phe đối lập, một số gia nhập Ghiscari và những người còn lại về phe người Valyria. Lomas Longstrider đã viết về một tháp pháo bị đổ có khắc hình các đồng minh của Ghis trong cuộc chiến thứ tư đó, và lưu ý rằng những chiến binh cao nhất được miêu tả — trông còn cao hơn do những chiếc mũ cao — là người Sarnori. Tượng đài được dựng lên bởi người Ghis, nhưng các hình chạm khắc là bởi người Valyria, thể hiện tất cả các chiến binh đã bị bắt và làm nô lệ.

Sau đó, khi đã già, ông chuyển hướng sang phía Tây.

Khinh thường các kỵ sĩ, những kẻ đã không xứng làm mối hiểm họa cho họ trong nhiều thế kỷ, tộc Tall Men đã phớt lờ mối đe dọa từ phía Đông quá lâu, ngay cả khi các khalasar bắt đầu đột kích trên khắp các vùng thảo nguyên phía Đông của họ. Một số vị vua thậm chí còn tìm cách lợi dụng người Dothraki cho các cuộc chiến của riêng mình, trao cho họ vàng, nô lệ và những món quà khác để chiến đấu chống lại các đối thủ của mình. Khal Mengo vui mừng nhận lấy những món quà này… sau đó cũng chiếm luôn những vùng đất bị ông chinh phục, đốt cháy những cánh đồng, nông trại và thị trấn để trả lại vùng đồng cỏ về trạng thái hoang dã của chúng (vì người Dothraki coi trái đất là mẹ của họ và nghĩ rằng thật tội lỗi khi cắt xẻ bà bằng máy cày, cuốc xẻng và rìu).

Mãi cho đến khi con trai của Mengo, Khal Moro cùng khalasar của mình đến tận cổng Sathar, Thành Phố Thác Nước huyền thoại, thì những người tộc Tall Men dường như mới nhận ra mối nguy. Thất bại tan nát trong trận chiến, những người đàn ông của Sathar bị xử tử, phụ nữ và trẻ em của họ bị mang đi làm nô lệ; ba phần tư trong số họ đã chết trong cuộc lữ hành khắc nghiệt về phía nam tới các chợ nô lệ tại các thành phố đồi của người Ghiscari là Hazdahn Mo. Sathar, thành phố tráng lệ nhất trong số các thành phố của vùng đồng cỏ, đã bị thiêu rụi thành tro bụi. Người ta ghi chép lại rằng chính Khal Moro đã đặt tên mới cho vùng phế tích còn lại này là: Yalli Qamayi, nghĩa là Những Đứa Trẻ Than Khóc.

Ngay cả tới lúc đó, các vị vua của Sarnor tỏ ra không thể đoàn kết với nhau. Khi Sathar bị cháy, các vị vua của Kasath ở phía Tây và Gornath ở phía Bắc đã gửi quân đội của họ, không phải để hỗ trợ các nước láng giềng của mình mà để đòi chia một phần chiến lợi phẩm. Vì lòng tham đất đai, Kasath và Gornath thậm chí còn xung đột với nhau và nổ ra một trận chiến kịch liệt cách Sathar ba ngày cưỡi ngựa về phía Tây, ngay trong khi những đám khói đen vẫn đang bốc lên từ bầu trời phía Đông.

Đây không phải là nơi để ghi lại các sự kiện của những năm và các cuộc chiến tranh sau đó, khi các thành phố lớn của Vương quốc Sarnor lần lượt thất thủ trước người Dothraki. Những ai muốn xem những ghi chép chi tiết hơn có thể đọc cuốn Hồi Kết Của Tộc Tall Men của Bello, cuốn Những Bộ Tộc Ngựa của Học Sĩ Illister, cuốn Theo Chân Dân Du Mục Của Vùng Đồng Cỏ Phía Đông Essos, các chương viết về phía đông và các phụ lục của cuốn Các Trận Chiến Và Công Thành Trong Thế Kỷ Đẫm Máu của Học Sĩ Joseth, và cuối cùng là cuốn Những Thành Phố Bị Tàn Phá, Những Vị Thần Bị Mất của Vaggoro.

Có thể nói rằng trong số tất cả các thành phố Sarnori kiêu hãnh, chỉ có Saath là vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay, và thành phố cảng đó là một nơi đáng buồn, đã suy tàn đi nhiều so với trước đây, tồn tại phần lớn nhờ sự hỗ trợ từ Ib và Lorath (có thuộc địa Morosh gần đó). Chỉ ở Saath, đàn ông vẫn tự gọi mình là Tagaez Fen; còn lại chưa tới hai mươi nghìn người, trong khi số lượng những người Tall Men từng có thời kỳ lên đến hàng triệu. Chỉ có tại nơi đây, hàng trăm vị thần của Vương quốc Sarnor vẫn được tôn thờ. Những bức tượng có vẻ như làm bằng đồng và đá cẩm thạch từng trang trí đường phố và đền thờ của tộc Tall Men nay nghiêng ngả, bị cỏ dại mọc um tùm, dọc theo những con đường giữa đồng cỏ của Vaes Dothrak, thành phố linh thiêng của các chúa ngựa.

Sathar là thành phố đầu tiên của vùng đồng cỏ rơi vào tay người Dothraki, nhưng không có nghĩa là thành phố cuối cùng. Sáu năm sau, Khal Moro cũng đánh bại Kasath. Trong cuộc tấn công này, những kỵ sĩ của ông đã được hỗ trợ, rất nhiều, bởi Gornath, vị vua nơi đây đã liên minh với người Dothraki và lấy một trong số những người con gái của Moro làm vợ. Tuy nhiên, chính Gornath cũng là nơi tiếp theo thất thủ, mười hai năm sau đó. Vào thời điểm đó, Khal Horro đã giết chết Khal Moro, chấm dứt dòng dõi của Khal Mengo hùng mạnh. Vua của Gornath đã chết dưới tay chính người vợ Dothraki của mình, bà đã coi thường ông vì sự yếu đuối, lịch sử kể lại như vậy. Sau đó, Khal Horro đã cướp bà đi, trong khi lũ chuột gặm nhấm xác chết người chồng quá cố của bà.

Horro là vị khal cuối cùng cai trị toàn bộ người Dothraki. Khi ông bị giết trong một trận đấu, chỉ ba năm sau khi Gornath bị tiêu diệt, khalasar vĩ đại của ông bị tan rã thành một tá nhóm nhỏ hơn, và các kỵ sĩ một lần nữa lại tiếp tục xung đột với nhau. Tuy nhiên, sự suy yếu này chỉ giúp Vương quốc Sarnor tồn tại thêm một khoảng thời gian ngắn ngủi, vì những người Tall Men đã thể hiện sự yếu đuối của mình, và các khal từng đi theo Horro cũng có chung sở thích chinh phục với ông. Trong những năm sau đó, họ cố gắng vượt lên nhau bằng cách chinh phục các vùng lãnh thổ ngày càng rộng lớn, phá hủy các thành phố trên đồng cỏ, bắt các dân tộc làm nô lệ, và mang những bức tượng thần vỡ nát về Vaes Dothrak để làm bằng chứng cho chiến thắng.

Lần lượt các thành phố còn lại của người Tall Men bị càn quét và phá hủy, chỉ còn lại đống đổ nát và tro tàn tại nơi từng là những ngọn tháp kiêu hãnh đứng sừng sững. Đối với các học giả và những người nghiên cứu lịch sử, sự sụp đổ của Sallosh Cạnh Bờ Biển Bạc đặc biệt bi thảm, vì khi Thành Phố Của Các Học Giả đó bị thiêu rụi, thư viện vĩ đại nơi đây cũng không thoát khỏi số phận chung, và hầu hết lịch sử của người Tall Men cùng các dân tộc đã tồn tại trước họ đã bị mất vĩnh viễn.

Kyth và Hornoth cũng chung số phận ngay sau đó, bị tiêu diệt bởi các khal khác nhau, người này lại cố tìm cách vượt qua người kia về sự man rợ. Thành phố pháo đài Mardosh Không Thể Bị Chinh Phục đã kháng cự được những chúa ngựa lâu nhất. Trong gần sáu năm, thành phố đã kháng cự, bị chia cắt khỏi vùng nội địa, bị bao vây bởi hàng loạt các khalasar nối tiếp nhau. Bị rơi vào nạn đói, người Mardosh đã phải ăn thịt chó và ngựa của họ, sau đó là chuột cống, chuột chù và các loài sâu bọ khác, và cuối cùng bắt đầu ăn thịt xác chết đồng loại. Khi họ không thể cầm cự thêm được nữa, những chiến binh sống sót tại các đồn trú trong thành phố đã giết vợ và con của mình để họ không lọt vào tay các khal, sau đó mở cổng thành và xông ra, tổ chức một cuộc tấn công cuối cùng. Họ đã bị triệt hạ cho tới người cuối cùng. Sau đó, người Dothraki đặt tên cho tàn tích của Mardosh là Vaes Gorqoyi, Thành Phố Máu Đổi Máu.

Sự sụp đổ của Mardosh cuối cùng đã đánh thức các vị vua còn lại của người Sarnori về hiểm họa chung. Cuối cùng, gạt bỏ những xung đột và ganh đua giữa họ sang một bên, những người Tall Men tập hợp nhau lại từ thượng nguồn tới hạ nguồn sông Sarne, tập hợp một đội quân lớn bên dưới các bức tường của Sarnath, với ý định đập tan sức mạnh của các khal vì lợi ích chung. Được chỉ huy bởi Mazor Alexi, Vị Vua Tối Cao cuối cùng, họ tấn công táo bạo về phía đông. Trên bãi cỏ cao nằm giữa Sarnath và tàn tích của Kasath, họ đụng độ một liên minh của bốn khalasar ở nơi mà từ đó về sau được gọi là Cánh Đồng Quạ.

Trận chiến trước cổng Sathar

Khal Haro, Khal Qano, Khal Loso (Khal Què) và Khal Zhako chỉ huy gần tám mươi nghìn kỵ sĩ, lịch sử kể lại như vậy. Lực lượng khổng lồ của Đức Vua Tối Cao Sarnor tiên phong bởi sáu nghìn cỗ xe ngựa, với mười nghìn kỵ sĩ giáp trụ đẩy đủ phía sau, và một vạn kỵ binh hạng nhẹ khác (nhiều người trong số họ là phụ nữ) ở hai bên sườn. Phía sau họ là bộ binh Sarnori, gần một trăm nghìn tay giáo và gậy gộc, khiến cho người Tall Men áp đảo về quân số. Tất cả các biên niên sử đều thống nhất về điều này.

Khi trận chiến bắt đầu, chiến xa của Sarnori vô cùng mạnh mẽ nghiền nát tất cả kẻ địch phía trước họ. Cuộc tấn công rung chuyển cả mặt đất của họ xuyên thủng qua trung tâm hàng ngũ của người Dothraki, những lưỡi kiếm quay trên bánh xe của họ cắt đứt chân của những con ngựa Dothraki. Khi chính Khal Haro ngã xuống, bị cắt thành nhiều mảnh và bị giẫm đạp, khalasar của ông bị tan rã và bỏ chạy. Những chiến xa ầm ầm đuổi theo những kỵ sĩ đang chạy trốn, Đức Vua Tối Cao và những kỵ sỹ mặc giáp của ông theo sau họ, tiếp theo là bộ binh Sarnori, vung giáo và hét lên chiến thắng.

Niềm vui của họ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Họ đã bị lừa. Khi đã lôi kéo những người Tall Men vào sâu trong bẫy, những người Dothraki đang chạy trốn đột ngột quay lại và phóng ra một cơn bão tên từ những cây cung lớn của họ. Các khalasar của Khal Qano và Khal Zhako tràn vào từ phía bắc và phía nam, trong khi Loso Què và những kỵ sĩ của ông ta phi vòng quanh tấn công Sarnori từ phía sau, cắt đứt đường rút lui của họ. Bị bao vây hoàn toàn, Đức Vua Tối Cao và đội quân hùng mạnh của ông bị đập tan thành từng mảnh. Một số tư liệu nói rằng một trăm nghìn người đã chết vào ngày hôm đó, trong số đó có Mazor Alexi, sáu vị vua dưới quyền, cùng với hơn sáu mươi lãnh chúa và anh hùng. Khi bầy quạ ăn xác chết của họ, những kỵ sỹ thuộc các khalasar đi giữa những người chết và tranh giành những đồ vật có giá trị.

Không còn lực lượng phòng thủ, Sarnath Của Những Tòa Tháp Cao thất thủ trước Loso Què chưa đầy hai tuần sau đó. Ngay cả Cung Điện Một Nghìn Phòng cũng không là ngoại lệ khi Khal Loso thiêu rụi cả thành phố.

Các thành phố còn lại của vùng đồng cỏ nối tiếp nhau chịu chung số phận, khi Thế Kỷ Đẫm Máu dần kết thúc. Sarys, ở cửa sông Sarne, là nơi cuối cùng thất thủ nhưng chẳng cống nạp được nhiều nô lệ hoặc tài sản, vì người dân thành phố đã phần lớn chạy trốn vào thời điểm mà Khal Zeggo tấn công nơi này.

Vương quốc Sarnor không phải là nạn nhân duy nhất của các chúa ngựa. Thuộc địa Essaria của người Valyria, đôi khi còn được nhớ đến với cái tên Thành Phố Tự Trị Đã Mất, cũng bị đàn áp tương tự. Ngày nay tàn tích của nó được người Dothraki biết đến với cái tên Vaes Khadokh, Thành Phố Của Những Xác Chết. Ở phía bắc, Khal Dhako cướp phá và thiêu rụi Ib, giành lại hầu hết các pháo đài nhỏ mà người Ib đã dựng lên trên bờ biển phía bắc của Essos (một nhóm cư dân người Ib nhỏ đã sống sót trong những khu rừng rậm rạp bên cạnh Biển Rùng Mình, tụ tập xung quanh thị trấn họ đã đặt tên là Người Ib Mới). Ở phía Nam, các khal khác dẫn các khalasar của họ tiến vào Sa Mạc Đỏ, phá hủy các thị trấn và các thành phố của người Qaath từng nằm rải rác trên sa mạc, cho đến khi chỉ còn lại thành phố Qarth vĩ đại, được bảo vệ bởi bức tường ba lớp cao ngất.

Cho dù có lịch sử lâu đời,nhưng ta biết rất ít về người Qaath — một dân tộc hiện đã biến mất khỏi thế giới này chỉ còn để lại một chút tàn dư ở Qarth.

Điều chúng ta biết là người Qaath ban đầu sinh sống trên vùng đồng cỏ và thành lập các thị trấn ở đó, thông thương và đôi khi xung đột với người Sarnori. Thường là họ thua trong những cuộc chiến này, và vì vậy bắt đầu dạt xa hơn về phía Nam, tạo ra các thành phố mới. Một trong số đó, Qarth, được thành lập trên bờ Biển Mùa Hạ. Tuy nhiên, những vùng đất ở phía nam Essos tỏ ra hiếu khách hơn những vùng đất mà người Qaath đã dời tới, nơi đây biến thành sa mạc ngay cả khi họ đang sinh sống ở đó. Người Qaath đang trên đường sụp đổ khi sự kiện Ngày Tận Thế xảy ra, và mọi hy vọng sử dụng sự hỗn loạn ở vùng Biển Mùa Hạ để tìm kiếm lợi ích đều tan biến khi người Dothraki tấn công, phá hủy tất cả các thành phố của người Qaath còn lại ngoại trừ chính Qarth.

Tuy nhiên, theo một cách nào đó, chính sự hủy diệt của người Dothraki đã dẫn đến sự hồi sinh cho Qarth. Bị buộc phải tìm đường ra biển, gia tộc Pureborn cai trị Qarth đã nhanh chóng xây dựng một hạm đội và nắm quyền kiểm soát Cổng Ngọc Bích — eo biển giữa Qarth và Great Moraq, nối liền Biển Mùa Hè với Biển Ngọc Bích. Với việc hạm đội của người Valyria bị tiêu diệt, và sự chú ý của Volantis hướng về phía Tây, không ai chống lại họ khi họ thiết lập quyền kiểm soát trên tuyến đường ngắn nhất nối liền Đông và Tây, và do đó đã đạt được lợi nhuận to lớn nhờ cả thương mại lẫn thu phí mãi lộ.

Nhiều người ở các Thành Phố Tự Trị tin rằng cuộc chinh phạt về phía Tây của các kỵ sĩ Dothraki đã bị đẩy lùi tại Qohor, khi nỗ lực của Khal Temmo để chiếm thành phố này đã bị đánh bại bởi sự dũng cảm của ba nghìn lính nô lệ Unsullied, những người đã kiên cường chống lại mười tám lần tấn công của những kẻ xâm lược. Tuy nhiên, niềm tin rằng lần trụ vững của Ba Ngàn Lính Qohor đã đặt dấu chấm hết cho giấc mơ chinh phục của người Dothraki, đã tạo ra một sự tự mãn tương tự như sự tự mãn của Đức Vua Tối Cao của Sarnor khi các kỵ sĩ lần đầu tiên xâm lược từ phía đông. Những người đàn ông khôn ngoan hơn biết rằng chỉ còn là vấn đề thời gian cho đến khi các khalasar đoàn kết lại dưới trướng một vài vị khal vĩ đại và trở lại phía tây một lần nữa tìm kiếm những cuộc chinh phục mới.

Người Dothraki cũng đã cố gắng mở rộng đế chế của mình về phía Đông, nhưng ở đó họ nhận thấy Dãy Núi Bone là một chướng ngại vật gần như không thể vượt qua. Những đỉnh núi ảm đạm, khắc nghiệt đó tạo thành một bức tường đá bao la chắn giữa những con ngựa với của cải của Những Vùng Đất Phía Đông. Chỉ có ba con đèo đủ lớn để đưa một đội quân đi qua, và trấn giữ những con đường đó là các pháo đài hùng mạnh Bayasabhad, Samyriana và Kayakayanaya, được bảo vệ bởi hàng vạn nữ chiến binh dũng mãnh, tàn dư cuối cùng của vương quốc Hyrkoon vĩ đại, nơi từng phát triển mạnh mẽ vượt ra ngoài xứ Bone ở nơi ngày nay được gọi là Biển Cát Lớn. Nhiều khal đã chết bên dưới những bức tường của họ, và những bức tường đó cho tới nay vẫn là bất khả xâm phạm.

Tuy nhiên, phía Tây của vùng Bone, từ Biển Rùng Mình ở phía Bắc đến Dãy Họa Sơn và vùng Skahazadhan ở phía Nam, vùng đồng cỏ rộng lớn nơi nền văn minh đầu tiên của loài người chớm nở vẫn là một vùng hoang vắng lộng gió, nơi không ai dám cày xới, gieo hạt, hoặc xây dựng dù chỉ một ngôi nhà vì sợ hãi các khalasar vẫn du mục ở đó cho đến tận ngày nay, cướp bóc bất kỳ kẻ nào tìm cách băng qua vùng đất của họ và còn gây chiến cả với nhau.

Người Dothraki tới nay vẫn là những người du mục, một dân tộc dã man và hoang dã, thích lều trại hơn cung điện. Đôi khi, các khal dẫn những đàn ngựa và dê lớn của mình không ngừng băng qua “biển” của họ, chiến đấu với nhau khi họ gặp nhau và đôi khi di chuyển ra ngoài biên giới vùng đất của mình để cướp bóc nô lệ và của cải, hoặc để đòi “quà tặng” mà các học giả hoặc quan nhiếp chính của các Thành Phố Tự Trị cống nạp cho họ bất cứ khi nào họ đi lang thang quá xa về phía tây.

Người ta nói rằng các thành phố pháo đài Bayasabhad, Samyriana, và Kayakayanaya được phụ nữ bảo vệ vì họ tin rằng những người sinh ra mạng sống là những người duy nhất được phép tùy ý lấy đi mạng sống. Cuốn Những Tư Liệu Có Thực Về Cuộc Phiêu Lưu Của Addam Vùng Duskendale, một bản ghi chép của một thương gia về các chuyến đi tha hương của ông ở miền đông Essos, cung cấp rất ít thông tin chi tiết hơn về những vấn đề này, hoặc bất kỳ vấn đề nào khác mà các học giả quan tâm, và thay vào đó dành phần lớn thời gian để tìm cách nhắc nhở độc giả rằng những người phụ nữ chiến binh đi bộ để ngực trần và trang trí má cùng núm vú của họ bằng những viên hồng ngọc với vòng sắt.

Những người kỵ mã chỉ có một nơi cư ngụ cố định: “thành phố” mà họ gọi là Vaes Dothrak, nằm dưới bóng của đỉnh núi cô đơn mà họ gọi là Mẹ Của Những Ngọn Núi, bên cạnh một hồ nước không đáy mà họ đặt tên là Lỗ Thông Của Thế Giới. Chính tại đây, người Dothraki tin rằng chủng tộc của họ đã được sinh ra. Không phải là một thành phố đích thực, Vaes Dothrak không có tường bao hay đường phố. Các con đường giữa đồng cỏ được đánh dấu bằng các tượng thần bị cướp, các cung điện nơi đây làm bằng cỏ khô.

Phiên bản một thành phố trống rỗng này được cai trị bởi phụ nữ: những góa phụ được gọi là dosh khaleen, tất cả những góa phụ của những khal đã chết. Người Dothraki coi Vaes Dothrak là thành phố linh thiêng nhất. Không được phép làm đổ máu ở đó, vì những kỵ sĩ tin rằng đây là một nơi hòa bình và linh thiêng, nơi một ngày nào đó tất cả các khalasar sẽ tập hợp lại với nhau một lần nữa dưới trướng của vị khal vĩ đại nhất, người sẽ chinh phục tất cả, “con chiến mã san bằng cả thế giới.”

Tuy nhiên, đối với chúng ta, tầm quan trọng duy nhất của Vaes Dothrak là nơi thông thương. Bản thân người Dothraki không mua cũng không bán, họ coi điều đó là không đàn ông, nhưng trong thành phố thiêng liêng của họ, dưới sự cai quản của các dosh khaleen, các thương nhân từ bên ngoài vùng Bone và các Thành Phố Tự Trị đến với nhau, để mặc cả và trao đổi hàng hóa, vàng bạc. Các đoàn lữ hành đến các vùng Chợ Đông và Tây Vaes Dothrak tặng những món quà đẹp đẽ cho các khal mà họ gặp khi băng qua biển Dothraki, và đổi lại nhận được sự bảo vệ.

Vì vậy, thật kỳ lạ khi nói rằng, “thành phố” trống rỗng này của những người du mục đã trở thành cửa ngõ giữa Đông và Tây (đối với những người du hành bằng đường bộ). Những người ở những vùng đất xa xôi có thể chưa từng gặp mặt, hoặc thậm chí không biết nhau, tụ tập ở đây trong khu chợ kỳ lạ bên dưới Mẹ Của Những Ngọn Núi, và buôn bán một cách an toàn.

Vaes Dothrak

About The Author

Ngo David

Power is Power